Tải bản đầy đủ (.doc) (159 trang)

Luận văn thạc sĩ báo chí học,. chuyên ngành báo chí học Khai thác và xử lý thông tin của phóng viên thời sự truyền hình các tỉnh bắc sông hậu hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 159 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

KHAI THÁC VÀ XỬ LÝ THƠNG TIN
CỦA PHĨNG VIÊN THỜI SỰ TRUYỀN HÌNH
CÁC TỈNH BẮC SƠNG HẬU HIỆN NAY
(Khảo sát đài PT-TH Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, từ tháng 6 - 12/2014)
Ngành

: Báo chí học

Mã số: 60 32 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS.

CẦN THƠ - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu
của riêng tơi. Các số liệu trong luận văn là trung thực và
chưa từng được công bố trong bất cứ cơng trình nghiên
cứu nào.
Tác giả



MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN KHAI THÁC VÀ
XỬ LÝ THƠNG TIN CỦA PHĨNG VIÊN THỜI SỰ
TRUYỀN HÌNH

1.1. Một số khái niệm
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu

10
24

Chương 2: THỰC TRẠNG VIỆC KHAI THÁC VÀ XỬ LÝ THÔNG TIN
CỦA PHĨNG VIÊN THỜI SỰ TRUYỀN HÌNH CÁC TỈNH
BẮC SƠNG HẬU

2.1. Khái quát về các Đài Phát thanh - Truyền hình khu vực Đồng
bằng sâu Cửu Long
2.2. Thực trạng việc khai thác và xử lý thơng tin của phóng viên thời
sự truyền hình các tỉnh Bắc sơng Hậu
2.3. Đánh giá về chất lượng hiệu quả khai thác và xử lý thông tin của
phóng viên thời sự truyền hình
2.4. Những hạn chế trong việc khai thác và xử lý thông tin của phóng
viên thời sự truyền hình
2.5. Đánh giá hiệu quả thơng tin từ khán giả, đảng bộ, chính quyền

địa phương và người trong cuộc
2.6. Nhận xét chung

36
42
58
64
70
82

Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHAI THÁC VÀ
XỬ LÝ THÔNG TIN CỦA PHĨNG VIÊN THỜI SỰ
TRUYỀN HÌNH

3.1. u cầu cải tiến nâng cao chất lượng khai thác và xử lý thông tin
của phóng viên thời sự truyền hình
3.2. Những giải pháp cải tiến nâng cao hiệu quả khai thác và xử lý
thông tin của phóng viên thời sự truyền hình
3.3. Một số đề xuất, kiến nghị

93
109

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

112
115

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


89


CTTS

:

Chương trình thời sự

ĐBSCL

:

Đồng bằng sơng Cửu Long

Nxb

:

Nhà xuất bản

PT-TH

:

Phát thanh - Truyền hình

THVL1


:

Truyền hình Vĩnh Long 1

THVL2

:

Truyền hình Vĩnh Long 2

VTV

:

Truyền hình Việt Nam


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1:

Tổng hợp tin bài thời sự do phóng viên các đài Phát
thanh - Truyền hình trong cụm bắc sông Hậu sản xuất

Bảng 2.2:

(6 tháng cuối năm 2014)
Tổng hợp nguồn khai thác thơng tin của phóng viên

43


các đài PT-TH trong cụm bắc sông Hậu (Số liệu 6
44

Bảng 2.3:

tháng cuối năm 2014)
Tổng hợp mức độ xem chương trình thời sự của khán

72

Bảng 2.4:

giả truyền hình
Tổng hợp nhận xét của khán giả về chất lượng hình

73

Bảng 3.1:

ảnh các đài PT-TH Vĩnh Long, Đồng Tháp, Trà Vinh
Tổng hợp ý kiến khán giả xem chương trình thời sự
các đài PT-TH Vĩnh Long, Đồng Tháp, Trà Vinh

92

Biểu đồ 3.1:

Rating bình quân 6 tháng cuối năm 2014, thị trường
91


Biểu đồ 3.2:

Cần Thơ
Thị phần khán giả 6 tháng cuối năm 2014, thị trường
Cần Thơ

91


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chương trình thời sự là chương trình quan trọng hàng đầu của các đài
Phát thanh-Truyền hình (PT-TH). Hàng ngày, đài Truyền hình Việt Nam
(VTV) có 15 bản tin và chương trình thời sự. Các đài PT-TH địa phương có
từ 3 - 5 bản tin, chương trình thời sự mỗi ngày. Với đặc thù là được cập nhật
hằng ngày, thông tin phong phú trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội…, nên bản tin, chương trình thời sự có vai trị rất quan trọng trong
nhiệm vụ tuyên truyền. Không chỉ phản ánh kịp thời các sự kiện thời sự,
thông tin thời sự cịn thể hiện tính định hướng chính trị, tư tưởng rõ nét, đóng
vai trị quan trọng trong việc tun truyền đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy, chương trình thời sự có thu hút được
khán giả hay không, phần lớn lệ thuộc vào việc khai thác và xử lý thơng tin
của phóng viên.
Trong xu thế bùng nổ các phương tiện truyền thông, sự cạnh tranh khốc
liệt giữa các đài truyền hình trong nước và khu vực, đồng bằng sông Cửu
Long là khu vực mà loại hình báo chí truyền hình phát triển khá mạnh so các
vùng trong cả nước. Tồn vùng có 13 tỉnh, 1 thành phố trực thuộc Trung
ương, với tổng diện tích đất tự nhiên chưa đầy 40.000km2, nhưng có đến 14

đài truyền hình, bao gồm: Trung tâm truyền hình Việt Nam tại Cần Thơ
(VTV Cần Thơ), 13 đài PT-TH địa phương. Chính vì vậy, sự cạnh tranh để
thu hút khán giả giữa các đài luôn diễn ra quyết liệt. Điều này, đặt ra cho các
đài PT-TH địa phương là phải không ngừng đổi mới nâng cao chất lượng nội
dung thông tin, tạo sự hấp dẫn đối với công chúng - đây là yêu cầu bức thiết
để tồn tại và phát triển. Đồng thời góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
chính trị của các đài PT-TH địa phương hiện nay.
Mặc dù thời gian qua, các đài PT-TH địa phương có nhiều nỗ lực trong
việc cải tiến việc khai thác và xử lý thông tin để nâng cao chất lượng và hiệu


