Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Bài giảng can thiệp sớm cho trẻ khuyết tật phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (872.96 KB, 36 trang )

Chương 4
TỔ CHỨC CÔNG TÁC CAN THIỆP SỚM CHO TRẺ KHUYẾT TẬT
1. Thời điểm bắt đầu can thiệp sớm cho trẻ khuyết tật
CTS chủ yếu tập trung vào hai nhóm trẻ : từ 0 đến 3 tuổi và từ 3 đến 6 tuổi, nhưng
không dừng lại ở 6 tuổi mà còn có thể kéo dài tới khi trẻ vào trường phổ thông nếu điều
này là cần thiết và có lợi cho trẻ.
Giai đoạn 0-3 tuổi
Đối với trẻ lứa tuổi này công tác CTS chủ yếu tập trung vào vai trò của cha mẹ trẻ.
Các chuyên gia CTS là người tư vấn và hướng dẫn phụ huynh cách giáo dục và hỗ trợ con
mình. Nếu trẻ đến nhà trẻ trong giai đoạn này thì các cô bảo mẫu cũng nhận được tư vấn và
hướng dẫn từ các chuyên gia CTS. Tất nhiên mọi hoạt động CTS ở đây đều dựa trên 5 giai
đoạn cơ bản của quá trình CTS nói chung như đã trình bày ở trên.
Giai đoạn 3-6 tuổi
ở giai đoạn này trẻ là trung tâm của CTS. Chuyên gia CTS không chỉ hướng dẫn, tư
vấn cho cha mẹ của trẻ mà còn cho cả giáo viên dạy trẻ trong các lớp mẫu giáo. ở đây vai
trò của giáo viên, cha mẹ trẻ và chuyên gia CTS là như nhau.
Đây là giai đoạn rất quan trọng đối với trẻ, vì nếu công tác CTS và giáo dục trước
tuổi học cho trẻ được thực hiện tốt thì trẻ sẽ có nhiều thuận lợi và cơ hội để vào trường tiểu
học.
Giai đoạn 6 tuổi trở lên
Dịch vụ CTS ở những hình thức và mức độ khác nhau vẫn có thể duy trì đối với trẻ
trên 6 tuổi nếu điều đó là cần thiết và thực sự mang lại lợi ích cho sự tiến bộ của trẻ trong
quá trình học tập ở trường. Gia đình trẻ, giáo viên và các nhà chuyên môn đều có thể đặt ra
vấn đề này và cùng bàn bạc giải quyết.
2. Đối tượng của can thiệp sớm cho trẻ khuyết tật
Trong chương trình CTS cho TKT thì đối tượng nhằm vào TKT, người thường
xuyên chăm sóc trẻ và các thành viên trong gia đình.
2.1.Cách tiếp cận lấy trẻ làm trung tâm
Kiểm tra các nghiên cứu về sự CTS, theo dõi cac chương trình và các cuộc đối
thoại với những người can thiệp cũng như các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng các chương trình
tập trung vào trẻ em khuyết tật được phát triển từ một số quan điểm xã hội học trên diện


rộng và các giả thuyết. Có hai giả thuyết đã tạo ra nền tảng cơ bản cho sự phát triển của
chương trình CTS tập trung vào trẻ: (1) Những vấn đề về gen và sinh học có thể được giải
quyết hoặc đơn giản hoá; (2) Những kinh nghiệm đầu đời là rất quan trọng đối với quá
trình phát triển của trẻ. Nếu không tin rằng có thể giải quyết hoặc ít nhất làm giảm bớt tình
trạng khuyết tật thì không nên nói về chương trình CTS nữa. Hơn nữa, cần phải hiểu rõ tầm
quan trọng của sự phát triển trong những năm đầu của đứa trẻ.
Hai giả thuyết tạo nền tảng cơ bản cho các chương trình CTS phục vụ cho việc phát sinh
các lí thuyết có liên quan tới việc xây dựng chiến lược chương trình. Sự kết hợp này biểu
hiện ý kiến về các nhu cầu và lợi ích ma trẻ thu được từ quá trình tiến triển theo tiền đề
chung cho rằng: các kinh nghiệm đầu đời là rất quan trọng và những sắp đặt của môi

- 18 -


trường sống có thể bù đắp hoặc giảm bớt những trục trặc về sinh học. Nhu cầu cần có một
cấu trúc đúng đắn sẽ tạo nền tảng cho bước phát triển cao hơn của chương trình. Một cấu
trúc đúng đắn chỉ ra rằng những học thuyết về phát triển được những người can thiệp đã
qua đào tạo áp dụng một cách hệ thống để có thể thay đổi hành động.
Các chương trình tập trung vào trẻ không bỏ qua nhu cầu của gia đình.
2.2.Cách tiếp cận tập trung vào người chăm sóc
Những cách tiếp cận tập trung vào người chăm sóc là những cach tiếp cận tập trung
chủ yếu vào việc cung cấp dịch vụ cho các bậc cha mẹ. Trong nhóm này có hai loại
chương trình riêng biệt. Loại đầu tiên cố gắng tạo ra một mối quan hệ về trị liệu y tế với
cha mẹ trẻ, thường là với người mẹ nhằm tạo ra những thay đổi về tâm lý động. VD:
Những thay đổi trong quan niệm của người mẹ về bản thân hoặc thay đổi trong cách nhìn
nhận và đánh giá đứa trẻ của chính người mẹ. Trong cách tiếp cận này, người ta cho rằng
một khi những thay đổi tâm lý va tinh cảm được tạo ra thì những tương tác của người mẹ
và mối quan hệ của người mẹ với trẻ sẽ tự động trở nên tích cực. Cách tiếp cận thứ hại có
thể không tập trung nhìều như vậy vào mối quan hệ mang tính liệu pháp, nhưng các nhà
khoa học tin rằng việc giứp củng cố về mặt cảm xúc và hướng dẫn những người chăm sóc

sẽ có tác dụng tốt đối với trẻ sơ sinh.
Nhóm các chương trình CTS hướng vào người chăm sóc trẻ tập trung chủ yếu vào
việc đào tạo những chiến lược tương tác giữa người chăm sóc và trẻ em, đặc biệt là tương
tác bằng ngôn ngữ. Cách tiếp cận này mong muốn thay đổi hay củng cố những hành vi của
những người chăm sóc khi họ chăm sóc trẻ sơ sinh hay trẻ nhỏ của họ trong môi trương
hàng ngày. Cách tiếp cận này không yêu cầu cha mẹ của trẻ phải được đào tạo nhưng họ
phải biết cách đáp ứng những tín hiệu tự phát trong hành động của trẻ sơ sinh.
Rõ ràng là việc lựa chọn các hệ thống để cung cấp hay nhận các dịch vụ là một quá
trình phức tạp đòi hỏi sự hợp tác cẩn thận giữa các bậc phụ huynh và các nhà chuyên môn.
Các nhà chuyên môn càng thấu hiểu nhu cầu của trẻ và gia đình bao nhiêu thì khả năng họ
để ra biện pháp thích hợp càng lớn bấy nhiêu.
Nhìn chung tuỳ từng giai đoạn phát triển của trẻ mà tập trung định hướng vào trẻ
hay gia đình. Nhìn chung giai đoạn từ 0-3 tưổi thì mục tiêu đối tượng của CTS là hướng
dẫn cha mẹ hoặc người thường xuyên chăm sóc trẻ gần gũi trẻ nhất, ví dụ như bà, chị lớn
trong gia đình hay cô giúp việc. Giai đoạn từ 3-6 tuổi khi trẻ đã đến lớp mẫu giáo thì mục
tiêu đối tượng của CTS là tập trung vào trẻ, bên cạnh đó việc đào tạo bồi dưỡng giáo viên
cũng cần được tính đến.
3. Môi trường thực hiện can thiệp sớm
Các phụ huynh thường quan tâm nhiều nhất đến các vấn đề: ai là trọng tâm của
dịch vụ? Dịch vụ đó được cung cấp tại đâu? Ai là người cung cấp dịch vụ và mức độ cung
cấp dịch vụ cho trẻ trong môi trường trẻ bình thường xung quanh. Các chuyên gia cần phải
đưa ra phương án cung cấp dịch vụ thích hợp nhất với từng đứa trẻ. Đôi khi những dịch vụ
này được cung cấp tại nhà của một người họ hàng hoặc người nhận trông trẻ.
Các chương trình tại nhà được xác định theo nhu cầu cá nhân của từng đứa trẻ và
gia đình. Những người cung cấp dịch vụ có khả năng đánh giá những ưu tiên và những
nguồn nhân lực của gia đình. Những người đến chăm sóc tại nhà bao gồm các chuyên gia
thuộc các tỏ chức khác nhau trong cộng đồng.Với trẻ sơ sinh, các dịch vụ can thiệp sớm có
thể được cung cấp bởi một y tá về y tế cộng đồng - người có trách nhiệm giải quyết các
vấn đề có liên quan đến chăm sóc sức khoẻ.
Những dịch vụ can thiệp sớm cần phải được cung cấp trong các môi trường tự

nhiên bao gồm nhà và những môi trường cộng đồng đa dạng khác. Để cho trẻ và gia đình
có được sự lựa chọn thích hợp nhất, ngày nay các cộng đồng đang phát triển các hình thức
“ thực đơn dịch vụ”. Đối với những trẻ sơ sinh và những trẻ có khuyết tật nặng thì các dịch
vụ tại nhà dường như là thoải mái và tốt hơn cả vì đó là môi trường gần gũi nhất đối với
trẻ. Những vấn đề phụ huynh gặp phải tại nhà có thể được giải quyết ngay. Và những
người can thiệp có thể thấy ngay là liệu một số kích thích đưa ra có giúp gì cho trẻ không

- 19 -


và lời khuyên cho gia đình có phù hợp cho họ không. Cũng như với mọi trẻ em, đối với trẻ
khuyết tật, gia đình là môi trường lý tưởng nhất để trẻ có thể phát triển tự nhiên. Tuy nhiên
nếu chỉ có lòng thương yêu, lòng nhiệt tình và sự kiên nhẫn thôi thì vẫn chưa đủ, cha mẹ
trẻ cần được cung cấp thêm các kiến thức và các kĩ năng liên quan tới khuyết tật của trẻ,
những hiểu biết về quá trình hình thành ngôn ngữ của trẻ nhỏ, một số kĩ năng kích thích và
khuyến khích sự phát triển của trẻ nhỏ… Vì vậy, giáo viên và các chuyên gia sẽ phối hợp
với nhau để hỗ trợ phụ huynh tại nhà, tại bệnh viện và tại trung tâm, tuỳ theo mục đích của
từng buổi gặp.Thông thường, khi trẻ trước 3 tuổi thì gia đình là môi trường chính, khi cần
thiết thì trẻ và cha mẹ tới trung tâm để nhận những can thiệp hay chỉ dẫn chuyên môn của
bác sĩ, chuyên gia trị liệu ngôn ngữ, gv, nhà tâm lý, nhà giáo dục v.v… Khi trẻ bước vào
học hoà nhập ở trường mẫu giáo thì môi trường chính của trẻ lúc này là ở trường. Tuy
nhiên, trẻ cần sự hỗ trợ của nhiều dịch vụ can thiệp sớm khác.
Bản thân môi trường không thể quyết định được hiệu quả của chương trình can
thiệp sớm. Do có sự đa dạng về các loại hình chương trình nên rất khó so sánh hiệu quả
tương đối của chương trình giáo dục tại gia đình và chương trình giáo dục tại trung tâm.
4. Người thực hiện can thiệp sớm
Để chương trình can thiệp sớm cho trẻ khuyết tật có hiệu quả, những người thực
hiện chương trình can thiệp sớm cần có những kĩ năng, sự thành thạo về chuyên môn và
kinh nghiệm. Làm việc theo phương thức cộng tác nhóm là một mô hình sử dụng rất có
hiệu quả trong lĩnh vực giáo dụccho trẻ khuyết tật, đặc biệt là trong công tác can thiệp sớm.

Nhóm cộng tác làm việc bao gồm: Cha mẹ, giáo viên , nhóm chuyên gia thuộc các lĩnh vực
khác nhau( gv chuyên ngành, nhà xã hội học, bác sĩ nhi khoa, nhà tâm lý giáo dục, chuyên
gia chỉnh âm, chuyên gia vật lý trị liệu, bác sĩ tai mũi họng… tuỳ theo từng loại khuyết
tật).
Sự phối hợp giữa cha mẹ với các chuyên gia và giữa các chuyên gia thuộc các
ngành có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ phối hợp, hoàn chỉnh. Các
chuyên gia không chỉ cộng tác với gia đình mà cả với những nhà cung cấp dịch vụ cộng
đồng. Các chương trình càng ngày càng tập trung vào một mô hình mới nhằm tăng cường
kích thích hoặc chữa trị, ở đó phản ánh quan điểm sinh thái về trẻ và gia đình trẻ đặt trong
một cộng đồng rộng lớn. Để đáp ứng được những nhu cầu chuyển đổi của mô hình này, các
chương trình đào tạo đang bỏ dần những chương trình giảng dạy tuân theo những giới hạn
chuyên môn truyền thống để chuyển sang những chương trình giảng dạy tuân theo hướng
kết hợp đa chuyên môn, đa ngành. Những chương trình như vậy sẽ làm cho các chuyên gia
thuộc các chuyên môn khác nhau cộng tác cùng với gia đình theo những phương pháp khác
nhau, kết hợp những mô hình tư vấn liên ngành, đa chuyên môn với những cách thực hành
tối ưu của giáo dục chính qui và gddb cho trẻ trước tuổi học.
Việc tập trung vào sự hợp tác liên ngành và đa chuyên môn sẽ thúc đẩy việc học
hổi những kĩ năng cần thiết làm việc trong những nhóm có nhiều chuyên môn và có nhiều
ngành. Phương pháp làm việc phối hợp đa chuyên môn cho phép trẻ và gia đình hưởng lợi
từ nhiều chuyên môn khác nhau mà không când phải gặp gỡ trực tiếp với nhiều chuyên gia.
Các chuyên gia thuộc các chuyên môn khác nhau sẽ làm việc trên tinh thần hợp tác để đào
tạo lẫn nhau sao cho một chuyên gia có thể cung cấp một loạt dịch vụ quan trọng. Ví dụ
như một giáo viên hoặc một người trông trẻ có thể dựa trên hướng dẫn của nhà trị liệu về
ngôn ngữ lời nói mà định hướng lại hoạt động vui chơi nhằm thúc đẩy việc phát triển ngôn
ngữ.
Để chương trình can thiệp sớm thành công:
- Các thành viên trong nhóm xem mục tiêu là việc để giúp đỡ trẻ là quan trong hơn
cả.
- Trong nhóm cần có người bao quát chung cho cả quá trình
- Gia đình được coi là trung tâm của cả quá trình và là những người quan trọng nhất

của các quá trình đó.

