Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP ngoại thương việt nam chi nhánh đăk lăk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 70 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trải qua hơn 25 năm đổi mới, hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) Việt
Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp vào quá trình đổi mới và
phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong thời kỳ quá độ. Sự an
toàn, ổn định của hệ thống các TCTD đóng vai trò quyết định đối với sự ổn định hệ
thống tài chính và là một trong những yếu tố quan trọng giúp ổn định kinh tế vĩ mô.
Trong quá trình hoạt động của mình, hệ thống các TCTD đã cung cấp một khối
lượng vốn to lớn cho nền kinh tế, giúp thúc đẩy đầu tư, tăng trưởng kinh tế nhanh,
tạo công ăn việc làm, góp phần thực hiện các chính sách xã hội của Nhà nước. Tuy
nhiên, trong những năm qua, hệ thống các TCTD đã bộc lộ nhiều yếu kém, rủi ro
cao, nhất là sau khi nền kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài
chính thế giới vào năm 2008. Hiện nay, quy mô nợ xấu tăng cao đã khiến cho tốc độ
tăng trưởng tín dụng thấp mà nguyên nhân sâu xa đó là do công tác quản trị rủi ro
tín dụng tại các ngân hàng thương mại còn nhiều bất cập, yếu kém, thiếu sự kiểm
tra, giám sát và tuân thủ chặt chẽ. Chính vì vậy, để làm rõ những nguyên nhân trên
cũng như qua đó đào sâu tìm kiếm những sáng kiến mới nhằm nâng cao năng lực
quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng, ngày càng đáp ứng được các chuẩn mực
quốc tế tôi quyết định chọn đề tài: “Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP
Ngoại Thương Việt Nam chi nhánh Đăk lăk” để làm luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Để đảm bảo chất lượng đề tài tôi chỉ tập trung xem xét những nghiên cứu
trước đây liên quan đến hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Ngoại
thương và cũng để thấy rõ được xu hướng phát triển của các nghiên cứu này, tôi lần
lượt xem xét các nghiên cứu nổi bật qua các năm như sau:
Thứ nhất, đề tài: “Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Ngoại thương
Đồng Nai trong thời kỳ hội nhập quốc tế” của Nguyễn Dương Thị Hằng Nga thực
hiện năm 2007. Đề tài này được thực hiện trước khi khủng hoảng kinh tế thế giới
xảy ra, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới




2

(WTO), lúc này nền kinh tế trong nước đang trong giai đoạn tăng trưởng cao, hoạt
động kinh doanh ngân hàng thuận lợi với mức gia tăng lợi nhuận lớn, nguy cơ xảy
ra rủi ro tín dụng ở mức độ thấp, vì vậy mà hoạt động quản trị rủi ro bị coi nhẹ chưa
có sự quan tâm và đầu tư đúng mức. Do đó, nội dung đề tài vẫn chưa nêu bật hết
được tầm quan trọng của công tác quản trị rủi ro tín dụng, các phân tích chủ yếu đi
vào những hạn chế khi triển khai mô hình quản trị rủi ro mới tại đơn vị, từ đó đưa ra
những cảnh báo mang tính chất tham khảo là chính mà chưa đánh giá được mức độ
tác động thực sự của chúng như thế nào. Hạn chế của đề tài này nằm ở chổ chủ yếu
đi vào phân tích định tính, thiếu những cơ sở khoa học để ủng hộ cho quan điểm của
mình, vì vậy tính thuyết phục không cao.
Thứ hai, đề tài: “Nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng tại chi nhánh
Ngân hàng Ngoại thương Quảng Ngãi” của Nguyễn Đào Tố thực hiện năm 2008.
Giai đoạn này, tình hình kinh doanh của hệ thống ngân hàng nói chung và ngân
hàng Ngoại thương Quảng Ngãi nói riêng gặp khó khăn, chất lượng tín dụng suy
giảm, nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng cao… vì vậy, đề tài đã tập trung đi vào phân tích
những yếu kém phát sinh trong hoạt động cho vay, chủ yếu là cho vay doanh
nghiệp, tuy nhiên giống với đề tài trước, hạn chế của đề tài này chỉ mới đưa ra
những đánh giá định tính chủ quan, chung chung từ đó đề xuất những giải pháp,
kiến nghị.
Thứ ba, đề tài: “Nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng
TMCP Ngoại thương chi nhánh Vũng Tàu” của Phan Ngọc Diệu, 2009. Nhìn chung
đề tài này về bố cục trình bày và nội dung phân tích thì tương tự như hai đề tài trên,
chỉ khác ở phạm vi nghiên cứu, chưa có ứng dụng phương pháp phân tích định
lượng trong phân tích để xác định và tìm hiểu mức độ tác động của những yếu tố
chính đến hoạt động quản trị rủi ro tín dụng nhằm tăng tính thuyết phục của đề tài.
Thứ 4, đề tài: “Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP

Ngoại thương Việt Nam chi nhánh Đăk lăk” của Nguyễn Quốc Cường, 2010.
Tương tự, hình thức và nội dung trình bày của đề tài vẫn theo mô típ cũ giống như
những đề tài trước đây mà chưa thấy được những thay đổi mang tính mới mẻ.


3

Thứ 5, đề tài “Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương
Việt Nam chi nhánh Vũng Tàu” của tác giả Nguyễn Thúy Anh thực hiện năm 2012.
Trên cơ sở kế thừa những phương pháp và các khám phá của các nghiên cứu trước,
đã kết hợp sử dụng phương pháp định tính và phương pháp định lượng trong việc
vừa xác định các nhân tố chính ảnh hưởng đến hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng vừa
đo lường mức độ quan trọng của từng nhân tố. Bài viết khá công phu, sau khi ứng
dụng mô hình định lượng Binary Logistic để phân tích, tác giả ứng dụng ngay
những kết quả phân tích đó vào tình hình thực tế quản trị rủi ro tín dụng tại
Vietcombank Vũng Tàu, từ đó đưa ra những đánh giá tỉ mĩ, sâu sắc về những thành
tựu đạt được và các hạn chế tại đơn vị. Bên cạnh đó, tác giả có đưa ra những nhận
xét về mô hình sử dụng cũng như so sánh ưu nhược điểm của nó với mô hình hiện
đang áp dụng tại Vietcombank Vũng tàu, trên cơ sở đó đề xuất những nghiên cứu
chuyên sâu hơn nữa nhằm có được một mô hình hoàn hảo nhất, có thể dễ dàng áp
dụng trong thực tế. Tuy nhiên, hạn chế của đề tài này nằm ở chỗ mẫu dữ liệu sử
dụng trong mô hình khá ít (100 mẫu) nên khi chạy mô hình các kết quả phân tích
đạt giá trị thấp, tính đại diện không cao, không thể hiện hết mức độ quan trọng của
các biến nghiên cứu.
Nhìn chung, những đề tài trên đã nêu lên tương đối sát thực tế về những vấn
đề tồn tại hiện nay tại Vietcombank, tuy nhiên, hạn chế của những nghiên cứu này
nằm ở chổ chủ yếu đi vào phân tích định tính, dựa trên quan điểm chủ quan và tình
hình thực tế tại đơn vị để đánh giá, đưa ra kết quả, nhất là những đề tài được thực
hiện từ năm 2011 trở về trước, do đó tính thuyết phục không cao. Các tác giả chỉ
mới nêu lên được những nhân tố chính ảnh hưởng nhưng không chứng minh được