2
quả các bản tin và chương trình thời sự. Tuy nhiên, quy trình sản xuất cũng
như quá trình sáng tạo tác phẩm báo chí của đội ngũ phóng viên ít được đổi
mới, thường rơi vào lối mịn, khơ cứng. Đã đến lúc cần phải có một cái nhìn
mới từ lãnh đạo đến những người trực tiếp sản xuất để thay đổi cách thức khai
thác và xử lý thông tin, tạo sự hấp dẫn đối với công chúng.
Các đài PT-TH hiện nay đang gặp một thực tế là trong cơ cấu bản tin
thời sự hằng ngày, lượng tin lễ tân, hội nghị, tin theo yêu cầu lãnh đạo chiếm
số lượng khá nhiều trong chương trình thời sự. Mặt khác, cách khai thác và
xử lý thông tin lễ tân, thông tin hội nghị của phóng viên chưa có nhiều đổi
mới, sáng tạo. Thông tin chủ yếu được chuyển tải tới khán giả trên nền các
hình ảnh hội nghị, lời bình trích từ báo cáo, nên người xem khó tiếp thu. Đây
là nguyên nhân làm cho bản tin kém hấp dẫn cần phải có sự đổi mới cách làm
tin để nâng cao chất lượng chương trình.
Là người trực tiếp phụ trách chương trình thời sự của Đài PT-TH Vĩnh
Long, tác giả mong muốn qua việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng việc khai
thác và xử lý thơng tin của phóng viên thời sự truyền hình, làm rõ những hạn
chế, đồng thời đề xuất những biện pháp nâng cao chất lượng khai thác và xử
thơng tin của phóng viên thời sự truyền hình là điều rất cần thiết, có ý nghĩa

cả về lý luận và thực tiễn. Qua đó, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
tuyên truyền, thúc đẩy tiến trình phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Đó là
lý do mà tác giả chọn đề tài “Khai thác và xử lý thơng tin của phóng viên
thời sự truyền hình các tỉnh Bắc sơng Hậu hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho tới nay, tại Việt Nam, có một số sách, giáo trình, cơng trình nghiên
cứu về chương trình truyền hình, chương trình thời sự truyền hình hoặc có nội
dung liên quan đến chương trình thời sự truyền hình. Tiêu biểu như:
Báo chí truyền hình (tập 1, 2) của G.V. Cudơnhetxốp, X.L. Xvich, A.la.
Iurốpxki (Nxb Thông tấn-2014). Sách đi sâu giới thiệu vị trí, chức năng của


3
truyền hình trong xã hội, vị trí của truyền hình trong hệ thống các phương tiện
thông tin đại chúng, bản chất của truyền hình hiện đại, các phương tiện xây
dựng kịch bản truyền hình và những định hướng triển vọng của truyền hình
trong thời đại bùng nổ thơng tin. Cũng trong nội dung cuốn sách này, nhóm
tác giả cịn giới thiệu về các thể loại báo chí truyền hình, các nghiệp vụ nhà
báo trong truyền hình, các phương pháp nghiên cứu xã hội học về khán giả
truyền hình..v..v.
Sản xuất chương trình truyền hình của Trần Bảo Khánh, nhà xuất bản
Văn hóa Thơng tin 2003. Sách đi sâu vào nghiên cứu về quy trình sản xuất
một chương trình truyền hình.
Giáo trình báo chí truyền hình của Dương Xn Sơn, nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nơi - 2009. Giáo trình tập trung trình bày các vấn đề của báo chí
truyền hình như: vị trí, vai trị, lịch sử ra đời phát triển của truyền hình; khái
niệm, đặc trưng, nguyên lý của truyền hình; kịch bản và kịch bản truyền hình;
quy trình sản xuất chương trình truyền hình, các thể loại báo chí truyền hình…
Truyền thơng đại chúng của Tạ Ngọc Tấn, nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia - 2001. Sách cung cấp những kiến thức cơ bản, hệ thống về các phương

tiện truyền thông đại chúng hiện đại, các nguyên tắc, phương pháp chính
nhằm quản lý, điều hành, phát huy tốt vai trị, sức mạnh của các loại hình,
phương tiện truyền thông đại chúng trong công cuộc xây dựng đất nước.
Lao động nhà báo lý thuyết và kỹ năng cơ bản của Lê Thị Nhã, nhà xuất
bản Chính trị - Hành chính, Hà Nội 2010. Sách cung cấp những kiến thức lý
luận về đặc thù nghề nghiệp, phẩm chất năng lực của nhà báo, phóng viên
trong lao động và sáng tạo tác phẩm, những kỹ năng cơ bản về phương pháp
thu thập thơng tin, tư liệu và quy trình sáng tạo tác phẩm báo chí.
Tổ chức sản xuất chương trình thời sự truyền hình ở Đài Phát thanh Truyền hình Đồng Tháp, Luận văn Thạc sĩ của Dương Thị Thanh Thủy- 2005.
Luận văn tập trung nghiên cứu và đánh giá về tổ chức sản xuất chương trình


4
thời sự truyền hình của Đài Phát thanh - Truyền hình Đồng Tháp. Từ đó tìm
ra những ngun nhân làm hạn chế năng lực sản xuất, hạn chế chất lượng hiệu
quả chương trình thời sự địa phương.
Nâng cao chất lượng tin của chương trình thời sự truyền hình - Đài phát
thanh truyền - Truyền hình Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ của Hoàng Hồng Hạnh
- 2013. Luận văn tập trung khảo sát, đánh giá thực trạng chất lượng tin của
chương trình thời sự của Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Nội, từ đó đề xuất
các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng chương trình thời sự 18g30 và một
số chương trình, bản tin khác của Đài.
Nâng cao chất lượng chương trình thời sự truyền hình của Đài Phát
thanh - Truyền hình Hà Tĩnh, luận văn thạc sĩ của tác giả Hồ Nam Trung 2012. Luận văn nghiên cứu và đánh giá một cách toàn diện, thấu đáo về thực
trạng chất lượng chương trình thời sự của Đài Phát thanh - Truyền hình Hà
Tĩnh, từ đó rút ra những giải pháp đổi mới nâng cao chất lượng chương trình
thời sự.
Nâng cao chất lượng chương trình thời sự của Đài Truyền hình Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thu Hiền đề cập đến thực trạng và
giải pháp cải tiến và nâng cao chất lượng chương trình thời sự 19 giờ nói

