Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Mức độ thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường cao đẳng sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.79 KB, 66 trang )

UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA
TRƢỜNG CAO ĐẲNG SƠN LA

Ths. NGUYỄN THỊ HOA
PHÒNG KHẢO THÍ VÀ ĐẢM BẢO CHẤT LƢỢNG

MỨC ĐỘ THÍCH ỨNG VỚI HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
CỦA SINH VIÊN NĂM THỨ NHẤT
TRƢỜNG CAO ĐẲNG SƠN LA

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƢỜNG
NĂM HỌC 2011 - 2012

CỘNG TÁC VIÊN: Ths NGUYỄN VĂN SINH
PHÒNG KHẢO THÍ VÀ ĐẢM BẢO CHẤT LƢỢNG

Sơn La, tháng 5/2012


MỤC LỤC
Trang
Mục lục

1

Danh mục các chữ viết tắt

3

Danh mục các bảng


4

Danh mục các biểu đồ

4

MỞ ĐẦU

5

1. Lý do chọn đề tài

5

2. Mục đích nghiên cứu

5

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

5

4. Giả thuyết nghiên cứu

6

5. Nhiệm vụ nghiên cứu

6


6. Phƣơng pháp nghiên cứu

6

7. Cấu trúc của đề tài

7

8. Kế hoạch thời gian

7

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN

8

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

8

1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1 Khái niệm thích ứng

10

1.2.2 Khái niệm hoạt động học tập

22

1.2.3. Khái niệm sinh viên


23

1.2.4 Khái niệm thích ứng với hoạt động học tập

24

CHƢƠNG 2: TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.

26

2.1 Mẫu nghiên cứu.

26

2.2. Nội dung và tiến trình nghiên cứu

27

2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu.

28

2.4. Các biểu hiện và cách đánh giá mức độ thích ứng với hoạt động học tập
của sinh viên

29

CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU


33

3.1. Thích ứng với nội dung học tập ở trƣờng cao đẳng

33

3.2. Thích ứng với phƣơng pháp học tập ở trƣờng cao đẳng

38

3.3. Thích ứng với điều kiện, phƣơng tiện học tập ở trƣờng cao đẳng

43

3.4. Thích ứng với các mối quan hệ ở trƣờng cao đẳng

47

10

1


3.5. Tổng hợp mức độ thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên

51

3.6. Một số yếu tố cơ bản tác động đến mức độ thích ứng với hoạt động
học tập của sinh viên


54

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

60

1. Kết luận

60

2. Kiến nghị

60

TÀI LIỆU THAM KHẢO

64

PHỤ LỤC

66

2


DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ


1

CĐSP

Cao đẳng sƣ phạm

2

ĐTB

Điểm trung bình

3

ĐK, PTHT

Điều kiện, phƣơng tiện học tập

4

HSSV

Học sinh, sinh viên

5

KQHT

Kết quả học tập


6

HĐHT

Hoạt động học tập

7

MQH

Mối quan hệ

8

NDHT

Nội dung học tập

9

PPHT

Phƣơng pháp học tập

10

SD

Độ lệch chuẩn


11

TB

Trung bình

12

tbdkpt

Trung bình thích ứng với điều kiện, phƣơng tiện học tập

13

tbnd

Trung bình thích ứng với nội dung học tập

14

tbpp

Trung bình thích ứng với phƣơng pháp học tập

15

tbqh

Trung bình thích ứng với các mối quan hệ


16

TĐHT

Thái độ học tập

17

TƢHĐHT

Thích ứng với hoạt động học tập

18

xlchung

Xếp loại chung mức độ TƢHĐHT

19

xldkpt

Xếp loại mức độ thích ứng với ĐK,PTHT

20

xlnd

Xếp loại mức độ thích ứng với nội dung học tập


21

xlpp

Xếp loại mức độ thích ứng với phƣơng pháp học tập

22

xlqh

Xếp loại mức độ thích ứng các mối quan hệ

TT

3


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1:

Cơ cấu khách thể nghiên cứu

Bảng 3.1:

Nhận thức của sinh viên về các khối kiến thức

Bảng 3.2:

Tâm trạng của sinh viên trong các giờ học


Bảng 3.3:

Thái độ của sinh viên đối với các môn học

Bảng 3.4:

Thích ứng của sinh viên với khối lƣợng kiến thức ngành học

Bảng 3.5:

Cách lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch học tập của sinh viên

Bảng 3.6:

Cách ghi bài của sinh viên trên lớp

Bảng 3.7:

Cách tìm kiếm tài liệu học tập của sinh viên

Bảng 3.8:

Cách đọc sách của sinh viên

Bảng 3.9:

Mức độ sử dụng các phƣơng tiện học tập của sinh viên

Bảng 3.10:


Thích ứng của sinh viên với các điều kiện học tập, sinh hoạt

Bảng 3.11:

Thích ứng của sinh viên với các MQH ở trƣờng cao đẳng

Bảng 3.12:

Biểu hiện của sinh viêểntong quá trình tiếp xúc với bạn bè

Bảng 3.13:

Thứ hạng các chỉ số TƢHĐHT của sinh viên

Bảng 3.14:

Mức độ TƢHĐHT của sinh viên theo vùng, miền

Bảng 3.15:

Mức độ TƢHĐHT của sinh viên theo ngành học

Bảng 3.16:

Mối quan hệ giữa TĐHT và mức độ TƢHĐHT của sinh viên

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1:


Mức độ thích ứng của sinh viên với nội dung học tập

Biểu đồ 3.2:

Mức độ thích ứng của sinh viên với phƣơng pháp học tập

Biểu đồ 3.3:

Mức độ thích ứng của sinh viên với ĐK, PTHT

Biểu đồ 3.4:

Thích ứng của sinh viên với các MQH ở trƣờng cao đẳng

Biểu đồ 3.5:

Mức độ thích ứng với HĐHT của sinh viên

Biểu đồ
Mức
3.6:độ TƢHĐHT của sinh viên theo vùng, miền

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với xu thế phát triển của xã hội, của thời đại đòi hỏi tất cả các quốc gia
phải nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực. Trách nhiệm đó trƣớc hết thuộc về
giáo dục đại học và cao đẳng. Bởi vậy, nâng cao chất lƣợng giáo dục đào tạo

là yêu cầu cấp thiết đối với các trƣờng cao đẳng, đại học. Trong đó, nâng cao
chất lƣợng học tập của sinh viên trong quá trình học tập tại các cơ sở đào tạo
là yếu tố có ý nghĩa quyết định
Sinh viên của trƣờng cao đẳng Sơn La đến từ 11 huyện, thị của tỉnh với
12 dân tộc khác nhau, trong đó có xã, bản thuộc vùng đặc biệt khó khăn. Sinh
viên các dân tộc thiểu số chiếm tỉ lệ lớn trong tổng số sinh viên của trƣờng, có
em còn hạn chế trong ngôn ngữ giao tiếp. Hơn 40 năm qua, trƣờng đã đào tạo
hàng ngàn cán bộ, giáo viên phục vụ cho các ngành kinh tế-xã hội của tỉnh. Tuy
nhiên, chất lƣợng sinh viên ra trƣờng còn có những hạn chế. Một trong những
nguyên nhân đó là sự kém thích ứng với hoạt động học tập ở trƣờng cao đẳng.
dẫn tới tình trạng lúng túng, thiếu linh hoạt, hiệu quả thấp trong việc thực hiện
các hoạt động nghề nghiệp ở các cơ sở tuyển dụng sau khi tốt nghiệp.
Sự thay đổi môi trƣờng học tập từ trƣờng trung học phổ thông lên
trƣờng cao đẳng với nội dung học tập mới, phƣơng pháp học tập mới; từ cuộc
sống ở gia đình đến cuộc sống tập thể, tự lập làm cho các em gặp phải không
ít khó khăn trong quá trình học tập.
Thích ứng với hoạt động học tập ở trƣờng cao đẳng làm cho sinh viên
nhanh chóng hoà nhập với môi trƣờng học tập, tìm ra cho mình cách học phù
hợp với bản thân, với nội dung, phƣơng pháp dạy và học ở trƣờng cao đẳng
tạo điều kiện cho các em học tâp tốt hơn.
Với mong muốn làm rõ thực trạng và đề xuất một số biện pháp giúp sinh
viên có khả năng thích ứng tốt hơn với hoạt động học tập ở trƣờng cao đẳng
Sơn La chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: " Mức độ thích ứng với hoạt
động học tập của sinh viên năm thứ nhất trường cao đẳng Sơn La".
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ thực trạng mức độ thích ứng với hoạt động học tập của sinh
viên, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp giúp sinh viên thích ứng tốt hơn
với việc học tập ở trƣờng cao đẳng tạo điều kiện cho sinh viên đạt đƣợc kết
quả cao trong học tập
5



