Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

BDTX năm 2015 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (518.34 KB, 19 trang )

MÔ ĐUN 3
ĐẶC ĐIỂM TÂM LÍ CỦA HS YẾU KÉM CÁ BIỆT, HS GIỎI VÀ HS
NĂNG KHIẾU
1/ Đặc điểm của Học sinh cá biệt :
Đối với những Học sinh cá biệt luôn luôn có tính hiếu động, thích tìm tòi và
luôn gây sự chú ý cho người khác ở bất kỳ nơi nào, thời điểm nào.
Trước hết chúng ta nên nói đến tính cách của trẻ là sự kết hợp độc đáo giữa
đặc điểm tâm sinh lý của trẻ với điều kiện hoàn cảnh sống nhất định.
Biểu hiện của trẻ là nhanh nhẹn , hoạt bát cùng với sự nghịch ngợm, bất ổn
định kèm theo , bên cạnh đó học tập có thể là học yếu hoặc trung bình, vì các em
đó trong lớp ít chú ý hoặc thậm chí không chú ý khi cô giáo giảng bài, luôn quậy
phá các bạn ngồi bên cạnh, gây mất trật tự trong lớp.
Biểu hiện về mặt thái độ của trẻ với chung quanh và bản thân, những đứa trẻ
hiếu động này thuộc kiểu thần kinh mạnh, cân bằng và linh hoạt. Biểu hiện của trẻ
là ham hoạt động, ham hiểu biết, linh hoạt, thường vui vẻ, vô tư , cảm xúc của trẻ
bất ổn định, rung cảm nhưng không sâu , nhanh nhớ, mau quên. Biểu hiện rõ nét
nhất của đặc tính này là bất cứ điều gì hấp dẫn , thích thú vừa sức thì các em sẽ làm
ngay, tập trung chú ý rất tích cực, càng trong học tập thì đòi hỏi phải kiên trì, chịu
khó động não để làm bài, chiếm lĩnh kiến thức thì các em đâm ra chán nản, ít chú ý
hoặc không chú ý nên kết quả học tập thấp.
* Biện pháp thực hiện :
Đối với những trẻ nghịch ngợm, hay nói chuyện riêng, sau mỗi lần giảng bài
xong, hoặc các em đã làm xong bài tập, các em không biết làm gì nên hay trêu chọc
các bạn gây mất trật tự trong lớp Cô giáo nói không nghe, theo tôi cần giáo dục các
em như sau :
+ Thường xuyên quan tâm sâu sát hoạt động của các em
+ Thường xuyên nhắc nhở động viên kịp thời
+ Khích lệ khi em có tinh thần tập thể và lòng vị tha
+ Không nên phê bình , trách phạt
+ Không nên sĩ nhục , xúc phạm đến các em
+ Tránh hình thức áp đặc doạ dẫm , buột các em phải làm theo … vì điều đó


sẽ không đem lại kết quả gì
+ đặc biệt Giáo viên không nên để các em có thời gian rỗi.
+ Kết hợp giữa ba môi trường Giáo dục Gia đình – Nhà trường và Xã hội
2. Tâm lý học sinh yếu – kém:
Có 3 nguyên nhân chính dẫn đến yếu – kém trong học tập ở học sinh tiểu học
+ Do hoàn cảnh gia đình.
+ Do mất căn bản.
+ Chưa nhận thức được nhiệm vụ học tập hay nói thông thường là học sinh lười
học, không chăm chỉ chuyên cần.
1


* Các biện pháp khắc phục - giúp đỡ học sinh yếu kém:
a. Xây dựng động cơ học tập cho học sinh yếu chính là xác định học sinh hiểu học
để làm gì? Vì sao phải học?
b. Người ta phân chia động cơ học tập của học sinh ra thành nhiều loại như sau:
+ Động cơ mang tính xã hội: học để sau này góp phần xây dựng đất nước,xây dựng
quê hương.
+ Động cơ mang tính cá nhân: học vì lợi ích riêng của mình ,muốn hơn người,
muốn sau này có vị trí cao trong xã hội…
+ Động cơ bên trong:xuất phát từ chính việc học, nghĩa là học để nắm được kiến
thức, vận dụng nó vào thực tế một cách khoa học.
+ Động cơ bên ngoài: Học vì muốn có điểm tốt ,muốn thầy cô và cha mẹ vui
lòng…
Có động cơ học tập đúng đắn nghĩa là động cơ xuất phát từ chính việc học,học sinh
học tập để có kết quả tốt . Do vậy sẽ tạo cho học sinh yêu thích việc học,có hứng
thú trong học tập.Động cơ tạo nên động lực học đó chính là thành tố quan trọng
trong cấu trúc hoạt động học tập của học sinh.
* Đối với học sinh yếu do hoàn cảnh gia đình
- Hợp tác giữa giáo viên và phụ huynh là điều cần thiết để học sinh học tập và rèn

luyện.Qua đó,giáo viên sẽ thông tin kịp thời đến phụ huynh về kết quả học tập,hạnh
kiểm,các mặt tham gia hoạt động …của con em mình thông qua sổ liên lạc…Giáo
viên và phụ huynh cần phải có sự liên kết hai chiều nhằm có biện pháp tác động
phù hợp.Động viên khuyến khích khi các em tiến bộ,nhắc nhở kịp thời khi các em
có biểu hiện cần uốn nắn.
- Giáo viên chỉ mời phụ huynh khi cần thiết để bàn bạc biện pháp giáo dục các em.
(không nên lạm dụng).
- Giáo viên tạo điều kiện tốt nhất về thời gian để học sinh có thể hoàn thành bài học
ngay lại lớp.
* Đối với học sinh yếu do mất căn bản:
- Phân hóa đối tượng học sinh.
- Quan sát và theo dõi từng hoạt động của các em,bằng nhiều hình thức tổ chức (thi
đua cá nhân,thi đua tổ nhóm,đố vui,giải trí,…). Kết hợp kiểm tra thường xuyên việc
học của các em mỗi ngày nhằm rèn thói quen học bài và làm bài, kích thích hoạt
động trí tuệ cho các em.
- Động viên, khích lệ, tuyên dương kịp thời với tác dụng :
• Xác nhận sự tiến bộ ở học sinh.
• Kích thích sự say mê,hứng thú học tập của học sinh .
• Thúc đẩy hành động theo chuẩn mực .
• Giúp học sinh tự tin là mình học được,mình có thể giỏi như các bạn…
• Sửa chữa hành vi sai lệch của học sinh.
• Kèm chế sự bộc phát,tập thói quen chu đáo và cẩn thận.
• Ngược lại nếu lạm dụng trách phạt sẽ hạn chế sự độc lập, sáng tạo của học sinh.
Ta thấy rằng, con người luôn luôn có hai nhu cầu đối lập nhau là tự khẳng định
2


mình và đồng nhất mình với người khác. Do vậy, trong giảng dạy giáo viên cần
nắm vững đều này để kích thích học sinh hứng thú say mê học tập.
* Học sinh yếu do lƣời, học không chăm chỉ ,không chuyên cần hoặc chƣa