riêng và hệ thống bản tin, chương trình thời sự nói chung của Đài Truyền hình
Việt Nam.
Những cuốn sách, giáo trình, cơng trình nghiên cứu trên đề cập những
vấn đề về lý luận báo chí truyền hình, về cách thức tổ chức sản xuất chương
trình thời sự truyền hình, những kỹ năng cơ bản về phương pháp thu thập
thông tin, tư liệu và quy trình sáng tạo tác phẩm báo chí của phóng viên, về
cách làm tin, phóng sự truyền hình; về chương trình thời sự của đài truyền
hình trung ương và địa phương. Có thể nói, cho đến nay chưa có cơng trình
khoa học nào nghiên cứu về khai thác và xử lý thơng tin của phóng viên thời
sự truyền hình các tỉnh Bắc sơng Hậu. Luận văn này là cơng trình nghiên cứu,


5
đánh giá một cách toàn diện và thấu đáo về thực trạng khai thác và xử lý
thơng tin của phóng viên thời sự truyền hình các tỉnh Bắc Sơng Hậu thuộc
khu vực ĐBSCL. Qua đó, nhằm đánh giá hiệu quả hoạt động của phóng viên
thời sự truyền hình trong khu vực, tìm ra nguyên nhân hạn chế, đề xuất những
giải pháp để nâng cao chất lượng thông tin trong chương trình thời sự.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, đề tài “Khai thác và xử lý thơng tin
của phóng viên thời sự truyền hình các tỉnh Bắc sơng Hậu hiện nay” cho đến
lúc này vẫn có ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn. Ở đây, nếu có kế thừa
những thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học, các anh chị đồng nghiệp đi
trước, thì đó cũng chẳng qua là một số cơ sở lý luận và kinh nghiệm nghiên
cứu giúp tác giả thực hiện đề tài.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là để thấy rõ ưu điểm, khuyết điểm, trong việc khai
thác và xử lý thông tin của phóng viên thời sự truyền hình các đài PT-TH
trong cụm Bắc sơng Hậu. Từ đó, tác giả đề xuất những giải pháp để nâng cao
chất lượng khai thác và xử lý thơng tin của phóng viên thời sự truyền hình,

góp phần nâng cao chất lượng chương trình thời sự truyền hình của đài PTTH địa phương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên tác giả thực hiện những nhiệm vụ cơ bản
sau: Nghiên cứu một số khía cạnh của lý luận Báo chí đặc biệt là Báo chí
truyền hình, những u cầu của nhiệm vụ công tác tư tưởng của Đảng, nhu
cầu của thực tế cuộc sống, cũng như tâm lý tiếp nhận các chương trình truyền
hình của người dân. Qua đó, nhằm xác định những yêu cầu, đặc trưng cơ bản
của thông tin thời sự, lấy đó làm tiêu chí đánh giá chất lượng bản tin, chương
trình thời sự do các đài PT-TH địa phương sản xuất, cụ thể:


6
- Giải quyết các khái niệm công cụ liên quan đến đề tài nghiên cứu gồm:
Truyền hình, chương trình truyền hình, thời sự, chương trình thời sự, chương
trình thời sự truyền hình, Thơng tin, khai thác và xử lý thơng tin, tin truyền
hình, phóng sự truyền hình, Phóng sự thời sự, Nhà báo, Phóng viên, lao động
nhà báo, lao động sáng tạo tác phẩm.
- Khảo sát hệ thống bản tin, chương trình thời sự truyền hình các đài PTTH trong cụm Bắc sông Hậu gồm: Vĩnh Long, Đồng Tháp, Trà Vinh.
- Phân tích quy trình tác nghiệp của phóng viên để thấy rõ những ưu
điểm, khuyết điểm trong việc khai thác và xử lý thông tin.
- Khảo sát hoạt động hàng ngày của phóng viên thời sự các đài PT-TH, là
những người trực tiếp sáng tạo tác phẩm, nhằm thấy được những khó khăn,
thuận lợi, những ưu điểm, hạn chế của đội ngũ phóng viên thời sự truyền hình
hiện nay.
- Luận văn còn tiến hành thăm dò theo phương pháp điều tra xã hội học,
thu thập ý kiến của khán giả, của đại diện cấp ủy, chính quyền địa phương về
chương trình thời sự của các đài PT-TH, để thấy rõ hiệu quả đạt được và
những mặt hạn chế trong khai thác và xử lý thơng tin của phóng viên thơng
qua chương trình thời sự.
- Từ những nội dung trên, tác giả đề xuất những giải pháp, khuyến nghị

nhằm nâng cao hiệu quả khai thác và xử lý thông tin của phóng viên thời sự
truyền hình, góp phần nâng cao chất lượng chương trình thời sự các Đài PTTH trong cụm Bắc sơng Hậu nói riêng, khu vực ĐBSCL nói chung.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tác giả luận văn tập trung nghiên cứu về cách khai thác và xử lý thông
tin của phóng viên thời sự truyền hình.
4.2. Đối tượng khảo sát


7
Luận văn khảo sát chương trình thời sự truyền hình do các Đài PT-TH
Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp sản xuất.
4.3. Phạm vi khảo sát
Phạm vi khảo sát của luận văn là chương trình thời sự truyền hình phát
vào buổi tối của các Đài PT-TH các tỉnh trong cụm Bắc sông hậu gồm (Vĩnh
Long, Trà Vinh, Đồng Tháp). Thời gian khảo sát 6 tháng cuối năm 2014.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở nhận thức luận những vấn đề lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về Báo chí;
Cơ sở lý luận trực tiếp của luận văn là những vấn đề lý thuyết – thực tiễn
về kỹ năng lao động của nhà báo, chủ yếu là kỹ năng thu thập và xử lý thông
tin thời sự truyền hình của phóng viên1. .
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ
thể như: Phương pháp khảo sát, thống kế; Phương pháp nghiên cứu phân tích
tài liệu, phương pháp trao đổi, phương pháp so sánh đối chiếu, từ đó để có cái
nhìn đa chiều, tồn diện và đầy đủ, khách quan hơn trong quá trình đánh giá
thực trạng chất lượng khai thác và xử lý thông tin của phóng viên thời sự

truyền hình các đài PT-TH cụm bắc sông Hậu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu nhằm mục đích có được những nền
tảng lý thuyết, số liệu về các vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu, từ đó so
sánh đối chiếu vào hoạt động thực tiễn.
- Phương pháp khảo sát thống kê để hệ thống các chương trình thời sự,
các bản tin thời sự, số lượng tin tức bài vở trong thời gian thực hiện khảo sát.
1

Xem thêm cuốn Lao động nhà báo – lý thuyết và kỹ năng cơ bản của TS Lê Thị Nhã, Nxb Lý luận chính trị;
H. 2011.