- 20 -


5. Qui trình can thiệp sớm
Hầu hết các chương trình can thiệp sớm đều được tiến hành theo ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: Phát hiện, chẩn đoán và giới thiệu trẻ vào chương trình.
Giai đoạn 2: Đánh giá ban đầu, xây dựng chương trình kế hoạch giáo dục cá nhân,
thực hiện chương trình và đánh giá kết quả.
Giai đoạn 3: Kết thúc, tập trung vào các hệ thống chuyển tiếp cho trẻ từ chương
trình can thiệp sớm tới những can thiệp tiếp theo

Phát hiện

Sơ đồ Qui trình can thiệp sớm

giai ®o¹n 1

Chẩn đoán

Giới thiệu

Đánh giá ban đầu

giai ®o¹n 2

Xây dựng kế hoạch
giáo dục cá nhân


Thực hiện chương
trình

Đánh giá kết quả

Chuyển sang môi
trường hoà nhập

giai ®o¹n 3

- 21 -


Giai đoạn 1
Là giai đoạn phát hiện, chẩn đoán và giới thiệu trẻ vào chương trình.
Phát hiện là tìm tòi các dấu hiệu và tín hiệu cho thấy sự phát triển của trẻ có nguy
cơ hoặc đang tiến triển không bình thường. Phát hiện bao gồm việc quan sát các dấu hiệu
và tín hiệu nói trên và các chương trình khám sàng lọc (phát hiện khả năng nghe, thử
nghiệm Ewing và các rối loạn về phát triển - thử nghiệm về phát triển của Denver, phát
hiện bệnh tuyến giáp trạng nhỏ bẩm sinh...). Kết quả không phái là một sự chẩn đoán. Trẻ
em được sàng lọc ra để kiểm tra tiếp. Hiện nay ở Việt Nam, hệ thống dịch vụ khám sàng
lọc cho trẻ sơ sinh hoặc chẩn đoán, phát hiện trẻ có vấn đề hoặc nguy cơ vẫn còn thiếu.
Đây sẽ là một thiệt thòi lớn cho trẻ khuyết tật. Vì những năm tháng đầu tiên trong cuộc đời
có ý nghĩa cực kì quan trọng cho sự phát triển.
Chẩn đoán là quá trình thu thập các thông tin liên quan tới tình trạng phát triển, sức
khoẻ và nguyên nhân gây ra những khó khăn cho trẻ để đưa ra những phương thức hỗ trợ
phù hợp. Việc chẩn đoán được thực hiện theo kết quả của việc phát hiện các dấu hiệu và
tín hiệu cho thấy có sự lệch lạc hay có nguy cơ về phát triển.
Trong quá trình chẩn đoán còn cần phải xem xét xem tới mỗi trẻ có những mặt
mạnh nào, nhu cầu đặc biệt của trẻ là gì? Những mặt mạnh và nhu cầu của phụ huynh và

các thành viên trong gia đình là gì? Mối liên hệ giữa trẻ và các thành viên trong gia đình ra
sao? Ai là người chăm sóc chính?…
Phát hiện và chẩn đoán sớm mới có hi vọng điều trị và ngăn chặn tật, kịp thời tiến
hành phục hồi chức năng.
Trẻ em được phát hiện qua khám sàng lọc được đưa tới các địa chỉ thích hợp để
thực hiện các chẩn đoán toàn diện và sâu hơn. Trước khi tham gia chương trình giáo dục
đặc biệt, trẻ em được chẩn đoán và đánh giá toàn diện về các nhu cầu giáo dục của chúng.
Mục đích chính của quá trình này là để xác định trẻ bị khuyết tật như thế nào, và nếu có thể
cũng xác định phạm vi và cách thức giáo dục, các dịch vụ cần thiết để can thiệp. Quá trình
đánh giá đó phải đa dạng và do nhiều nguồn, phải được kết luận bởi nhóm chuyên gia đa
chức năng. Các thành viên của nhóm này phải đa dạng tuỳ theo đặc điểm riêng của mỗi trẻ.
Thực tế cho thấy có sự không tương xứng giữa các thông tin do chẩn đoán đưa ra
và các thông tin tìm kiếm bởi các chuyên gia can thiệp sớm. Trước hết, các nhà giáo dục
hoạt động với giả định rằng các thông tin về chẩn đoán là có ích cho việc xây dựng các
chương trình định lượng. Tuy nhiên, các thông tin này hiếm khi được cung cấp, nếu có thì
rất chung chung. Các công cụ chẩn đoán đưa ra và các thông tin liên quan tới tình trạng
phát triển, sức khoẻ và y tế nhiều hơn phát triển quy trình can thiệp đặc biệt. Thông qua
các bước trong cùng một quá trình (ví dụ: đảm bảo và cung cấp các dịch vụ giáo dục), đánh
giá chẩn đoán và phát triển chương trình định hướng cung cấp các chức năng hoàn toàn
khác biệt. Nếu sự mất cân bằng này thực sự rõ rệt, thì không có lí do gì để tin rằng các
thông tin do một hoạt động tạo ra có thể dùng cho các hoạt động khác. Thất bại về việc sử
dụng đánh giá chẩn đoán thường dẫn đến thất bại trong việc hoàn thiện các chức năng của
nó.
Giai đoạn 2
Việc tìm ra những trẻ em cần can thiệp sớm dựa vào một đánh giá chẩn đoán được
đánh giá được nhắc đến trong giai đoạn 2. Phần lớn các chương trình can thiệp sớm có quy
trình đòi hỏi các trẻ em thực hiện các đánh giá dựa trên chương trình đã tham gia. Các
nhân viên của chương trình dùng các công cụ đánh giá và các quy trình khác nhau để xây
dựng kế hoạch giáo dục cá nhân (nói rộng hơn là kế hoạch can thiệp cá nhân) cho các trẻ
em tham gia chương trình. Những đánh giá ban đầu đưa ra mức độ hiểu biết so với những

thay đổi trong tương lai. Trong các chương trình can thiệp sớm, đôi khi đấy được coi là
một cẩm nang cơ bản.
Việc xây dựng kế hoạch giáo dục cá nhân là bước tiếp nối của đánh giá ban đầu
trong chuỗi làm việc liên tục của chương trình can thiệp sớm. Quy trình thực hiện kế hoạch
cá nhân có lẽ cũng tương tự như tất cả các chương trình can thiệp sớm. Kế hoạch giáo dục

- 22 -


cá nhân là xác định rõ những mục tiêu giáo dục, những biện pháp giáo dục để đạt những
mục tiêu này.
Một kế hoạch giáo dục cá nhân thường bao gồm các thành phần sau:
1. Những thông tin về trẻ. Đó là những thông tin cần thiết về tình trạng ban đầu
của trẻ, bao gồm những thông tin về cá nhân trẻ, về tình trạng khuyết tật của trẻ và những
thông tin có liên quan tới tiền sử bệnh tật trong gia đình trẻ, những chẩn đoán, kết luận và
chỉ định của bác sỹ; những đánh giá về mức độ phát triển của trẻ các kỹ năng, các chức
năng, sự trì hoãn hoặc những điểm mạnh của trẻ, những nhu cầu cần được đáp ứng hoặc hỗ
trợ. Ngoài ra, cần thu thập thông tin về hoàn cảnh sống, người thân, đặc biệt là người chăm
sóc trẻ hàng ngày.
2. Mục tiêu dài hạn. Mục tiêu dài hạn thường là mục tiêu năm. Mục tiêu năm là
những gì đứa trẻ có thể làm được trong vòng một năm trong những lĩnh vực nhất định. Nó
là kì vọng của mỗi chúng ta về những điều mà đứa trẻ có thể thực hiện được sau thời gian
một năm. Mục tiêu năm được đặt ra để giải quyết những lĩnh vực còn yếu hoặc tăng cường
những điểm mạnh đã được xác định trong tình trạng ban đầu của trẻ. Mục tiêu dài hạn là
các mục tiêu được lựa chọn trên cơ sở đánh giá của các giáp viên, bảng quan sát, thông tin
y tế, bảng phỏng vấn cha mẹ. Mục tiêu bao trùm các lĩnh vực: hành vi xã hội, tình cảm,
học đường, các kỹ năng tự lực, kỹ năng giao tiếp... Không có số lượng, mục tiêu nào được
coi là số lượng chuẩn. Sau quá trình đánh giá, cần lựa chọn những hành vi và kĩ năng làm
phần cốt lõi cho kế hoạch giáo dục cá nhân. Cần xác định các ưu tiên dựa trên những khả
năng thể chất và tinh thần của trẻ, tuổi đứa trẻ, thời gian đến trường và những hi vọng

trong tương lai.
3. Mục tiêu ngắn hạn. Mục tiêu ngắn hạn là những mô tả về các bước cần thực
hiện nhằm đạt được mục tiêu năm. Thông thường các kỹ năng được hình thành bởi một
chuỗi các hành vi và kỹ năng nhỏ. Mỗi bước nhỏ để đi đến hoàn thành mục tiêu năm có thể
là một mục tiêu ngắn hạn. Mục tiêu ngắn hạn được xây dựng trên phân tích nhiệm vụ. Việc
phân tích nhiệm vụ là một bản mô tả về mỗi hành vi cần phải có để thực hiện một hành vi
phức tạp. Ví dụ, đối với một trẻ có khuyết tật thể chất nặng mà mục tiêu năm là tự ăn cơm
thì các mục tiêu ngắn hạn có thể là cầm bát, cầm thìa, xúc thức ăn bằng thìa, đưa thức ăn
vào miệng. Số lượng các mục tiêu ngắn hạn cho mỗi mục tiêu năm liên quan tới dạng và
mức độ nặng của khuyết tật, ảnh hưởng của nó tới việc học của trẻ cũng như mức độ phức
tạp của mục tiêu năm. Một số trẻ chỉ cần vài mục tiêu ngắn hạn, một số trẻ khác lại cần
nhiều mục tiêu ngắn hạn cho mỗi mục tiêu năm.
Các mục tiêu năm và các mục tiêu ngắn hạn cần được mô tả rất kĩ, bao gồm 3 phần
sau: mô tả một kĩ năng hoặc một biểu hiện nào đó, dự tính mà trẻ đạt được; liệt kê các điều
kiện cần đảm bảo cho các kĩ năng đó có thể xảy ra; sử dụng phép đo và lựa chọn các tiêu
chí để xác định được những biểu hiện hoặc kĩ năng đó được coi là chấp nhận được. Đôi khi
mục tiêu ngắn hạn của kế hoạch giáo dục cá nhân cần phải được điều chỉnh cho phù hợp
với thay đổi của trẻ.
- Thời gian thực hiện: Mỗi kế hoạch giáo dục cá nhân cần phải chỉ rõ ngày bắt đầu
chương trình và ngày đánh giá. Những ghi chép của giáo viên mỗi lần đn gia đình trẻ hoặc
ở trường đều là những thông tin vô cùng bổ ích và quan trọng. Đặc biệt là ngày bắt đầu các
dịch vụ và thời gian thực hiện các nhiệm vụ này.
4. Các biện pháp thực hiện. Kế hoạch giáo dục cá nhân cũng phải thể hiện đầy đủ
các biện pháp thực hiện để đạt được những mục tiêu đề ra. Trong đó, cần xác định rõ ai là
người chịu trách nhiệm cho từng việc. Các biện pháp thực hiện có thể là: các dịch vụ trị
liệu ngôn ngữ, các dịch vụ trị liệu vận động,...
5. Kế hoạch đánh giá. Trong khi xây dựng kế hoạch giáo dục cá nhân cần phải xác
định rõ cách thức và công cụ đo lường/ đánh giá sự tiến bộ của trẻ trong việc thực hiện các
mục tiêu năm. Đối với mỗi mục tiêu, cần chỉ rõ ràng các tiêu chí dùng để đánh giá xem
liệu trẻ có đạt được tiêu chí đề ra hay không. Các tiêu chí và quy trình đánh giá cũng phải


- 23 -


được cá nhân hoá. Tuỳ theo yêu cầu đối với các mục tiêu giáo dục trẻ mà việc đánh giá trẻ
cần phải được thực hiện.
6. Chữ kí. Xây dựng kế hoạch giáo dục cá nhân không phải là công việc của riêng
nhà trường mà đòi hỏi sự tham gia của nhiều nhà chuyên môn vì kế hoạch giáo dục cá
nhân có liên quan đến nhiều mặt của cuộc sống của trẻ. Tối thiểu nhất, cha mẹ trẻ, giáo
viên, các nhà trị liệu, các nhà tâm lý, hiệu trưởng nên cùng tham gia để quyêt định các mục
tiêu giáo dục trẻ. Sự nhất trí về nội dung và cách thức tiến hành của những người tham gia
khi xây dựng kế hoạch giáo dục cá nhân thể hiện bằng chữ kí của họ. Vây, một kế hoạch
giáo dục cá nhân cần bao gồm các chữ kí của cha mẹ trẻ, giáo viên, các nhà trị liệu, các
nhà tâm lý,...
Thực hiện chương trình can thiệp sớm thông qua kế hoạch giáo dục cá nhân được
thể hiện ở sơ đồ sau:
Đặt mục tiêu