nhận thức đƣợc nhiệm vụ học tập :
Những học sinh rơi vào tình trạng trên là do : không học bài , không làm bài ,
thường xuyên để quen tập ở nhà, vừa học vừa chơi , không tập chung , …Để các
em có hứng thú học tập , giáo viên phải nắm vững và phối hợp nhịp nhàng các
phương pháp dạy học,thay đổi bằng hình thức trò chơi, sử dụng phong phú đồ dung
học tập … Giúp các em hiểu bài, tự bản thân mình giải quyết các bài tập cô giao .
Ngoài ra , giáo viên động viên các bạn trong tổ nhắc nhở và giúp đỡ lẫn nhau mỗi
khi các em vấp phải những lỗi trên. Chúng ta phải hiểu , một học sinh yếu – kém
không đòi hỏi các em phải giỏi ngay được. Mà điều , chúng ta mong muốn là sự
tiến bộ từng bước ở các em so với thời gian trước. Phương pháp này không dùng để
giáo dục học sinh yếu – kém do hoàn cảnh gia đình được.
Ngoài ra ,giáo viên cần phải trao đổi trực tiếp đến từng đối tượng học sinh bằng
lời nói , cử chỉ , mệnh lệnh thật thuyết phục đến các em.
Chính những tác động trực tiếp thường tạo ra dấu ấn tức thì về sự chuyển biến tâm
lí như thái độ, hành vi ,tình cảm…học sinh sẽ dần tiến bộ
3. Tâm lý của học sinh khá giỏi, học sinh năng khiếu:
Năng khiếu : Là mầm mống của tài năng , tương lai . Nếu được phát hiện bồi
dưỡng kịp thời có phương pháp và hệ thống thì năng khiếu được phát triển và đạt
tới đỉnh cao của năng lực, ngược lại thì năng khiếu sẽ bị thui chột
Người có năng lực năng khiếu thì thị giác thính giác xúc giác vị giác khứu giác có
những cảm giác tri giác đặc biệt ( ngoại cảm )
Cảm giác , tri giác, ghi nhớ tưởng tượng và tư duy có chất lượng cao sẽ quyết định
năng khiếu và tài năng của mỗi con người .
Năng lực là : Con người vốn có tiềm năng nội lực hoặc ở mặt này , mặt khác kể cả
những người có khuyết tật . Cần có điều kiện thích ứng để năng lực được bộc lộ và
hoàn thiện . Cho nên năng lực là những đặc điểm tâm lý cá biệt ở mỗi người tạo
thành chiều sâu cường độ lĩnh hội tri thức , hình thành kỹ năng kỹ xảo để đáp ứng
yêu cầu và hoàn thành xuất sắc một hoạt động nhất định
Vậy Năng lực vừa là trí ( Trí khôn , thông minh ) là tâm đức thống nhất trong một
cấu trúc thích ứng .

Gần đây theo điều tra về chỉ số trí tuệ của người Việt nam người ta thấy có từ 2- 5
% là những người xuất sắc, Khoảng 25- 30 % là khá, Khoảng 25- 30% trung bình
yếu , 2- 5 % yếu . Số còn lại là Trung bình
Về học sinh : 3- 5 % là học sinh giỏi ( Trong 20 vạn học sinh )
Vì thế việc phát hiện bồi dưỡng sử dụng các năng khiếu và tài năng có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng đối với nhà trường và xã hội.
c. H ọc sinh giỏi:
“HSG là học sinh chứng minh được trí tuệ ở trình độ cao/và có khả năng sáng
tạo, thể hiện một động cơ học tập mãnh liệt/và đạt xuất sắc trong lĩnh vực lý
3


thuyết/khoa học; người cần một sự giáo dục đặc biệt/ và sự phục vụ đặc biệt để đạt
được trình độ tương ứng với năng lực của người đó”. Đó là những học sinh có khả
năng thể hiện xuất sắc hoặc năng lực nổi trội trong các lĩnh vực trí tuệ, sự sáng tạo,
khả năng lãnh đạo, nghệ thuật, hoặc các lĩnh vực lí thuyết chuyên biệt. Những HS
này thể hiện tài năng đặc biệt của mình từ tất cả các bình diện xã hội, văn hóa và
kinh tế”. HSG là những đứa trẻ có năng lực trong các lĩnh vực trí tuệ, sáng tạo,
nghệ thuật và năng lực lãnh đạo hoặc lĩnh vực lí thuyết. Những học sinh này cần có
sự phục vụ và những hoạt động không theo những điều kiện thông thường của nhà
trường nhằm phát triển đầy đủ các năng lực vừa nêu trên.
* Biện pháp với HS khá giỏi, năng khiếu.
- Rà soát Phát hiện đi đôi với bồi dưỡng. GV Theo dõi nắm bắt đối tượng
học sinh. Phân loại học sinh ngay trong tháng 8. Tập hợp và nắm số liệu học sinh
giỏi.
- Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi ngay từ đầu năm học.
- Việc bồi dưỡng phải được tiến hành thường xuyên trong mỗi bài, mỗi
chương.
- Với học sinh khá giỏi phải biết khơi dậy trong các em tính ham học, thích
tìm tòi, hiểu biết. Phải biết nắm chắc kiến thức cơ bản. Từ đó mà phát triển nâng

dần kiến thức cao hơn.
- Giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh khá giỏi cách học, phương pháp
học, chú trọng việc tự học, tự bồi dưỡng và ý thức tự giác học tập.
- Thường xuyên kiểm tra định kỳ. Qua kiểm tra để thấy được học sinh còn
hổng chỗ nào để kịp thời có kế hoạch bồi dưỡng phù hợp.
- Kết hợp với phụ huynh để nâng cao chất lượng. Việc kết hợp giáo dục giữa
giáo viên và gia đình là một điều không thể thiếu trong việc nâng cao chất lượng
bồi dưỡng học sinh giỏi.
3. Phƣơng pháp bồi dƣỡng.
- Bồi dưỡng qua dự các lớp tập huấn do Sở Giáo dục; Phòng Giáo dục tổ chức.
- Bồi dưỡng thông qua dự các chuyên đề do tổ, trường tổ chức.
- Bồi dưỡng thông qua dự các chuyên đề liên trường, cụm trường.
- Bồi dưỡng qua việc tự học, tự nghiên cứu các văn bản, chỉ thị, nghị quyết, các tạp
chí, tập san, băng đĩa, tài liệu của ngành.
- Bồi dưỡng qua việc khai thác thông tin trên mạng…