3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Mức độ thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất
trƣờng cao đẳng Sơn La.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu mức độ thích ứng
với hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất ở một số chuyên ngành của
trƣờng cao đẳng Sơn La: gồm 3 lớp 2 lớp chuyên ngành sƣ phạm, 1 lớp các
chuyên ngành ngoài sƣ phạm với số lƣợng từ 90 - 100 sinh viên
4. Giả thuyết nghiên cứu
Nhìn chung mức độ thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên
trƣờng cao đẳng Sơn La chƣa cao. Có sự khác biệt về mức độ thích ứng với
hoạt động học tập giữa sinh viên các vùng miền và ngành học khác nhau.
Có nhiều yếu tố khác nhau ảnh hƣởng đến mức độ thích ứng với hoạt
động học tập của sinh viên, nhƣng trong đó yếu tố chủ quan ảnh hƣởng mạnh
nhất đó là động cơ, thái độ học tập của sinh viên.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu lý luận: Tổng hợp các công trình nghiên cứu về thích
ứng nói chung và thích ứng với hoạt động học tập nói riêng để từ đó xây dựng
khái niệm công cụ của đề tài
5.2. Chỉ ra thực trạng mức độ thích ứng với hoạt động học tập của sinh
viên năm thứ nhất trƣờng cao đẳng Sơn La.
5.3. Phân tích một số yếu tố tác động chủ yếu và những nguyên nhân ảnh
hƣởng đến mức độ thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất
5.4. Đề xuất kiến nghị giúp sinh viên thích ứng tốt hơn với hoạt động học tập.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
6.1. Phƣơng pháp nghiên cứu lý luận: Thu thập và phân tích các tài liệu
lý luận cơ bản liên quan đến vấn đề thích ứng với hoạt động học tập của sinh

viên. Trên cơ sở đó, xác định rõ những nội dung của vấn đề đã đƣợc nghiên
cứu, những tài liệu để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
6.2. Phƣơng pháp điều tra bằng bảng hỏi: Tìm hiểu thực trạng mức độ
thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất một số chuyên
ngành đào tạo của trƣờng cao đẳng Sơn La.
6.3. Phƣơng pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn một số sinh viên tại các
lớp mà đề tài nghiên cứu để thu thập những thông tin cần thiết nhằm làm rõ
6


hơn các nội dung nghiên cứu trong đề tài.
6.4. Phƣơng pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến của một số chuyên gia
đã và đang nghiên cứu về sự thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên để
xác định các biểu hiện và tiêu chí đánh giá mức độ thích ứng với hoạt động
học tập của sinh viên.
6.5. Phƣơng pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động.
Trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng kết quả học tập nhƣ là sản phẩm
của hoạt động học tập và đối chiếu kết quả này với mức độ thích ứng với hoạt
động học tập của sinh viên.
6.6. Phƣơng pháp thống kê toán học: Xử lý các kết quả nghiên cứu bằng
phần mềm SPSS 13.0
7. Cấu trúc của đề tài
Mở đầu
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận
Chƣơng 2: Tổ chức và phƣơng pháp nghiên cứu
Chƣơng 3: Kết quả nghiên cứu
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
8. Kế hoạch thời gian

Từ tháng 8/2010 đến 15/5/2012

7


CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
p

1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Vấn đề thích ứng nói chung và thích ứng của sinh viên trong môi trƣờng
cao đẳng, đại học nói riêng từ lâu đã đƣợc quan tâm nghiên cứu trên thế giới
và Việt Nam. Các nghiên cứu về lĩnh vực này thƣờng tập trung vào giải quyết
vấn đề khái niệm thích ứng và những vấn đề lý luận có liên quan. Gần đây
một số tác giả bắt đầu nghiên cứu thích ứng của sinh viên với môi trƣờng
sống và học tập ở trƣờng cao đẳng, đại học và thích ứng nghề nghiệp sau khi
tốt nghiệp.
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề trên thế giới
Các nghiên cứu về sự thích ứng của sinh viên đại học, cao đẳng đã đƣợc
các nhà Tâm lý học nƣớc ngoài quan tâm từ những năm 60 của thế kỷ 20
Năm 1968, một số tác giả ngƣời Nga nhƣ N.D.Carsev, L.N. Khadecva
và K.D. Pavlov đã nêu ra các tiêu chuẩn sinh lý của sự thích ứng nghề nghiệp,
trong đó họ đã nghiên cứu khá sâu sắc cơ sở sinh lý của sự thích ứng ở học
sinh với chế độ học tập và rèn luyện trong nhà trường[2]. Những phản ứng
sinh lý, những biến đổi của các hệ số tƣơng quan đặc biệt là hệ tuần hoàn và
hệ thần kinh đƣợc tác giả quan tâm và chỉ ra những biến đổi cụ thể.
Năm 1969, E.A. Ermoleava nghiên cứu "Đặc điểm thích ứng xã hội và
nghề nghiệp ở sinh viên đã tốt nghiệp trƣờng sƣ phạm". Tác giả đã đƣa ra
khái niệm "thích ứng là quá trình thích nghi của người lao động trong tập thể
nhất định" và đã đƣa ra chỉ số cho sự thích ứng nghề nghiệp của sinh viên đã
tốt nghiệp trƣờng sƣ phạm.

Năm 1971, X.A. Kughen và O.N. Nhicandov đã nghiên cứu sự thích ứng
với hoạt động lao động của các kỹ sƣ trẻ. Các tác giả này đã đƣa ra nhiều mức
độ thích ứng khác nhau.
Năm 1972, D.A. Andreeva đã phân tích khá sâu sắc khái niệm thích ứng.
Tác giả đã nêu lên sự khác nhau cơ bản giữa thích ứng và thích nghi sinh học,
đặc biệt bà đã sử dụng nguyên tắc hoạt động theo quan điểm tâm lý học hiện
đại để nghiên cứu vấn đề thích ứng. Theo bà, thích ứng là sự thích nghi đặc
biệt của cá nhân với điều kiện,hoàn cảnh mới, là sự thâm nhập vào những
điều kiện mới một cách không gượng ép. Từ đó tác giả đƣa ra định nghĩa về
thích ứng: " là một quá trình tạo ra một chế độ hoạt động tối ƣu có mục đích
của nhân cách, tức là con ngƣời vừa thích nghi với điều kiện mới, vừa phải
8


chủ động thâm nhập vào những điều kiện đó để xây dựng một chế độ hoạt
động mới, phù hợp và đáp ứng
những yêu cầu của điều kiện mới".
Ngoài ra, trong cuốn "Con ngƣời và xã hội ", D.A. Andreeva đã so sánh khái
niệm " thích ứng và xã hội hoá". Bà cho rằng, hai khái niệm này có sự khác biệt về
nội dung: thích ứng phản ánh quá trình thích nghi đặc biệt của con ngƣời. Thích
ứng nhấn mạnh vai trò tích cực của chủ thể với môi trƣờng mới. Còn "xã hội hoá",
về cơ bản phản ánh sự tác động của xã hội tới cá nhân. [5]
Năm 1971, V.I. Alaudie và A.L. Meseracov, trên cơ sở nghiên cứu quá trình
hình thành hoạt động học tập của các sinh viên thuộc khoa Tâm lý học - Đại học tổng
hợp Maxcơva đã đi đến kết luận: Việc thích ứng của sinh viên đại học với hoạt động
học tập thực chất là khả năng tổ chức quá trình phát triển của ngƣời học, tiếp cận
đƣợc với hệ thống tri thức và kinh nghiệm lịch sử xã hội. Nhƣ vậy, thích ứng ở đây
đƣợc hiểu là khả năng tự tổ chức học tập của ngƣời học.
Năm 1986, A.V. Petrovxki và các đồng nghiệp nghiên cứu về vấn đề
thích ứng học tập của sinh viên. Ông cho rằng thích ứng học tập của sinh viên