Điều chỉnh, phát
triển

Lập kế hoạch

Đánh giá

Thực hiện kế hoạch

Một vấn đề khác có trong giai đoạn 2 là đánh giá. Nội dung được đánh giá của
chương trình tập trung vào trẻ thường đưa ra những kết quả đánh giá rộng. Đánh giá này có
hai nội dung chủ yếu: đánh giá để thấy rõ quy trình của trẻ với mục đích thấy rõ quy trình

của trẻ với mục đích định hướng và đánh giá kết quả trên toàn cầu để xác định tác động
của chương trình (chủ yếu là những thay đổi trong chỉ số IQ hay mức độ phát triển). Nội
dung của quy trình và kết quả thường là tổng quát và ít khi được hỗ trợ bởi các hiệu quả xã
hội rộng rãi, như số trẻ tham gia vào các lớp học thông thường hay tiết kiệm về mặt tài
chính. Một số nhà phân tích đã đánh giá và công bố các dữ liệu đánh giá được thực hiện
trên toàn cầu nhưng hầu như chưa có phân tích về những kết quả xã hội nói chung.
Giai đoạn 2 là giai đoan can thiệp (thực hiện kế hoạch) có nghĩa đây là giai đoạn
hướng dẫn cha mẹ trẻ cách hỗ trợ, chăm sóc trẻ. Giai đoạn này chúng ta sẽ phải hướng dẫn
và dạy trẻ nhằm thực hiện kế hoạch hoàn thành mục tiêu đặt ra ban đầu.
• Xác định được mục tiêu của chương trình can thiệp sớm nhằm hỗ trợ gì cho
trẻ và gia đình của trẻ.
• Lập kế hoạch can thiệp sớm có nghĩa là giai đoạn quyết định phải làm gì/ hỗ
trợ như thế nào/ dạy cái gì. Dựa trên những thông tin thu thập được trong giai đoạn 2. Kế
hoạch giáo dục cá nhân phải đáp ứng được nhu cầu của trẻ, phụ huynh và gia đình.
• Thực hiện triển khai kế hoạch: Đây là giai đoạn các chuyên gia can thiệp sớm
và cha mẹ cũng như giáo viên trực tiếp hướng dẫn trẻ làm việc với giáo dục cá nhân. Tuỳ
theo mỗi trẻ mà mức độ tham gia của mỗi chuyên gia trong giai đoạn này khác nhau.
• Đánh giá giá lại việc can thiệp: Đánh giá nhằm xác định lại xem chúng ta đã
đạt được muc tiêu đặt ra ban đầu chưa? Kết quả thực hiện như thế nào? Đánh giá có thể
dựa trên:
- Sự tiến bộ của trẻ;

- 24 -


- Khả năng của phụ huynh trong việc tham gia hỗ trợ trẻ;
- Thái độ của phụ huynh;
- Sự thích ứng xã hội của trẻ;
- Mục tiêu đặt ra đã phụ hợp với khả năng và nhu cầu của trẻ và gia đình chưa.
• Điều chỉnh lại mục tiêu cho phù hợp.

Giai đoạn 3
Như trên đã nêu, giai đoạn chuyển sang môi trường kế tiếp của trẻ rất ít khi nhận
được sự quan tâm của nhà trường. Tuy nhiên, giai đoạn chuyển tiếp là giai đoạn liên quan
tới các chương trình can thiệp sớm. Hơn nữa, việc chăm sóc trong thời gian chuyển tiếp có
thể tạo ra sự khác biệt: liệu những đứa trẻ có thành công hay thất bại trong các bước tiếp
theo của chúng. Phần lớn những chương trình can thiệp sớm thực hiện quy trình chuyển
tiếp không chính thức, nhưng cũng có những chiến lược đáng kể. Một chiến lược liên quan
tới hệ thống thông tin giữa các tổ chức tham gia và rút lui có liên quan tới nhu cầu của từng
đứa trẻ. Những hệ thống như thế có thể sẽ có ích trong việc lập kế hoạch và thực hiện giai
đoạn chuyển tiếp với cha mẹ và con cái giữa các chương trình.
Đây là giai đoạn trẻ trong chương trình can thiệp sớm có khả năng học tập trong
môi trường giáo dục hoà nhập ở trường Mầm non hoặc trường tiểu học. Phần lớn chương
trình can thiệp sớm thực hiện qui trình chuyển tiếp không chính thức.
6. Những nhân tố cần để một chương trình can thiệp sớm đạt hiệu quả
Mặc dù chưa có nghiên cứu, đánh giá nào xác định mô hình can thiệp sớm có hiệu
quả nhất nhưng cũng có thể chỉ ra một số hướng phát triển các chương trình có hiệu quả.
Nói một cách vắn tắt các nhà can thiệp sớm cần xem xét những yếu tố sau đây như những
thông số về chất lượng khi xây dựng hoặc đánh giá một chương trình.
1/ Mô hình và quan điểm xây dựng chương trình rõ ràng trong đó các thành viên
tham gia phải trung thành với phương pháp đã áp dụng.
2/ Một hệ thống thống nhất để thúc đẩy sự tham gia và hỗ trợ của gia đình với trọng
tâm là sự tương tác giữa người chăm sóc và trẻ.
3/ Lên kế hoạch và thực hiện chương trình theo sự hợp tác của nhóm.
4/ Sự phối hợp giữa các chuyên môn và các cơ quan ban ngành.
5/ Việc cung cấp dịch vụ theo hướng hoà nhập.
6/ Thúc đẩy các kỹ năng chức năng để giúp trẻ đối phó với những kỳ vọng của môi
trường như đã đề ra trong chương trình cá nhân hoá và trong việc đặt kế hoạch cung cấp
dịch vụ.
7/ Vận dụng linh hoạt những kỹ thuật can thiệp để tìm ra phương pháp tốt nhất
nhằm thực hiện những mục tiêu tập trung vào gia đình và vào trẻ.

8/ Phối hợp những phương pháp thực hành tốt nhất mà liên tục xuất hiện từ thực
hành và nghiên cứu thực tế.
9/ Nhấn mạnh vào việc phát triển các kỹ năng ngôn ngữ và xã hội.
10/ Một hệ thống đào tạo và phát triển được thiết kế tốt cho nhân viên và cha mẹ
trẻ.
11/ Đánh giá liên tục mức độ hiệu quả của chương trình và xem xét lại chương
trình khi cần.
7. Giới thiệu một số chương trình can thiệp sớm ở Việt Nam
7.1. Can thiệp sớm cho trẻ CPTTT
7.1.1. Khái niệm can thiệp sớm cho trẻ CPTTT
Can thiệp sớm cho trẻ CPTTT là những hướng dẫn mang tính giáo dục và cung cấp
các dịch vụ dành cho trẻ và gia đình trẻ CPTTT trước tuổi tiểu học nhằm kích thích và huy
động sự phát triển tối đa ở trẻ, tạo điều kiện và chuẩn bị tốt cho trẻ tham gia vào hệ thống
giáo dục bình thường và cuộc sống sau này.
Mục đích của can thiệp sớm:
- Phát triển hết tiềm khả năng học hỏi ở trẻ

- 25 -


- Phát triển hết khả năng tự phục vụ của trẻ
- Để trẻ có thể hoà nhập với gia đình và xã hội
- Để trẻ trở thành thành viên của cộng đồng.
Chương trình can thiệp sớm được chia làm hai giai đoạn:
- Giai đoạn một từ 0 tới 3 tuổi: Cung cấp những kỹ năng giáo dục Trẻ CPTTT như
kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống cho gia đình trẻ tại gia đình
- Giai đoạn hai từ 3 tới 6 tuổi: Tại trường mầm non.
Can thiệp sớm được nhìn nhận như một sự chuẩn bị tốt cho trẻ CPTTT bước vào hệ
thống giáo dục. Điều này đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường.
Như vậy, mục đích của Can thiệp sớm là tối đa hoá khả năng học tập, kỹ năng sống hàng

ngày của đứa trẻ, tăng cơ hội thể hiện chức năng một cách có hiệu quả trong cộng đồng của đứa
trẻ.
7.1.2. Các giai đoạn CTS
7.1.2.1. Phát hiện và chẩn đoán sớm
Phát hiện và chẩn đoán sớm là yếu tố đặc biệt quan trọng trong can thiệp sớm cho
Trẻ CPTTT . Ngay từ khi cha mẹ trẻ hoặc bác sĩ phát hiện thấy những dấu hiệu phát triển
không bình thường ở trẻ thì việc có những kiểm tra đặc biệt về tâm lí và y tế cho trẻ là rất
quan trọng. Khi nhận thấy những dấu hiệu không bình thường với đứa trẻ thì cha mẹ ngay
lập tức cần phải có những biện pháp can thiệp kịp thời bởi vì những năm đầu tiên có ảnh
hưởng đặc biệt tới sự phát triển của trẻ nhỏ. Kiểm tra sớm rất cần thiết cho việc bắt đầu
tiến hành can thiệp sớm.
Can thiệp sớm giai đoạn 1
Người ta chia trẻ cần có sự hỗ trợ của dịch vụ can thiệp sớm thành hai nhóm chính
dựa trên độ tuổi đời của trẻ: nhóm thứ nhất là những trẻ từ độ tuổi 0 - 3 tuổi. Đối nhóm này
thì vai trò của chuyên gia can thiệp sớm và cha mẹ trẻ có thể được sơ đồ hoá sau:

Cha mÑ
trÎ

TrÎ

Chuyªn
gia CTS

Hình vẽ trên cho thấy vai trò chủ đạo trong giáo dục sớm cho trẻ ở giai đoạn này là
của cha mẹ trẻ, chuyên gia can thiệp sớm chỉ là người tư vấn cho cha mẹ trẻ cách giáo dục
con của mình. Chuyên gia can thiệp sớm dựa vào những đánh giá hết sức cẩn thận trên trẻ
qua đó cùng cha mẹ trẻ xây dựng nên kế hoạch giáo dục cá nhân hỗ trợ gia đình. Trên cơ
sở đó dịch vụ can thiệp sớm được tiến hành.


- 26 -


Can thiệp sớm giai đoạn 2
Đối với nhóm trẻ thứ 2 là những trẻ có độ tuổi thật từ 3 - 6 tuổi thì vai trò của cha
mẹ trẻ và chuyên gia can thiệp sớm được minh hoạ như sau:

Cha mÑ trÎ

TrÎ

Gi¸o viªn

Trong mối quan hệ này vai trò của cha mẹ vẫn vô cùng quan trọng. Bên cạnh đó chuyên
gia can thiệp sớm có thêm một thành viên nữa là giáo viên hỗ trợ trực tiếp cho trẻ. Giai đoạn này
trẻ vẫn là trung tâm của dịch vụ can thiệp sớm, tuy nhiên chuyên gia can thiệp sớm không chỉ
hướng vào cha mẹ trẻ mà còn hướng vào giáo viên. Lúc này vai trò của giáo viên, cha mẹ trẻ và
chuyên gia can thiệp sớm là như nhau.
7.1.3. Tổ chức dịch vụ can thiệp sớm cho trẻ CPTTT
¾ Chức năng của trung tâm can thiệp sớm cho trẻ CPTTT
Dịch vụ can thiệp sớm được hình thành tại trung tâm can thiệp sớm đặc biệt. Trong
trường hợp lí tưởng thì nhóm tổng hợp là những người cung cấp dịch vụ. Nhóm này gồm
có giáo viên, nhà tâm lí, bác sỹ, nhà vật lí trị liệu, nhân viên xã hội...
Mỗi nhà chuyên môn sẽ hỗ trợ cho trẻ và gia đình thông qua chuyên ngành của
mình. Tại trung tâm can thiệp sớm, 3 chức năng chính cần được phân biệt rõ:
• Những hoạt động trực tiếp cho gia đình trẻ CPTTT và cho các chuyên gia
trong lĩnh vực này
• Đào tạo các chuyên gia mới và nâng cao trình độ cho các cán bộ chuyên môn
đã làm việc trong lĩnh vực này.
• Phát triển và nghiên cứu phương pháp và dich vụ can thiệp sớm phù hợp.