4


MÔ ĐUN 9
HƢỚNG DẪN TƢ VẤN CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
Bài thu hoạch: Hãy tìm hiểu nhu cầu và một số khó khăn trong học tập của học
sinh tiểu học?
Bài Làm:
Một số khó khăn trong học tập của học sinh tiểu học:
Do ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế-xã hội ngày càng sâu sắc, đa dạng và phức
tạp, đời sống tâm lý học sinh nói chung, học sinh tiểu học nói riêng đang có những
biến động to lớn với nhiều biểu hiện đáng lo ngại. Các em thường gặp những khúc
mắc trong học tập, tâm sinh lí, trong mối quan hệ với thầy cô, gia đình, bạn
bè…nếu không được điều chỉnh, giải tỏa kịp thời, thì rất dễ dẫn đến hậu quả đáng

tiếc : nhẹ thì chán học, bỏ học; nặng thì trầm cảm, bạo lực học đường,..
Trẻ tiểu học có tâm hồn đa cảm, rất dễ xúc động, do đó, bất cứ hành động thô bạo
nào đối với chính bản thân các em sẽ để lại trong tâm trí các em những ấn tượng
sấu rất khó xóa mờ. Mặt khác, bên cạnh sự đa cảm, các em vẫn còn thiên nhiều về
giác quan, rất vui thích khi được thưởng cụ thể bằng vật chất hơn là khen ngợi
tuyên dương suông.
Năng lượng ở độ tuổi đang tăng trưởng nơi các em luôn dồi dào, khiến các em hoạt
động không ngời. Trong khi người lớn đang bận việc, rất ghét sự ồn ào náo động,
lại cho rằng các em đang chơi những trò quá hiếu động, có hại về sức khỏe và tâm
lý, nên thường ngăn cấm các em mà không biết rằng điều này đã đẩy các em sớm
rơi vào tình trạng dồn nén, có thể tạo ra những tình cảm rối loạn, có thể dẫn đến
stress.
Về sinh hoạt học tập, các em cũng rất dễ hào hứng để cho cuốn theo các ý tưởng,
các kiến thức lý thú mới lạ, để không ngừng đặt ra các câu hỏi tò mò thắc mắc. Ở
điểm này, đôi khi cha mẹ và thầy cô giáo không đủ bình tĩnh và kiên nhẫn trả lời
đầy đủ các câu hỏi của các em, thậm chí bực mình và khó chịu. Điều này có thể dẫn
các em đến sự thu mình, sợ hãi khi đối mặt với người lớn trong những tình huống
khó khăn.
** Những nhân tố liên quan đến việc ảnh hưởng tâm lý của học sinh tiểu học
- Áp lực trong học tập ở học sinh
- Phương pháp sư phạm của giáo viên
- Môi trường sư phạm nhà trường
- Phương pháp giáo dục và môi trường gia đình
- Sự phát triển với tốc độ nhanh và đầy biến động của nền kinh tế - xã hội, các yêu
cầu ngày càng cao của nhà trường và cả những điều bất cập trong thực tiễn giáo
dục; thêm vào đó là sự kỳ vọng quá cao của cha mẹ, thầy cô đang tạo ra những áp
lực rất lớn và gây căng thẳng cho HS trong cuộc sống, trong học tập và trong quá
trình phát triển. Mặt khác, sự hiểu biết của HS về bản thân mình cũng như kỹ năng
5



sống của các em vẫn còn hạn chế trước những sức ép nói trên. Thực tế cho thấy HS
tiểu học có thể có những rối loạn về phát triển tâm lý, rối loạn phát triển các kỹ
năng nhà trường (như đọc, viết, tính toán…), những rối loạn về cảm xúc như lo âu,
trầm cảm hay những rối loạn về hành vi (như vô kỷ luật, bỏ học, trốn học, trộm
cắp, hung bạo…). Hậu quả là ngày càng có nhiều HS tiểu học gặp không ít khó
khăn trong học tập, tu dưỡng đạo đức, xây dựng lý tưởng sống cho mình cũng như
xác định cách thức ứng xử cho phù hợp trong các mối quan hệ xung quanh.Vì vậy,
những HS này rất cần được sự trợ giúp của các nhà chuyên môn, của thầy cô giáo
và cha mẹ.
* Nhu cầu trong học tập của học sinh Tiểu học.
Đứng trước thực trạng trên cho thấy rất cần có những hoạt động trợ giúp tâm lý học
đường cho HS. Việc xây dựng các hoạt động trợ giúp tâm lý cho HS trong nhà
trường sẽ giúp cho giáo viên và HS hiểu biết rõ hơn về những vấn đề liên quan tới
sự hình thành và phát triển nhân cách của các em để giúp đỡ và hướng cho các em
phát triển một cách đúng đắn, lành mạnh, hiểu về bản thân và người khác tốt hơn.
Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta, các hoạt động trợ giúp tâm lý trong trường học còn
chưa được thực hiện một cách phổ biến.
Tuy nhiên, để cho việc tư vấn học đường trở thành một hoạt động phổ biến trong
trường học thì đòi hỏi phải có thời gian và sự nỗ lực lớn của không chỉ các giáo
viên làm nhiệm vụ tư vấn mà còn của toàn xã hội, việc đánh giá (phòng ngừa)
nhằm phát hiện những học sinh có thể có khó khăn về nhận thức, cảm xúc, xã hội,
hay hành vi; phát triển và thực hiện các chương trình can thiệp tâm lý học cho học
sinh thì có thể thực hiện các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp phỏng vấn sâu
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- phương pháp thu thập thông tin
- Phương pháp xử lý thông tin: Phương pháp thống kê toán học

Các giải pháp thực hiện:
1. Tổ chức hoạt động tham vấn tâm lý, nhằm lắng nghe, khơi dậy nội lực,
giúp học sinh tiểu học tự phát triển thể chất tinh thần, tránh những sự phát
triển lệch lạc không đáng có.
2. Cung cấp một số kiến thức cũng như tổ chức các lớp rèn luyện kỹ năng
sống cho học sinh.
3.Tăng cường tổ chức các hoạt động sinh hoạt tập thể, hoạt động vì cộng
đồng, hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao cho các em.
4. Cần rèn cho học sinh khả năng thích ứng học tập và rèn luyện bản lĩnh học
tập.
6


5. Cần rèn kỹ năng giao tiếp, hợp tác, lắng nghe, biết trình bày… cho học
sinh.
6. Cung cấp các kiến thức, kỹ năng bảo vệ sức khỏe, ……,cho học sinh.
7. Cần có hoạt động bảo vệ, tạo điều kiện hòa nhập cho những trẻ có hoàn
cảnh khó khăn, hoàn cảnh đặc biệt.
8. Không chỉ tư vấn cho học sinh mà còn tư vấn các vấn đề phát triển của trẻ
em với những lực lượng giáo dục, lực lượng xã hội có liên quan trong vấn đề
giáo dục, bảo vệ trẻ em.
- Đối với học sinh: những học sinh đang có khó khăn tâm lý, đặc biệt là những học
sinh “thường xuyên lo lắng và bất an” nên nỗ lực tìm cách vượt qua hoặc tìm kiếm
dịch vụtrợ giúp phù hợp để tránh những tác động tiêu cực do khó khăn tâm lý gây
ra. Ý thức được sự cần thiết của việc trau dồi các kiến thức tâm lý học và các kiến
thức xã hội khác để hiểu được tâm lý của bản thân và tự nhận ra vấn đề/ khó khăn
của mình. Học sinh nên chuẩn bị tâm thế trước mọi hoàn cảnh, sẵn sàng đón nhận
thử thách, khó khăn trong cuộc sống, học tập và nỗ lực tìm cách khắc phục chúng.
- Về phía giáo viên: nên quan tâm, tìm cách trợ giúp cho nhóm học sinh đang
“thường xuyên lo lắng và bất an” , đồng thời cũng nên tìm giải pháp hỗ trợ cho