là một quá trình phức tạp, diễn ra ở nhiều mặt nhƣ: 1/ Thích nghi với hệ thống
học tập mới; 2/ Thích nghi với chế độ làm việc và nghỉ ngơi; 3/ Thích nghi
với các mối quan hệ mới. [5]
Năm 1990, B.P. Allen (Mỹ) đã tiếp cận vấn đề thích ứng học tập của
sinh viên thông qua hệ thống các tác động hình thành các kỹ năng học tập ở
trƣờng đại học. Theo tác giả này, điều kiện cơ bản của sự thích ứng học tập
của sinh viên là hình thành ở họ các nhóm kỹ năng: 1/Kỹ năng sử dụng quỹ
thời gian cá nhân; 2/ Kỹ năng hình thành các hành động học tập và các phẩm
chất khác (nhƣ tâm thế, sự lựa chọn các hình thức, nội dung học tập); 3/ Kỹ
năng làm chủ các cảm xúc tiêu cực; 4/ Kỹ năng chủ động luyện tập và hình
thành các thói quen hành vi mang tính nghề nghiệp. Theo cách hiểu này, sự
thích ứng (hay không thích ứng) của sinh viên đƣợc giải thích chủ yếu do sinh
viên có (hay thiếu) một số kỹ năng nào đó, mà ít chú ý đến khía cạnh tổ chức
trong hệ thống giáo dục của nhà trƣờng đại học. [5]
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ở Việt Nam
Ở Việt Nam đã có một số nghiên cứu bƣớc đầu về những vấn đề cụ thể
của sự thích ứng học đƣờng của sinh viên đại học.
Năm 1981, tác giả Bùi Ngọc Dung trong đề tài luận văn thạc sỹ "Bƣớc
đầu tìm hiểu sự thích ứng nghề nghiệp của giáo viên tâm lý giáo dục" đã đƣa
9


ra một số tiêu chí để đánh giá khả năng thích ứng nghề nghiệp của giáo viên
tâm lý - giáo dục.
Nguyễn Ngọc Bích (1982), khoa Tâm lý - Giáo dục trƣờng đại học sƣ
phạm Hà Nội có đề tài nghiên cứu mang tên: "Thích ứng học đƣờng của sinh
viên sƣ phạm".
Nguyễn Thị Trang (1982), trƣờng đại học sƣ phạm Hà Nội "Bƣớc đầu
tìm hiểu sự thích ứng học tập của sinh viên khoa Tâm lý - giáo dục".
Hoàng Trần Doãn (1983) với luận văn thạc sỹ: "Sự thích ứng với hoạt động

học tập của sinh viên khoa Văn và Toán trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội I"
Từ năm 1994-1996 đã triển khai công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ
với đề tài "Sự thích nghi với hoạt động học tập của học sinh tiểu học" của tập
thể cán bộ nghiên cứu thuộc Trung tâm Sinh lý học lứa tuổi, thuộc Viện khoa
học giáo dục do Tiến sĩ Vũ Thị Nho làm chủ nhiệm
Đỗ Mạnh Tôn với luận án PTS: "Sự thích ứng của sinh viên đối với học
tập và rèn luyện của học viên các trƣờng sỹ quan quân đội".
Năm 2000, Phan Quốc Lâm với luận án Tiến sĩ "Sự thích ứng với hoạt
động học tập của học sinh lớp 1"
Năm 2003, Trung tâm nghiên cứu về Phụ nữ đã tiến hành nghiên cứu đề
tài "Nghiên cứu sự TƢ của sinh viên năm thứ nhất Đại học Quốc gia Hà Nội
với môi trƣờng đại học" do PGS.TS. Trần Thị Minh Đức là chủ nhiệm đề tài.
Dƣơng Thị Nga (2007), với luận văn thạc sỹ "Hình thành khả năng thích
ứng nghề cho sinh viên CĐSP qua giảng dạy học phần: Tâm lý học lứa tuổi
và tâm lý học sƣ phạm"
Nhìn chung, các nghiên cứu trong nƣớc và nƣớc ngoài tập trung vào
nghiên cứu thích ứng của sinh viên nói chung với hoạt động học tập, với môi
trƣờng đại học và sự thích ứng nghề nghiệp của sinh viên đã tốt nghiệp đại
học. Vấn đề thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất
trƣờng cao đẳng Sơn La chƣa đƣợc làm rõ trong bất kỳ công trình nghiên cứu
nào. Vì vậy, chúng tôi nghiên cứu đề tài này với mong muốn làm rõ thực
trạng thích ứng của sinh viên năm thứ nhất, qua đó tìm ra các biện pháp giúp
họ thích ứng tốt hơn với hoạt động học tập ở trƣờng cao đẳng.
1.2 Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1 Khái niệm thích ứng
1.2.1.1 Một số lý thuyết về sự thích ứng tâm lý
*) Thuyết Tâm Lý học hành vi về vấn đề thích ứng
10



Tâm lý học hành vi do J.Watson khởi sƣớng với luận điểm cơ bản: Tâm
lý học đích thực phải lấy hành vi làm đối tƣợng nghiên cứu chứ không phải là
ý thức. Theo quan điểm những ngƣời thuộc dòng phái này, về nguyên tắc, các
quy luật và cơ chế thích ứng ở ngƣời giống động vật, chỉ khác là môi trƣờng
sống của con ngƣời có thêm một số yếu tố mới nhƣ ngôn ngữ và các quy tắc
xã hội. Sự thích ứng ở ngƣời có cơ chế và quy luật phức tạp hơn nhƣng không
có sự khác biệt về chất so với động vật. Do đó, khi nghiên cứu sự thích ứng
của con ngƣời vẫn phải giữ lại những khái niệm cơ bản của tiến hoá sinh học:
thích nghi với môi trƣờng và sống còn, liên kết và phân hoá các chức năng
của chúng, kinh nghiệm loài và cá thể … Sự thích ứng của con ngƣời chỉ
phức tạp hơn của động vật về mặt số lƣợng [6].
Thừa kế quan điểm của các nhà Tâm lý học động vật, J. Watson cho rằng
để tồn tại, cá nhân có một hệ thống hành vi, ứng xử có đƣợc là do học tập.
Trong đó từng hành vi cụ thể có cơ sở là các kinh nghiệm, hành vi cũ và động
lực là sự thích ứng. Đó là quá trình cá nhân học đƣợc những hành vi mới cho
phép nó giải quyết những yêu cầu, những đòi hỏi của cuộc sống. Sự kém thích
ứng là không học đƣợc hoặc hành vi học đƣợc không đáp ứng đƣợc yêu cầu
của môi trƣờng. Việc học tập đƣợc J. Watson xem xét dƣới góc độ hành thành
kinh nghiệm và hành vi cá thể (tập nhiễm) … Với lý luận hành vi, ông coi con
ngƣời là một cơ thể sống với một hệ thống kỹ xảo đã đƣợc học đáp ứng với
những đòi hỏi của môi trƣờng xung quanh [6].
Sau này lý thuyết Hành vi còn có một xu hƣớng phát triển khác là tâm lý
học hành vi nhận thức mà tiêu biểu là W. Mischel. Trƣờng phái này chú trọng
vai trò nhận thức của con ngƣời trong quá trình thích ứng. Ông đã nhìn nhận
hành vi thích ứng một cách đầy đủ toàn diện hơn. Cùng với việc chú ý đến vai
trò của yếu tố bên trong, W. Mischel đã phát hiện ra tính tích cực của chủ thể
thích ứng.
Mặc dù chƣa vạch ra đƣợc bản chất đích thực của sự thích ứng tâm lý ở
ngƣời, nhƣng chủ nghĩa hành vi đã có những đóng góp nhất định vào việc giải
quyết vấn đề này.

*) Tâm lý học nhân văn về vấn đề thích ứng
Đại diện tâm lý học Nhân văn là A. Maslow. Ngƣợc lại với chủ nghĩa
Hành vi, trƣờng phái này lấy nhân cách là đối tƣợng nghiên cứu, xem nhân
cách là một hiện tƣợng chỉ có ở ngƣời, là một hệ thống mở nhƣng trọn vẹn và
tự thể hiện. Đó là năng lực bộc lộ tiềm năng sáng tạo, tin vào bản thân và
11


tƣơng lai. Động lực thực sự của hành vi thích ứng là nhu cầu hƣớng thiện, vị
tha, vì xã hội. Thích ứng là những ứng xử tích cực của cá nhân với tƣ cách là
chủ thể với thế
giới xung quanh và với chính mình.
A. Maslow coi thích ứng là sự thể hiện đƣợc những cái vốn có của cá
nhân trong những điều kiện sống nhất định. Sự không thích ứng chính là sự
không đƣợc tự thể hiện, sẽ tạo ra xung đột và ảnh hƣởng tới sự phát triển nhân
cách. Tiền đề tạo ra sự thích ứng là một hệ thống nhu cầu của nhân cách,
đƣợc sắp xếp theo thứ bậc mà cao nhất là nhu cầu tự thể hiện - một nhu cầu
bẩm sinh nhƣng có tính chất nhân văn, chỉ xuất hiện khi các nhu cầu bậc thấp
đƣợc thoả mãn [6]. Mặc dù không phủ nhận vai trò của cái vô thức, bản năng
(của Phân tâm học) hay quá trình học tập (của chủ nghĩa Hành vi), nhƣng A.
Maslow có quan niệm khác về yếu tố quy định sự thích ứng. Theo ông, nhu
cầu "tự thể hiện" mong muốn phát triển hết mức khả năng vốn có của bản
thân và năng lực lựa chọn một cách có ý thức những mục tiêu hành động của
nhân cách là yếu tố quyết định sự thích ứng của con ngƣời.
Tâm lý học Nhân văn đã coi trọng tính tích cực lựa chọn và phẩm chất tự
đánh giá của nhân cách trong quan hệ cá nhân - xã hội. Điều này có ý nghĩa
quan trọng trong việc xây dựng biện pháp tác động đến sự thích ứng tâm lý
nói chung và sự thích ứng với nghề nghiệp nói riêng. Đó là tƣ tƣởng tiến bộ
của dòng phái này.
*) Tâm lý học Nhận thức về vấn đề thích ứng