¾ Tổ chức dịch vụ can thiệp sớm
- Hình thành can thiệp sớm tại nhà
- Can thiệp sớm tại trung tâm
¾ Phát triển các dịch vụ CTS và tiến trình làm việc
Để hỗ trợ gia đình của trẻ cần phải rõ ràng trung tâm có thể làm gì và sẽ hỗ trợ gia
đình trong bao lâu.
Cần phải lập tiến trình làm việc nhằm làm cho gia đình thấy rõ trách nhiệm, vai trò
của gia đình cũng như chuyên gia. Tiến trình mô tả chính xác cách làm việc của trung tâm.
Nó sẽ mô tả các mục sau một cách rõ ràng dựa trên các tiêu chí:
- Ai cung cấp những dịch vụ nào?
- Ai có thể sử dụng những dịch vụ này?
- Ai sẽ cung cấp các dịch vụ này?
- Các thành viên khác nhau có những công việc nào?
- Các thành viên khác nhau có những trách nhiệm gì?
7.1.4.Tổ chức can thiệp sớm cho trẻ CPTTT
7.1.4.1. Phát hiện, chẩn đoán trẻ CPTTT
Phát hiện sớm trẻ CPTTT

- 27 -


Phát hiện sớm trong giáo dục đặc biệt được hiểu là tìm tòi những dấu hiệu cho thấy
sự phát triển của trẻ có nguy cơ hoặc đang tiến triển một cách không bình thường.
*. Các biện pháp phát hiện sớm trẻ CPTTT:
Phát hiện sớm bao gồm việc quan sát những dấu hiệu cho thấy trẻ có nguy cơ bị
CPTTT hay có những bất thường trong tiến trình phát triển. Chương trình phát hiện sớm và
can thiệp sớm cho trẻ CPTTT đòi hỏi phải phối hợp nhiều ngành: y tế, giáo dục, ... trong
đó vai trò của gia đình cũng không kém phần quan trọng.
Để có thể phát hiện sớm trẻ CPTTT người ta cần thực hiện một số biện pháp sau:
™ Khám sàng lọc

Tuỳ thuộc vào thời điểm thực hiện mà có hai hình thức khám sàng lọc: trước khi sinh
và sau khi sinh.
¾ Trước khi sinh:
Các bác sỹ có một số biện pháp khám sàng lọc ở người mẹ mang thai:
- Thử nghiệm quét siêu âm
- Thử nghiệm Alpha Fetoprotein (tuần thứ 15 hoặc 18 trong thai kỳ)
- Chọc dò nước ối (tuần thứ 14- 18 hay trễ hơn)
- Lấy mẫu màng nhau (từ 6 đến 8 tuần)
¾ Sau khi sinh
Sử dụng một số biện pháp khám sàng lọc đơn giản:
- Tính điểm APGAR
- Thang đánh giá hành vi ở trẻ sơ sinh của Brazelton
- Khám sàng lọc dùng thủ thuật kiểm tra mẫu máu gót chân.
- Những công cụ để khám sàng lọc trẻ em ở độ tuổi lớn hơn hiện đang được
sử dụng ở Việt Nam và trên thế giới và thường do giáo viên thực hiện: thang đo khám
sàng lọc Denver, FirstStep và một số công cụ khác.
™ Nâng cao nhận thức cộng đồng
Ngoài các biện pháp khácm sàng lọc ra, để phát hiện được sớm trẻ CPTTT thì giáo
viên làm công tác CTS cần tham gia tích cực trong việc nâng cao nhận thức của cộng đồng.
Để có thể làm được như vậy, cần cung cấp thông tin cho mọi thành phần xã hội về
CPTTT, các biểu hiện sớm của nó, các biện pháp phòng ngừa và phát hiện sớm.
Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng:
- Cung cấp thông tin trên báo, chương trình ti vi, trên đài.
- Rải các tờ rơi với những thông tin chính xác về tật CPTTT và nơi có hỗ trợ.
- Sử dụng loa truyền thanh ở các khu vực dân cư để phổ biến thông tin.
- Cung cấp thông tin ở tất cả các nơi mà phụ huynh và các thành viên khác trong gia đình
trẻ có thể đến: phòng khám của các bác sỹ, trạm xá phường,...
Chẩn đoán trong CTS cho trẻ CPTTT
* Quy trình chẩn đoán:
Quy trình chẩn đoán gồm những bước sau:

- Mô tả lí do và mục đích
- Mô tả tiền sử phát triển của đứa trẻ.
- Nghiên cứu chẩn đoán tâm lí: sử dụng các trắc nghiệm về chỉ số thông minh. Thang
đo hành vi thích ứng, bảng kiểm tra hành vi, các bảng kiểm tra hội chứng liên quan, hoặc
các bảng hỏi điều tra,...
- Thu thập thông tin toàn diện về đứa trẻ sử dụng phương pháp khác như: quan sát,
nghiên cứu các tài liệu về dứa trẻ.
- Kết luận và đưa ra lời khuyên.
Lý do và mục đích chẩn đoán:
Khi nhà trường tiến hành chẩn đoán, cần xác định rõ xem tại sao: vì lí do gì và vì mục
đích gì? Đánh giá nhằm trả lời những câu hỏi nào?
- Một là: trẻ có được chẩn đoàn là CPTTT hay không, nguyên nhân là gì, chức năng
hiện tại, những điểm mạnh và nhu cầu đặc biệt của trẻ.

- 28 -


- Thứ hai là nếu trẻ đã đến tuổi đi học nhà trẻ thì nên lựa chọn mô hình giáo dục nào
và nội dung kế hoạch can thiệp cá nhân là gì?
Tiền sử phát triển của trẻ
- Tiền sử phát triển của trẻ cho ta biết những thông tin liên quan đến điều gì đã xảy ra
đối với trẻ từ trước đến nay. Cùng với thông tin thu thập được trong hồ sơ cá nhân, Bảng
đánh giá về tiền sử phát triển cho ta biết nên thu thập thông tin nào và có thể thu thập được
vào lúc nào.
Tất cả các thông tin phải được thể hiện một cách đầy đủ, tòan diện và có hệ thống về
đứa trẻ được chẩn đoán.
Nghiên cứu chẩn đoán tâm lý
Nghiên cứu chẩn đoán tâm lý là việc sử dụng các trắc nghiệm trí tuệ, Thang đo hành
vi thích ứng, Bảng kiếm tra hành vi và bảng kiểm tra những hội chứng liên quan và nhiều
công cụ khác để có được những thông tin đầy đủ, thông qua đó có kết luận đúng đắn về

đứa trẻ.
Mục đích của việc sử dụng những trắc nghiệm, thang đo và bảng kiểm tra tâm lí là:
- Có thể chẩn đoán là CPTTT hay không
- Xác định mức độ CPTTT
- Lí giải những vấn đề về học tập, hành vi, hoặc xã hội và tình cảm.
- Hướng dẫn xây dựng môi trường giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu đặc biệt của trẻ
Kết luận và đưa ra lời khuyên
Mỗi quá trình chẩn đoán đều kết thúc bằng phần kết luận và đưa ra lời khuyên. Phần
kết tóm lược lại những kết quả của từng khâu đánh giá, cung cấp những phần diễn giải cần
thiết, giải thích khi có thể và đặt chúng theo trật tự, liên hệ giữa các đánh giá với nhau khi
có thể.
Phần kết là khung tham chiếu để đưa ra những lời khuyên. Lời khuyên là câu trả lời
đối với những câu hỏi được nêu ra ở phần một: “lí do và mục đích đánh giá”.
* Chẩn đoán CPTTT sử dụng Trắc nghiệm trí tuệ
Trắc nghiệm trí tuệ hay còn gọi là Trắc nghiệm chỉ số thông minh IQ sẽ giúp chúng ta
phần nào xác định xem một đứa trẻ liệu có bị CPTTT hay không. Để có thể khẳng dịnh
chắc chắn rằng một đứa trẻ là CPTTT thì chỉ sử dụng trắc nghiệm trí tuệ là chưa đủ, ở đây
cần phải dựa trên kết quả chẩn đoán sử dụng thang đo hành vi thích ứng (dựa theo các tiêu
chí chẩn đoán vủa AAMR và DSM – IV).
Trắ nghiệm trí tuệ dùng để đo lường khả năng lĩnh hội hay mức độ trí tuệ của một
người nào đó.
Chỉ số thông minh IQ là số đo trí thông minh của một con người, căn cứ vào kết quả
so sánh các thành tích làm một trắc nghiệm đo IQ với các kết quả của những người khác
cùng tuổi cũng làm trắc nghiệm đó.
* Chẩn đoán CPTTT sử dụng thang đo hành vi thích ứng
Thường là một bảng các kĩ năng chuẩn trẻ cần đạt để có thể thực hiện chức năng trong
môi trường hàng ngày. Chúng mang lại những đánh giá về hành vi thích ứng ở nhiều lĩnh
vực. Ưu điểm của các thang đo này là các mục đưa ra có liên quan đến đời sống hàng
ngày của trẻ. Nhược điểm là nó không đánh giá được khả năng của đứa trẻ trong việc thích
ứng với tình huống thay đổi. Sử dụng các thang đo này có thể mang lại thông tin góp phần

vào việc xác định các kĩ năng chức năng cần thiết và những khu vực cần tập trung, hướng
dẫn trẻ.
Ngoài các trắc nghiệm về chỉ số thông minh đã được chẩn hoá, các Thang đo hành vi
thích ứng được dùng đề xác định liệu một đứa trẻ có bị CPTTT hay không.
Các thang đo hành vi thích ứng quan trọng nhất và có ích nhất là:
- Thang đo hành vi thích ứng của AAMR - trường học (ABS:S2)
- Thang đo hành vi thích ứng của Vineland: bản hiệu đính cho lớp học.
Ngoài việc giúp chẩn đoán CPTTT, ABSS:S2 và Thang đo hành vi thích ứng của
Vineland cũng cho các thông tin phù hợp để lập kế hoạch can thiệp cá nhân.

- 29 -


* Sử dụng các thang phát triển
Dùng để đo trật tự phát triển thông thường của trẻ. Các mục kiểm tra được viết theo
hướng quan sát, có nghĩa là có hoặc không có một kỹ năng sẽ là tiêu chí quyết định. Các kĩ
năng được liệt kê theo thứ tự thời gian nên các thang hành vi có thể giúp định hướng dạy
những kĩ năng tiếp theo. Khó khăn đối với việc áp dụng thang phát triển là trẻ khuyết tật có
thể phát triển theo một trật tự khác biệt và mối quan hệ giữa các kĩ năng có thể khác.
Phương pháp tiếp cận theo hướng phát triển giả định rằng những hành vi nhất định phải
xuất hiện trước khi trẻ đạt được một số hành vi khác, vì vậy kết quả kiểm tra có thể dẫn
đến việc giáo viên hướng dẫn cho trẻ một số kĩ năng không phù hợp với tuổi của trẻ và
cũng không thích hợp cho việc thực hiện chức năng của trẻ trong môi trường hàng ngày.
* Các công cụ chẩn đoán tâm lý khác thường được sử dụng đối với trẻ CPTTT .
- Bảng kiểm tra hành vi: CBCL/TRF
- Các bảng hỏi điều tra về những hội chứng có liên quan: AD/HD, Tự kỷ,...
- Bảng kiếm tra sinh thái
7.1.4.2. Tổ chức hướng dẫn phụ huynh CTS cho trẻ CPTTT
Nội dung và cách thức hướng dẫn phụ huynh CTS cho trẻ nhỏ CPTTT
Có hai mục tiêu chính mà giáo viên luôn phải ghi nhớ khi hướng dẫn cha mẹ trẻ.

- Giúp đỡ cha mẹ trở thành cha mẹ có khả năng tốt trong việc chăm sóc trẻ.
- Cùng với cha mẹ thường xuyên kiểm soát những tiến bộ và thay đổi của đứa trẻ.
* Cách thức
Để có thể đạt được những mục tiêu trên, chuyên gia nên:
- Xác định sự ưu tiên: Một trong những ưu tiên có thể là xác định xem cha mẹ trẻ có
cần sự hỗ trợ để giải quyết các vấn đề sinh hoạt hàng ngày hay không. Thường thì với
những cha mẹ trẻ khuyết tật trí tuệ hay ở mức sống kinh tế - văn hoá thấp trong xã hội,
giáo viên có thể trợ giúp một phần nào đó cho những bậc cha mẹ này khi thiết lập kế hoạch
chi tiêu, giải quyết công việc hàng ngày một cách có tổ chức hơn cho chính họ và đứa con
CPTTT.
- Thường xuyên liên lạc với cha mẹ: Nên liên lạc với các bậc cha mẹ này qua điện
thoại hơn là bằng sổ tay ghi chép. Chỉ cần 10 phút đến thăm gia đình, giáo viên có thể giúp
họ rất nhiều.
- Tránh giải thích quá dài dòng: tốt nhất là hãy làm mẫu cho cha mẹ thấy cần phải làm
gì và làm như thế nào. Cha mẹ nào cũng sẽ cố gắng hết sức nếu họ hiểu phải làm gì.
- Tránh yêu cầu cha mẹ trẻ phải đọc nhiều.
- Giúp đỡ cha mẹ cách lí giải những hành vi của con mình: Thường thì cha mẹ trẻ
CPTTT thường không hiểu và lí giải đúng hành vi của con mình. Họ thường cho rằng con
họ là đứa trẻ hư cho nên cách mà họ giáo dục con là trừng phạt.
- Hỗ trợ phụ huynh trong phối hợp với giáo viên:
Bất cứ lúc nào có thể hãy mời cha mẹ tới quan sát trẻ tại trường, tham gia vào các
hoạt động công ích, tự nguyện, các buổi thảo luận với những cha mẹ khác... Hãy trả lời
mọi thắc mắc của họ bằng những câu ngắn gon và từ ngữ dễ hiểu.
Hãy luôn nhớ rằng những bậc cha mẹ này tương tác với trẻ thường xuyên hơn bất cứ
ai. Nếu họ có thể cải thiện được kỹ năng tương tác với trẻ thì sẽ có lợi cho cả hai phía: cha
mẹ và chính đứa trẻ CPTTT .
* Nội dung hướng dẫn phụ huynh
Hoạt động hướng dẫn phụ huynh cần phải được bắt đầu và duy trì ở mọi giai đoạn của
quá trình can thiệp sớm: thắc mắc/có vấn đề, chẩn đoán/ đánh giá, lập kế hoạch can thiệp
(điển hình cho lứa tuổi này là lập kế hoạch giáo dục cá nhân), tiến hành can thiệp (dựa trên

kế hoạch giáo dục cá nhân), đánh giá lại.
* Kết thúc giai đoạn chẩn đoán và đánh giá - buổi họp tư vấn phụ huynh đầu tiên:
Ở cuối giai đoạn chẩn đoán và đánh giá, tất cả các thông tin đã thu thập cần được thu
gọn lại. Nhà chuyên môn cần phải phân tích thông tin.