những học sinh “thỉnh thoảng”. Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý học sinh mình đang
giảng dạy, trên cơ sở đó lựa chọn phương pháp, hình thức dạy học phù hợp. Gần
gũi học sinh hơn nữa, không chỉ thông qua giao lưu trong tiết học mà nên chủ động
trò chuyện, quan tâm tới học sinh để xóa đi khoảng cách giữa người học và người
dạy; để thấu hiểu học sinh; biết được nhu cầu và nguyện vọng của học sinh; tránh
gây áp lực không cần thiết lên học sinh. Tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của học sinh;
để hỗ trợ học sinh phòng ngừa, phát hiện sớm những khó khăn tâm lý và trợ giúp
kịp thời.
- Về phía nhà trường: tạo điều kiện hỗ trợ các học sinh đang có khó khăn tâm lý
hiện nay. Thành lập phòng tư vấn tâm lý học đường trong trường học. Quan tâm
đầu tư cả nguồn nhân lực (chất xám) và tài chính cho việc đào tạo chuyên sâu đội
ngũ giáo viên tư vấn tâm lý học đường không chỉ giúp học sinh giải quyết những
khó khăn tâm lý gặp phải mà họ còn giúp phòng ngừa những khó khăn có thể xảy
ra; đặc biệt là phát hiện và can thiệp sớm những khó khăn tâm lý mới xuất hiện.
Nhà trường và cả phụ huynh học sinh trong việc chăm sóc cho các em có đời sống
tâm trí khỏe.

7


MÔ ĐUM 16
MỘT SỐ KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC Ở TIỂU HỌC
1. Thế nào là KTDH và KTDH tích cực
Kĩ thuật dạy học là những biện pháp, cách thức hành động của GV và HS
trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy
học. Sự phân biệt giữa KTDH và PPDH nhiều khi không rõ rang. Có thể hiểu rằng:
Khi sử dụng PPDH ta cần phải có các kĩ thuật dạy học. Ví dụ: Khi sử dụng PP đàm
thoại GV phải có kĩ thuật đặt câu hỏi….
KTDH tích cực là thuật ngữ dùng để chỉ các kĩ thuật dạy học có tác dụng phát huy
tính tích cực học tập của HS. VD: Kĩ thuật khăn trải bàn; KT mảnh ghép; KT hỏi

và trả lời; KT động não….
2. Tìm hiểu một số KTDH tích cực
2.1 Kĩ thuật đặt câu hỏi:
* Người GV đặt câu hỏi khi nào? Mục đích đặt câu hỏi là gì?
Trong qua trình DH, GV đặt câu hỏi khi sử dụng PP vắn đáp, phương pháp thảo
luận. Mục đíc của việc đặt câu hỏi rất khác nhau: có lúc để kiểm tra việc nắm kiến
thức, KN của HS ; có lúc để hướng dẫn tìm tòi, khám phá tri thức; có lúc để giúp
các em cũng cố, hệ thống kiến thức đã học.
* Đặt câu Hỏi phụ thuộc vào yếu tố nào?
Chủ yếu vào chất lượng câu hỏi và cách ứng xử của giáo viên khi hỏi HS
* KT đặt câu hỏi theo các cấp độ nhận thức như thế nào?
Biết; hiểu; vận dụng; phân tích; tổng hợp; đánh giá
Sử dụng câu hỏi có hiệu quả đem lại sự hiểu biết lẫn nhau giữa HS – GV và HS –
HS. Kĩ năng đặt câu hỏi càng tốt thì mức độ tham gia của HS càng nhiều; HS sẽ
học tập tích cực hơn. Trong dạy học theo PP cùng tham gia, GV thường phải sử
dụng câu hỏi để gợi mở, dẫn dắt HS tìm hiểu, khám phá thông tin, kiến thức, kĩ
năng mới. Để đánh giá kết quả học tập của HS, HS cũng phải sử dụng câu hỏi để
hỏi lại, hỏi thêm GV và các HS khác về những nội dung bài học chưa sáng tỏ.
*Khi đặt câu hỏi cần đảm bảo các yêu cầu sau: 1.Câu hỏi phải liên quan đến việc
thực hiện mục tiêu bài học; 2.Ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu; 3.Đúng lúc, đúng chỗ;
4.Phù hợp với trình độ HS; 5.Kích thích suy nghĩ của HS; 6.Phù hợp với thời gian
thực tế; 7.Sắp xếp theo trình tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp; 8.Không
ghép nhiều câu hỏi thành một câu hỏi móc xích; 9.Không hỏi nhiều vấn đề cùng
một lúc.
* Khi nêu câu hỏi cho HS cần chú ý: 1.Đưa ra câu hỏi với một thái độ khuyến
khích, với giọng nói ôn tồn, nhẹ nhàng. 2.Thu hút sự chú ý của HS trước khi nêu
câu hỏi. 3.Chú ý phân bố hợp lí số HS được chỉ định trả lời. 4.Chú ý khuyến khích
những HS rụt rè, chậm chạp. 5.Sử dụng câu hỏi mở và câu hỏi đóng phù hợp với
từng trường hợp. 6.Khi kiểm tra sử dụng câu hỏi đóng; 7. Khi cần mở rộng ý ta
8



dùng câu hỏi mở. Ví dụ: Em có nhận xét gì về bức tranh Thiếu nữ bên hoa huệ?
8.Không nên nêu những câu hỏi quá đơn giản. Ví dụ : Đối với HS lớp 4, 5 mà GV
nêu: Các em xem có mấy hình vẽ? Hoặc hỏi HS: Hiểu chưa?
2.2. Kĩ thuật dạy học theo góc
Học theo góc là một hình thức tổ chức hoạt động học tập theo đó người học thực
hiện các nhiệm vụ khác nhau tại vị trí cụ thể trong không gian lớp học, đáp ứng
nhiều phong cách học khác nhau. Học theo góc người học được lựa chọn họat động
và phong cách học: Cơ hội “Khám phá”, „Thực hành”; Cơ hội mở rộng, phát triển,
sáng tạo; Cơ hội đọc hiểu các nhiệm vụ và hướng dẫn bằng văn bản của người dạy;
Cơ hội cá nhân tự áp dụng và trải nghiệm.
+ Do vậy, học theo góc kích thích người học tích cực thông qua hoạt động; Mở
rộng sự tham gia, nâng cao hứng thú và cảm giác thoải mái, đảm bảo học sâu, hiệu
quả bền vững, tương tác mang tính cá nhân cao giữa thầy và trò, tránh tình trạng
người học phải chờ đợi. Ví dụ: Với chủ đề môi trường hoặc giao thông có thể tổ
chức các góc: Viết; Đọc; Vẽ tranh: Xem băng hình; Thảo luận...về nội dung chủ đề.
*Áp dụng: Tổ chức học theo góc trong tiết ôn tập về toán. Góc HS giỏi; Góc HS
còn yếu; Góc HS trung bình đến khá
2.3. Kĩ thuật “Khăn trải bàn”
a. Thế nào là kĩ thuật “khăn trải bàn”? Là hình thức tổ chức hoạt động mang
tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm nhằm: 1- Kích
thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực; 2- Tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của
cá nhân HS; 3- Phát triển mô hình có sự tương tác giữa HS với HS.
b. Cách tiến hành kĩ thuật “Khăn trải bàn”
- Hoạt động theo nhóm (4 người /nhóm)(có thể nhiều người hơn)
- Mỗi người ngồi vào vị trí như hình vẽ minh họa (xem sơ đồ ở file đính kèm)
- Tập trung vào câu hỏi (hoặc chủ đề,…)
- Viết vào ô mang số của bạn câu trả lời hoặc ý kiến của bạn (về chủ đề...). Mỗi
cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút

- Kết thúc thời gian làm việc cá nhân, các thành viên chia sẻ, thảo luận và thống
nhất các câu trả lời
- Viết những ý kiến chung của cả nhóm vào ô giữa tấm khăn trải bàn (giấy A0)
Cách tổ chức: Kĩ thuật khăn trải bàn:
- Chia giấy A0 thành phần chính giữa và phần xung quanh. Chia phần xung
quanh thành các phần theo số thành viên của nhóm.
- Cá nhân trả lời câu hỏi và viết trên phần xung quanh.
- Thảo luận nhóm, thống nhất ý kiến và viết vào phần chính giữa.
- Treo SP, trình bày.
2.4. Kĩ thuật “Các mảnh ghép”
Thế nào là kĩ thuật “Các mảnh ghép” là hình thức học tập hợp tác kết hợp
giữa cá nhân, nhóm và liên kết giữa các nhóm nhằm:
+ Giải quyết một nhiệm vụ phức hợp
+ Kích thích sự tham gia tích cực của HS:
9


Nâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình hợp tác (Không chỉ hoàn thành nhiệm
vụ ở Vòng 1 mà còn phải truyền đạt lại kết quả vòng 1 và hoàn thành nhiệm vụ ở
vòng 2).
Cách tiến hành kĩ thuật “Các mảnh ghép”
VÒNG 1 Hoạt động theo nhóm 3 người. Mỗi nhóm được giao một nhiệm vụ (Ví
dụ : nhóm 1 : nhiệm vụ A; nhóm 2: nhiệm vụ B, nhóm 3: nhiệm vụ C). Đảm bảo
mỗi thành viên trong nhóm đều trả lời được tất cả các câu hỏi trong nhiệm vụ được
giao. Mỗi thành viên đều trình bày được kết quả câu trả lời của nhóm
VÒNG 2: Hình thành nhóm 3 người mới (1người từ nhóm 1, 1 người từ nhóm 2
và 1 người từ nhóm 3)
Các câu trả lời và thông tin của vòng 1 được các thành viên nhóm mới chia sẻ đầy
đủ với nhau
Nhiệm vụ mới sẽ được giao cho nhóm vừa thành lập để giải quyết

Lời giải được ghi rõ trên bảng
Ví dụ Chủ đề: Câu tiếng Việt: * Vòng 1:
Nhiệm vụ 1: Thế nào là câu đơn? Nêu và phân tích VD minh họa
Nhiệm vụ 2: Thế nào là câu ghép? Nêu và phân tích VD minh họa
Nhiệm vụ 3: Thế nào là câu phức? Nêu và phân tích VD minh họa
* Vòng 2: Câu đơn, câu phức và câu ghép khác nhau ở điểm nào? Phân tích VD
minh hoạ.
2.5. Kĩ thuật sơ đồ tư duy
Sơ đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy. Đây là cách dễ nhất để chuyển
tải thông tin vào bộ não rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não; là phương tiện ghi chép
sáng tạo, hiệu quả nhằm sắp xếp ý nghĩa.
- Mục tiêu là giúp phát triển tư duy logic, khả năng phân tích tổng hợp; HS
hiểu bài nhớ lâu.
- Tác dụng là giúp HS hệ thống hóa kiến thức. tìm ra mối liên hệ giữa các
kiến thức; hiểu bài nhớ lâu, phát triển tư duy logic; mang lại hiệu quả dạy học cao.
- Cách lập sơ đồ tư duy
+ Ở vị trí trung tâm sơ đồ là một hình ảnh hay một cụm từ thể hiện một ý
tưởng khái niệm/nội dung/chủ đề.
+ Từ ý tưởng hình ảnh sẽ phát triển các nhánh chính, nối các cụm từ, hình
ảnh cấp một.
+ Từ các nhánh tiếp tục các ý tưởng /khái niệm liên quan được kết nối
- Yêu cầu sư phạm:
Hướng dẫn HS tìm ra ý tưởng. Khi lập sơ đồ tư duy cần lưu ý: Các nhánh
chính được tô đậm, các nhánh cấp 2,3 vẽ bằng các nét mảnh dần; từ cụm từ hình
ảnh trung tâm tỏa đi các nhánh nên sử dụng màu sắc khác nhau, màu sắc nhánh
chính cần duy trì đến các nhóm phụ.
Dùng các đường cong thay cho các đường thẳng; bố trí các thông tin đều
theo hình ảnh/cụm từ.
2.6. Kĩ thuật hỏi và trả lời
10



- Giúp HS củng cố, khắc sâu kiển thức đã học thông qua việc hỏi, trả lời
- Tác dụng: Củng cố, khắc sâu kiến thức cho HS; phát triển KN đặt câu hỏi, KN
trình bày, khả năng phản ứng nhanh; tạo hứng thú cho HS; giúp GV biết được kết
quả học tập của các em.
- Cách tiến hành
+ GV giới thiệu chủ đề sẽ thực hiện hỏi, trả lời.
+ GV hoặc 1 HS sẽ bắt đầu đặt một câu hỏi về chủ đề và yêu cầu HS khác trả lời.
+ HS trả lời xong câu hỏi đầu tiên lại đặt câu hỏi tiếp theo, yêu cầu HS khác trả
lời…cứ tiếp nối như thế cho đến các bạn khác.
- Yêu cầu sư phạm
+ Chủ đề phải có nội dung phong phú, đặt được nhiều câu hỏi
+ GV có thể đặt câu hỏi trước ( nếu HS chưa quen)
+ Tạo cơ hội cho tất cả HS trong lớp được hỏi, trả lời
+ Khi HS trả lời không được có thể yêu cầu bạn khác trả lời, song mất quyền đặt
câu hỏi cho người khác
+ KT hỏi và trả lời sử dụng hợp cho các tiết ôn tập. khi kiểm tra bài cũ, củng cố bài
học.
2.7. Kĩ thuật trình bày một phút
- Mục tiêu là tạo cơ hội cho HS tổng kết lại kiến thức; trình bày những băn khoăn,
thắc mắc trước lớp
- Tác dụng: Giúp củng cố quá trình học tập; giúp HS tự thấy được mình hiểu vấn đề
ngang đâu.
- Cách tiến hành
+ Cuối tiết học, GV yêu cầu HS suy nghĩ trả lời các câu hỏi sau: ( Điều quan trọng
nhất các em học hôm nay là gì? Vấn đề gì các em chưa giải đáp hôm nay? Các em
có những băn khoăn, thắc mắc gì?); HS viết ra giấy; trình bày trước lớp trong thời
gian không quá 1 phút.
- Lưu ý khi sử dụng

Dành thời gian phù hợp cho HS chuẩn bị; động viên khuyến khích HS tham gia
trình bày; lắng nghe tôn trọng phần trình bày của HS, không tỏ thái độ chê bai;
động viên HS khác lắng nghe câu trả lời và trả lời câu hỏi đặt ra; giải đáp các câu
hỏi, thắc mắc của HS