chúng có thật sự quan trọng hay không, nói cách khác, mức độ tác động của nó đến
hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng như thế nào?
Chính vì vậy, trên cơ sở những khám phá của các nghiên cứu trước đây, tôi
sẽ tiếp tục đi sâu vào nghiên cứu hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
TMCP Ngoại thương Việt Nam chi nhánh Đăk lăk.


4

2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại
Vietcombank Đăklăk. Trên cơ sở các kết quả đạt được, từ đó đưa ra những giải
pháp nhằm nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại Vietcombank Đăk lăk theo
hướng ngày càng đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế về quản lý rủi ro của Basel
II.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp thu thập, tổng hợp, thống kê, phân tích và
đánh giá. Bên cạnh đó, để đảm bảo tính thực tiễn của kết quả, tôi cũng tranh thủ ý
kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực chuyên môn để đưa ra các giải pháp tối ưu
phù hợp với thực tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng tại
Vietcombank Đăk lăk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại
Vietcombank Đăk lăk trong giai đoạn từ năm 2009 đến 31/12/2013.
5. Kết cấu luận văn
Luận văn được chia thành 3 chương:
o

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN TRỊ

RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

o

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI
NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM CHI NHÁNH
ĐĂK LĂK

o

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC QUẢN TRỊ RỦI
RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT
NAM CHI NHÁNH ĐĂK LĂK


5

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO
TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Rủi ro tín dụng
1.1.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng mà khách
hàng vì lý do nội bộ hay ngoại cảnh mà mất khả năng thanh toán một phần hay toàn
bộ nghĩa vụ thanh toán không đúng hạn được quy định tại hợp đồng.
Trong hoạt động ngân hàng, rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất của
các tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực
hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết. Đây được coi là rủi ro lớn nhất và thường
xuyên xảy ra nhất, gây tổn thất và ảnh hưởng nghiêm trọng đế hiệu quả kinh doanh
ngân hàng.
1.1.2. Phân loại rủi ro tín dụng

• Phân loại theo tính chất của rủi ro tín dụng
- Rủi ro khách quan: là rủi ro xảy ra do các nguyên nhân khách quan như thiên tai,
dịch bệnh, hỏa hoạn, người vay bị chết, mất tích,… dẫn đến thất thoát vốn vay mặc
dù ngân hàng và người đi vay đã thực hiện đầy đủ các quy định về quản lý và sử
dụng khoản vay cũng như các cam kết khác trong hợp đồng tín dụng.
- Rủi ro chủ quan: là rủi ro xảy ra do lỗi của ngân hàng hoặc người đi vay có thể là
vô tình hay cố ý gây ra dẫn đến thất thoát vốn vay.
• Phân loại theo nguồn gốc hình thành rủi ro
- Rủi ro giao dịch: là rủi ro xảy ra do những hạn chế trong quá trình giao dịch, xét
duyệt cho vay cũng như khi đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch bao gồm: rủi ro
lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.
+ Rủi ro lựa chọn: là rủi ro liên quan đến việc đánh giá và phân tích tín dụng
để lựa chọn những dự án, phương án kinh doanh khả thi, có hiệu quả để ra
quyết định cho vay.


6

+ Rủi ro bảo đảm: là rủi ro phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều
khoản trong hợp đồng cho vay, loại tài sản đảm bảo, hình thức đảm bảo, mức
cho vay trên giá trị tài sản đảm bảo.
+ Rủi ro nghiệp vụ: là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay.
- Rủi ro danh mục: là rủi ro phát sinh do những hạn chế trong quan lý danh mục cho
vay của ngân hàng, bao gồm rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.
+ Rủi ro nội tại: là rủi ro xuất phát từ những yếu tố, đặc điểm riêng biệt của
mỗi chủ thể vay vốn hoặc từ ngành nghề, lĩnh vực kinh tế.
+ Rủi ro tập trung: là rủi ro xảy ra khi ngân hàng tập trung cho vay vốn quá
nhiều vào một số khách hàng, một số ngành nghề, lĩnh vực kinh tế hay giới
hạn trong một vùng địa lý nào đó. Hiện nay, rủi ro này ngày càng trở nên phổ
biến do các ngân hàng chưa có sự quan tâm phân tích, đánh giá danh mục

khách hàng hiện có, dẫn đến vô tình phát sinh rủi ro tín dụng tập trung. Bên
cạnh đó, do sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt cũng như áp lực chỉ tiêu doanh
số nên các ngân hàng chỉ mong sao cho vay được khách hàng nào là tốt
khách hàng ấy mà không có sự quan tâm phân tích trong mối tương quan với
dư nợ của ngành nghề, nhóm khách hàng hiện có.
1.1.3. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng
• Đối với ngân hàng
Khi rủi ro tín dụng xảy ra, khách hàng không trả được nợ (nợ gốc và/hoặc lãi)
dẫn đến tổn thất vốn cho vay, ngân hàng phải trích lập dự phòng để xử lý nợ xấu
làm cho lợi nhuận kinh doanh sụt giảm, thậm chí thua lỗ. Điều này ảnh hưởng đến
khả năng thanh toán các khoản tiền gửi đến hạn của dân chúng. Nếu tình trạng này
tiếp tục xảy ra sẽ dẫn đến xuất hiện những tin đồn thất thiệt, khiến dân chúng hoài
nghi, không yên tâm, lo sợ bị mất tiền, do đó sẽ gây ra hành động rút tiền hàng loạt,
đẩy ngân hàng đến bờ vực phá sản.
• Đối với nền kinh tế


7

Có thể nói hệ thống ngân hàng được coi như là huyết mạch của nền kinh tế, với
chức năng dẫn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, đảm bảo cho các hoạt động của nền
kinh tế được liên tục. Vì vậy, khi rủi ro tín dụng xảy ra, nợ xấu gia tăng, thì chức
năng dẫn vốn của ngân hàng bị gián đoạn, các doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn
để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh do thiếu vốn mà sức khỏe của doanh
nghiệp thì gắn liền với tình trạng nền kinh tế, do đó, nếu không có các biện pháp
can thiệp kịp thời thì sẽ dẫn tới các nguy cơ như rối loạn lưu thông tiền tệ trong
nước, giảm giá đồng bản tệ, đình trệ hoạt động sản xuất kinh doanh, khủng hoảng
kinh tế… Bên cạnh đó, do xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế nên sự tác động này
không chỉ giới hạn trong phạm vi một nước mà có thể còn lan rộng ra toàn thế giới
tùy thuộc quy mô và mức độ ảnh hưởng của nền kinh tế nước đó.