Đại diện trƣờng phái này là J. Piaget. Trong cuộc sống con ngƣời, theo
J.Piaget có hai loại hoạt động gắn liền với nhau: Hoạt động tâm lý và hoạt
động sinh học. Trong đó, hoạt động tâm lý có nguồn gốc sinh học. Cá thể chỉ
tồn tại và phát triển trong mối tƣơng tác giữa cơ thể và môi trƣờng từ đó tạo
ra sự cân bằng giữa cơ thể và môi trƣờng, và cuối cùng cơ thể thích ứng với
môi trƣờng [14, 18]. Theo tác giả, thích ứng có 3 cấp độ:
- Thích ứng sinh học (thích ứng vật chất) làm cho cơ thể bằng xƣơng
bằng thịt tồn tại và phát triển có thể nhận thức trực tiếp qua các giác quan.
- Thích ứng tâm lý (thích ứng chức năng) có nguồn gốc sinh học.
- Thích ứng trí tuệ: Theo J. Piaget, trí tuệ không phải là cái có ngay từ
đầu khi đứa trẻ mới sinh. Nó là kết quả của sự tƣơng tác giữa cơ thể và môi
trƣờng. Trong quá trình tƣơng tác giữa cơ thể và môi trƣờng, con ngƣời tạo ra
trí tuệ của mình. Mỗi ngƣời tƣơng tác nhƣ thế nào thì trí tuệ đƣợc hình thành
12


và phát triển theo hƣớng đó. Tuy nhiên, J. Piaget luôn khẳng định, trí tuệ có
nguồn gốc sinh học, cái sinh học nó tƣơng tác với môi trƣờng tạo nên sự cân
bằng, thích ứng. Trí tuệ là sản phẩm của quá trình thích nghi của cơ thể với
môi trƣờng.
J. Piaget đã có những đóng góp quan trọng vào lý luận về sự thích ứng
tâm lý ở con ngƣời và cơ chế phát triển của thích ứng nhận thức, về những
yếu tố ảnh hƣởng đến nó. Tuy nhiên, J. Piaget đã nhìn nhận sự phát triển tâm
lý dƣới góc độ thích nghi sinh học, ông chủ yếu chú ý tới mặt hình thức của
sự thích ứng mà chƣa quan tâm đúng mức đến bản chất, nội dung xã hội - lịch
sử của sự thích ứng tâm lý ngƣời. Ông đã đánh giá quá cao yếu tố thành thục
trong sự thích ứng và sự thích ứng diễn ra nhƣ thế nào chứ chƣa coi trọng vấn
đề làm thế nào để phát triển sự thích ứng ở trẻ em cũng nhƣ các giai đoạn lứa
tuổi khác.
*) Phân tâm học về vấn đề thích ứng

Phân tâm học là do S. Freud (ngƣời Áo) khởi xƣớng. Xuất phát từ cách
nhìn sinh vật học đối với nhân cách, cho rằng nhân cách là một cấu trúc tổng
thể trọn vẹn với 3 thành tố "cái nó" (Id), "cái tôi" (ego) và "cái siêu tôi"
(superego) có vai trò và chức năng khác nhau đối với đời sống con ngƣời.
Theo S.Freud, hành vi sống của con ngƣời có hình thức căn bản và đƣợc thúc
đẩy bởi bản năng, mà quyết định là bản năng tính dục và bản năng xâm chiếm
… Tuy nhiên, cái bản năng này luôn bị cấm đoán bởi cái xã hội (cái siêu tôi).
Để tồn tại, con ngƣời phải đạt đƣợc sự cân bằng, sự hài hoà giữa hai cái đối
lập "cái nó" và "cái siêu tôi" - đó chính là sự thích ứng. Sự thích ứng là sự
thoả mãn hợp lý các bản năng tình dục trong những điều kiện xã hội nhất
định. Sự phát triển "cái tôi" nhân cách là kết quả của sự thích ứng qua các giai
đoạn khác nhau của đời sống cá thể. Lý thuyết Phân tâm cổ điển của S. Freud
xuất phát từ quan điểm sinh vật luận nên không phát hiện đƣợc bản chất xã
hội - lịch sử của sự thích ứng ở con ngƣời.
Sau này, những ngƣời kế tục S. Freud đã xây dựng nên trƣờng phái Phân
tâm hiện đại nhƣ: C. Jung, E. Fromm và E. Erikson. Các ông cho rằng S.
Freud quá đề cao "cái nó", cái bản năng trong hành vi con ngƣời. Theo họ,
"cái tôi" có vai trò quan trọng trong sự thích ứng cá nhân,là chủ thể của hành
vi chứ không chỉ là phƣơng thức thoả mãn "cái nó". Khác với S. Freud, các
nhà Phân tâm học hiện đại đã coi trọng vai trò cua quan hệ xã hội đối với các
hành vi thích ứng của cá nhân. E. Fromm cho rằng: "Cần phải xem xét hành
13


vi thích ứng của cá nhân từ tính chất xã hội của môi trƣờng". E. Erikson thì
nhấn mạnh thêm "sự thích ứng tâm lý là sự thiết lập các quan hệ xã hội của cá
nhân với những ngƣời xung quanh"[6].
Ứng dụng lý thuyết Phân tâm cũ và mới, các nhà tâm thần học theo
S.Freud chú ý tới giải thích bản chất và cơ chế của sự thích ứng tâm lý.Con
ngƣời không phải là một ngoại lệ sinh học. Ngay từ khi mới lọt lòng, đứa bé

nhận ra là nó đối lập với các đòi hỏi do xã hội đặt ra, đồng thời cũng là sản
phẩm của những đòi hỏi đó. Sự lớn lên của đứa trẻ vừa là quá trình thích nghi
về mặt sinh học, vừa là thích ứng về mặt tâm lý. Ví dụ điển hình là một đứa
trẻ đói thoả mãn cơn đói bằng phƣơng thức bú sữa mẹ. Sau đó, ngƣời lớn
(mẹ) bắt nó phải ăn các thức ăn với phƣơng thức mà nó chƣa có. Đầu tiên nó
chống lại vì không phù hợp. Sau đó, sự trƣởng thành về cơ thể cho phép nó ăn
đƣợc thức ăn đặc. Mặt khác, mẹ nó đòi hỏi nó phải ăn những thức ăn mới này.
Với đứa bé, mẹ là hình thái đặc trƣng của xã hội đối với nó, ứng xử mới của
trẻ (ăn) là kết quả của sự thích nghi và thích ứng để sống còn và phát triển an
toàn. Theo đó, quá trình hình thành và phát triển của trẻ em là một quá trình
xảy ra các thích ứng và thích nghi để hình thành những ứng xử mới, giúp nó
xử lý thích hợp mâu thuẫn giữa cái đã có với những yêu cầu, đòi hỏi của môi
trƣờng và thoả mãn nhu cầu bản thân. Nhân cách là tổng thể tất cả các ứng xử
của cá nhân. Thích ứng của con ngƣời là khả năng duy trì quan hệ giữa cá
nhân với môi trƣờng sống của mình, đƣợc xác định bằng mức độ thoả mãn
các nhu cầu cơ bản và có thể chấp nhận đƣợc về mặt xã hội của hệ thống ứng
xử của ngƣời đó. Vì vậy, thực chất quá trình hình thành nhân cách là quá trình
cá nhân thích ứng với xã hội. Động lực của sự thích ứng là "lo hãi" bản năng
của cá nhân trƣớc các tình huống mới lạ, cái mà con ngƣời thƣờng xuyên gặp
phải và "lo hãi" là cái không thể loại trừ. Vấn đề là con ngƣời thƣờng xuyên
phải đối phó với "lo hãi" bằng sự thích nghi và thích ứng để có hành vi phù
hợp vơí tình huống. Để có chúng, bên cạnh sự thích nghi, ở cá nhân phải có
sự thích ứng mà thực chất là sự đối phó với tình huống bằng các phƣơng thức
tâm lý khác nhau gồm có: Phóng chiếu, chuyển dịch, huyễn tƣởng, thoái lui,
né tránh, thăng hoa… Nhờ các phƣơng thức này, con ngƣời giảm nhẹ lo hãi,
tạo thế cân bằng động với môi trƣờng và tạo ra sự hài hoà trong quan hệ giữa
bản thân với ngƣời khác. Mỗi hành vi ứng xử đặc thù của cá nhân trƣớc một
tình huống mới là kết quả tổng hoà của cuộc sống và thoả mãn các nhu cầu