- 30 -


Nhà tâm lý có vai trò quan trọng trong việc sắp đặt tất cả các thông tin theo trình tự
hợp lý và phân tích kết quả. Sau khi phân tích, chúng ta có thể xác định liệu đứa trẻ có
thuộc nhóm CPTTT hay không. Có thể chúng ta có nhiều thông tin về nguyên nhân gây
nên CPTTT và chia sẻ thông tin này cho gia đình.
Kết quả của toàn bộ nghiên cứu được viết trong báo cáo nghiên cứu và được chia sẻ
với phụ huynh/ gia đình trong buổi họp tư vấn.
Trong buổi họp này, cha mẹ có quyền quyết định những thành viên nào trong gia đình
cần phải có mặt.
- Trong buổi họp tư vấn, không phải các nhà chuyên môn nói chuyện với nhau về phụ
huynh , trẻ hay thứ khác- chúng ta trao đổi với phụ huynh về tình trạng trẻ.
- Dành cho phụ huynh cơ hội để bộc lộ cảm xúc. Hãy giải thích cho phụ huynh biết
rằng những thông tin mà chúng ta chia sẻ là rất khó khăn đối với họ, chúng ta không thể
thay đổi sự thật được. Tuy nhiên, với tình thương và sự kích thích trẻ thường xuyên của gia
đình thì nhất định sẽ tiến bộ. Nếu thiếu tình thương và sự kích thích thì trẻ sẽ ít tiến bộ hơn.
- Đừng bao giờ so sánh trẻ với những trường hợp khó và nặng hơn khi muốn khuyến
khích phụ huynh. Đó vẫn là con của họ và thông điệp đó vẫn rất buồn cho dù có những
trường hợp khác nặng hơn. Chúng ta cần thận trọng với cảm xúc của mình vì đôi khi do
muốn động viên phụ huynh và nói ra những điều không đúng với sự thật.
Một số lưu ý khi sử dụng cụm từ CPTTT với phụ huynh.
Mặc dù không dễ dàng gì để nói với phụ huynh và gia đình là trẻ bị CPTTT , nhưng
theo kinh nghiệm cho thấy thì cần phải nói điều này thật sớm sau khi chắc chắn về tình
trạng của trẻ. Đó là khi:

- Chúng ta đã dựa vào những nghiên cứu cẩn thận.
- Chúng ta biết chắc về những nhu cầu đặc biệt và khả năng của trẻ.
- Chúng ta tạo cho phụ huynh và gia đình những mong đợi đúng đắn. Chúng ta nên cố
gắng tìm được sự cân bằng giữa sự thật và hy vọng để phụ huynh thấy cần phải hành động
vì tương lai của trẻ.
- Hãy bày tỏ để phụ huynh thấy rằng bạn luôn sẵn sàng hỗ trợ. Nếu bạn chỉ thông báo
cho cha mẹ trẻ biết rằng trẻ bị CPTTT và không hỗ trợ thì phụ huynh chỉ nhận được thông
điệp đáng buồn, họ đi về một giấc mơ bị vỡ tan và không có hy vọng nào cho tương lai.
* Hướng dẫn phụ huynh tham gia xây dựng kế hoạch can thiệp cá nhân cho trẻ và
gia đình mình - Buổi họp tư vấn thứ hai:
Các bậc cha mẹ nên tham gia vào việc xây dựng kế hoạch giáo dục cá nhân cho con
mình.Vì cha mẹ thường biết rõ đứa trẻ hơn là giáo viên cho nên những thông tin mà họ
cung cấp có ý nghĩa rất lớn. Cha mẹ là người tiếp xúc với trẻ trong một thời gian dài và
mỗi ngày, thời gian trẻ ở nhà cũng nhiều hơn ở lớp vì thế giáo viên nên tận dụng những
thông tin của cha mẹ về đứa trẻ để xây dựng kế hoạch giáo dục cá nhân sao cho phù hợp
với cuộc sống thực của đứa trẻ.
Vì vai trò của cha mẹ là rất quan trọng nên giáo viên cần tiến hành một số bước để
đảm bảo cha mẹ có thể tham gia vào cuộc họp xây dựng kế hoạch giáo dục cá nhân. Những
bước này bao gồm:
- Thông báo trước về cuộc họp và đặt lịch sao cho thuận lợi cho cả hai phía: Giáo viên
nên làm cho cha mẹ cảm thấy yên tâm khi tham gia vào cuộc họp. Cha mẹ có thể mời các
thành viên gia đình hoặc những người khác có hiểu biết tham gia cuộc họp xây dựng kế
hoạch can thiệp cá nhân. Điều này sẽ giúp cho cha mẹ cảm thấy mình có đồng minh và có
thêm thông tin cho việc xây dựng kế hoạch. Trước khi có cuộc họp bàn về kế hoạch can
thiệp cá nhân, có thể mời cha mẹ điền vào một phiếu điều tra ý kiến dành cho cha mẹ.
Đây là một cách hiệu quả để cha mẹ tham gia vào việc đặt kế hoạch và để họ biết rằng
những thông tin của họ có vai trò quan trọng cho việc xây dựng một kế hoạch giáo dục
thích hợp. Phiếu điều tra ý kiến này có thể được dùng để mô tả mức độ chức năng hiện tại
của đứa trẻ nhằm đạt mục tiêu dài hạn.
- Tiến hành tổ chức cuộc họp bàn về kế hoạch can thiệp cá nhân:


- 31 -


+ Chuẩn bị trước: Thông báo với cha mẹ về mục đích của cuộc họp và sắp xếp thời
gian, địa điểm hợp lí, thu thập các báo cáo của tất cả những người tham gia vào việc đánh
giá, giáo dục đứa trẻ: giáo viên cũ, bác sỹ, cha mẹ, nhà trị liệu ngôn ngữ, nhà trị liệu vật
lý... tạo nên một biên bản sơ bộ trong đó có mô tả về mức độ chức năng hiện tại của đứa trẻ
và một số gợi ý về các mục tiêu giáo dục.
+ Bắt đầu cuộc họp: Có những hội thoại mở đầu thoải mái, tự nhiên, chia sẻ viễn cảnh
tương lai bằng cách khuyến khích cha mẹ bày tỏ những kỳ vọng của họ.
+ Xem xét bản đánh giá chính thức và mức độ chức năng hiện tại: mời cha mẹ và các
thành viên khác bày tỏ sự nhất trí hoặc không nhất trí với các kết quả đánh giá và nêu lí do,
thảo luận về ý nghĩa đối với việc ưu tiên các mục tiêu giáo dục và điểm mạnh, nhu cầu của
trẻ, thoả thuận về các mục tiêu giáo dục và các dịch vụ can thiệp sớm khác cần thiết cho
trẻ.
* Sự phối hợp giữa gia đình và giáo viên trong việc thực hiện kế hoạch can thiệp cá
nhân - nội dung quan trọng trong công tác tư vấn phụ huynh.
Để tìm ra những kỹ năng cần thiết cho mỗi đứa trẻ, giáo viên và cha mẹ cần tiếp cận
theo mô hình sinh thái. Thách thức trong việc dạy trẻ những kỹ năng khác nhau là trẻ nhỏ
CPTTT có thể không vận dụng được những kỹ năng đã học ở trường vào bối cảnh tại nhà
hoặc cộng đồng. Cộng tác với cha mẹ là cần thiết để xác định những kỹ năng sẽ được sử
dụng tại nhà và phương pháp dạy trẻ.
Một trong những cách hướng dẫn cha mẹ trẻ là giáo viên đưa ra dịch vụ can thiệp sớm
tại nhà. Chương trình can thiệp sớm tại nhà có rất nhiều lợi thế. Tại nhà cả trẻ và cha mẹ
chúng đều ở trong môi trường tự nhiên.
Thường thì giáo viên có một chương trình thăm gia đình đều đặn để tiến hành hình
thức hướng dẫn giáo dục sớm cho trẻ và cha mẹ chúng. Cha mẹ trẻ được hướng dẫn cách
phải dạy dỗ và tương tác với con mình nhờ sử dụng những đồ chơi, vật liệu có sẵn trong
nhà. Bằng cách này giáo viên có thể giảm bớt thời gian và sức lực cho những giờ dạy một

cách gò bó tại lớp học.
Cách thứ hai để giáo biên có thể hướng dẫn cha mẹ trong can thiệp sớm là cùng làm
việc trong môi trường lớp học. Khuyến khích cha mẹ cùng làm việc với giáo viên trong
môi trường lớp học của trẻ có thể đem lại lợi ích trên nhiều khía cạnh khác nhau: giáo viên
có thể làm mẫu một cách tự nhiên cho cha mẹ cách hướng dẫn và quản lý hành vi của trẻ.
Một số cha mẹ có thể chuyển giao những gì mà họ thấy trong lớp học để áp dụng cho
việc dạy dỗ trẻ trong môi trường tại gia đình. Mặt khác những cha mẹ có tài đặc biệt như
âm nhạc, hoạ, thêu có thể cảm thấy hứng thú được đóng góp cho việc dạy dỗ trẻ tại lớp.
Cách thứ ba để giáo viên có thể hướng dẫn cha mẹ là khuyến khích cha mẹ tham gia
vào buổi họp phụ huynh.
Họp phụ huynh thường nhằm cung cấp thông tin cho một số lượng lớn các bậc cha
mẹ. Tại các buổi họp này, người ta mời các chuyên gia đến nói chuyện, trưng bày sách,...
Do có sự đa dạng trong nhu cầu của những bậc cha mẹ tham gia họp cho nên các cuộc
hội thảo nên có sự cân bằng giữa các vấn đề giáo dục với mục đích tạo sự tham gia xã hội
của cha mẹ trẻ CPTTT.
7.1.4.3. Sự phối hợp giữa chuyên gia can thiệp sớm và gia đình
Sự phối hợp giữa chuyên gia và gia đình trong can thiệp sớm cho trẻ CPTTT ở lứa
tuổi mầm non là quá trình cha mẹ và các chuyên gia dùng cộng tác với nhau trong mọi giai
đoạn của quá trình can thiệp sớm để tạo nên môi trường giáo dục thích hợp nhất tại trường
và tại gia đình cho sự phát triển của trẻ.
. Ý nghĩa sự phối hợp làm việc giữa chuyên gia và gia đình trong can thiệp sớm cho
trẻ CPTTT ở lứa tuổi mầm non
Cha mẹ trẻ bao giờ cũng là người hiểu rõ con mình nhất và có thể dành thời gian,
công sức hơn bất cứ ai để giáo dục trẻ. Tuy nhiên, cha mẹ thường không được trang bị
những kiến thức, kĩ năng đặc thù như giáo viên và các nhà chuyên môn để có thể phát huy
tối đa khả năng và đáp ứng nhu cầu của trẻ. Họ cần sự hỗ trợ của các nhà chuyên môn.

- 32 -



Ngược lại, mặc dù là những người có kiến thức và kĩ năng đặc thù trong việc giáo dục trẻ
nhưng giáo viên và các nhà chuyên môn rất khó hiểu hết về trẻ, họ cần có cha mẹ là cầu
nối để hiểu trẻ, để biết được các thông tin về trẻ khi các em ở gia đình... Sự hỗ trợ giữa các
nhà chuyên môn cho cha mẹ và sự hỗ trợ của cha mẹ cho các nhà chuyên môn là sự hỗ trợ
qua lại và mục đích chung cùng hướng tới là sự tiến bộ của trẻ.
Những trải nghiệm của cha mẹ trẻ CPTTT là hết sức đa dạng. Ở một thái cực này họ
hết sức lo lắng mong đợi kết quả chuẩn đoán của các chuyên gia và những tiên lượng về
tương lai của trẻ, cảm giác bất lực, vô phương khi đứa trẻ thường xuyên thể hiện những
khó khăn về thể chất cũng như hành vi, tình cảm, sự thất vọng và phản ứng khi gặp phải
những thách thức từ phía xã hội. Ở một thái cực khác họ có những thời điểm tràn đầy hạnh
phúc của con người chiến thắng, niềm vui, sự hồi sinh sau khi trải qua khó khăn và nhất là
hy vọng lại sống dậy trong họ với một sức lực mới. Chính với những cảm xúc và trải
nghiệm đó mà cha mẹ trẻ hoàn toàn có quyền tin tưởng rằng chỉ có con họ mới có khả
năng và quyền được đòi hỏi, lựa chọn, đánh giá những hỗ trợ từ phía xã hội để đảm bảo
quyền lợi cho con của mình. Do vậy, cho dù nhà chuyên môn có đưa ra bất cứ giải pháp
nào có thể là rất có lợi cho trẻ thì quyền quyết định tối cao từ cha mẹ trẻ.
Sự tham gia nhiệt tình của cha mẹ trẻ là nguồn lực cho thành công của can thiệp sớm.
Sự tham gia nhiệt tình của cha mẹ trẻ bao gồm nhiều mục đích khác nhau trong đó có sự
nỗ lực thiết lập nên sự hỗ trợ chặt chẽ giữa họ với nhau và với các nhà chuyên môn, điều
chỉnh các thiết chế xã hội sao cho những trẻ khuyết tật nhận được các quyền lợi trong xã
hội một cách công bằng như những trẻ khác. Cha mẹ trẻ tham gia nhiệt tình để sao cho đứa
trẻ có thể sống trong gia đình, trong môi trường giáo dục bình thường mà vẫn nhận được
sự hỗ trợ tối đa từ phía dịch vụ can thiệp sớm, với mục tiêu kích thích sự phát triển lành
mạnh của các khía cạnh như ngôn ngữ, vận động, trí tuệ, xã hội- tình cảm. Cha mẹ trẻ tham
gia và ủng hộ tích cực các dịch vụ can thiệp sớm trong bất cứ cộng đồng nào để trẻ có thể
nhận được những dịch vụ đó mà không cần phải đi quá xa khỏi nhà hay trường học. Chính
yếu tố này có thể gây nên khó khăn và hẫng hụt rất lớn cho gia đình.
Giữa cha mẹ và các nhà chuyên môn cần có sự thống nhất về mục tiêu, nội dung,
phương pháp giáo dục trẻ. Những gì mà giáo viên dạy trẻ ở trường phải thích hợp với
những đòi hỏi của môi trường sống của trẻ, những kĩ năng mà trẻ học tại trường cần phải