1.1.4. Các chỉ tiêu đánh giá rủi ro tín dụng
Trong hoạt động ngân hàng, chất lượng tín dụng được thể hiện ở sự thỏa mãn
nhu cầu vay vốn của khách hàng, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất
nước, đồng thời đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Hiện nay chất
lượng tín dụng được đánh giá trên 3 góc độ:
- Đối với NHTM: chất lượng tín dụng được thể hiện ở phạm vi, mức độ và giới hạn
tín dụng phải phù hợp với khả năng thực tế của ngân hàng, đảm bảo được tính cạnh
tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.
- Đối với khách hàng: chất lượng tín dụng được đánh giá theo tính chất phù hợp với
với mục đích sử dụng vốn với mức lãi suất và thời hạn cho vay hợp lý, bên cạnh đó
là thủ tục vay đơn giản, nhanh chóng nhưng vẫn bảo đảm các nguyên tắc tín dụng.
- Đối với nền kinh tế: chất lượng tín dụng được đánh giá qua mức độ đáp ứng vốn
phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hóa, góp phần giải quyết công ăn việc làm, khai
thác các khả năng sản xuất của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung
sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng kinh
tế.


8

Xét trên góc độ ngân hàng, chất lượng tín dụng được phản ánh qua tình hình
nợ xấu, nợ quá hạn. Vì vậy, các chỉ số thường được sử dụng để đánh giá rủi ro tín
dụng (Trần Huy Hoàng, 2011):
1.1.4.1. Tỷ lệ nợ quá hạn
Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN quy định về phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín
dụng thì nợ quá hạn (Non performing loan – NPL) là khoản nợ mà một phần hoặc
toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn. Theo như quy định hiện nay của NHNN Việt
Nam thì tỷ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng thương mại không được vượt quá 5%.
Dư nợ quá hạn

Tỷ lệ nợ quá hạn =

Tổng dư nợ cho vay

Tuy nhiên, tỷ lệ trên chỉ đề cập đến các khoản nợ đã quá hạn mà không xem xét đến
những khoản vay mà có một kỳ hạn bị quá hạn (khi đó, toàn bộ dư nợ từ kỳ hạn đó
trở về sau sẽ bị chuyển sang nợ quá hạn). Như vậy để chính xác hơn phải là:
Tổng dư nợ có nợ quá hạn
Tỷ lệ dư nợ quá hạn =

Tổng dư nợ cho vay

Để đảm bảo quản lý chặt chẽ, hiện nay các ngân hàng thương mại Việt Nam phân
loại các khoản nợ quá hạn theo thời gian như sau:
+ Nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày: Nợ cần chú ý
+ Nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày: Nợ dưới tiêu chuẩn
+ Nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày: Nợ nghi ngờ
+ Nợ quá hạn trên 360 ngày: Nợ có khả năng mất vốn


9

1.1.4.2. Tỷ lệ nợ xấu
Nợ xấu (Bad Debt): là những khoản nợ quá hạn từ 91 ngày trở lên mà không
đòi được và không được tái cơ cấu. Theo Thông tư số 13/2010/TT-NHNN về các tỷ
lệ bảo đảm an toàn thì tỷ lệ nợ xấu dưới 3% được xem là trong giới hạn an toàn.
Thông thường nợ xấu là những khoản nợ có các đặc trưng như:
• Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các
cam kết đã đến hạn.
• Tình hình tài chính khách hàng đang có chiều hướng xấu dẫn đến có

khả năng ngân hàng không thu hồi được cả vốn lẫn lãi.
• Tài sản đảm bảo được đánh giá là giá trị phát mãi không đủ trang trải
nợ gốc và lãi.
1.1.4.3. Hệ số rủi ro tín dụng
Tổng dư nợ cho vay
Hệ số rủi ro tín dụng =

Tổng tài sản có

Hệ số này cho biết tỷ trọng của khoản mục tín dụng trong tài sản có càng lớn thì lợi
nhuận sẽ càng lớn nhưng đồng thời rủi ro tín dụng cũng rất cao. Thông thường, các
ngân hàng thường chia tổng dư nợ cho vay thành ba nhóm:
• Nhóm dư nợ cho vay có chất lượng xấu: là những khoản cho vay có mức độ
rủi ro lớn nhưng có thể mang lại thu nhập cao cho ngân hàng. Nhóm này
chiếm tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng.
• Nhóm dự nợ cho vay có chất lượng tốt: là những khoản cho vay có mức độ
rủi ro thấp và mang lại thu nhập không cao cho ngân hàng. Nhóm này chiếm
tỷ trọng thấp trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng vì đặc thù ngân hàng
là một tổ chức kinh doanh vì lợi nhuận.
• Nhóm dự nợ cho vay có chất lượng trung bình: là những khoản cho vay có
mức độ rủi ro có thể chấp nhận được và thu nhập mang lại là vừa phải. Do


10

đó, nhóm này chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng dư nợ cho vay của ngân
hàng. Công thức chính xác hơn phải là:
Tổng dư nợ của các khoản cho
vay có chất lượng trung bình
Hệ số rủi ro tín dụng =

Tổng tài sản có
1.1.4.4. Tỷ lệ xoá nợ
Các khoản xoá nợ ròng
Tỷ lệ xoá nợ =

Tổng dư nợ cho vay

1.1.4.5. Tỷ lệ khả năng bù đắp rủi ro tín dụng
Dự phòng rủi ro tín dụng được trích lập
Tỷ lệ khả năng bù đắp rủi ro tín dụng =

Nợ quá hạn khó đòi

1.1.5. Nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng
Nhìn chung, trong hoạt động ngân hàng rủi ro tín dụng xuất phát từ hai
nguyên nhân chính: nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
• Nguyên nhân khách quan
- Môi trường kinh doanh không thuận lợi, nền kinh tế xảy ra suy thoái, khủng
hoảng, lạm phát tăng cao, tỷ giá hối đoái biến động bất thường, các thay đổi trong
các chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ, tình hình an ninh trong nước và thế
giới bất ổn, thiên tai, chiến tranh, dịch bệnh…
- Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, nhiều bất cập, các chính sách quy định của
phát luật về hoạt động ngân hàng thường xuyên thay đổi, thiếu tính thống nhất giữa
các luật, văn bản dưới luật, nhiều khi được ban hành dựa trên ý kiến chủ quan của
cơ quan ban hành thay vì dựa trên các căn cứ khoa học. Bên cạnh đó, bộ máy thanh
tra giám sát của NHNN còn chưa hiệu quả, năng lực của cán bộ thanh tra giám sát
chưa theo kịp sự phát triển của hệ thống ngân hàng.