14



của chính mình. Sự không thích ứng sẽ tạo ra những stress và là căn nguyên
của đa số các trƣờng hợp bệnh lý tâm căn.
Mặc dù chƣa giải thích đƣợc bản chất sự thích ứng của con ngƣời, Phân
tâm học chứa đựng những điểm hợp lý cần đƣợc chú ý về mặt lý luận và thực
tiễn của vấn đề. Đó là vai trò của vô thức, bản năng xung đột tâm lý trong quá
trình thích ứng, hậu quả của việc thích ứng và cách thức giải toả hậu quả này.
*) Tâm lý học Mác xít về vấn đề thích ứng
Cùng với việc phê phán cách tiếp cận sai lầm trên, tâm lý học Mác-xít
giải quyết vấn đề theo một hƣớng hoàn toàn khác. Một mặt, thừa nhận con
ngƣời phải thích nghi với môi trƣờng sống nhƣ là một sinh vật "vì con ngƣời
là một tồn tại tự nhiên, nên đƣơng nhiên nó không thể đứng ngoài sự tác động
của môi trƣờng". Mặt khác, khẳng định con ngƣời là một thực thể xã hội nên
"phải đặt vấn đề" một cách khác: khi nói về con ngƣời, tức là vấn đề quan hệ
"ngƣời xã hội" trở thành vấn đề chủ yếu, thì cái gì là nội dung mới của vấn đề
"cơ thể - môi trƣờng".
L.X. Vƣgôtxki đã chỉ rõ "Quá trình một đứa trẻ bình thƣờng ăn nhập nền
văn minh thƣờng thống nhất với các quá trình cơ thể chín muồi. Hai bình
diện phát triển - tự nhiên và văn hoá - nhập vào nhau tạo nên một sự hình
thành thống nhất xã hội - sinh vật của nhân cách trẻ" [7, tr.131]. Từ quan
niệm về sự thống nhất biện chứng của hai mặt tự nhiên và văn hoá trong sự
phát triển của trẻ em, L.X.Vƣgôtxki đã đƣa ra một tƣ tƣởng mới về bản chất
sự thích nghi của con ngƣời. Ông khẳng định: "Con ngƣời có một hình thức
thích nghi mới và đây là cơ chế cân bằng chủ yếu của cơ thể với môi trƣờng,
dạng thức hành vi này nảy sinh trên cơ sở các tiền đề sinh vật nhất định,
nhƣng đã vƣợt ra ngoài phạm trù sinh vật, tạo nên một hệ thống hành vi có
chất lƣợng khác và theo một tổ chức mới". L.X. Vƣgôtxki gọi dạng thức hành
vi chuyên biệt ngƣời này là "hành vi cấp cao" [7, tr.130]. Hệ thống hành vi
cấp cao này khác biệt về chất lƣợng so với hành vi sinh vật. Trƣớc hết là ở các

kích thích tạo ra chúng. Khác với các động vật khác, con ngƣời tự tạo ra các
kích thích tác động vào bản thân mình. Hơn thế nữa, con ngƣời còn dùng các
kích thích tự tạo này để làm chủ hành vi của chính mình: "Con ngƣời tự kiểm
soát hành vi của chính mình bằng các kích thích - phƣơng tiện tự tạo"[7,
tr.134]. Các kích thích - phƣơng tiện đƣợc L.X. Vƣgôtxki coi là chìa khoá để
giải quyết bản chất vấn đề thích ứng tâm lý ở ngƣời; là vấn đề có tính nguyên
tắc phân biệt phƣơng thức thích ứng ở động vật và ngƣời. Theo ông, thích ứng
15


theo nguyên tắc tín hiệu (phản xạ có điều kiện) là loại thích ứng chung cho cả
ngƣời và động vật. Nhƣng ở ngƣời, đây không phải là phƣơng thức thích ứng
đóng vai trò chủ đạo. Phƣơng thức thích ứng đóng vai trò chủ đạo ở ngƣời có
nguyên tắc khác hẳn, không có ở động vật, đó là nguyên tắc dấu hiệu. Quá
trình tín hiệu hoá phản ánh các mối quan hệ tự nhiên đảm bảo cho cơ thể đáp
ứng kích thích của môi trƣờng. việc dấu hiệu hoá cho phép con ngƣời có khả
năng tạo ra một loại cân bằng mới với môi trƣờng - biến đổi chính môi trƣờng
và biến đổi hành vi của chính mình với tƣ cách là một chủ thể tích cực. Dấu
hiêu là công cụ tâm lý để chủ thể điều chỉnh hành vi. Dấu hiệu cũng nhƣ công
cụ vật chất đƣợc hình thành trong lịch sử loài ngƣời. Cùng với dấu hiệu,
"cuộc sống xã hội tạo ra tất yếu buộc hành vi cá thể phải tuân thủ các yêu cầu
xã hội"[7, tr.138]. Đó là loại hành vi đặc thù đƣợc quy định bởi xã hội. Để có
chúng, cá nhân cần phải lĩnh hội từ xã hội. Mặt khác, để điều khiển những
hành vi này cần có những nguyên tắc chuyên biệt ngƣời, đó là nguyên tắc tự
kích thích và làm chủ bản thân. Nguyên tắc này có đƣợc ở cá nhân cũng nhờ
sự chuyển hoá từ tác động xã hội bên ngoài thành tác động xã hội bên trong
con ngƣời. L.X. Vƣgôtxki viết: "Mọi chức năng trong phát triển văn hoá của
trẻ xuất hiện trên vũ đài hai lần, trong hai bình diện - lúc đầu trong bình diện
xã hội rồi sau đó trong bình diện tâm lý, lúc đầu giữa con ngƣời với con
ngƣời, rồi sau ở bản thân trẻ, tức là có sự chuyển hoá từ ngoài vào trong, dần

dần thay đổi cấu trúc và chức năng" [7, tr.156]. Với việc phát hiện ra dạng
thức cấp cao của hành vi ngƣời, cơ chế của sự hình thành và điều khiển nó ở
cá nhân. L.X. Vƣgôtxki đã thấy sự khác biệt cơ bản của sự thích ứng tâm lý xã hội ở ngƣời và sự thích nghi sinh học ở động vật. Theo đó, sự thích ứng
của trẻ em trong môi trƣờng xã hội là một quá trình kép. Một mặt trẻ hình
thành các dạng thức cấp cao của hành vi, mặt khác, hình thành các chức năng
tâm lý cấp cao để trở thành chủ thể của các hành vi đó. Cả hai mặt của quá
trình này đều đƣợc thực hiện bằng cơ chế lĩnh hội nền văn hoá - xã hội.
Những tƣ tƣởng đúng đắn, biện chứng của L.X.Vƣgôtxki đã đƣợc các nhà tâm
lý học Xô viết kế thừa, phát triển và cụ thể hoá. Quan điểm của ông cũng là
kim chỉ nam cho việc giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn của luận văn này.
Xuất phát từ nhữg luận điểm cơ bản của tâm lý học Mác- xít đƣợc khởi
xƣớng bởi L.X. Vƣgôtxki, A.N. Leonchiep đã phân tích sự khác biệt cơ bản
giữa sự phát triển con ngƣời với sự thích nghi của cá thể sinh học về nội dung
và cơ chế. Ông viết "Phải nhấn mạnh riêng về sự khác biệt giữa quá trình ấy
16