8
Ngồi ra, tác giả cịn thực hiện các phương pháp điều tra xã hội học (lập bảng
hỏi), Phương pháp phỏng vấn sâu để phân tích đánh giá vấn đề một cách
khách quan, sát với thực tiễn.
6. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
Đây là một trong những luận văn lần đầu tiên nghiên cứu vừa tổng thể,
toàn diện, vừa chi tiết về nâng cao chất lượng khai thác và xử lý thơng tin của
phóng viên thời sự truyền hình các đài PT-TH cụm Bắc sơng Hậu. Đề tài đi
sâu phân tích, làm rõ những ưu khuyết điểm, để từ đó đề ra được những
hướng khắc phục một cách hiệu quả, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
tuyên truyền của chương trình thời sự nói riêng, chương trình truyền hình của
các đài PT-TH cụm Bắc sơng Hậu nói chung.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn nhằm khẳng định vai trò quan trọng của việc khai thác và xử
lý thơng tin của phóng viên trong chương trình thời sự truyền hình đối với các
đài PT-TH trong khu vực và đối với đời sống xã hội. Mặt khác, thông qua
luận văn này, hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm phần lý thuyết về việc

khai thác và xử lý thơng tin của phóng viên thời sự truyền hình - một hoạt
động có vai trị rất quan trọng trong tun truyền của báo chí nói chung, các
đài PT-TH địa phương nói riêng.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ kết quả nghiên cứu, khảo sát, đánh giá chất lượng việc khai thác và
xử lý thơng tin của phóng viên thời sự truyền hình các đài PT-TH trong khu
vực, luận văn đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm cải tiến và nâng cao
chất lượng thông tin trong các bản tin, chương trình thời sự, góp phần phục vụ
có hiệu quả sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền các địa phương,
nâng cao uy tín của đài, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thông tin của
công chúng.


9
Đề tài cũng hy vọng góp một phần nhỏ trong việc khảo sát thực tiễn, tìm
ra những căn cứ có tính khoa học giúp định hướng cho việc đánh giá, cũng
như tổ chức sản xuất chương trình thời sự truyền hình tại các đài PT-TH địa
phương theo hướng chuyên nghiệp hơn.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn có
kết cấu gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về khai thác và xử lý thơng tin
của phóng viên thời sự truyền hình
- Chương 2: Thực trạng việc khai thác và xử lý thông tin của phóng viên
thời sự truyền hình các đài cụm bắc sông Hậu
- Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác và xử lý thơng tin của
phóng viên thời sự truyền hình.


10

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN KHAI THÁC
VÀ XỬ LÝ THƠNG TIN CỦA PHĨNG VIÊN THỜI SỰ TRUYỀN HÌNH
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Khái niệm Chương trình Thời sự truyền hình
- Khái niệm Chương trình thời sự
Theo “Từ điển tiếng Việt” của Trung tâm từ điển học, Nhà xuất bản Đà
Nẵng - 1998: “Thời sự là tổng thể nói chung những sự việc ít nhiều quan
trọng trong một lĩnh vực nào đó, thường là xã hội - chính trị, xảy ra trong thời
gian gần nhất và đang được nhiều người quan tâm” [46, tr.923].
Theo các tác giả G.V. Cudơnhetxốp, X.L. Xvich, A.la. Iurốpxki trong
cuốn Báo chí truyền hình: “Chương trình thời sự” đơn giản giống như một
bản tin trên báo, thơng báo các sự việc, hơn nữa, đó là những sự việc được
phân tích, khái quát…Trên thực tế, chủ đề của bản tin là không giới hạn: nông
nghiệp, nghệ thuật, kinh doanh, sáng chế, các sự kiện trong đời sống quốc
tế…” [4, tr.83-84].
Như vậy có thể hiểu, “chương trình thời sự” là chương trình chuyển tải
một cách nhanh chóng, kịp thời những thơng tin về các sự kiện, vấn đề đang
được nhiều người quan tâm.
- Khái niệm Chương trình thời sự truyền hình
Dựa trên nghiên cứu thực tiễn, tác giả quan niệm chương trình thời sự
truyền hình như sau: “Chương trình thời sự truyền hình là một chương
trình truyền hình được phát sóng định kỳ; có thời lượng ổn định; được kết
cấu bởi các thể loại: tin, phóng sự, phỏng vấn, tường thuật trực tiếp…;
thông tin, phản ánh, phân tích, nhận định kịp thời về những sự kiện, vấn đề
được nhiều người quan tâm, mới xảy ra, đang xảy ra và sắp xảy ra ở trong
nước và nước ngoài.