11


- Hệ thống thông tin chưa cân xứng, nhiều hạn chế, thiếu chính xác. Theo kinh
nghiệm của nhiều nước và từ nhiều nghiên cứu, trừ những cú sốc bất ngờ như
khủng hoảng kinh tế, thiên tai… nguyên nhân gây ra tình trạng nợ xấu chủ yếu vẫn
là do các ngân hàng không có đầy đủ thông tin từ phía khách hàng vay mặc dù đã có
rất nhiều nỗ lực trong công tác thẩm định dẫn đến nhiều trường hợp các ngân hàng
đã để lọt những khách hàng có khả năng che đậy hành vi và thông tin của mình
trong giao dịch vay vốn để thực hiện những dự án có rủi ro cao (Huỳnh Thế Du và
đồng sự, 2005).
• Nguyên nhân chủ quan
- Từ phía ngân hàng như chính sách và quy trình cho vay lỏng lẻo, thiếu chặt chẽ,
chưa đầy đủ; tập trung nguồn vốn cho vay quá nhiều vào một doanh nghiệp hoặc
một ngành kinh tế; thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay; quá nhấn mạnh vào
mục tiêu lợi nhuận dẫn đến cho vay mạo hiểm bỏ qua những điều kiện tín dụng cần
thiết khiến cho độ rủi ro tăng lên; chất lượng và đội ngũ cán bộ liên quan đến công
tác tín dụng còn nhiều hạn chế như yếu kém về trình độ chuyên môn, không đủ khả
năng thẩm định phương án vay vốn, vi phạm đạo đức kinh doanh, không chấp hành
đúng quy trình cho vay…
- Từ phía khách hàng vay như sử dụng vốn sai mục đích, kém hiệu quả, không có
thiện chí trong việc trả nợ vay; năng lực và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của
khách hàng bị hạn chế dễn đến hoạt động kinh doanh không thuận lợi, khả năng trả
nợ kém; khách hàng cố ý lừa đảo thông qua việc gian lận về số liệu, giấy tờ, quyền
sở hữu…
1.2. Hoạt động quản trị rủi ro tín dụng
1.2.1. Tầm quan trọng của quản trị rủi ro tín dụng
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, tín dụng là hoạt động kinh doanh
mang lại lợi nhuận chủ yếu của ngân hàng nhưng cũng là nghiệp vụ tiềm ẩn rủi ro
rất lớn. Cho nên kinh doanh ngân hàng là kinh doanh rủi ro, theo đuổi lợi nhuận với
rủi ro chấp nhận được là bản chất ngân hàng. Vì vậy, công tác quản trị rủi ro tín



12

dụng đóng vai trò rất quan trọng, giúp ngân hàng nhận diện, đo lường, đánh giá,
quản lý và kiểm soát rủi ro hiệu quả, giúp ngăn ngừa và hạn chế những tổn thất, mất
mát do rủi ro tín dụng gây ra. Bên cạnh đó, quản trị rủi ro tín dụng tốt sẽ tạo điều
kiện cho ngân hàng sàn lọc được những khách hàng có năng lực tài chính vững
mạnh, phương án kinh doanh tốt,… nhằm giúp cho việc tài trợ vốn của ngân hàng
thực sự hiệu quả, đúng đối tượng và đóng góp vào sự tăng trưởng của nền kinh tế
đất nước.
1.2.2. Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng
Tính đến nay đã có nhiều nghiên cứu về đề tài quản trị rủi ro tín dụng, tuy
nhiên, những nghiên cứu này lại có những định nghĩa khác nhau về công tác quản
trị rủi ro tín dụng, chẳng hạn như:
- Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính
sách quản lý và kinh doanh tín dụng nhằm đạt được mục tiêu an toàn, hoạt động
hiệu quả, phát triển bền vững. Đó là quá trình ngân hàng tác động đến hoạt động tín
dụng thông qua bộ máy và công cụ quản lý để phòng ngừa, cảnh báo và đưa ra các
biện pháp nhằm hạn chế đến mức tối đa tổn thất khoản vay, tạo điều kiện cho việc
sử dụng tối ưu các nguồn lực của ngân hàng.
- Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình nhận dạng, phân tích nhân tố rủi ro, đo lường
mức độ rủi ro, trên cơ sở đó lựa chọn triển khai các biện pháp phòng ngừa và quản
lý các hoạt động tín dụng nhằm hạn chế và loại trừ rủi ro trong quá trình cấp tín
dụng nhằm tối đa hóa lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Chung quy lại, có thể hiểu: “Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình tiếp cận rủi
ro tín dụng một cách khoa học, toàn diện và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm
soát, phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất, mất mát, những ảnh hưởng bất lợi
của rủi ro tín dụng”. (Trần Huy Hoàng, 2010)



13

1.2.3. Nội dung quản trị rủi ro tín dụng
Quản trị rủi ro tín dụng tại ngân hàng tập trung vào 4 nội dung chính đó là: Nhận
diện rủi ro tín dụng, đo lường rủi ro tín dụng, kiểm soát rủi ro tín dụng, tài trợ rủi ro
tín dụng. Quá trình này được cụ thể hóa như sau:
• Nhận diện rủi ro tín dụng
Là quá trình xác định liên tục và có hệ thống nhằm theo dõi, xem xét, nghiên
cứu môi trường hoạt động và quy trình cho vay để thống kê các dạng rủi ro tín
dụng, xác định nguyên nhân gây ra rủi ro và dự báo được những nguyên nhân tiềm
ẩn có thể gây ra rủi ro tín dụng trong từng thời kỳ, từ đó tiến hành thực hiện các
bước tiếp theo của quy trình quản trị rủi ro tín dụng. Để nhận dạng rủi ro, nhà quản
trị phải lập được bảng liệt kê tất cả các dạng rủi ro hiện có và sẽ có trong tương lai
bằng các phương pháp: lập bảng câu hỏi nghiên cứu, phân tích các hồ sơ tín dụng,
đặc biệt quan tâm đến điều tra các hồ sơ có vấn đề. Kết quả phân tích sẽ cho ra
những dấu hiệu, nguyên nhân rủi ro tín dụng, từ đó nhằm tìm ra biện pháp hữu hiệu
nhất để phòng chống rủi ro.
• Đo lường rủi ro tín dụng
Là việc xây dựng mô hình thích hợp để lượng hóa mức độ rủi ro của khách
hàng, biết được xác xuất xảy ra rủi ro, mức độ tổn thất khi rủi ro xảy ra để xem xét
khả năng chấp nhận nó của ngân hàng, từ đó xác định phần bù rủi ro và giới hạn tín
dụng an toàn tối đa đối với một khách hàng cũng như để trích lập dự phòng rủi ro.
Hiện nay có hai mô hình đo lường rủi ro tín dụng được sử dụng phổ biến:
- Mô hình định tính:
+ Mô hình 6C (Character, Capacity, Cashflows, Collateral, Condition, Control)
+ Tiêu chuẩn 5P (Purpose, Payment, Protection, Policy, Pricing)
+ Nhóm Campari (Chracter, Ability, Margin, Purpose, Amount, Repayment,
Insurance)
- Mô hình định lượng:
+ Mô hình điểm số Z