(tiếp thu, lĩnh hội) với quá trình cá thể thích nghi với môi trƣờng tự nhiên, vì
gần nhƣ mọi ngƣời chấp nhận rằng, có thể đem khái niệm thích nghi, cân
bằng với môi trƣờng dùng nguyên vẹn vào cho sự phát triển cá thể ngƣời.
Nhƣng dùng khái niệm ấy vào cho ngƣời mà không có sự phân tích cần thiết,
thì chỉ làm lu mờ sự phát triển thực sự của ngƣời" [8, tr.94]. A.N. Leonchiep
chỉ rõ "Sự khác biệt cơ bản giữa các quá trình thích nghi theo đúng nghĩa của
nó và các quá trình lĩnh hội, tiếp thu là ở chỗ quá trình thích nghi sinh vật là quá
trình thay đổi các thuộc tính của loài và năng lực, hành vi của cơ thể. Quá trình lĩnh
hội hay tiếp thu thì khác. Đó là quá trình mang lại kết quả: cá thể tái tạo lại đƣợc
những năng lực và chức năng ngƣời đã hình thành trong quá trình lịch sử" [8, tr.95].
"Những năng lực và chức năng hình thành ở con ngƣời trong quá trình ấy là các cấu
tạo tâm lý mới. Đối với những cấu tạo này, các cơ chế và quá trình bẩm sinh, di
truyền chỉ là điều kiện cần thiết bên trong (tiền đề) giúp cho các cấu tạo tâm lý mới có

thể xuất hiện" [8, tr.96]. Ông thừa nhận: "Sự phát triển của con ngƣời cũng mang tính
chất môi trƣờng (tức là phụ thuộc vào những điều kiện bên ngoài), nhƣng khác với
tiến hoá động vật, sự phát triển của con ngƣời không phải là quá trình thích nghi hiểu
theo nghĩa của từ này" [8, tr.99]. Nhƣ vậy, bản chất và nội dung sự thích ứng của
ngƣời và sự thích nghi sinh vật có sự khác biệt về chất. A.N.Leonchiep cũng vạch ra
sự khác biệt về cơ chế của sự hình thành hành vi động vật và ngƣời. Ở động vật, hành
vi đƣợc hình thành bới kinh nghiệm loài và cá thể, trong đó sự hình thành kinh
nghiệm cá thể là đem hành vi loài thích nghi với những yếu tố biến động của môi
trƣờng bên ngoài. Còn ở ngƣời, hành vi đƣợc hình thành bằng cơ chế lĩnh hội kinh
nghiệm xã hội - lịch sử. Tất nhiên, cơ chế lĩnh hội kinh nghiệm xã hội - lịch sử quan
hệ chặt chẽ với cơ chế kinh nghiệm cá thể.
Với việc vạch ra sự khác biệt về chất giữa thích nghi sinh vật với thích
ứng xã hội - tâm lý của con ngƣời, A.N. Leonchiep đã đặt nền móng cho việc
nghiên cứu vấn đề này về cả phƣơng diện lý luận và thực tiễn.
Quá trình thích ứng tâm lý của con ngƣời gắn liền với quá trình hình
thành nhân cách. Sự hình thành nhân cách chính là quá trình hình thành hai
mặt chủ thể của thích ứng tâm lý. Nhờ nhân cách, sự thích ứng tâm lý trở
thành một quá trình tích cực. Trong đó, con ngƣời không chỉ đáp ứng tác
động của môi trƣờng mà còn cải tiến nó một cách tích cực. Tuy nhiên, sự
thích ứng không đồng nhất với sự hình thành nhân cách. Đó là quá trình
tƣơng tác biện chứng giữa nhân cách và môi trƣờng xã hội mà cả hai phía đều
có sự thay đổi để trở nên phù hợp với nhau, đặc biệt là phía nhân cách. Vì vậy
17


sự hình thành nhân cách và mức độ của nó không tất yếu quyết định mức độ
thích ứng của cá nhân. Nhƣng sẽ không có sự thích ứng nếu không có sự hình
thành nhân cách ở trình độ nhất định. Vì vậy, có những ngƣời có nhân cách
cao nhƣng không thích ứng đƣợc trong những môi trƣờng xã hội nhất định
hay ngƣời ngƣời có nhân cách mang bản chất xã hội này nhƣng có thể thích

ứng với môi trƣờng xã hội có bản chất khác.
Sau này một số nhà tâm lý học Mác xít tiếp tục nghiên cứu vấn đề này, tiêu
biểu
nhƣ:
E.A.Ermolaeva,
A.I.Serbacov,
A.V.Mudric,
D.A.Antreeva,
E.A.Golomstooc …
E.A.Ermolaeva đã định nghĩa và đƣa ra những chỉ số đặc trƣng cho sự
thích ứng nghề nghiệp gồm: 1/ Những chỉ số khách quan: chất lƣợng lao
động, trình độ nghề nghiệp, mức độ kỷ luật, địa vị xã hội; 2/ Những chỉ số
chủ quan: Mức độ hài lòng về công việc, điều kiện trong công việc. Bà còn
chỉ ra đƣợc thời điểm mà sự thích ứng xuất hiện, đó là: "Khi làm quen với
điều kiện mới đó kéo theo những sự tiêu tốn sức lực nhất định". Mặc dù chỉ
nghiên cứu lĩnh vực thích ứng lao động, nhƣng ý kiến của E.A. Ermolaeva
góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về sự thích ứng, nhất là vấn đề chỉ số của
sự thích ứng nghề nghiệp [11, tr.47]
D.A. Andreeva phân biệt rõ các khái niệm thích ứng và thích nghi sinh
học. Bà nhấn mạnh hai khái niệm này gần nghĩa nhƣng cần chú ý phân biệt
chúng. Nếu đem khái niệm thích ứng với ý nghĩa thích nghi sinh học vào giải
thích các hiện tƣợng xã hội thì dĩ nhiên sẽ sai lầm vì thích nghi sinh học chỉ
sự đồng hoá của cơ thể đối với những tác động từ bên ngoài và là sự xây dựng
lại trạng thái của cơ thể do những tác động đó để tồn tại trong điều kiện môi
trƣờng thay đổi, còn thích ứng tâm lý ở ngƣời có ý nghĩa khác về chất. Cần
hiểu "thích ứng" là sự thích nghi đặc biệt của cá nhân với điều kiện sống mới,
là sự thâm nhập của nó vào điều kiện đó một cách không gƣợng ép. Bà chỉ rõ:
"Sự thích ứng của con ngƣời phải làm sao góp phần cho con ngƣời thoát khỏi
sự phụ thuộc có tính chất nô lệ, trực tiếp vào trạng thái cơ thể mình và khỏi
vòng tù hãm trực tiếp của cơ thể [12, tr.47]. D.A. Andreeva cho rằng: "Có thể

xem thích ứng là một quá trình xây dựng chế độ hoạt động tối ƣu và có mục
đích của nhân cách"[11, tr.47]. Nhƣ vậy ta thấy, bà đã phân biệt rõ thích ứng
tâm lý ngƣời và thích nghi sinh học, đƣa khái niệm thích ứng thoát khỏi lập
trƣờng thích nghi sinh học, xem xét nó dƣới góc độ hoạt động và đặt nó hoàn
toàn vào địa hạt của tâm lý học ngƣời.
18


Tóm lại, bằng cách tiếp cận khoa học về vấn đề thích ứng, các nhà tâm lý
học Mác xít đã chỉ ra đƣợc bản chất hoạt động, nội dung xã hội - lịch sử, tính
tích cực và các chỉ số của hiện tƣợng thích ứng ở con ngƣời. Theo nghĩa đó,
lý luận tâm lý học Mác xít về bản chất hoạt động của sự thích ứng tâm lý là
cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận cơ bản của chúng tôi khi tiếp cận, nghiên
cứu vấn đề thích ứng nghề nghiệp của sinh viên.
1.2.1.2 Định nghĩa khái niệm thích ứng
Trƣớc hết, cần phân biệt khái niệm thích ứng với khái niệm thích nghi.
Trong các khoa học nói chung hai khái niệm này nhiều khi hay đƣợc sử dụng
đồng nhất với nhau.
Trong từ điển Tiếng Việt của trung tâm từ điển ngôn ngữ (1997), thích
nghi đƣợc hiểu là: có những biến đổi nhất định cho phù hợp với hoàn cảnh
mới. Thích ứng có 2 nghĩa: 1/ Nhƣ thích nghi; 2/ là có những thay đổi cho
phù hợp với yêu cầu, điều kiện mới [17].
Trong từ điển Tiếng Việt [19], khái niệm "thích nghi" đƣợc giải thích là "có
những biến đổi nhất định cho phù hợp với hoàn cảnh mới, môi trƣờng mới", còn
"thích ứng" là "những thay đổi cho phù hợp với các điều kiện mới, yêu cầu mới.
Hoặc trong từ điển Tiếng Việt thông dụng thì khái niệm "thích nghi là quen dần,
phù hợp với điều kiện mới nhờ sự biến đổi, điều chỉnh nhất định", còn "thích ứng là
phù hợp với điều kiện mới nhờ những thay đổi, điều chỉnh nhất định" [20].
Trong từ điển Tâm lý học của Viện Tâm lý học do Vũ Dũng chủ biên,
thích nghi xã hội là: 1/ quá trình thích nghi tích cực của cá nhân với những