11

Như vậy có thể thấy, chương trình thời sự là chương trình chuyển tải các
sự kiện một cách nhanh nhạy, kịp thời, đáp ứng yêu cầu của công chúng.
Cũng giống như những thể loại tác phẩm truyền hình khác, bản tin đã đến với
truyền hình từ lĩnh vực báo in và phát thanh. Những thuật ngữ này đã không
trụ vững trong truyền hình. Thay vì câu thuật ngữ “Bản tin” người ta quen gọi
một cách đơn giản “Chương trình thời sự”. Tuy nhiên, nói đến vấn đề này
chúng ta cần tìm hiểu thêm một khía cạnh khác đó là giữa bản tin và chương
trình thời sự có gì khác nhau?
Theo nhóm các tác giả G.V. Cudơnhetxốp, X.L.Xvích, A.la. Iurốpxki
trong cuốn Báo chí truyền hình quan niệm về bản tin thời sự như sau:
Nhiều khi người ta còn gọi bản tin thời sự là bản tin ngắn. Bản tin
thời sự là sự ghi lại những sự kiện lịch sử theo trình tự thời gian.
Trong báo chí, thể loại thời sự là thông tin ngắn về sự việc. Vậy nên
bản tin ngắn và bản tin thời sự trở nên đồng nghĩa. Trong truyền
hình, thể loại ấy gồm bản tin được phát bằng lời và bản tin ngắn
bằng hình ảnh…đối với những người làm truyền hình thì họ thường
sử dụng tên gọi “ bản tin” (khi nói đến mọi tin tức thời sự, kể cả bản
tin được phát bằng lời) [4, tr.21-22].
Trên thực tiễn, ở các Đài PT-TH hiện nay có sự phân biệt nhất định giữa
“ bản tin thời sự” và “chương trình thời sự”. So với chương trình thời sự, thì
bản tin thời sự có thời lượng ngắn hơn, được kết cấu chủ yếu bằng các tin
ngắn và phóng sự ngắn. Trong khi đó, chương trình thời sự của Đài PT-TH
Vĩnh Long, Đồng Tháp, Trà Vinh được kết cấu bởi nhiều thể loại: tin (tin
ngắn, tin sâu, tin tường thuật); phóng sự (phóng sự sự kiện, phóng sự vấn đề,
phóng sự điều tra…với thời lượng từ 3 - 5 phút); Nếu như các bản tin thời sự
chủ yếu thông tin, phản ánh nhanh về các sự kiện, vấn đề mới, thì chương
trình thời sự ngồi việc kịp thời thơng tin, cịn phân tích, bình luận về các sự
kiện, vấn đề đó.



12
Với những khái niệm và phân tích trên, dựa vào thực tiễn hoạt động báo
chí truyền hình, theo tác giả, Chương trình thời sự truyền hình: Là một
chương trình được phát sóng định kỳ, có thời lượng ổn định, trong đó cập
nhật, chuyển tải các thơng tin về sự kiện, hiện tượng trong cuộc sống xã hội
một cách nhanh chóng, kịp thời đến công chúng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
tuyên truyền, và nhu cầu thông tin của công chúng. Một chương trình thời sự
truyền hình được kết cấu, xây dựng bởi các thể loại: Tin, phóng sự, ghi
nhanh, phỏng vấn....
Hiện nay, mỗi ngày trên sóng truyền hình quốc gia, cũng như truyền hình
các địa phương, các chương trình thời sự, các bản tin thời sự ngày càng được
sắp xếp, bố trí nhiều hơn, phát vào những thời điểm khá hợp lý nhằm đáp ứng
nhu cầu thông tin của công chúng.
1.1.2 Khái niệm nhà báo
Theo cuốn “Cơ sở lý luận báo chí” của tác giả Nguyễn Văn Dững viết:
Nhà báo là thuật ngữ với nhiều cách hiểu khác nhau, trong các từ điển cũng
như trong thực tiễn đời sống nghề nghiệp, tùy theo chức năng, nhiệm vụ và vị
trí cơng việc cụ thể. Theo tác giả, Nhà báo – journalist theo từ điển Merriam
Webster’s Online Dictionary: thứ nhất, người tham gia vào hoạt động báo chí,
đặc biệt là người viết hoặc biên tập của một loại hình báo chí: là người quản
lý một tờ báo, tạp chí…; thứ hai là, người làm nghề viết báo, thu thập, xử lý
và cung cấp thông tin về các sự kiện, các khuynh hướng, các vấn đề ….hiện
tại. Hoặc nhà báo là người viết hoặc biên tập tin tức cho một tờ báo hoặc tạp
chí, hoặc đài phát thanh, đài truyền hình; là người làm việc trong lĩnh vực báo
chí, người quản lý một tờ báo, tạp chí.
Trên bình diện tác nghiệp, nhà báo được hiểu là người tham gia vào quá
trình thu thập, xử lý và truyền tải thông tin cho công chúng xã hội. Trong từ
điển tiếng việt, nhà báo được hiểu một cách ngắn gọn và đơn giản là “người
chuyên làm nghề viết báo”. Tuy nhiên, nếu định nghĩa như vậy là chưa thỏa



13
đáng, vì cịn nhiều nhà báo khơng chun nghiệp khác nữa và họ có những
đóng góp khơng nhỏ vào sự nghiệp báo chí, được cấp thẻ nhà báo; đặc biệt là
những chuyên gia, nhà khoa học chuyên giữ chuyên mục nào đó, hoặc phản
biện xã hội….
Như vậy, theo tác giả Nguyễn Văn Dững, nhà báo có thể được hiểu là
người tham gia thực hiện một trong các loại hình lao động báo chí của q
trình thu thập, xử lý và chuyển tải thơng tin cho cơng chúng xã hội; đó là lao
động tổ chức – quản lý, lao động động biên tập, lao động tác giả, lao động kỹ
thuật – dịch vụ trong báo chí. Nhà báo là chủ thể trực tiếp hoạt động báo chí
chịu trách nhiệm trước pháp luật và dư luận xã hội về những thông tin mà họ
cung cấp cho công chúng xã hội trên cả hai bình diện pháp lý và đạo đức. [ 7,
tr 299 – 301 ]
Còn theo cuốn “Lao động nhà báo - lý thuyết và kỹ năng cơ bản” của tác
giả Lê Thị Nhã viết: Trong cuốn Đại từ điển tiếng Việt của tác giả Nguyễn
Như Ý: “Nhà báo là người viết báo chuyên nghiệp”. Còn trong cuốn sách
“Thuật ngữ báo chí - truyền thơng”, Nhà báo (Journalist) được xem là “người
làm việc sáng tạo, có tính độc lập tương đối, được biên chế trong một cơ
quan, tổ chức truyền thông nào đó với tư cách là phóng viên chuyên nghiệp
hoặc biên tập viên”.
Theo định nghĩa pháp lý ở Pháp: Nhà báo chuyên nghiệp là người làm
báo thường xuyên, có ăn lương làm việc cho một hoặc nhiều tờ báo hay hãng
thơng tấn, có thu nhập chính từ nghề báo, được cấp thẻ nhà báo. Ở nước ta,
theo chức danh được nhà nước quy định: Nhà báo là người có quốc Việt Nam,
có địa chỉ thường trú tại Việt Nam; có đủ tiêu chuẩn chính trị, đạo đức nghề
nghiệp báo chí do nhà nước quy định, đang hoạt động hoặc công tác thường
xuyên với một cơ quan báo chí Việt Nam và được cấp thẻ nhà báo.
Như vậy, khái niệm nhà báo dùng để chỉ những người hoạt động nghiệp
vụ có tính thường xuyên, chuyên nghiệp trong cơ quan báo chí. Tuy nhiên,