14

+ Mô hình xếp hạng của Moody’s và Standard & Poor’s
+ Mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng
+ Mô hình cấu trúc kỳ hạn rủi ro tín dụng
• Kiểm soát rủi ro tín dụng
Là việc sử dụng các biện pháp, kỹ thuật, công cụ, chiến lược và những quá
trình nhằm biến đổi rủi ro bằng cách: né tránh, ngăn ngừa, giảm thiểu tổn thất, đa
dạng hóa sản phẩm để phân tán rủi ro,...
• Tài trợ rủi ro tín dụng
Là việc sử dụng các công cụ, kỹ thuật để tài trợ cho chi phí của rủi ro và tổn
thất của hoạt động tín dụng. Hiện nay các ngân hàng thường hay sử dụng những
cách thức sau:
- Trích lập quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp những tổn thất có thể xảy ra
- Bán nợ
- Các hợp đồng phái sinh như: trao đổi tín dụng (Credit swap), quyền trọn tín dụng
(Credit option),…
- Chứng khoán hóa các khoản vay
- Xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ
- Mua bảo hiểm

1.2.4. Hiệp ước Basel về quản trị rủi ro tín dụng
Quan điểm của Ủy ban Basel là sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng của
một quốc gia, dù quốc gia phát triển hay đang phát triển, sẽ đe dọa đến sự ổn định
về tài chính trong cả nội bộ của quốc gia đó. Vì vậy, nâng cao sức mạnh của hệ
thống tài chính là điều mà Ủy ban Basel quan tâm. Ủy ban Basel không chỉ bó hẹp
trong phạm vi các thành viên mà mở rộng mối liên kết với các chuyên gia trên toàn
cầu. Ủy ban Basel đã ban hành 17 nguyên tắc về quản lý nợ xấu mà thực chất là đưa

ra các nguyên tắc trong quản trị rủi ro tín dụng, đảm bảo tính hiệu quả và an toàn


15

trong hoạt động cấp tín dụng. Các nguyên tắc này tập trung vào các nội dung cơ bản
sau:
- Xây dựng môi trường tín dụng thích hợp (3 nguyên tắc): trong nội dung này, Ủy
ban Basel yêu cầu HĐQT phải thực hiện phê duyệt định kỳ chính sách rủi ro tín
dụng, xem xét rủi ro tín dụng và xây dựng một chiến lược xuyên suốt trong hoạt
động của ngân hàng (tỷ lệ nợ xấu, mức độ chấp nhận rủi ro…). Trên cơ sở này, ban
giám đốc có trách nhiệm thực thi các định hướng này và phát triển các chính sách,
thủ tục nhằm phát hiện, đo lường, theo dõi và kiểm tra nợ xấu trong mọi hoạt động,
ở cấp độ của từng khoản tín dụng và cả danh mục đầu tư. Các ngân hàng cần xác
định và quản lý rủi ro tín dụng trong mọi sản phẩm và hoạt động của mình, đặc biệt
là các sản phẩm mới phải có sự phê duyệt của HĐQT hoặc Ủy ban của HĐQT.
- Thực hiện cấp tín dụng lành mạnh (4 nguyên tắc): các ngân hàng cần xác định rõ
ràng các tiêu chí cấp tín dụng lành mạnh (thị trường mục tiêu, đối tượng khách
hàng, điều khoản và điều kiện cấp tín dụng…). Ngân hàng cần xây dựng các hạn
mức tín dụng cho từng loại khách hàng vay vốn và nhóm khách hàng vay vốn để tạo
ra các loại hình rủi ro tín dụng khác nhau nhưng có thể so sánh và theo dõi được
trên cơ sở xếp hạng tín dụng nội bộ đối với khách hàng trong các lĩnh vực ngành
nghề khách nhau. Ngân hàng phải có quy trình rõ ràng trong phê duyệt tín dụng, các
sửa đổi tín dụng với sự tham gia của các bộ phận tiếp thị, bộ phận phân tích tín
dụng và bộ phận phê duyệt tín dụng cũng như trách nhiệm rạch ròi của các bộ phận
tham gia; đồng thời, cần phát triển đội ngũ nhân viên quản lý rủi ro tín dụng có kinh
nghiệm, kiến thức nhằm đưa ra các nhận định thận trọng trong việc đánh giá, phê
duyệt và quản lý rủi ro tín dụng. Việc cấp tín dụng cần được thực hiện trên cơ sờ
giao dịch công bằng giữa các bên, đặc biệt, cần có sự cẩn trọng và đánh giá hợp lý
đối với các khoản tín dụng cấp cho các khách hàng có quan hệ.

- Duy trì một quá trình quản lý, đo lường và theo dõi tín dụng phù hợp (10 nguyên
tắc): các ngân hàng cần có hệ thống quản lý thường xuyên cập nhật đối với các
danh mục đầu tư có rủi ro tín dụng bao gồm cập nhật hồ sơ tín dụng, thu thập thông
tin tài chính hiện hành, dự thảo các văn bản như hợp đồng vay… theo quy mô và


16

mức độ phức tạp của ngân hàng. Đồng thời, hệ thống này phải có khả năng nắm bắt
và kiểm soát tình hình tài chính, sự tuân thủ các cam kết của khách hàng… để phát
hiện kịp thời những khoản vay có vấn đề. Ngân hàng cần có hệ thống khắc phục
sớm đối với các khoản tín dụng xấu, quản lý các khoản tín dụng có vấn đề. Các
chính sách rủi ro tín dụng của ngân hàng cần chỉ rõ cách thức quản lý các khoản tín
dụng có vấn đề. Trách nhiệm đối với các khoản tín dụng này có thể được giao cho
bộ phận tiếp thị hay bộ phận xử lý nợ hoặc kết hợp cả hai bộ phận này tùy theo quy
mô và bản chất của mỗi khoản tín dụng. Ủy ban Basel cũng khuyến khích các ngân
hàng phát triển và xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ trong quản lý rủi ro
tín dụng, giúp phân biệt các mức độ rủi ro tín dụng trong các tài sản có tiềm năng
rủi ro của ngân hàng.
1.3. Mô hình quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Hiện nay các ngân hàng Việt Nam đang áp dụng chủ yếu hai mô hình quản
trị rủi ro tín dụng: tập trung và phân tán. Các mô hình này phản ánh một cách có hệ
thống các vấn đề về cơ chế, chính sách, quy trình nghiệp vụ nhằm thiết lập các giới
hạn hoạt động an toàn và các chốt kiểm soát rủi ro; các công cụ đo lường, phát hiện
rủi ro; các hoạt động giám sát sự tuân thủ và nhận diện kịp thời các loại rủi ro mới
phát sinh và các phương án, biện pháp chủ động phòng ngừa, đối phó một khi có rủi
ro xảy ra. Theo (Nguyễn Đình Thiện, 2010) hai mô hình trên được diễn giải như
sau:
1.3.1. Mô hình quản trị rủi ro tín dụng tập trung
Mô hình này tập trung vào sự phân tách độc lập ba chức năng: chức năng