11


MODULE 19
TỰ LÀM ĐỒ DÙNG DẠY HỌC Ở TIỂU HỌC
MỤC TIÊU
- Hiểu và trình bày được vai trò, ý nghĩa cũng như nắm được các tiêu chí đánh gía
các ĐDDH tự làm.
- Xây dựng được hướng nghiên cứu, thực hành và chế tạo được một số ĐDDH tự
làm trong các môn học dựa trên danh mục ĐDDH đã được cung cấp.
- Luôn có ý thức tạo ra những ĐDDH tự làm có giá trị sử dụng cao nhằm phục vụ
tốt hơn cho quá trình dạy và học.
I/. Ý nghĩa của việc tự làm thiết bị dạy học.
Tự làm ĐDDH là một trong những phương hướng quan trọng của công tác giáo
dục cả về mặt sư phạm lẫn kinh tế.
ĐDDH tự làm chứng tỏ sự nhiệt tình, sáng tạo của GV và HS trong quá trình sưu
tầm nguyên vật liệu sẳn có ở địa phương mình để làm ra những thiết bị có giá trị.
Quá trình làm và sử dụng TBDH tự làm trong các bài học sẽ tạo ra động cơ học tập
tốt hơn, giúp HS tập trung chú ý cao và việc nắm kiến thức mới trở nên dễ dàng
hơn, sâu sắc hơn.
Chính các sản phẩm này giúp các GV cũng như các em HS thực hiện các thí
nghiệm và rèn luyện kĩ năng thực hành trong quá trình tự làm đồ dùng dạy học.
Thông qua đó hình thành khả năng sử dụng các công cụ lao động tốt hơn, tạo cơ
hội khám phá môi trường xung quanh, rèn luyện tính cần cù, cẩn thận, tính tỉ mĩ, ý
thức tổ chức kĩ luật và yêu quý thành quả lao động.

ĐDDH tự làm đã bổ sung cho nguồn ĐDDH cung cấp đã đã được sản xuất hàng
loạt, phục vụ kịp thời của yêu cầu dạy và học.
II/. Tính chất của ĐDDH tự làm.
- Công cụ và kĩ thuật sản xuất đơn giản.
- Sử dụng nguyên vật liệu địa phương.
- Phục vụ thiết thực, kịp thời và có hiệu quả cho quá trình dạy và học.
III/. Các tiêu chí đánh giá ĐDDH tự làm.
1. Tính khoa học.
- ĐDDHphải bảo đảm tính chính xác, đảm bảo các thông tin chủ yếu về các hiện
tượng, sự vật có liên quan đến nội dung bài học, phản ánh rõ các dấu hiệu bản chất
của nội dung dạy học, có thể giải quyết được những vấn đề mà chương trình SGK
đặt ra.
- ĐDDH phải góp phần vào việc đổi mới PPDH chứ không phải đơn thuần là minh
họa cho bài giảng.
2. Tính sƣ phạm.
+ Tạo ra chỗ dựa trực quan cho tư duy, bổ sung vốn hiểu biết để giúp HS tiếp thu
kiến thức có hiệu quả.
+ Tạo điều kiện mở rộng hoặc làm sâu sắc thêm nội dung bài học.
+ Dùng cho nhiều loại bài học.
12


3. Tính tiện lợi.
+ Dễ dùng, dễ thao tác.
+ Đảm bảo an toàn cho người sử dụng.
4. Tính thẩm mĩ.
+ Đẹp, bền gây cảm hứng cho người dạy và người học.
+ Đảm bảo vệ sinh môi trường, tiết kiệm ...
IV/. Hƣớng nghiên cứu, chế tạo đồ dùng dạy học trong các phân môn.
- Trước hết, phải hướng công tác tự làm ĐDDH tới các loại hình sau đây:

+ Sửa chữa những dụng cụ hỏng.
+ Cải tiến những dụng cụ cũ, dụng cụ nước ngoài cho phù hợp với điều kiện Việt
Nam.
+ Bổ sung những dụng cụ mới vào bộ dụng cụ đã có, làm cho chúng trở thành
một bộ dụng cụ hoàn chỉnh và còn thể sử dụng được.
- Tổ chức phong trào tự làm đồ dùng dạy học trong trường tiểu học.
Việc tự làm ĐDDH cần được tiến hành một cách có kế hoạch, có tổ chức, có
phân công hợp lí.
Mỗi GV cần nghiên cứu, khai thác hết những ĐDDH đã được cung cấp có thể
dùng chung với các khối lớp khác. Trên cơ sở đó, định ra kế hoạch tự làm ĐDDH
cho từng học kì và cho cả năm học.
GV có thể hướng dẫn HS cùng tham gia, nhất là công việc sưu tầm tranh, ảnh từ
các sách báo, tạp chí, lịch, sưu tầm hiện vật....
Ngoài ra có thể nhờ GV khác trong trường, cha mẹ HS làm giúp.
V/. Các bƣớc tiến hành khi thiết kế ĐDDH tự làm.
- Tìm hiểu chương trình, nội dung môn học.
- Hình thành ý tưởng về ĐDDH.
- Phác thảo hoặc trao đổi ý tưởng về ĐDDH đó với mọi người.
- Tìm mối liên hệ của ĐDDH đó với nội dung các bài học khác, các môn học
khác.
- Dự kiến nguyên vật liệu làm ĐDDH.
- Hoàn thiện ĐDDH.
VI/ Các tiêu chí đánh giá ĐDDH tự làm.
Bất cứ một ĐDDH dù dưới hình thức nào cũng cần đảm bảo 4 tiêu chí:
- Tính khoa học
- Tính sư phạm.
- Tính tiện lợi.
- Tính thẩm mĩ.
Nội dung 2
TỰ LÀM ĐỒ DÙNG DẠY HỌC CÁC MÔN HỌC

1. Tự làm đồ dùng dạy học môn Tiếng Việt.
Một số sản phẩm tự làm
* Thẻ trắ c nghiê ̣m (Dùng cho tất cả các môn học)
- Dùng trong việc ôn tập hay kiểm tra, đánh giá HS với hiǹ h thức câu hỏi trắ c
13


nghiê ̣m
- Cách thực hiện: GV hướng dẫn HS cắ t và dán các con chữ: Đ, S, A, B, C, D (nên
mỗi con chữ có mô ̣t màu khác nhau). Sau đó dán vào thẻ.
- Sau khi hoàn thành, HS tự sử dụng và bảo quản.
*Sưu tầm mẫu vật:
- Một số vật phẩm văn hóa tiêu biểu của địa phương: sản phẩm thêu, đan, mẫu hoa
văn, chiếu, nhạc cụ dân tộc, mô hình chùa tháp, nhà rông,…
*Vẽ tranh
Vẽ tranh minh họa theo nội dung bài học hoặc phóng to những tranh trong SGK.
Việc thu nhỏ, phóng to tranh có thể sử dụng các phương pháp sau:
+ Kẻ ô vuông
+ Thu, phóng tranh, ảnh bằng máy photocopy
2. Tự làm đồ dùng dạy học môn Toán
* Sưu tầm mẫu vật:
- Một số loại dụng cụ như chai, lọ, ca, can nhựa,…, các loại bao bì hình lập
phương, hình hộp chữ nhật,… khay nhựa, vỏ hộp có nhiều màu sắc để có thể cắt
thành các hình vuông, hình chữ nhật, hình tam giác,…
Tự làm đồ dùng dạy học môn TN – XH, môn Khoa học
- Dùng trong dạy học môn TN – XH, môn khoa học hay trò chơi ho ̣c tâ ̣p môn
TNXH - KH.
Cách thực hiện: Giáo viên vẽ tranh, hướng dẫn HS tô màu (HS lớp 4, 5, GV có thể
hướng dẫn HS vẽ và tô màu). Đối với các con thú, HS sưu tầm (từ báo, ảnh) hay vẽ
tùy ý;