điều kiện của môi trƣờng xã hội mới; 2/ kết quả của quá trình trên [4].
Trong từ điển Tâm lý, thích ứng và thích nghi đƣợc dùng trong một mục,
đó là: : bƣớc đầu là điều chỉnh những phản ứng sinh lý (thích nghi với nhiệt
độ cao hay thấp, môi trƣờng khô hay ẩm), sau là thay đổi cách ứng xử, đây là
thích nghi tâm lý" [19].
"Thích nghi xã hội là khả năng một cá nhân tiếp nhận các giá trị của một xã
hội, hoà nhập đƣợc vào xã hội ấy. Không thích nghi biểu hiện qua những hành vi
"gàn dở", trái với tập tục, sống ngoài "rìa", có thể dẫn đến hành động phạm pháp"
[19].
Theo PGS.TS. Trần Thị Minh Đức, "Thích ứng là một quá trình hoà
nhập tích cực với hoàn cảnh có vấn đề, qua đó cá nhân đạt đƣợc sự trƣởng
thành về mặt tâm lý" [5].

19


Hoà nhập tích cực: là sự chủ động thay đổi bản thân và cải tạo hoàn
cảnh trong sự hài hoà nhất định. Cá nhân phát hiện vấn đề, phân tích vấn đề,
liên hệ kinh nghiệm bản thân và tìm cách thay đổi bản thân, cải tạo hoàn cảnh
cho phù hợp với bản thân.
Hoàn cảnh có vấn đề: Tình huống, sự kiện xuất hiện không nằm trong
kinh nghiệm của cá nhân có ảnh hƣởng đến cuộc sống của cá nhân, buộc cá
nhân phải huy động tiềm năng của bản thân để giải quyết chúng.
Sự trưởng thành về mặt tâm lý-xã hội: Là sự thoải mái bên trong của mỗi
cá nhân, sự phát triển hài hoà và làm chủ trong các mối quan hệ xã hội.
Trong đề tài này, thuật ngữ "thích ứng" đƣợc sử dụng nhƣ một thuật ngữ
của Tâm lý học, hiểu theo nghĩa thích nghi tâm lý - xã hội (thích ứng) mang
đặc trƣng ngƣời. Thích nghi tâm lý là sự "thích nghi bên trong", thích nghi xã
hội là sự "thích nghi bên ngoài". [5, tr.29]
Sự thích ứng tâm lý của con ngƣời hình thành thông qua hoạt động và

giao tiếp, dƣới sự tác động của các yếu tố bên trong: trình độ phát triển, lịch
sử cá thể, vốn kinh nghiệm, nhu cầu, động cơ… và những yếu tố bên ngoài:
loại hoạt động và giao tiếp, những điều kiện sống mà cá nhân tham gia. Thích
ứng là quá trình diễn ra sự điều chỉnh nội dung và phƣơng thức hoạt động và
giao tiếp của cá nhân để phù hợp với điều kiện môi trƣờng xã hội và hoạt
động mới nhằm tồn tại và phát triển.
Sự thích ứng là quá trình biến đổi trong đời sống tâm lý và hệ thống
hành vi cá nhân. Thích ứng là một cấu trúc có quan hệ biện chứng gồm 2
thành tố cơ bản: 1/ hình thành đƣợc những phƣơng thức hành vi thích hợp,
đáp ứng đƣợc yêu cầu, đòi hỏi của điều kiện sống và hoạt động mới, nhƣ là
phƣơng tiện của sự thích ứng. 2/ hình thành những cấu tạo tâm lý mới tạo nên
tính chủ thể của hành vi, ứng xử thích ứng. Nhờ nó, con ngƣời định hƣớng,
điều khiển, điều chỉnh các hành vi, ứng xử đã lĩnh hội đáp ứng, thậm chí tác
động cải biến chính môi trƣờng sống. Hai yếu tố này gắn bó chặt chẽ để tạo
nên sự thích ứng của con ngƣời, nhờ chúng mà con ngƣời điều chỉnh đƣợc hệ
thống hành vi hiện có hoặc hình thành đƣợc hệ thống hành vi mới phù hợp. Vì
vậy, mức độ phù hợp của hành vi ứng xử cá nhân với điều kiện sống và hoạt
động mới là tiêu chí khách quan để đánh giá mức độ thích ứng tâm lý. Chỉ có
thể nghiên cứu một cách khách quan mặt tâm lý của sự thích ứng thông qua
hệ thống hành vi thích ứng của cá nhân trong các tình huống nhất định của
cuộc sống và hoạt động.
20


Sự thích ứng xuất hiện do tác động của những điều kiện sống và hoạt
động mới. Với hệ thống ứng xử hiện có không đáp ứng đƣợc những yêu cầu
của điều kiện mới là động lực của quá trình này. Tuy nhiên, con ngƣời không
thụ động mà tạo ra sự thích ứng của mình với tƣ cách là chủ thể tích cực.
Sự thích ứng bắt đầu ở thời điểm con ngƣời làm quen với điều kiện sống
và hoạt động mới và kết thúc ở sự hình thành đƣợc hệ thống ứng xử phù hợp

đảm bảo cho cá nhân hoạt động và giao tiếp có hiệu quả. Vì vậy, các ứng xử
đặc trƣng phù hợp với yêu cầu, điều kiện sống mới và kết quả hành động cá
nhân là chỉ số khách quan, cơ bản để đánh giá trình độ thích ứng cá nhân. Các
ứng xử, hành vi cá nhân trong các tình huống của hoạt động và môi trƣờng
sống mới là phƣơng tiện để con ngƣời đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của
chúng. Nhờ đó, cá nhân cân bằng đƣợc quan hệ với những điều kiện sống mới.
Trình độ đáp ứng của cá nhân với tình huống thể hiện trình độ lĩnh hội phƣơng
tiện sống và hoạt động cũng nhƣ trình độ làm chủ chúng của cá nhân đó. [11]
Cơ chế thích ứng là sự lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội - lịch sử theo
nguyên tắc chuyển từ ngoài vào trong để hình thành những cấu tạo tâm lý mới
cho phép cá nhân có những hành vi, ứng xử đáp ứng đƣợc đòi hỏi của điều
kiện sống và hoạt động mới. [12]
Sự thích ứng tâm lý có vai trò rất to lớn đối với con ngƣời. Nó là điều
kiện cần thiết để đảm bảo sự cân bằng của con ngƣời với môi trƣờng xã hội,
cho sự thành công trong điều kiện sống và hoạt động mới. Mặt khác, những
ứng xử thích hợp là cơ sở và biểu hiện của những phẩm chất nhân cách mới.
Để thích ứng, cá nhân phải hình thành đƣợc những cấu tạo tâm lý mới. Vì
vậy, thích ứng nhƣ là điều kiện của sự phát triển và hoàn thiện nhân cách,
đảm bảo cho nhân cách đáp ứng đƣợc những yêu cầu của cuộc sống và hoạt
động thay đổi. Việc cá nhân không thích ứng với những đòi hỏi của điều kiện
sống và hoạt động mới sẽ làm cho anh ta hoạt động kém hiệu quả, không phát
triển tâm lý và không hoà nhập đƣợc cuộc sống xã hội. Thích ứng là là điều
kiện của việc tiếp thu hoạt động mới, phát triển tâm lý cá nhân trong điều kiện
cuộc sống thay đổi.
Tóm lại, Thích ứng, dưới góc độ tâm lý học, là một quá trình con người
luôn tích cực, chủ động hoà nhập, lĩnh hội các điều kiện, các yêu cầu, phương
thức mới của hoạt động nhằm đạt được mục đích của hoạt động đã đề ra.
Thông qua đó, chủ thể của hoạt động liên tục phát triển và hoàn thiện về mặt
nhân cách, đáp ứng được những yêu cầu của xã hội.
21