kinh doanh, chức năng quản trị rủi ro và chức năng tác nghiệp nhằm mục tiêu hàng
đầu là giảm thiểu rủi ro ở mức thấp nhất đồng thời phát huy được tối đa năng lực
chuyên môn các các cán bộ trong công tác tín dụng.
a) Điểm mạnh:
- Xây dựng chính sách quản trị rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng có tính hệ
thống trên quy mô toàn ngân hàng.


17

- Thiết lập và duy trì môi trường quản trị rủi ro tín dụng có tính đồng bộ, gắn liền
với hoạt động của các bộ phận kinh doanh, nâng cao năng lực đo lường và giám sát
rủi ro.
- Thích hợp với các ngân hàng hoạt động quy mô lớn.
b) Điểm yếu:
- Tốn nhiều thời gian, công sức và chi phí để xây dựng và triển khai mô hình.
- Yêu cầu đội ngũ cán bộ phải được trang bị các kiến thức cần thiết và biết cách áp
dụng lý thuyết vào thực tiễn.
1.3.2. Mô hình quản trị rủi ro tín dụng phân tán
Mô hình này ngược với mô hình quản trị rủi ro tín dụng tập trung, theo đó
chưa có sự tách bạch giữa ba chức năng. Bộ phận tín dụng thực hiện đầy đủ và chịu
trách nhiệm đối với mọi khâu trong quy trình tín dụng.
a) Điểm mạnh:
- Thích hợp với các ngân hàng hoạt động quy mô nhỏ, cơ cấu tổ chức đơn giản.
- Không đòi hỏi nhiều nhân sự tham gia, do đó cắt giảm được chi phí hoạt động.
b) Điểm yếu:
- Nhiều công việc được tập trung hết một nơi, thiếu sự chuyên môn nên hiệu quả
không cao.
- Quản lý theo phương thức từ xa dựa trên số liệu chi nhánh báo cáo lên hoặc quản
lý trực tiếp thông qua chính sách tín dụng nên thiếu sự sâu sát và tính khách quan.

1.3.3. Xu hướng áp dụng mô hình quản trị rủi ro tín dụng hiện nay của các
ngân hàng thương mại Việt Nam
Trong thời gian qua trên thị trường tài chính Việt Nam đã diễn ra nhiều vụ
hợp nhất, sáp nhập giữa các ngân hàng theo đề án tái cơ cấu của NHNN Việt Nam
nhằm xử lý các TCTD yếu kém, lành mạnh hóa hoạt động ngân hàng, góp phần ổn
định nền kinh tế vĩ mô. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng này đó là vấn đề nợ
xấu tăng cao đã khiến cho hoạt động ngân hàng gặp nhiều khó khăn, tăng trưởng tín


18

dụng giảm sút, các doanh nghiệp không thể tiếp cận được vốn vay, hàng loạt các sai
phạm nghiêm trọng được phát hiện trong hoạt động tín dụng. Những sai phạm này
chủ yếu đến từ các ngân hàng tư nhân có quy mô vốn nhỏ, năng lực quản trị rủi ro
yếu kém, cạnh tranh không lành mạnh. Thực trạng trên cho thấy hệ thống ngân hàng
Việt Nam rất dễ bị tổn thương, nếu không có những biện pháp cứng rắn để cải tổ bổ
máy hoạt động ngân hàng, nâng cao năng lực quản trị rủi ro, đặc biệt là quản trị rủi
ro tín dụng thì hậu quả của sự sụp đổ hệ thống ngân hàng là rất lớn.
Thực tế thời gian qua đã cho thấy khi các ngân hàng coi nhẹ hoạt động quản
trị rủi ro thì gần như không có sức đề kháng với tình hình xấu của nền kinh tế và dễ
bị đổ vỡ. Vì vậy, đứng trước xu thế hội nhập và toàn cầu hóa nền kinh tế, hơn bao
giờ hết, vấn đề đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng được đặt lên hàng đầu,
quản trị rủi ro tín dụng theo tiêu chuẩn quốc tế trở thành yêu cầu bức thiết trong bối
cảnh kinh tế thế giới hiện nay thì mô hình quản trị rủi ro tín dụng tập trung đang dần
trở thành một lựa chọn ưu tiên hàng đầu mà các ngân hàng thương mại Việt Nam
quan tâm áp dụng, cụ thể như theo (Nguyễn Đào Tố, 2008):
Trong thời gian gần đây, đã có một sự thay đổi cơ bản trong cơ cấu tổ chức
bộ máy và quy trình cấp tín dụng của một số ngân hàng Việt Nam. Giờ đây, tại một
số ngân hàng như Vietcombank, ACB…, đã không còn thấy Phòng tín dụng, là bộ
phận trước đây tiếp xúc khách hàng và tiến hành thẩm định hồ sơ vay vốn để xem

xét quyết định cho vay mà giờ đây là Phòng Quan hệ khách hàng, là đầu mối tiếp
xúc và tiếp nhận đầy đủ các yêu cầu của khách hàng để các bộ phận chức năng xem
xét phê duyệt. Những thay đổi cơ bản trong mô hình quản lý rủi ro tín dụng đang
được các ngân hàng này áp dụng đó là:
- Hoàn thiện bộ máy quản trị rủi ro tín dụng từ Hội sở chính đến các chi nhánh với
sự phân cấp rõ ràng về mức phán quyết, chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận,
đồng thời xây dựng các chính sách quản lý rủi ro tín dụng, chính sách phân bổ tín
dụng, chính sách khách hàng, xây dựng danh mục đầu tư,…
- Phân tách bộ phận tín dụng thành các bộ phận chuyên môn khác nhau như quan hệ
khách hàng (tập trung chủ yếu vào hoạt động tiếp thị, tiếp xúc khách hàng, khởi tạo


19

tín dụng), bộ phận quản lý rủi ro tín dụng (thực hiện thẩm định tín dụng và ra các ý
kiến về cấp tín dụng cũng như giám sát quá trình thực hiện các quyết định tín dụng
của bộ phận quan hệ khách hàng), bộ phận tác nghiệp (thực hiện lưu trữ hồ sơ, nhập
hệ thống máy tính và quản lý khoản vay…).