có ích cho chúng tại gia đình. Cha mẹ cũng cần phải có mục tiêu, nội dung và phương pháp
giáo dục giống như giáo viên tại cùng thời điểm đó. Do vậy họ phải phối hợp với nhau
trong can thiệp sớm cho trẻ. Chỉ bằng cách này can thiệp sớm mới thực sự đạt được hiệu
quả cao. Hơn thế nữa trẻ có cơ hội thành công nhiều hơn nếu cha mẹ chúng và các giáo
viên trong trường duy trì những kì vọng giống nhau.
Giáo viên, người thực hiện dịch vụ can thiệp sớm cho trẻ phải hiểu thật rõ sự tiếp diễn
của tương tác năng động giữa trẻ và gia đình của chúng trong chính bối cảnh gia đình đó.
Khi đứa trẻ CPTTT bắt đầu được can thiệp, cha mẹ của chúng thường đóng vai trò người
ngoài cuộc thụ động và đứng từ xa quan sát xem con của mình được tiếp nhận những dịch
vụ như thế nào. Lúc này cần hết sức nỗ lực động viên cha mẹ trẻ tích cực tham gia vào quá
trình can thiệp sớm. Khuyến khích sự tham gia của cha mẹ trẻ không có nghĩa là trao toàn
bộ trách nhiệm hướng dẫn giáo dục hay trị liệu cho họ, biến họ thành những giáo viên hay
nhà trị liệu cho con cái mình. Cuộc sống của cha mẹ trẻ CPTTT đã có quá nhiều đỏi hỏi
thách thức để họ có thể nhận thêm một trách nhiệm lớn lao như vậy. Ngày nay, trong điều
luật 105 – 17 tại Mỹ đã mô tả rõ ràng một lĩnh vực mới mẻ trong việc thừa nhận gia đình
và cụ thể là cha mẹ của trẻ khuyết tật là những đối tác quan trọng có vai trò tương đương
với các chuyên gia khác trong quá trình can thiệp sớm, hơn thế nữa nó nâng cao và đẩy
mạnh hơn nữa vai trò của họ. Những hướng dẫn giáo dục sớm mà người ta tiến hành với
đứa trẻ không thể bị tách rời khỏi gia đình. Gia đình của trẻ phải được xem như môi trường
nuôi dưỡng quan trọng nhất ảnh hưởng tới trẻ và chịu ảnh hưởng từ phía đứa trẻ. Chính
ảnh hưởng qua lại này tác động tới kết quả của sự phát triển ở đứa trẻ cũng như gia đình.

- 33 -


Trong điều luật này có quy định đòi hỏi các chuyên gia thực hiện dịch vụ can thiệp
sớm phải có được đánh giá đúng về gia đình trẻ, mối quan hệ tác động qua lại giữa trẻ và
gia đình chúng, nhu cầu cá nhân của cha mẹ trẻ và kì vọng của họ đối với dịch vụ này. Cha
mẹ trẻ và đứa trẻ ở một phía và nhà giáo dục ở phía bên kia đều có quyền và trách nhiệm
trong việc đưa ra bất kỳ một quyết định nào liên quan đến đứa trẻ. Chúng ta có thể hiểu rõ

tầm quan trọng của sự tham gia của cha mẹ trẻ CPTTT trong công tác can thiệp sớm qua 5
nguyên tắc cơ bản của điều luật này.
Trẻ bình thường và trẻ CPTTT có nhiều điểm giống nhau hơn là khác nhau, cũng
tương tự như vậy cha mẹ của trẻ bình thường và cha mẹ CPTTT cũng có nhiều điểm giống
nhau hơn là khác nhau. Họ đều có những nhu cầu nhất định: lo lắng, hy vọng, sợ hãi, mơ
ước. Tuy nhiên cha mẹ trẻ CPTTT cũng có những cảm xúc đặc biệt khác. Chính vì vậy
giáo viên không thể áp dụng cách làm việc với cha mẹ trẻ bình thường cho đối tượng cha
mẹ trẻ CPTTT.
Theo những nghiên cứu của Powell (1986), thì không có một minh chứng cụ thể nào
cho giả thuyết có thể có một chương trình khái quát chung về sự phối hợp giữa giáo viên
và cha mẹ trẻ hiệu quả nhất. Không thể có một phương pháp phối hợp nào là mẫu điển
hình và là tối ưu cho mọi gia đình và cha mẹ trẻ. Như đã trình bày ở trên, cha mẹ trẻ có thể
xuất phát từ những gia đình khác nhau, ở những giai đoạn phản ứng tình cảm với tật
CPTTT khác nhau. Những yếu tố này ảnh hưởng rất nhiều tới sự phối hợp giữa họ và giáo
viên. Một số cha mẹ sẵn sàng trở thành thành viên của nhóm làm việc đa chức năng những người chịu trách nhiệm đưa ra mọi quyết định giáo dục cho đứa trẻ, trong khi đó
một số khác lại chọn cách phối hợp với những cha mẹ trẻ khác, một số khác lại phó thác
hoàn toàn trách nhiệm giáo dục trẻ cho giáo viên và chỉ thấy trách nhiệm của mình trong
việc đáp ứng nhu cầu vật chất và tình cảm của trẻ. Chính vì vậy giáo viên là người là người
phải nỗ lực để đáp ứng được một cách tốt nhất mọi nhu cầu của gia đình và với sự phối
hợp của cha mẹ trẻ.
Cách thức phối hợp giữa chuyên gia và gia đình trong CTS cho trẻ CPTTT
Có rất nhiều cách phối hợp giữa gia đình và các chuyên gia trong can thiệp sớm cho
trẻ CPTTT. Sau đây là một số cách thức mà chúng ta có thể tiến hành để tăng cường sự
phối hợp giữa chuyên gia can thiệp sớm và gia đình trong quá trình CTS cho trẻ CPTTT.
* Tăng cường giao tiếp trao đổi thông tin
Giao tiếp được xem là nhân tố chủ chốt tong sự cộng tác giữa cha mẹ các chuyên gia.
Thông qua giao tiếp để cung cấp thông tin cho nhau, cùng nhau giải quyết các vấn đề xung
quanh việc giáo dục trẻ. Nhờ có việc trao đổi, những vấn đề nảy sinh như bất đồng về
phương pháp, quan điểm có thể được tháo gỡ...
Các biện pháp để tăng cường giao tiếp giữa chuyên gia và gia đình trẻ gồm:

- Trao đổi trực tiếp: qua các cuộc gặp gỡ có hẹn trước, các buổi gặp gỡ tình cờ...
- Trao đổi gián tiếp: qua sổ liên lạc, gọi điện,...
* Thu hút cha mẹ tham gia các hoạt động cùng các nhà chuyên môn
Đây là biện pháp cực kì hữu ích để tăng cường sự phối hợp giữa chuyên gia và gia
đình. Khi tham gia vào các hoạt động cùng các nhà chuyên môn, cha mẹ sẽ thực hiện sẽ
thực hiện được đúng vai trò của mình trong việc giáo dục trẻ. Sự chung sức của cha mẹ và
các nhà chuyên gia sẽ đem lại những hiệu quả to lớn trong việc giáo dục trẻ.
Cha mẹ có thể tham gia vào tất cả các giai đoạn của quá trình tổ chức can thiệp sớm
với những mức độ và nội dung khác nhau. Họ có thể cùng các nhà chuyên môn đánh giá,
xây dựng kế hoạch can thiệp cho trẻ cũng như thực hiện kế hoạch này. Ngoài ra, việc tham
gia vào các hoạt động ngoại khoá của cha mẹ cũng làm cho sự phối hợp giữa gia đình và
các nhà chuyên môn thêm khăng khít.
7.1.4.4. Một số kỹ thuật hỗ trợ trẻ CPTTT trong công tác CTS
Tạo cơ hội giảng dạy
Tạo cơ hội giảng dạy đó là quá trình giao tiếp mà cha mẹ, giáo viên dạy trẻ kĩ năng
và những khái niệm đơn giản nhằm thúc đẩy quá trình học tập và phát triển của trẻ. Người

- 34 -


lớn có thể dạy trẻ những kĩ năng mới hoặc những kĩ năng phức tạp hơn kĩ năng mà trước
đậy trẻ đã thực hiện được. Có thể cũng tận dụng những cơ hội đó để khích lệ trẻ thực hành
những kĩ năng mà trẻ ít vận dụng, vận dụng chưa phù hợp hoặc thể hiện không phù hợp với
hoàn cảnh.
Cơ hội giảng dạy biểu hiện khi trẻ thể hiện mối quan tâm của mình tới một đồ vật, sự
kiện hay mối quan hệ. Sự chú ý đó có thể thể dưới nhiều hình thức khác nhau như nhìn hoặc
lắng nghe một cái gì đó hoặc một người nào đó. Cũng có thể là trẻ thích thú, lấy tay ra dấu hiệu
hoặc vươn người lẫy đồ vật, chỉ tay và nói một điều gì đó.
Biện pháp tạo cơ hội giảng dạy
* Biện pháp yêu cầu

Là biện pháp tạo ra cơ hội giảng dạy bằng cách yêu cầu trẻ làm hoặc nói gì đó hay
trả lời một câu hỏi mà bắt buộc trẻ phải nói nhiều hơn "có" hoặc "không". Yêu cầu dùng để
chỉ những yêu sách (làm thế này, làm thế kia) trẻ làm theo chỉ dẫn của người lớn để rèn
luyện những kĩ năng đã có và hình thành kĩ năng mới.
* Biện pháp lựa chọn
Là biện pháp đưa cho trẻ lựa chọn giữa các vật thể, sự kiện hoặc hoạt động dựa trên
mối quan tâm của trẻ. Ví dụ: Trẻ muốn ăn gì thì trước khi cho trẻ ăn giáo viên đưa ra cho
trẻ các phướng án lựa chọn bằng cách đưa ra các câu hỏi:
- Con có muốn ăn không?
- Con có muốn ăn gì?
- Ăn cơm hay ăn cháo?
* Biện pháp ngăn tiếp cận
Là biện pháp gây cho trẻ những khó khăn khi lấy đồ vật mà trẻ muốn hoặc tham gia
hoạt động trẻ muốn. Khi vận dụng biện pháp này, người lớn có thể đặt đồ vật ngoài tầm
với của trẻ hay vào chỗ đóng kín, tạm thời muốn ngăn chặn trẻ thực hiện hoạt động trẻ
muốn làm.
Ví dụ: Trẻ muốn lấy ô tô mà trẻ thích, người lớn đặt cái ô tô đó ở vị trí cao hơn
tầm với của trẻ. Trẻ không với tay lấy được buộc trẻ phải sử dụng ngôn ngữ hoặc ra dấu
hiệu yêu cầu giúp đỡ.
* Biện pháp phân chia không đồng đều
Là biện pháp đưa cho trẻ một số ít của vật thể mà trẻ muốn. Để lấy được nhiều hơn
trẻ phải khởi xướng một sự giao tiếp.
Ví dụ: Bé thích ăn bánh, mẹ cho bé đi miếng bánh nhưng không cho nguyên cái mà chỉ cho
một ít (cho phần thiếu) đợi trẻ phản ứng ra dấu hiệu đòi thêm.
* Biện pháp cung cấp vật liệu không đầy đủ
Là biện pháp cung cấp một số đồ vật cần thiết cho một hoạt động nhưng không
cung cấp hết.
Ví dụ: Trong giờ học vẽ giáo viên phát giấy bút cho tất cả trẻ trong lớp những riêng
trẻ khó khăn về học giáo viên chỉ phát bút hoặc phát giấy để trẻ phát hiện ra đồ vật thiếu và
phải yêu cầu giáo viên lấy thêm.