14
theo nghĩa rộng, nhà báo có thể bao gồm những người tham gia hoạt động báo
chí (có hoặc khơng có hợp đồng biên chế). Trong thời đại Internet, trào lưu
báo chí cơng dân phát triển mạnh mẽ. Trên thế giới nhiều tờ báo khuyến
khích sự cộng tác của các nhà báo tự do, những người dân thường đã thu được
thành công và danh tiếng. [ 31, tr 11-12].
1.1.3. Khái niệm phóng viên
Theo Cuốn “Lao động nhà báo - Lý thuyết và kỹ năng cơ bản” tác giả Lê
Thị Nhã viết: Phóng viên là người chuyên đi lấy tin để viết bài công bố trên
đài, báo. Xét theo chức năng, nhiệm vụ lao động nghề nghiệp, “phóng viên là
bộ phận trí thức chuyên nghiệp làm nhiệm vụ phản ánh đời sống thực tiễn,
một cách đa đạng, sinh động, kịp thời và thường xuyên đổi mới; Từ đó, thu
nhận, lựa chọn, đại chúng hóa một cách thích hợp những thơng tin về đời
sống thực tiễn; nhằm phục vụ các yêu cầu, mục tiêu tuyên truyền đã định
trước; bảo đảm thực hiện kế hoạch chung, thống nhất của tồn bộ hệ thống
cơng tác tư tưởng, văn hóa của Đảng, Nhà nước ta.” Cịn theo chức danh
được nhà nước quy định, “Phóng viên là công chức chuyên môn nghiệp vụ
trong các cơ quan báo chí, thực hiện viết, chụp ảnh, quay phim, các loại hình
báo chí”. Như vậy có thể hiểu, “phóng viên là một lực lượng chun mơn,
quan trọng trong tịa soạn, có nhiệm vụ thu thập thông tin để sáng tạo ra các
tác phẩm báo chí” [31, tr 57-58].
* Vai trị của phóng viên trong cơ quan báo chí
Phóng viên là lực lượng trung tâm của tịa soạn báo chí. Họ thường chiếm
số đơng trong tịa soạn. Phóng viên là những chủ thể sáng tạo tích cực, sản xuất
ra những sản phẩm đầu tiên trong guồng máy báo chí. Những tin, bài, bắt đầu từ
sự sáng tạo của phóng viên, chính là nguyên liệu cho một số bộ phận khác hoạt
động. Có tin, bài thì bộ phận biên tập, thư ký, kỹ thuật, mới hoạt động theo.
“Trong toàn bộ hoạt động báo chí, mọi cái điều bắt đầu từ cơng việc của phóng

viên. Một biên tập viên giỏi đến mấy khơng có tin bài của phóng viên thì cũng


15
chỉ cịn nước ngồi uống trà mà đợi”. Nói như thế để thấy rõ vai trị của phóng
viên trong hoạt động ở cơ quan báo chí. Họ chính là mũi nhọn, là chủ công của
tờ báo” [31, tr.60].
* Các dạng phóng viên:
Phóng viên là cơng chức chun mơn nghiệp vụ trong cơ quan báo chí.
Ngồi việc phân loại phóng viên theo chức danh được pháp luật quy định
như: Phóng viên, phóng viên chính, phóng viên cao cấp, hoặc phân loại theo
địa bàn cư trú có phóng viên thường trú, phóng viên đặc biệt, cịn có thể phân
loại phóng viên theo các tiêu chí khác sau đây:
Theo loại hình truyền thơng đại chúng: ta có phóng viên báo in, phóng
viên truyền hình, phóng viên phát thanh, phóng viên ảnh. Theo khu vực đảm
nhiệm của cơ quan báo chí có phóng viên báo (đài) trung ương, Phóng viên
báo(đài) địa phương, phóng viên báo ngành. Theo chun mơn hóa đề tài có
phóng viên nơng nghiệp, phóng viên văn hóa- xã hội, phóng viên thể thao,
phóng viên kinh tế. Theo phạm vi nội dung thơng tin, ta có phóng viên đối
nội, phóng viên đối ngoại. [31, tr 62-73]
* Lao động nhà báo
Khác với văn học, hội họa, âm nhạc, sản phẩm báo chí khơng phải là
mỗi tác phẩm riêng lẻ của từng cá nhân, mà là trọn vẹn cả tờ báo, tạp chí hay
chương trình phát thanh, truyền hình. Trong quá trình làm ra sản phẩm báo
chí, mỗi cá nhân là một mắt xích trong dây chuyền sản xuất. Theo Baljac,
“trong tòa soạn báo chí, có những nhà báo viết và nhà báo khơng viết. Những
nhà báo này, những nhà biên tập là những người kéo xe, những người kia,
những người chủ là những người kinh doanh, họ kiếm lúa mạch cho súc vật
kéo xe ăn và giữ gìn vốn”.
Như vậy có thể hiểu, lao động nhà báo nói chung, là tồn bộ q trình hoạt