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Mục tiêu của chương này nhằm hệ thống hoá cơ sở lý thuyết về rủi ro tín dụng và
hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, tác
giả cũng nêu lên những mô hình quản trị rủi ro tín dụng hiện nay và xu hướng lựa
chọn áp dụng chúng trong tương lai của các ngân hàng Việt Nam khi mà nền kinh tế
đất nước nói chung và hệ thống ngân hàng trong nước nói riêng đang trải qua những
khó khăn, bất ổn nghiêm trọng từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vào cuối năm
2008. Chương 1 là nền tảng để tác giả tiến hành những bước phân tích, đánh giá
thực trạng hoạt động tín dụng và công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Vietcombank
Đăk lăk trong Chương 2, từ đó thấy được những thực tế tồn tại tại đơn vị làm cơ sở
quan trọng cho các bước nghiên cứu tiếp theo của tác giả.



20

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN
HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM CHI NHÁNH ĐĂK LĂK
2.1. Giới thiệu về đặc điểm, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Đăk lăk
Đắk Lắk là tỉnh nằm ở trung tâm của khu vực Tây Nguyên với điều kiện vị
trí địa lý thuận lợi để phát triển kinh tế; cụ thể phía bắc giáp tỉnh Gia Lai, qua quốc
lộ 14 sẽ đến trung tâm kinh tế Đà Nẵng và khu công nghiệp Dung Quất, khu kinh tế
mở Chu Lai (Quảng Nam, Quảng Ngãi); Phía đông giáp tỉnh Khánh Hoà là trung
tâm du lịch lớn của cả nước, đồng thời có cảng biển giao thương hàng hoá với nước
ngoài; Phía nam giáp tỉnh Đăk Nông, qua quốc lộ 14 đến các tỉnh Bình Phước, Bình
Dương và Thành phố Hồ Chí Minh, đây là trung tâm kinh tế trọng điểm của phía
Nam; Phía tây là vương quốc Campuchia thông qua cửa khẩu kinh tế Đăk Ruê.
Với điều kiện thiên nhiên ưu đãi, Đắk Lắk được biết đến như là một vùng
cao nguyên đất đỏ bazan màu mỡ rất phù hợp để phát triển các cây công nghiệp dài
ngày có giá trị kinh tế cao như: cà phê, cao su, ca cao, điều, bông vải... Hiện nay,
phát triển kinh tế chủ đạo của Đăk Lăk chủ yếu dựa vào sản xuất và xuất khẩu nông
sản, lâm sản (chiếm khoảng 60% GDP tỉnh). Ngoài ra, Đắk Lắk còn là tỉnh có tiềm
năng lớn để phát triển thủy điện với các đầm hồ lớn như hồ Lắk (huyện Lắk), sông
Sêrêpôk có trữ lượng thủy điện khoảng 2.636 triệu KW.
Với tầm nhìn đến năm 2020, các lĩnh vực dự kiến sẽ có bước phát triển đột
phá trong tương lai với những mục tiêu cụ thể như:
- Phát triển công nghiệp theo hướng tập trung đầu tư khai thác có hiệu quả tiềm
năng về thuỷ điện; khai thác lợi thế về nguồn nguyên liệu để đẩy mạnh phát triển
công nghiệp chế biến nông, lâm sản như: công nghiệp chế biến cao su, điều, cà phê,
bông vải và các loại nông sản khác, chế biến sản phẩm chăn nuôi, hàng mộc cao cấp
xuất khẩu, vật liệu xây dựng, các ngành hàng tiểu thủ công nghiệp truyền thống...
- Tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, đây là yếu tố nền tảng, tạo tiền đề

cho quá trình phát triển, là trọng điểm xuyên suốt trong quy hoạch phát triển 10 - 15
năm tới. Ưu tiên đầu tư hoàn thiện mạng lưới giao thông và hệ thống thuỷ lợi. Tiếp
tục xây dựng các mạng lưới điện, cấp nước, bưu chính viễn thông. Đầu tư cơ sở hạ


21

tầng vùng biên giới, mở cửa khẩu Đăk Ruê. Phát triển và mở rộng hệ thống đô thị,
xây dựng thành phố Buôn Ma Thuột trở thành đô thị hạt nhân và là trung tâm chính
trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục đào tạo, khoa học kỹ thuật, y tế, dịch vụ, du lịch, thể
dục thể thao của tỉnh Đăk Lăk và vùng Tây Nguyên. Phối hợp chặt chẽ với các Bộ,
ngành Trung ương trong việc tham gia tích cực vào quá trình phát triển cùng với các
địa phương, lãnh thổ trong Tam giác Việt Nam - Lào - Campuchia.
- Tạo bước chuyển biến vượt bậc trong du lịch, dịch vụ với mức tăng trưởng cao.
Tập trung đầu tư các cụm du lịch trọng điểm Buôn Ma Thuột, Buôn Đôn, hồ Lăk,…
Nâng cao năng lực và chất lượng, tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm hàng hóa,
dịch vụ. Tăng cường liên doanh liên kết với các vùng lân cận và cả nước, đặc biệt là
với TP. Hồ Chí Minh, vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Duyên Hải miền Trung
trong phát triển du lịch, dịch vụ, xuất khẩu, trao đổi hàng hóa. Phát triển nông, lâm
nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng hiện đại hoá, công nghiệp hoá, đầu tư chiều
sâu, tăng cường áp dụng khoa học công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng sản
phẩm. Hình thành các vùng trọng điểm, sản xuất tập trung cây trồng, vật nuôi chủ
lực, mũi nhọn của tỉnh. Đẩy mạnh việc giao đất giao rừng, tổ chức khuyến nông,
khuyến lâm và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ ổn định sản xuất, nâng cao
đời sống.
- Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; đào tạo tăng cường đội ngũ cán
bộ khoa học kỹ thuật, quản lý, các doanh nhân, công nhân lành nghề; xây dựng tiềm
lực khoa học công nghệ và tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất
và đời sống.
2.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh tại Vietcombank Đăk lăk từ 2009-2013

2.2.1. Về huy động vốn
Để thực hiện tốt các mục tiêu kinh doanh của mình, nhất là đảm bảo được sự chủ
động về nguồn vốn hoạt động, ngay từ đầu Ban lãnh đạo ngân hàng đã quán triệt tư
tưởng coi công tác huy động vốn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu
cần phải được chú trọng và đây cũng là cơ sở để đánh giá quy mô hoạt động, uy tín
và mức độ an toàn của Chi nhánh trong hoạt động ngân hàng. Chính vì vậy mà