* Biện pháp gây bất ngờ
Là biện pháp dùng ngôn ngữ nói hoặc làm một điều gì đó mà trẻ không ngờ dựa
trên hiểu biết hiện thời của trẻ về hoạt động hoặc sự kiện đó. Đó có thể là những điều ngốc
nghếch, buồn cười hoặc thú vị mà người lớn nói và dùng nó làm kích thích để trẻ đưa ra
nhận xét, đặt câu hỏi, giải quyết vấn đề hoặc giao tiếp với môi trường
* Biện pháp giúp trẻ nhận xét
Là biện pháp mô tả những thứ mà trẻ có, nhìn thấy hoặc thực hiện, hoặc thứ mà
người lớn có, nhìn thấy hoặc thực hiện.. Đây là biện pháp mà giáo viên cần phải quan sát,
dựa vào phản ứng của trẻ và yêu cầu buộc trẻ phải nói ra một điều gì đó.
* Biện pháp mở rộng

- 35 -


Là biện pháp nhắc lại câu trẻ vừa nói và bổ sung thêm 1 - 2 từ nữa. Ví dụ, nếu mục
tiêu của trẻ là học được hình dạng và màu sắc thì sau khi trẻ nói" Táo" ta mở rộng thêm
"Táo đỏ"
Tiến hành hỗ trợ
Tiến hành hỗ trợ là chiến lược dùng ngôn ngữ, phi ngôn ngữ và thể chất để kích
thích, giúp trẻ có thể học và phát triểnkĩ năng mục tiêu. Hỗ trợ tạo điều kiện cho trẻ thực
hiện kĩ năng chuẩn xác hơn, hoàn thiện hơn và độc lập hơn. Có 4 hình thức hỗ trợ sau đây
* Một là hỗ trợ thể chất
Có nghĩa là người lớn dùng tay chân trực tiếp dẫn dắt trẻ làm việc nào đó. Khi tiến
hành hỗ trợ thể chất hoàn toàn, người lớn dẫn dắt và kiểm soát cử động của trẻ, thực hiện
"nỗ lực hoàn chỉnh cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ".
* Hai là hỗ trợ làm mẫu
Có nghĩa là người lớn làm mẫu cho trẻ điều cần phải làm hoặc nói và sau cho trẻ cơ
hội bắt chước. Làm mẫu toàn bộ tức là thực hiện mẫu cho tới hết hoạt động, làm mẫu một
phần là chỉ thực hiện mẫu một phần việc mà trẻ cần phải làm.
* Ba là hỗ trợ bằng ngôn ngữ

Có nghĩa là người lớn nói gì đó để tiến hành hỗ trợ cho trẻ. Khi vận dụng hỗ trợ
bằng lời trực tiếp người lớn dùng lời nói cho trẻ biết cách làm một việc gì đó thông quan
mô tả các bước thực hiện. Khi vận dụng hỗ trợ bằng lời gián tiếp, người lớn ngụ ý trẻ phải
làm một việc nào đó những không nói rõ các bước thực hiện.
* Bốn là hỗ trợ không bằng lời
Người lớn chỉ dùng cử chỉ hoặc cái nhìn mong đợi để nhắc nhở trẻ làm một việc
nào đó, nhưng không trợ giúp thêm bằng cách nói hoặc làm mẫu cho trẻ biết phải làm gì.
7.2. Can thiệp sớm cho trẻ khiếm thị
7.2.1. Khái niệm CTS cho trẻ khiếm thị
CTS cho trẻ khiếm thị là sự hỗ trợ cho trẻ và gia đình trẻ khiếm thị từ khi trẻ được phát
hiện có vấn đề cho đến tuổi học đường (0-6 tuổi).
CTS cho trẻ khiếm thị bao gồm những hướng dẫn hoặc những hoạt động chỉnh trị đặc
biệt nhằm giúp trẻ khiếm thị tăng cường/ cải thiện các mặt phát triển của chúng.
Chương trình can thiệp sớm không chỉ giúp đỡ trẻ mà còn giúp đỡ gia đình trẻ, giúp
cha mẹ có hiểu biết về điều kiện thị giác của con mình và về các dịch vụ ngay ở trong cộng
đồng. Giáo viên và các nhà chỉnh trị hướng dẫn họ cách để giúp trẻ phát triển.
7.2.2. Các giai đoạn can thiệp sớm
CTS và hỗ trợ gia đình trẻ khiếm thị
- Mục tiêu của CTS tại gia đình
Hỗ trợ gia đình để có thể đáp ứng được nhu cầu phát triển của trẻ một cách tốt nhất với
năng lực và khả năng của mình.
- Nội dung, ý nghĩa
Hỗ trợ gia đình là giai đoạn đầu tiên của CTS, một chương trình mà các nhà chuyên
môn làm việc với gia đình theo một cách rất thận trọng để hỗ trợ, động viên và cung cấp
thông tin giúp gia đình có thể biết cách đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu phát triển của con
mình: giúp cha mẹ và gia đình những kĩ năng cần thiết để chăm sóc, giáo dục trẻ.
Sự hỗ trợ này tạo ra một nền tảng vững mạnh cho sự phát triển và giáo dục đối với trẻ
khuyết tật trong tương lai.
- Thời điểm
Can thiệp sớm được bắt đầu càng sớm càng tốt. “Can thiệp sớm có nghĩa là ngay từ khi

trẻ nhỏ bị phát hiện là bị khuyết tật thì những hỗ trợ, thông tin và khuyến khích trở nên rất
có giá trị đối với gia đình.”
- Vai trò của gia đình và chuyên gia CTS
Gia đình có ý nghĩa và ảnh hưởng lớn nhất đến cuộc sống của trẻ khiếm thị. Không thể
xem trẻ khiếm thị như là một thực thể cá biệt, trái lại ta phải xem trẻ như là một thành viên
của hệ thống gia đình có quan hệ tương hỗ. Sự hỗ trợ của chuyên gia cho trẻ sẽ có hiệu quả

- 36 -


thực sự nếu coi gia đình là trọng tâm. Chuyên gia làm việc với trẻ khiếm thị sẽ tạo được
ảnh hưởng nhiều hơn nếu họ hiểu hoặc nhạy cảm và tôn trọng gia đình. Trong những năm
tháng đầu tiên của cuộc đời, tức là từ 0 – 6 tuổi, trẻ phát triển rất nhanh. Chính trong giai
đoạn này, đứa trẻ bắt đầu phát triển hệ thống ngôn ngữ của gia đình và những kĩ năng vận
động, tình cảm và xã hội, đó là những điều kiện cần thiết để trẻ có thể sống độc lập trong
xã hội. Gia đình là môi trường phù hợp nhất vì ở đó trẻ có thể phát triển những kĩ năng
này.
Lúc trẻ còn ở thời kì sơ sinh và đến tuổi chập chững bước đi (0 – 3 tuổi), giáo viên dạy
trẻ khiếm thị thường giúp đỡ phụ huynh hoặc người chăm sóc trẻ cách giới hạn tối đa tình
trạng chậm phát triển ở trẻ. Công tác can thiệp sớm chủ yếu được thực hiện tại nhà của trẻ
và có thể đoán trước được giai đoạn chậm phát triển, ví dụ như góp ý về cách chuẩn bị cho
đứa trẻ trong giai đoạn phát triển tiếp theo, chứ không phải là ngồi đợi cho đến khi mọi
chuyện xảy ra rồi mới can thiệp. Vì lí do này, giáo viên dạy trẻ khiếm thị bao giờ cũng là
một thành viên của nhóm can thiệp sớm cho trẻ trước tuổi học, hoặc ngay khi phát hiện
hoặc nghi nghờ về tật khiếm thị của trẻ. Nếu cứ chờ đợi cho tới khi trẻ đến tuổi học mới
nhờ cậy đến giáo viên chuyên ngành thì có thể gây ra nhiều bất lợi cho sự phát triển của
trẻ; những năm tháng quan trọng đối với việc học hỏi có thể bị đánh mất và sẽ không bao
giờ có thể bù đắp được. Những năm đầu đời là giai đoạn cực kì quan trọng đối với trẻ
khiếm thị và giáo viên chuyên về trẻ khiếm thị cần tham gia càng sớm càng tốt.
CTS tại trường mầm non

CTS tại trường mầm non/ mẫu giáo hòa nhập được coi là giai đoạn thứ hai của chương
trình can thiệp sớm.
Môi trường giáo dục trước tuổi học thích hợp nhất đối với nhiều trẻ khuyết tật là lớp
mầu giáo bình thường mà ở đó có sự hỗ trợ của các nhà chuyên môn.
Với cấp tiền học đường, giáo viên dạy trẻ khiếm thị có thể vừa là chuyên gia can thiệp
sớm – giáo viên – cán bộ tư vấn, tùy theo tuổi của trẻ.
Điều quan trọng là phải chọn lựa kĩ càng chương trình dành cho trẻ khiếm thị trước
tuổi học. Trẻ khiếm thị cần những khuôn mẫu tích cực và cần được giao tiếp với các bạn
đồng trang lứa nhằm kích thích phát triển.
Bao giờ cũng nên có giáo viên dạy trẻ khiếm thị vì họ có thể cho ta những ý kiến, gợi ý
và hỗ trợ khi cần thiết.
Chương trình học phải coi trọng phát triển khái niệm thông qua thực tiễn, kĩ năng xã
hội và kĩ năng tự phục vụ, sự phát triển ngôn ngữ có ý nghĩa, và độc lập.
7.2.3. Tổ chức dịch vụ can thiệp sớm cho trẻ khiếm thị
Nhóm chuyên gia: chuyên gia mắt, chuyên gia trị liệu, chuyên gia tâm lý – giáo dục,
nhân viên xã hội, giáo viên…
Mỗi người tùy theo chuyên môn của mình mà hỗ trợ đứa trẻ và gia đình trẻ. Các
chuyên gia với những chuyên môn khác nhau, kết hợp những mô hình tư vấn liên ngành,
đa chuyên môn với những cách thực hành tối ưu của giáo dục chính qui và giáo dục đặc
biệt trước tuổi học.
Việc tập trung vào sự hợp tác liên ngành và đa chuyên môn sẽ thúc đẩy việc học hỏi
những kĩ năng cần thiết làm việc trong những nhóm có nhiều chuyên môn và có nhiều
ngành.
Ưu điểm của phương pháp làm việc phối hợp đa chuyên môn: cho phép trẻ và gia đình
hưởng lợi từ nhiều chuyên môn khác nhau mà không cần phải gặp gỡ trực tiếp từ nhiều
chuyên gia. Các chuyên gia thuộc các chuyên môn khác nhau sẽ làm việc trên tinh thần
hợp tác để đào tạo lẫn nhau sao cho một chuyên gia có thể cung cấp một loạt dịch vụ quan
trọng.

- 37 -



Nhóm làm việc tổng hợp rất quan trọng. Tùy thuộc vào những chuyên môn khác nhau
của các thành viên mà phân chia công việc. Sự phối hợp giữa cha mẹ, các nhà chuyên môn
thuộc các chuyên ngành khác nhau như nhà tâm lý, bác sỹ nhãn khoa có vai trò quan trọng
trong việc thiết lập một mô hình dịch vụ phối hợp hoàn chỉnh cho trẻ khiếm thị.
¾ Khuyến khích sự tham gia của cha mẹ
Cha mẹ cần nhận thức rõ vai trò quan trọng của mình trong việc chăm sóc và dạy dỗ trẻ
khiếm thị, họ có vai trò là một thành viên tích cực trong đội ngũ những người giáo dục con
em mình. Cha mẹ là người nắm được thông tin về con mình nhiều nhất ở gia đình và họ là
người hiểu con em mình hơn ai hết.
Để phối hợp tốt với gia đình trẻ khiếm thị, giáo viên cần phải hiểu, thực sự thông cảm
và tôn trọng ý kiến và mong muốn của gia đình về trẻ khiếm thị, thực sự là những người
biết “lắng nghe” và tận dụng mọi cơ hội để chia sẻ kinh nghiệm, hiểu biết và thường xuyên
trao đổi với phụ huynh về cách hỗ trợ trẻ khiếm thị trong lớp học, ở gia đình và các mối
quan hệ khác như thế nào.
¾ Phối kết hợp giữa các giáo viên
Thông thường, khi giáo viên đứng lớp dạy hòa nhập cho trẻ khiếm thị, họ phải gánh
vác trách nhiệm giáo dục hai đối tượng trẻ khác nhau trong một lớp, vì vậy họ cần phải có
sự hỗ trợ của các giáo viên phụ và đặc biệt, giáo viên đứng lớp không phải là người chuyên
sâu về giáo dục trẻ khiếm thị. Vì vậy cần phải có giáo viên tư vấn giúp đỡ họ về cách
chuẩn bị đồ dùng, phương pháp, cách sử dụng các công cụ hỗ trợ để xây dựng được mục
tiêu giáo dục phù hợp đáp ứng được nhu cầu của trẻ khiếm thị.
Các giáo viên tư vấn có thể là một thành viên chịu trách nhiệm về công tác giáo dục trẻ
khuyết tật ở một khu vực hoặc là một giáo viên nguồn chuyên trách trong trường hòa
nhập. Có thể giáo viên tư vấn đến từ các trung tâm nguồn về giáo dục trẻ khuyết tật và hỗ
trợ cho giáo viên đứng lớp theo định kì nhất định.
¾ Vai trò của các nhà chuyên môn và sự hợp tác của các nhà chuyên môn
• Vai trò của các nhà chuyên môn:
Chuyên gia về khiếm thị

Một chuyên gia khiếm thị (cũng có thể gọi là giáo viên chuyên ngành khiếm thị) là
giáo viên được đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu giáo dục của trẻ khiếm thị. Các giáo viên
này có thể làm việc trực tiếp với trẻ khiếm thị trong các lĩnh vực sau:
- Kích thích vận động của trẻ bằng cách giới thiệu những đồ chơI gây hứng thú về thị
giác và xúc giác
- Kích thích trẻ sử dụng tất cả các giác quan
- Dạy trẻ kĩ năng tiền đọc như dõi ngón tay theo các vị trí
- Dạy đọc chữ nổi
- Giúp trẻ rèn luyện kĩ năng sống hàng ngày như: ăn, mặc
GV hỗ trợ về khiếm thị
Giáo viên hỗ trợ là giáo viên đi đến các trường và hỗ trợ cho các giáo viên khác
dạy trẻ khiếm thị hòa nhập. Những giáo viên hỗ trợ này có thể giúp đỡ giáo viên lựa chọn
đồ chơi và đồ dùng dạy học phù hợp, có thể định hướng cho giáo viên và cha mẹ có điều
chỉnh môi trường giáo dục hiệu quả và có thể đưa ra những hướng dẫn cho giáo viên đứng
lớp khi dạy trẻ khiếm thị. Thông thường, giáo viên hỗ trợ sẽ không làm việc trực tiếp với
trẻ khiếm thị mà họ sẽ đưa ra những lời khuyên cho giáo viên đứng lớp, cho ban giám hiệu
trường hòa nhập và cho gia đình trẻ khiếm thị.
Chuyên gia về định hướng di chuyển
Chuyên gia định hướng di chuyển là những người có bằng cấp được đào tạo chuyên
để dạy những người khiếm thị đi lại một cách hiệu quả và an toàn. Thông thường, các
- 38 -


chuyên gia này làm việc độc lập với cá nhân dạy trẻ khiếm thị. Lúc đầu người hướng dẫn
sẽ tập trung vào giúp trẻ hiểu các khái niệm có liên quan đến không gian và các hướng
trái, phải, trên, dưới. Sau đó, các chuyên gia định hướng di chuyển sẽ bắt đầu dạy trẻ các kĩ
năng đi lại độc lập (trong phòng, từ phòng này sang phòng khác và ra sân chơi). Các
chuyên gia định hướng di chuyển sẽ dạy trẻ khi nào thì sử dụng người sáng dẫn đường là
phù hợp, khi nào thì dùng gậy, và khi trẻ lớn hơn thì lúc nào sử dụng chó dẫn đường.
Bác sỹ nhãn khoa – chuyên gia mắt về nhìn kém