Sưu tầm tranh ảnh: trên báo chí, báo ảnh, bưu ảnh, lịch,…
*Tự làm mô hình:
- Dùng giấy, vải lụa, ni lông, dây thép, dây đồng tạo thành hoa, lá.
- Dùng đất sét, thạch cao nặn các con vật, các loại quả, củ.
- Dùng các loại giấy thấm nước bồi trên khuôn mẫu hoặc lên vật thực tạo thành mô
hình các loại quả, củ, con vật, đồ vật,…
- Dùng gỗ mềm, nhựa xốp,… gọt thành các loại củ, quả,…
- Có thể sưu tầm các loại mô hình có sẵn ở đồ chơi trẻ em như: hoa bằng nhựa, vải
ni lông, sành sứ, mô hình máy bay, ô tô, tàu hỏa, máy điện thoại,…
*Vẽ tranh

14


MÔ ĐUN 20
KIẾN THỨC KỸ NĂNG TIN HỌC CƠ BẢN
1. QUÁ TRÌNH XỬ LÝ THÔNG TIN TRÊN MÁY TÍNH
Máy tính là công cụ xử lý thông tin. Về cơ bản, quá trình xử lý thông tin trên
máy tính - cũng như quá trình xử lý thông tin của con người - có 4 giai đoạn chính
:
Nhận thông tin (Receive input): thu nhận thông tin từ thế giới bên ngoài vào máy
tính. Thực chất đây là quá trình chuyển đổi các thông tin ở thế giới thực sang dạng
biểu diễn thông tin trong máy tính thông qua các thiết bị đầu vào.
Xử lý thông tin (process information): biến đổi, phân tích, tổng hợp, tra cứu...
những thông tin ban đầu để có được những thông tin mong muốn.
Xuất thông tin (produce output) : đưa các thông tin kết quả (đã qua xử lý) ra trở
lại thế giới bên ngoài. Ðây là quá trình ngược lại với quá trình ban đầu, máy tính sẽ
chuyển đổi các thông tin trong máy tính sang dạng thông tin ở thế giới thực thông
qua các thiết bị đầu ra.
Lưu trữ thông tin (store information): ghi nhớ lại các thông tin đã được ghi nhận

để có thể đem ra sử dụng trong những lần xử lý về sau.
Ðể đáp ứng 4 thao tác đó thì một máy tính thông thường cũng gồm bốn thành
phần hợp thành, mỗi thành phần có một chức năng riêng:
Thiếp bị nhập (input device) : thực hiện thao tác đưa dữ liệu từ thế giới bên ngoài
vào, thường là bàn phím và con chuột, nhưng cũng có thể là các loại thiết bị khác
mà ta sẽ nói rõ hơn ở những phần sau.
Thiết vị xử lý : hay đơn vị xử lý trung tâm - CPU thực hiện thao tác xử lý, tính
toán các kết quả, điều hành hoạt động tính toán của máy vi tính, có thể xem CPU
như một bộ não của con người.
Thiết bị xuất (Output) thực hiện thao tác gởi thông tin ra ngoài máy vi tính, hầu
hết là dùng màn hình máy tính là thiết bị xuất chuẩn, có thể thêm một số khác như
máy in, hoa…
Thiết bị lưu trữ (storage devices) được dùng để cất giữ thông tin. Lưu trữ sơ cấp
(primary momery) là bộ nhớ trong của máy tính dùng để lưu các tập lệnh củ

15


chương trình, các thông tin dữ liệu sẵn sàng trong tư thế chuẩn bị làm việc ty theo
yêu cầu của CPU. Lưu trữ thứ cấp (secondary storage) là cách lưu trữ đơn thuần
với mục đích cất giữ dư liệu, cách này dùng các thiết bị như đĩa cứng, đĩa mềm,
CD,..

quá trình xử lý thông tin trên máy tính
2. ÐƠN VỊ XỬ LÝ TRUNG TÂM - CPU
Ðơn vị xử lý trung ương (Central Processing Unit) - CPU là một mạch xử lý
dữ liệu theo chương trình được thiết lập trước. Nó là một mạch tích hợp phức tạp
gồm hàng triệu transitor trên một bảng mạch nhỏ.Phần lớn người dùng không biết
và cũng không cần biết đến cái gì trên CPU. Một CPU có thể thi hành hàng triệu
lệnh mỗi giây, để như vậy, trong một CPU tiêu biểu phải có nhiều thành phần phức

tạp với các chức năng khác nhau hoạt động nhịp nhàng với nhau để hoàn thành các
tập lệnh chương trình. Ở đây chúng ta sẽ xem qua các thành phần căn bản bên trong
của một CPU.
Arithmetic Logic Unit (ALU) - đơn vị số học luận lý : bao gồm một số thanh
ghi - register, thường là 32 hay 64 bit. Nó thực hiện các lệnh của đơn vị điều khiển
và xử lý tín hiệu. Theo tên gọi, đơn vị này dùng để thực hiện các phép tính số học
đơn giản (cộng, trừ, nhân, chia số nguyên) hay phép tính luận lý đối với dữ liệu (so
sánh lớn hơn, nhỏ hơn, ...).
Tập lệnh chương trình được lưu giữ tại bộ nhớ chính - thông thường thì trên các
chip nằm ngoài CPU - CPU đọc lệnh từ bộ nhớ qua đơn vị truyền tin - bus unit giữa
bộ nhớ nguyên thủy và CPU.

16


Ðơn vị nạp lệnh - Prectch unit : ra chỉ thị cho đường truyền đọc các lệnh
được lưu giữ tại một địa chỉ bộ nhớ riêng biệt. Ðơn vị này không chỉ định vị và nạp
lệnh được thi hành kế tiếp mà còn nạp cả các lệnh lần lượt sau nữa vào hàng chờ
sẵn sàng hoạt động.
Ðơn vị giải mã - Decode unit : ra chỉ thị cho đường truyền đọc các lệnh được
lưu giữ tại một địa chỉ bộ nhớ riêng biệt. Ðơn vị này không chỉ định vị và nạp lệnh
được thi hành kế tiếp mà còn nạp cả các lệnh lần lượt sau nữa vào hàng chờ sẳn
sàng hoạt động.
Ðơn vị nối ghép đường truyền - Bus Interface Unit bộ phận dẫn truyền điều
phối các thông tin.
Những nhà sản xuất vi xử lý luôn phát triển các kỹ thuật nhằm tăng tốc độ xử lý
cho CPU. Và như vậy, bộ nhớ ẩn - cache memory là một bộ nhớ nhỏ tốc độ cao đặt
ngay bên trong bộ xử lý và nối trực tiếp với mạch xử lý để lưu trữ các lệnh chuẩn bị
được thực hiện, hay các lệnh thường xuyên được dùng để sẵn sàng cho CPU. Bộ
nhớ này chỉ do bộ xử lý kiểm soát, người sử dụng không thể thâm nhập được, nhằm