22

trong suốt quá trình hoạt động, Chi nhánh luôn tích cực tìm kiếm những cách thức,
hướng đi mới nhằm khai thác triệt để các nguồn vốn nhàn rỗi trong các thành phần
kinh tế để sử dụng sao cho mang lại hiệu quả cao nhất, bằng việc kết hợp sử dụng
nhiều giải pháp đồng bộ như luôn chú trọng đổi mới và cho ra đời nhiều sản phẩm
dịch vụ tiện ích để đáp ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu từ phía khách hàng; luôn
duy trì các chính sách ưu đãi về lãi suất, phí và các chương trình quà tặng nhằm tri
ân khách hàng... Qua đó, công tác huy động vốn luôn đạt được những kết quả khả
quan, cụ thể qua Biểu đồ 2.2 bên dưới:

Nhìn vào biểu đồ 2.2 ta thấy quy mô và tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động tại
VCB Đăk lăk luôn tăng ổn định trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2013, với tốc
độ tăng trung bình khoảng 18,1%/năm. Đáng chú ý khi đạt đỉnh vào năm 2012 với
số vốn huy động được lên tới 2.165 tỷ đồng, con số này qua đó cũng phản ánh một
thực tế rằng tiền gửi vào ngân hàng vẫn được xem như là một kênh đầu tư được ưu
tiên lựa chọn trong bối cảnh kinh tế khó khăn, hoạt động đầu tư kinh doanh nhiều
rủi ro, mặc dù lãi suất huy động liên tục giảm trong thời gian qua.


23


Xét về tỷ lệ huy động vốn VND và Ngoại tệ (quy đổi VND) thì nhìn Biểu đồ
2.3 ở trên có thể thấy huy động vốn bằng VND vẫn là chủ yếu (khoảng trên 85%),
điều này có thể được giải thích là do nguồn vốn huy động chủ yếu đến từ các tổ
chức kinh tế và cư dân sống lâu năm trên địa bàn, với nhu cầu sử dụng ngoại tệ
trong các hoạt động thanh toán và chuyển tiền thấp nên họ ít có nhu cầu tích trữ
ngoại tệ.
Để rõ ràng hơn có thể nhìn vào Bảng 2.1 dưới đây về tình hình huy động vốn
từ năm 2009-2013 của VCB Đăk lăk, ta thấy rằng tiền gửi từ khu vực dân cư là
nguồn chủ lực trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng, đặc biệt vào 3 năm
gần đây khi mà quy mô nguồn vốn huy động từ dân cư luôn trên 1.000 tỷ đồng,
chiếm tỷ trọng trên 60% so với tổng nguồn huy động trên địa bàn tỉnh Đăk lăk. Xét
về tiền gửi của các tổ chức kinh tế thì đang có dấu hiệu chững lại và suy giảm, điều
này có thể giải thích do chịu ảnh hưởng bởi tình hình nền kinh tế trong nước vẫn
đang gặp rất nhiều khó khăn, hoạt động sản xuất kinh doanh đình trệ, nhu cầu tiêu
dùng thấp ảnh hưởng đến đầu ra sản phẩm, nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng


24

giải thể, phá sản... qua đó tác động không nhỏ đến tình hình huy động tiền gửi tổ
chức của VCB Đăk lăk.

Bên cạnh đó, nhìn Bảng 2.2 ở trên có thể thấy tỷ trọng nguồn vốn không kỳ
hạn suy giảm liên tục qua các năm (chủ yếu là tiền gửi không kỳ hạn của tổ chức
kinh tế); cụ thể năm 2009 là 410 tỷ đồng, tương đương 38,4%; năm 2010 giảm còn
347 tỷ đồng, tương đương 24,2%; sang năm 2011 tiếp tục giảm xuống còn 187 tỷ
đồng, tương đương 10,7%; đến năm 2012 mới tăng lên 276 tỷ đồng, tương đương
12,7%; tuy nhiên, xu hướng gia tăng này không kéo dài sang năm 2013 mà giảm
xuống còn 259 tỷ đồng, tương đương 12,4%. Trái ngược với đà suy giảm của tiền
gửi không kỳ hạn, đó là quy mô các khoảng tiền gửi có kỳ hạn (chủ yếu từ khu vực

dân cư) lại có sự tăng trưởng đột biến; điều này cho thấy tâm lý thận trọng của dân
chúng trước tình hình khó khăn hiện tại và coi ngân hàng như là một nơi đầu tư an
toàn, ít rủi ro.


25

2.2.2. Về hoạt động tín dụng
Trong khi nền kinh tế Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn với xu hướng toàn
cầu hóa diễn ra sâu rộng, cạnh tranh ngày càng gay gắt, do đó mà ngay từ đầu VCB
Đăk lăk luôn đặt ra quyết tâm tăng trưởng dư nợ một cách lành mạnh, an toàn, giảm
tỷ lệ nợ quá hạn, tuân thủ chặt chẽ những chỉ đạo trong hoạt động cho vay, nhờ đó
dư nợ cho vay của ngân hàng liên tục tăng trưởng bền vững trong vòng 5 năm trở
lại đây. Cụ thể như Bảng 2.3 bên dưới:

Có thể thấy, tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay đang chậm lại với mức sụt
giảm ngày càng lớn đặc biệt trong 2 năm trở lại đây khi chỉ đạt hơn 2%. Điều này
một phần cho thấy bức tranh ảm đạm về tình hình kinh tế trong nước nói chung và
tỉnh Đăk lăk nói riêng đang gặp rất nhiều khó khăn khi mà quy mô hoạt động kinh
tế đang thu hẹp lại, số lượng các doanh nghiệp phá sản ngày càng tăng, hoạt động
sản xuất kinh doanh đình trệ, thất nghiệp gia tăng, nhu cầu tiêu dùng thấp, hàng tồn
kho tăng cao,... Bên cạnh đó, nó cũng cho thấy những bước đi thận trọng của ngân
hàng trong hoạt động cho vay, giảm dần dư nợ, chú trọng vào chất lượng tín dụng
nhằm đảm bảo mục tiêu an toàn, hiệu quả.
2.2.3. Về hoạt động cung cấp dịch vụ
• Kinh doanh ngoại tệ
Theo dõi diễn biến tỷ giá hối đoái trong 5 năm trở lại đây có thể thấy xu
hướng biến động tỷ giá đã dần đi vào ổn định cùng với những định hướng điều hành
rõ ràng của NHNN làm cho các NHTM thuận lợi hơn trong việc thực chiến lược
kinh doanh ngoại tệ của mình. Nhìn chung, hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại VCB

Đăk lăk trong những năm qua vẫn duy trì được sự ổn định do luôn chủ động bám


×