Chuyên gia nhìn kém có thể là một bác sỹ nhãn khoa hoặc một chuyên gia đào tạo
của trường đại học. Chuyên gia này giúp trẻ tận dụng tối đa khả năng nhìn còn lại của trẻ.
Chuyên gia về nhìn kém sẽ làm việc với trẻ và tìm ra cách tốt nhất để tăng cường thị giác
thông qua các công cụ trợ giúp như kính lúp cầm tay, kính viễn vọng, máy phóng đại, tivi
chuyên dụng.
Các chuyên gia nhìn kém không phải chỉ là các bác sỹ chăm sóc mắt bình thường.
Các chuyên gia này còn làm việc với các chuyên gia khiếm thị, chuyên gia về định hướng
di chuyển để đưa ra quyết định sử dụng thiết bị trợ thị nào là phù hợp và hiệu quả với từng
trẻ. Các chuyên gia khiếm thị, chuyên gia định hướng di chuyển sẽ giúp trẻ sử dụng các
thiết bị này.
Chuyên gia phụ trách trẻ khuyết tật trong khu vực
Là người chịu trách nhiệm lập kế hoạch cho trẻ trong chương trình mầm non.
Người này sẽ kết hợp tất cả các dịch vụ cho nhu cầu của trẻ. Từ kế hoạch chuẩn bị, sắp xếp
các cuộc họp với chuyên gia khiếm thị, thì các trẻ tham gia CTS có chất lượng đều được
các chuyên gia phụ trách trong khu vực giúp đỡ.
Các chuyên gia khác
Trẻ khiếm thị có thể nhận được những hỗ trợ của các chuyên gia khác như: chuyên gia
trị liệu hoạt động (giúp trẻ sử dụng kĩ năng vận động tinh như cầm bút, thìa hoặc cài khuy),
nhà chỉnh trị về thể chất (tập luyện các kĩ năng vận động thô: ngẩng đầu, bước đi, ngồi,…)
chỉnh trị về ngôn ngữ và lời nói (giúp trẻ hiểu và diễn đạt ngôn ngữ), giáo viên đặc biệt
giúp trẻ trong các kĩ năng học đường (nhận biết hình), đọc và làm toán.
¾ Sự phối hợp của các tổ chức xã hội
ở nước ta hiện nay, ngoài hệ thống các trường trực thuộc Bộ giáo dục và đào tạo tham
gia vào công tác giáo dục hòa nhập cho trẻ khiếm thị thì còn có sự đóng góp không nhỏ
của các tổ chức/ hội khác như: hội người mù, hội phụ nữ, đoàn thanh niên,…
- Hội người mù: có những địa phương Hội người mù là nơi cung cấp đồ dùng học tập
(sách chữ nổi, bảng viết chữ nổi, giấy viết) cho trẻ mù và Hội còn đóng vai trò hỗ trợ cho
trẻ mù có nhiều khó khăn.
- Hội phụ nữ, đoàn thanh niên: có thể tham gia trong việc vận động nhận thức của cộng
đồng đối với gia đình có trẻ khiếm thị, các tổ chức này có những cán bộ hỗ trợ cộng đồng,

tình nguyện viên tham gia giúp đỡ giáo viên dạy trẻ khuyết tật trong lớp học.
Làm tốt công tác phối hợp các lực lượng giáo dục cũng góp phần cho thành công của
công tác giáo dục hòa nhập cho trẻ khiếm thị.

- 39 -


Các khía cạnh của việc suy giảm thị giác
Rối loạn thị giác
Khiếm thị
Khuyết tật thị giác
Bộ phận cơ thể
Thay đổi về
Thay đổi về
Kĩ năng và
giải phẫu
chức năng
khả năng
Chất lượng của mắt

Tàn tật thị giác
Người
Hệ quả về kinh tế và
xã hội

Chất lượng cuộc sống

Can thiệp y tế, luyện Dụng cụ trợ thị, thiết bị được Can thiệp xã hội, tư vấn, giáo
tập
điều chỉnh

dục
Mô hình can thiệp sớm
7.2.4. Tổ chức can thiệp sớm cho trẻ khiếm thị
* Phát hiện, chẩn đoán và đánh giá sớm tật khiếm thị
Phát hiện sớm tật khiếm thị
Phát hiện sớm tật khiếm thị là một yếu tố quan trọng nhằm tiến tới đánh giá chính xác
khả năng thị giác của trẻ.
Có thể phát hiện sớm tật khiếm thị của trẻ qua một số những dấu hiệu hoặc bằng
chứng/ nguyên nhân có thể gây khiếm thị:
- Rủi ro trong thai nghén và sinh sản
- Quan sát
Phát hiện trẻ có vấn đề về thị giác (dùng cho trẻ sơ sinh)
Nếu trẻ sơ sinh thể hiện bất cứ một điểm nào trong danh sách các dấu hiệu dưới đây, trẻ
cần phải được đưa đến bác sỹ và nhà chuyên môn để khám mắt:
¾ 3 tháng chưa biết liên hệ mắt
¾ 3 tháng mà kĩ năng nhìn cố định kém
¾ 6 tháng mà với tới các đồ vật không chính xác
¾ Hai mắt chuyển động không đồng đều
¾ Mắt chuyển động ngang hay thẳng đứng quá nhanh
¾ Không có đồng tử trong và đen (giác mạc bị mờ, con ngươi trắng,..)
¾ Thường xuyên ướt nước mắt khi trẻ không khóc
¾ Có phản ứng rất không thoảivới ánh sáng mạnh
¾ Màng két thường xuyên bị đỏ
¾ Sụp mí mắt làm che khuất đồng tử
¾ Hình dáng, cõ và cấu tạo mắt bất thường rõ rệt
¾ Không có “nụ cười phản ứng”
¾ Không có phản ứng nhìn, với hoặc nắm đồ vật
Chẩn đoán sớm tật khiếm thị
Cả hai đối tượng chuyên nghiệp để đo thị giác và xác định xem liệu đứa trẻ có bị khiếm
thị không:

- Bác sĩ nhãn khoa, người được đào tạo chuyên ngành về chẩn đoán và điều trị các
bệnh và tình trạng mắt
- Bác sĩ đo thị lực, nhiệm vụ của bác sĩ này là đo thị lực, thị trường, mô tả loại kính
thuốc tương ứng.

- 40 -


- Cả bác sĩ nhãn khoa và bác sĩ đo thị lực đều có thể đưa ra những nhận định ban đầu:
liệu đứa trẻ của bạn có bị khiếm thị không?
Đánh giá thị giác chức năng
* Tổ chức can thiệp sớm tại gia đình
Vai trò, nhiệm vụ của chuyên gia giáo dục trẻ khiếm thị trong công tác hỗ trợ gia đình
Vai trò
- Là người làm mẫu
- Cung cấp thông tin: giúp cha mẹ và gia đình hiểu tật khiếm thị, những vấn đề về hành
vi, sự phát triển, chơi và môi trường.
- Tham vấn và hỗ trợ
- Là người quan sát
- Hướng dẫn
- Phát triển và điều chỉnh đồ chơi, đồ dùng, vật liệu…
Nhiệm vụ
- Tìm hiểu điểm mạnh của trẻ
- Nói chuyện với cha mẹ
- Tiếp cận với trẻ: chơi và hướng dẫn trẻ.
Một số kĩ năng trong hướng dẫn phụ huynh trẻ khiếm thị

Quy trình tiếp xúc
Tạo lập mối quan hệ-> tìm hiểu thông tin-> xác định vấn đề->
giải quyết vấn đề-> hẹn lần gặp tiếp theo.

Kĩ năng giao tiếp mang tính hỗ trợ
- Là một người hỗ trợ với gia đình trẻ, trước hết giáo viên phải có thái độ biết lắng
nghe, đồng cảm với cha mẹ trẻ.
- Tạo nhiều cơ hội để gia đình chia sẻ thông tin và đặt câu hỏi. Muốn làm như vậy phải
tạo cho gia đình tâm lý tin cậy vào bạn, coi bạn như một người thân thiết.
- Khi chia sẻ thông tin với cha mẹ, hãy động viên họ sử dụng cách giao tiếp trực tiếp để
bày tỏ những mối quan ngại và các vấn đề ưu tiên của mình.
Kĩ năng tổ chức các buổi thảo luận, cuộc họp với gia đình
Khi phát hiện những vấn đề mà giáo viên cần hỗ trợ cho phụ huynh, giáo viên cần phải
tổ chức các cuộc họp riêng với từng gia đình trẻ. ở những cuộc họp này, giáo viên sẽ cùng
bàn bạc với gia đình, thuyết phục họ lựa chọn mục đích, cách thức chăm sóc và giáo dục
phù hợp với con em mình nhất. Để các buổi thảo luận, các cuộc họp thành công, giáo viên
cần chú ý các kĩ năng sau:
- Nêu rõ mục đích của buổi họp/ thảo luận và tập trung vào các mục đích này
- Chuẩn bị tổ chức tốt về địa điểm, thời gian
- Chuẩn bị kĩ càng nội dung/ tài liệu của cuộc họp/ thảo luận
- Tôn trọng ý kiến của phụ huynh và các thành viên: lắng nghe, khuyến khích, phản
hồi, khái quát, đặt câu hỏi, động viên,…
Kĩ năng chuẩn bị tài liệu hướng dẫn phụ huynh
Tài liệu hướng dẫn phụ huynh không phải đơn thuần là đưa cho họ những quyển sách
về chuyên môn về giáo dục trẻ khiếm thị mà giáo viên phải biết lựa chọn kiến thức, chắt
lọc và biên soạn thành các tập tài liệu dễ hiểu, dễ sử dụng và phải phù hợp với nhu cầu của

- 41 -


từng phụ huynh. Nó đòi hỏi giáo viên phải biết lựa chọn, biết tự thiết kế tài liệu phù hợp
với đối tượng mà mình hướng dẫn. Như vậy, giáo viên cần có các kĩ năng sau:
- Biết đánh giá được nhu cầu và mức độ hiểu biết của đối tượng hướng dẫn.
- Biết lựa chọn và chắt lọc thông tin.

- Kĩ năng vi tính.
- Biết sáng tạo tài liệu có tính thẩm mỹ, logic để hấp dẫn người xem.
Kĩ năng thu thập thông tin
Kĩ năng đặt câu hỏi trong đánh giá thị giác chức năng:
- Dùng câu hỏi mở để thu được thông tin chính xác về trẻ, gia đình trẻ.
- Giáo viên phải linh hoạt trong cuộc nói chuyện, đánh giá
- Chuẩn bị hệ thống câu hỏi, ngôn ngữ phù hợp với trẻ và gia đình.
- Phải có phản hồi lại thông tin mà gia đình trẻ cung cấp, xem thông tin đó có đúng
không?
Các thông tin cần thu được qua:
- Quan sát
- Đánh giá
- Bảng hỏi
Kích thích và rèn luyện một số kĩ năng cho trẻ khiếm thị
Kĩ năng tình cảm, xã hội
Có nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến sự phát triển tình cảm tự nhiên giữa trẻ
khiếm thị và cha mẹ. Một trong những yếu tố này là do tình trạng mắt gây nên. Tiếp xúc cơ
thể buộc phải thay thế cho tiếp xúc mắt khi trẻ giao tiếp với mẹ. Cha mẹ cần ôm ấp, vỗ về,
vuốt ve và bế ẵm trẻ khiếm thị nhiều hơn; kết hợp với những âm thanh và lời nói dịu dàng,
an ủi để giúp trẻ hình thành sự ràng buộc tình cảm giữa họ và trẻ.
Trẻ có nhiều phản ứng với mẹ. Một em bé khiếm thị có thể không có những cử
động sôi nổi, phấn chấn như cha mẹ vẫn mong muốn mỗi khi họ ở gần con. Họ cần hiểu
rằng lí do khiến con mình thụ động và im lặng mỗi khi họ ở cạnh con là bởi vì trẻ đang tập
trung lắng nghe họ. Trẻ có thể có những cử động rất khẽ ở ngón tay và các đầu ngõn chân,
đó cũng chính là phản ứng của chúng với tiếng nói của cha mẹ nhưng cha mẹ rất hay quên
điều này.
Khi đưa con đi làm chuẩn đoán tật khiếm thị, cha mẹ thường cảm thấy mình có tội
và phải chịu trách nhiệm về tật bệnh của con mình và từ đó tạo nên được mối quan hệ tốt
giữa mẹ và trẻ.
Kĩ năng vận động

- Do mắt kém hoặc không còn nhìn thấy gì, trẻ khiếm thị dễ bị hạn chế về khả năng
vận động. Việc sinh hoạt hàng ngày như tắm táp và mặc quần áo cũng như mát xoa có thể
giúp trẻ hiểu rằng nó đang tách biệt với thế giới xung quanh. Một hình ảnh chính xác về cơ
thể có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của hoạt động điều phối, tư thế và vận
động sau này.
- Trẻ mù thường chỉ có một tư thế nhất định. CHúng thiếu động lực để xoay người,
lẫy. Quá trình phát triển tự nhiên này trở nên khó khăn khi trẻ không nhìn thấy gì và người
lớn phải dạy trẻ qua các hoạt động chơi, khuyến khích dùng những âm thanh, tiếng động
hấp dẫn để kích thích. Ngoài ra cần chú ý:

- 42 -


×