động nghiệp vụ của các nhà báo trong quy trình sản xuất ra sản phẩm báo chí


16
hồn chỉnh (tờ báo, tạp chí, chương trình phát thanh, truyền hình, website). [ 31,
tr 12-13]
* Lao động sáng tạo tác phẩm
Theo cuốn “Lao động nhà báo - Lý thuyết và kỹ năng cơ bản” của tác
giả Lê Thị Nhã: Sáng tạo tác phẩm là lao động trung tâm, nòng cốt trong
hoạt động báo chí. Lực lượng quan trọng đảm nhận cơng việc này là đội
ngũ phóng viên. Lao động của họ là tìm kiếm chủ đề, thu thập và xử lý
thơng tin, tư liệu để hình thành nên các tác phẩm báo chí. Bên cạnh phóng
viên có lực lượng không kém phần quan trọng sáng tạo nên tác phẩm báo
chí đó là cộng tác viên [31, tr.16].
1.1.4. Khái niệm về Thơng tin
Tác giả Đồn Phan Tân - Trường Đại học Văn hóa Hà Nội có bài viết về
khái niệm thơng tin và các thuộc tính làm nên giá trị của thông tin. Theo tác
giả, “Thông tin” (Information) là khái niệm cơ bản của khoa học cũng là khái
niệm trung tâm của xã hội trong thời đại chúng ta. Mọi quan hệ, mọi hoạt
động của con người đều dựa trên một hình thức giao lưu thơng tin nào đó.
Vậy thơng tin là gì? Có rất nhiều cách hiểu về thơng tin. Thậm chí các từ
điển cũng khơng thể có một định nghĩa thống nhất. Ví dụ: Từ điển Oxford
English Dictionary thì cho rằng thơng tin là " điều mà người ta đánh giá hoặc
nói đến; là tri thức, tin tức". Từ điển khác thì đơn giản đồng nhất thơng tin với
kiến thức:"Thông tin là điều mà người ta biết" hoặc "thông tin là sự chuyển
giao tri thức làm tăng thêm sự hiểu biết của con người" v,v...Nguyên nhân của
sự khác nhau trong việc sử dụng thuật ngữ này chính là do thơng tin khơng
thể sờ mó được. Người ta bắt gặp thơng tin chỉ trong q trình hoạt động,
thơng qua tác động trừu tượng của nó.
Cịn xét theo nghĩa thơng thường: "Thông tin" là tất cả các sự việc, sự

kiện, ý tưởng, phán đoán làm tăng thêm sự hiểu biết của con người. Thơng
tin hình thành trong q trình giao tiếp: một nguời có thể nhận thơng tin


17
trực tiếp từ người khác thông qua các phương tiên thông tin đại chúng, từ
các ngân hàng dữ liệu, hoặc từ tất cả các hiện tượng quan sát được trong
môi trường xung quanh. Cịn trên quan điểm triết học: Thơng tin là sự phản
ánh của tự nhiên và xã hội (thế giới vật chất) bằng ngơn từ, ký hiệu, hình
ảnh v.v...hay nói rộng hơn bằng tất cả các phương tiện tác động lên giác
quan của con người.
Trên cơ sở những khái niệm chung về thông tin, trong cuốn Cơ sở lý
luận Báo chí của PGS.TS Nguyễn Văn Dững đã nêu những đặc điểm cơ bản
của thơng tin Báo chí đó là: Thơng tin Báo chí có tính thời sự, tính cơng khai,
tính mục đích, tính định kỳ đều đặn, tính phóng phú đa dạng, nhiều chiều, tính
dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo và tính tương tác. Tất cả là những đặc điểm của
thơng tin báo chí mà những loại thơng tin khác khơng thể có được [7, tr.6667].
1.1.5 Một số khái niệm liên quan đến việc khai thác và xử lý thông tin
Liên hệ thực tiễn trong hoạt động tác nghiệp của phóng viên, việc khai
thác và xử lý thơng tin của phóng viên là một quy trình sáng tạo ra tác phẩm
báo chí (từ đầu vào đến đầu ra).
Theo cuốn “Thể loại tin báo chí” của tác giả Đinh Thị Thu Hằng, nhà
xuất bản Thông tin và Truyền thông, hoạt động khai thác tin là hoạt động thu
thập tin từ các nguồn khác nhau, từ đó, biên tập và sử dụng trong các chương
trình phát thanh, truyền hình. Nguồn nhân lực thực hiện tin tức của các đài
phát thanh truyền hình chủ yếu là đội ngũ phóng viên. Hoạt động khai thác
thơng tin của phóng viên hiện nay được thực hiện từ nhiều nguồn khác nhau:
Từ các cuộc hội nghị, từ báo chí, Internet…v..v Tuy nhiên, hoạt động khai
thác thông tin đang được các Đài Phát thanh truyền hình khuyến khích phóng
viên thực hiện đó là khai thác thông tin từ thực tiễn cuộc sống, từ cơ sở trong q

trình đi cơng tác. Đây là hoạt động có thể sử dụng thuật ngữ nước ngồi để thể
hiện đó là hoạt động “săn tin” của phóng viên. Thuật ngữ này trước đây được sử


18
dụng nhiều trong nghiệp vụ làm tin của nhà báo. Từ này được dùng với ý nghĩa
là nhà báo sử dụng các thủ thuật, kỹ năng nghiệp vụ của chính mình để tìm ra sự
kiện có ý nghĩa đối với đời sống, được người dân quan tâm và thực hiện tin. Đây
là một hoạt động nghiệp vụ quan trọng đối với phóng viên nói riêng, các cơ quan
báo chí nói chung vì thơng qua hoạt động này, mang lại những tin tức độc đáo,
mang tính phát hiện, khám phá, mang dấu ấn của riêng, qua đó khẳng định vai
trị, năng lực đưa tin của mỗi phóng viên, của mỗi cơ quan báo đài trong hệ
thống các cơ quan báo chí. Dĩ nhiên, việc khai thác, sử dụng tin trên các loại
hình phương tiện thơng tin đại chúng là một nhu cầu và cũng là yêu cầu tất
yếu đối với mỗi cơ quan báo chí để có được tin tức đầy đủ và nhanh chóng.
[20, tr.122-123].
Theo cuốn Cơ sở lý luận báo chí của tác giả Nguyễn Văn Dững, q
trình khai thác thơng tin của phóng viên là một trong những nội dung của quy
trình lao động của nhà báo. Để khai thác tốt nguồn tin, người phóng viên
trước hết phải nắm bắt tình hình thực tiễn đang vận động. Đây là công việc
hằng ngày, thường xuyên của nhà báo. Làm tốt việc này, có thể giúp nhà báo
nhanh chóng phát hiện đề tài, chủ đề cho bài viết cũng như phán đoán được
năng lực và mối quan hệ tác động của sự kiện, vấn đề thơng tin. Nhìn tổng
thể, việc nghiên cứu và nắm bắt tình hình thực tiễn, giúp nhà báo có thể hiểu
được những yêu cầu từ “ bên trên ” ( yêu cầu của quyền lực chính trị), và nhu
cầu từ “ bên dưới ” ( nhu cầu của công chúng và dư luận xã hội), từ đó có thể
thiết lập mơ hình thơng tin hiệu quả nhất. Việc nắm bắt tình hình, nắm được
mạch đi nhịp thở của cuộc sống, sẽ giúp nhà báo sớm “ ngửi ” được những gì
đang, sắp diễn ra, đang cựa quậy trong “ võ trứng ”, để săn chờ. [ 7, tr. 282 ]
Trong khai thác thông tin, một trong những cơng việc có ý nghĩa hết sức

quan trọng quyết định đến chất lượng và hiệu quả thơng tin đó là khâu phát
hiện chủ đề, đề tài – săn tin.
* Khái niệm đề tài, chủ đề