1.2.2 Khái niệm hoạt động học tập
Để làm rõ khái niệm hoạt động học tập, trƣớc hết cần tìm hiểu khái niệm
hoạt động dạy. Hai hoạt động này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
1.2.2.1 Hoạt động dạy
Hoạt động dạy là hoạt động của ngƣời lớn tổ chức và điều khiển hoạt
động của trẻ nhằm giúp chúng lĩnh hội nền văn hoá xã hội, tạo ra sự phát triển
tâm lý, hình thành nhân cách của chúng [6]
Tuy nhiên, cần phân biệt việc dạy trong cuộc sống hàng ngày với hoạt động
dạy do giáo viên thực hiện theo phƣơng thức nhà trƣờng. việc dạy trong cuộc sống
đời thƣờng (ông bà dạy cho cháu, bố mẹ dạy cho con…) mang lại cho trẻ nhiều
hiểu biết. Những hiểu biết đó mang tính chất kinh nghiệm không đủ để trẻ thích
nghi với cuộc sống ngày càng phát triển. Còn việc dạy cho trẻ những tri thƣc khoa
học, những năng lực ngƣời ở trình độ cao đƣợc xã hội giao cho ngƣời giáo viên
(những ngƣời đƣợc đào tạo để dạy với tƣ cách là một nghề), tiến hành theo
phƣơng thƣc chuyên biệt (phƣơng thức nhà trƣờng), việc dạy đƣợc Tâm lý học sƣ
phạm gọi là "Hoạt động dạy". Vì vậy, khi xem xét khái niệm hoạt động dạy,
chúng ta chỉ xem xét nó dƣới góc độ hoạt động dạy theo phƣơng thức nhà trƣờng.
Trong thực tế hiện nay, một số trƣờng đại học, cao đẳng vẫn còn dạy
học truyền thụ một chiều, tạo nên sự thụ động trong cách học của sinh viên,
không đáp ứng đƣợc mục tiêu đào tạo mà xã hội yêu cầu. Cùng với sự phát
triển của xã hội, việc dạy cũng có nhiều thay đổi. Ngoài việc giúp ngƣời học
chiếm lĩnh tri thức, việc dạy còn còn giúp ngƣời học có tự hình thành ở họ
phƣơng pháp học để có thể học suốt đời.
1.2.2.2 Hoạt động học
Học là quá trình tự giác, tích cực, tự lực chiếm lĩnh khái niệm khoa học
dƣới sự điều khiển sƣ phạm của thầy. [13,tr.65]
Học là hoạt động có đối tƣợng, trong đó ngƣời học là chủ thể, khái niệm
khoa học là đối tƣợng để chiếm lĩnh.

Học về bản chất là sự tiếp thu, xử lý thông tin chủ yếu bằng các thao tác trí
tuệ dựa vào vốn sinh học và vốn đạt đƣợc của cá nhân, từ đó có đƣợc tri thức, kỹ
năng, thái độ mới. "Bản chất của hoạt động học ở đại học là đi sâu, tìm hiểu những
môn học, những chuyên ngành khoa học cụ thể một cách chuyên sâu để nắm đƣợc
đối tƣợng, nhiệm vụ, phƣơng pháp, quy luật của các khoa học đó với mục đích trở
thành những chyên gia về các lĩnh vực nhất định". [15] Có thể nêu ra một số đặc
điểm trong hoạt động học tập của sinh viên nhƣ sau:
22


- Sinh viên học tập nhằm lĩnh hội các tri thức, hệ thống khái niệm khoa học,
những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, phát triển những phẩm chất nhân cách của
ngƣời chuyên gia tƣơng lại. Hoạt động học tập của họ vừa không thể tách rời hoạt
động nghề nghiệp, vừa gắn liền với hoạt động nghiên cứu khoa học. [15]
- Hoạt động của sinh viên diễn ra một cách có kế hoạch, có mục đích, nội
dung, chƣơng trình, phƣơng thức, phƣơng pháp đào tạo theo thời gian một
cách chặt chẽ nhƣng đồng thời không quá quá bị khép kín, mà có tính chất mở
rộng theo năng lực, sở trƣờng để họ có thể phát huy đƣợc tối đa năng lực nhận
thƣc của mình trong nhiều lĩnh vực.
- Phƣơng tiện học tập của sinh viên phong phú với các thƣ viên, phòng
đọc, phòng thực nghiệm, phòng bộ môn với những thiết bị khoa học cần thiết
cho từng ngành đào tạo.
Hoạt động học của sinh viên mang tính độc lập, tự chủ và sáng tạo cao.
Điều quan trọng là là sinh viên phải tìm ra phƣơng pháp học tập mới ở trƣờng
cao đẳng. Phƣơng pháp đó phải phù hợp với những chuyên ngành khoa học
mà họ theo đuổi. Không tìm ra đƣợc cách học khoa học, sinh viên không thể
đạt đƣợc kết quả học tập tốt vì khối lƣợng tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà họ
phải lĩnh hội là rất lớn, rất đa dạng.
1.2.3. Khái niệm sinh viên
Theo hai cuốn Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Nhƣ Ý và Từ điển

Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, sinh viên đƣợc hiểu là "Ngƣời đang học ở
bậc đại học" [17], [20]
Sinh viên có những đặc điểm sau:
- Về thể chất: Đây là giai đoạn phát triển ổn định, đồng đều về hệ xƣơng,
cơ bắp, tạo ra nét đẹp hoàn mỹ ở ngƣời thanh niên. Các tố chất về thể lực: sức
mạnh, sức bền, dẻo dai, linh hoạt đều phát triển mạnh nhờ sự phát triển ổn
định của các tuyến nội tiết cũng nhƣ sự tăng trƣởng các hoóc môn nam và nữ.
- Về nhận thức: Bản chất hoạt động nhận thức của sinh viên là đi sâu tìm
hiểu những môn học, những chuyên ngành khoa học cụ thể để nắm vững đối
tƣợng, nhiệm vụ, phƣơng pháp, quy luật của các khoa học đóvới mục đích trở
thành những chuyên gia về các lĩnh vực nhất định. Hoạt động nhận thức của
họ một mặt phải kế thừa một cách có hệ thống những thành tựu đã có, mặt
khác phải tiếp cận những thành tựu của khoa học đƣơng đại và có tính cập
nhật, thời sự. Chính vì thế mà nét đặc trƣng cho hoạt động học tập của sinh

23


viên là sự căng thẳng về trí tuệ, sự phối hợp của nhiều thao tác tƣ duy nhƣ:
phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tƣợng hoá, khái quát hoá.
1.2.4. Khái niệm thích ứng với hoạt động học tập
1.2.4.1 Thích ứng với hoạt động học tập
Hoạt động học tập là một trong những hoạt động có ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong sự hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách của mỗi cá
nhân. Hoạt động học tập có yêu cầu cao về nhiệm vụ học tập. Nhiệm vụ học
tập luôn luôn đổi mới theo chiều hƣớng ngày càng nâng cao, ngày càng phức
tạp về nội dung và hình thức. Vì vậy quá trình thích ứng với hoạt động học
tập phải diễn ra liên tục trong suốt thời kỳ học tập của con ngƣời với mức độ
ngày càng cao.
Mặt khác, sự thích ứng với hoạt động học tập phụ thuộc rất lớn vào tính chủ

động của mỗi chủ thể. Do đó, kết quả học tập và chất lƣợng học tập cao hay thấp
phụ thuộc rất nhiều vào việc ngƣời học có thực sự tích cực hay không trong học tập.
Theo Hoàng Trần Doãn, "Thích ứng học tập là một qua trình thích nghi
đặc biệt của cá nhân với điều kiện mới, là sự thâm nhập của cá nhân vào điều
kiện mới một cách thành thục. Chính trong quá trình đó, con ngƣời không thụ
động mà đƣợc bộc lộ trong quá trình hoạt động có đối tƣợng nhƣ một chủ thể
động" [3]
Nhƣ vậy, thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên đƣợc hiểu là một
quá trình ngƣời sinh viên tích cực, chủ động hoà nhập vào các điều kiện học
tập, nội dung và phƣơng pháp học tập, các mối quan hệ mới so với hoạt động
học tập ở trƣờng phổ thông nhằm hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân
cách đáp ứng những yêu cầu của xã hội.
1.2.4.2 Biểu hiện thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên
Thích ứng với hoạt động học tập đƣợc thể hiện ở nhiều khía cạnh khác
nhau. Trong đề tài này, dựa trên phân tích cơ sở lý luận về vấn đề thích ứng
và đƣa ra cách hiểu về “Thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên”.
Chúng tôi đánh giá thích ứng với hoạt động học tập của sinh viên theo các chỉ
số sau đây:
- Thích ứng với nội dung học tập (NDHT) ở trƣờng cao đẳng: sinh viên
tích cực, chủ động chiếm lĩnh nội dung kiến thức các môn học
- Thích ứng với phƣơng pháp hoc tập ở trƣờng cao đẳng: sinh viên hình
thành phƣơng pháp học tập (PPHT) phù hợp với bản thân, với việc học tập ở
trƣờng cao đẳng
24


×