phục vụ cho việc tăng tốc độ tính toán của bộ xử lý. Loại Cache memory nằm ngay
trong bản thân bộ xử lý thường được gọi là Cache nội hay cache sơ cấp - primary,
hay còn gọi là Cache L1 (cache level 1).Loại Cache memory nằm ngoài bộ xử lý
thường được gọi là cache ngoại hay cache thứ cấp - secondary cache, hay còn gọi là
Cache L2 (cache level 2).
Ðơn vị điều khiển - control unit : có nhiệm vụ thông dịch các lệnh của
chương trình và điều khiển hoạt động xử lý, được điều tiết chính xác bởi xung nhịp
đồng hồ hệ thống.
Mạch xung nhịp hệ thống - system clock : dùng để đồng bộ các thao tác xử lý
trong và ngoài CPU theo các khoảng thời gian không đổi, khoảng thời gian chờ
giữa hai xung gọi là chu kỳ xung nhịp. Tốc độ theo đó xung nhịp hệ thống tạo ra
các xung tín hiệu chuẩn thời gian gọi là tốc độ xung nhịp - tốc độ đồng hồ tính
bằng triệu đơn vị mỗi giây - Mhz.
Thanh ghi - register là phần tử nhớ tạm trong bộ vi xử lý dùng lưu dữ liệu và
địa chỉ nhớ trong máy đang thực hiện tác vụ với chúng.
3. BỘ NHỚ MÁY TÍNH
Công việc chính của CPU là thi hành các mã lệnh của chương trình, nhưng trong
cùng thì CPU chỉ có khả năng giải quyết một ít trong phần dữ liệu. Như vậy phần
còn lại của dữ liệu được đọc vào phải cần một chỗ nào đó để lưu giữ lại sẵn sàng
cho CPU xử lý. Và RAM hay bộ nhớ chính sẽ nhận nhiệm vụ này.
17


RAM - Random Access Memory - Bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên là loại thiết bị lưu
trữ sơ cấp. Chip RAM gồm nhiều mạch điện tử có chức năng lưu trữ các lệnh và dữ
liệu chương trình một cách tạm thời. Chính thuật ngữ truy cập ngẫu nhiên cũng cho
thấy tính chất của loại bộ nhớ này.Mỗi vị trí lưu trữ trong RAM đều có thể truy cập
trực tiếp, nhờ đó các thao tác truy tìm và cất trữ có thể thực hiện rất nhanh. Nội
dung lưu trữ trong RAM không cố định - volatile memory, có nghiã phải luôn có
nguồn nuôi để lưu trữ nội dung thông tin đó - mất điện là mất tất cả.


Hình 6 : Bộ nhớ RAM
Còn lại bộ nhớ cố định - nonvolatile memory, được gọi bộ nhớ chỉ đọc - Read
Only Memory - ROM. Chính là vì loại cố định nên nó vẫn duy trì nội dung nhớ khi
không có điện, nhờ đó người ta dùng ROM để chứa chương trình BIOS không thay
đổi. Không phải lúc nào loại này cũng ẩn trong vỏ CPU. Nhiều thiết bị trò chơi
điện tử cũng dùng hộp, có khả năng tháo lắp, dựng một mạch ROM lưu trữ thường
xuyên trò chơi các trương trình .
Ngoài ra còn một số loại bộ nhớ khác nữa trong máy tính.EPROM - Erasable
Programable ROM - bộ nhớ chỉ đọc có thể lập trình lại.Loại này thường dùng để
lưu giữ các thông tin cần thiết cho việc khởi động máy tính. RAM còn có loại
SRAM - RAM tĩnh, DRAM - RAM động, Video RAM - RAM cho màn hình
chuyên phục vụ hình ảnh.
Cách làm việc của Bộ Nhớ
Bộ nhớ - Memory : là một mạch tích hợp phức tạp gồm hàng triệu tế bào nhớ
(storage cell) - các tế bào nhớ này chính là đơn vị lưu dữ kiện. Các thông tin trong
bộ nhớ có thể là tập lệnh chương trình hay là dữ liệu của hình ảnh, các con số của
phép tính số học hay luận lý và cũng có khi là các ký tự chữ cái. Mỗi byte bộ nhớ
đều có địa chỉ riêng để CPU có thể truy cập đến dữ liệu trong đó. Bộ nhớ có nhiều
loại với đặc điểm cấu trúc tính năng sử dụng khác nhau, nhưng về căn bản đều
dùng để lưu dữ kiện nhằm phục vụ cho việc xử lý thông tin của CPU, và nó có thể
là loại nằm ngay trên CPU hay nằm ngoài CPU.
18


Một máy tính cá nhân bình thường ngày nay thường lắp từ 16 đến 64 Megabytes
bộ nhớ - bộ nhớ được nói đến trong câu này có nghĩa là loại bộ nhớ ngoài CPU mà
ta thường gọi là các thanh RAM.
Các vi mạch DRAM được kết nối với nhau trên một bản mạch nhỏ được gọi là
RAM, có khi là SIMM (single in - line memory module) - module nhớ hàng chân

kép. Tùy lượng vi mạch nhớ và cấu trúc, các SIMM hay DIMM có thể có dung
lượng từ 1 MB đến 32 MB hoặc hơn, có thế hệ cũ thì có 30 chân ( thường dùng từ
các máy 486DX trở về trước), thế hệ thông dụng hiện nay dùng loại 72 chân (từ
486DX cho tới các máy hiện đại nhất). Nhưng đã xuất hiện loại DIMM - SDRAM
có tốc độ lý thuyết 10ns (so với RAM EDO là 60ns), có số chân là 168 chân cũng
được dùng rộng rãi với một số bo mạch chọn lọc. Các RAM này được cắm vào các
khe quy định sẵn trên mạch hệ thống chính.
Xét về chi tiết thì nơi nhớ - tế bào nhớ giống như một cái hộp thư. Một hộp thư
hiện đại cho một địa chỉ có thể lưu giữ một byte thông tin.
Ðĩa khởi động có thể là đĩa cứng, đĩa mềm hay đĩa CD.Ðĩa này có chứa các tập
lệnh giúp cho hệ thống khởi động và biết cách nạp hệ điều hành từ đĩa vào bộ nhớ.
Khi khởi động máy, CPU tự động ( đã qui định trước ) đọc thông tin lưu trong bộ
nhớ chỉ đọc - ROM và thi hành. Hầu hết các hệ thống máy tính đều có ROM để lưu
dữ kiện để điều khiển hệ thống.Các chương trình trên ROM thường được gọi là
BIOS - hệ thống xuất nhập cơ sở.
Các lệnh cần thực hiện nào đã nạp vào bộ nhớ thì CPU có khả năng thực hiện
chúng.
Như vậy, khi bật máy, CPU đọc thông tin trên bộ nhớ ROM - thi hành nó, sau đó
đọc đến thông tin trên đĩa khởi động và nạp các thông tin hệ điều hành trên đĩa vào
bộ nhớ RAM.Các thông tin lưu trên RAM ở các tế bào nhớ, tức là nằm sẵn trong
RAM - và CPU có thể thực hiện các tác vụ.

19



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×