19
Theo tác giả Nguyễn Văn Dững trong cuốn “Cơ sở lý luận báo chí ”,
Chủ đề có thể nói một cách ngắn gọn là ý đồ, ý định, ý tưởng của tác giả
muốn chuyển tải đến công chúng thông qua tác phẩm của mình. Như vậy, chủ
đề thuộc về chủ quan, nhưng không phải là chủ quan thuần túy mà là kết quả
nhận thức những vấn đề của thực tiễn cuộc sống.
Về khái niệm đề tài, có thể được hiểu theo hai nghĩa rộng và hẹp. Với
nghĩa rộng, đề tài được dùng để chỉ lĩnh vực đề tài, lĩnh vực cuộc sống xã hội,
như đề tài nông ngiệp nông thôn, đề tài kinh tế, đề tài văn hóa xã hội....Với
nghĩa hẹp, đề tài là phạm vi cuộc sống được phản ánh trong tác phẩm. Đó có
thể là một nét, một khía cạnh trong đời sống của con người, của một nhóm xã
hội.. trên địa bàn cụ thể nào đó. [ 7, tr.83]
Theo tác giả Lê Thị Nhã trong cuốn “Lao động nhà báo – lý thuyết và kỹ
năng cơ bản”, đề tài là phạm vi đời sống hiện thực được phản ánh vào các tác
phẩm báo chí. Đề tài có thể hiểu theo nghĩa rộng và hẹp. Với nghĩa rộng, đề tài
tương ứng với các lĩnh vực hoạt động trong đời sống hiện thực như đề tài quốc
tế, kinh tế, văn hóa- xã hội, an ninh quốc phịng, khoa học kỹ thuật. Với nghĩa
hẹp, đề tài cũng chính là sự kiện hay vấn đề mà nhà báo hướng tới, nhận thức và
phản ánh vào tác phẩm.
Về khái niệm chủ đề, theo tác giả Lê Thị Nhã, chủ đề tác phẩm báo chí là
nội dung chủ yếu người viết đặt ra trong tác phẩm. Nói cách khác, chủ đề là
điều tác giả muốn nói lên trên cơ sở đề tài đã được xác định. Chủ đề bài viết
thường thể hiện rõ góc độ xử lý thơng tin của người viết. Chủ đề là linh hồn
xuyên suốt trong tác phẩm báo chí. [ 31, tr 135-136 ]
Một đề tài (theo nghĩa rộng) có thể triển khai được nhiều chủ đề (theo

nghĩa hẹp). Xác định đề tài là xác định bước đi đầu tiên, rất quan trọng trong
quá trình khai thác và xử lý thơng tin, hay nói một cách khác là q trình hình
thành tác phẩm báo chí. Đây là bước tạo lập ý tưởng, xác định góc cạnh tiếp


20
cận, xử lý của phóng viên trước một sự kiện, vấn đề cụ thể. Phát hiện đề tài
đúng, trúng, hay, là điều kiện tiên quyết làm nên một tác phẩm báo chí có
chất lượng tốt. Có thể nói, phát hiện đề tài là khâu thể hiện rõ nhất năng lực
sáng tạo của phóng viên.
Khái niệm “săn tin ” là một khái niệm và phương thức hoạt động đã được
báo chí phương tây sử dụng phổ biến từ lâu. Bản thân thuật ngữ “săn tin” địi
hỏi nhà báo ln chủ động săn, tìm tin nóng, nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận thức
thời sự của cơng chúng. Thực tế cho thấy, có rất nhiều kiểu săn tin, cũng như
cách phát hiện đề tài. Nhưng dù kiểu cách nào, bí quyết nào, thì cũng địi hỏi nhà
báo cần có kiến thức, am hiểu và bám sát cuộc sống, thấu hiểu công chúng và dư
luận xã hội cũng như hiểu rõ yêu cầu đang đặt ra đối với cơng tác chính trị - tư
tưởng. Nhà báo muốn săn tin thành cơng, có thể cần chú ý mấy vấn đề sau đây :
Thứ nhất, nhà báo phải thơng hiểu tình hình đang diễn ra, những vấn đề
đang cần câu giải thích, giải đáp. Điều quan trọng là cần hiểu được cơng chúng
mình đang cần gì và cái gì cần thiết cho họ. Thứ hai là biết thiết lập và duy trì và
phát triển các mối quan hệ công việc để bất kỳ trường hợp nào và lúc nào cũng
có thể cậy nhờ các chuyên gia, các mối quan hệ. Nhà báo không tạo lập được
quan hệ, không tạo được niềm tin từ các mối quan hệ ấy, nhà báo sẽ khó săn tin
thành cơng. Thứ ba là nhà báo phải thơng thạo tiếng nước ngồi, đồng thời rèn
luyện năng lực xử lý tình huống, ln tạo thế chủ động trong tiếp cận nguồn tin
và khai thác dữ liệu thông tin nhất là đối với các vấn đề phức tạp, nhạy cảm, các
sự kiện quốc tế. [ 7, 282 – 289]
Trong khai thác thông tin, sau khi đã xác định được chủ đề, đề tài, một
trong những cơng việc quan trọng trong quy trình xử lý thơng tin đó là nhà

báo phải tiếp cận nguồn tin, thu thập tư liệu – thông tin. Vậy tư liệu là gì ?
* Khái niệm về tư liệu


×