LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng Luận văn này là
công trình nghiên cứu hoàn toàn của tôi dưới sự
hộ trợ của giáo viên hướng dẫn. Các nội dung
nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung
thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ
công trình nào. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm
về Luận văn này nếu có sự tranh chấp.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Văn Duy
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN..................................................................................................................................1
MỤC LỤC...........................................................................................................................................2
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................1
CHƯƠNG 1........................................................................................................................................5
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIA ĐÌNH................................................................................5
1.1. KHÁI NIỆM GIA ĐÌNH..............................................................................................................5
1.1.1. Gia đình theo quan điểm triết học...................................................................................5
1.1.2. Gia đình theo quan điểm xã hội học ...............................................................................7
1.1.3. Gia đình theo quan điểm luật học...................................................................................9
1.2. VAI TRÒ VÀ CÁC CHỨNG NĂNG CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI
HIỆN NAY.....................................................................................................................................15
1.3. NHỮNG YẾU TỐ CHI PHỐI ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA GIA ĐÌNH TRONG CÁC
GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ.....................................................................................................................18
1.3.1. Đạo đức.........................................................................................................................18
1.3.2. Yếu tố văn hóa, phong tục tập quán..............................................................................20
1.3.3. Yếu tố kinh tế - xã hội – khoa học kỹ thuật....................................................................21
1.3.4. Yếu tố tôn giáo..............................................................................................................21
1.4. KHÁI QUÁT SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT HN&GĐ VỀ GIA ĐÌNH QUA CÁC THỜI KỲ.......23
1.4.1. Gia đình theo quy định của pháp luật phong kiến Việt Nam .........................................23
1.4.2. Gia đình theo quy định của pháp luật Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc.............................26
1.4.3. Gia đình theo quy định của pháp luật Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám đến nay.....27
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG ĐIỀU CHỈNH VỀ GIA ĐÌNH THEO LUẬT HN&GĐ NĂM 2014........................32
2.1. QUAN HỆ GIỮA VỢ VÀ CHỒNG.............................................................................................33
2.1.1. Quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng............................................................................34
2.1.2. Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng..................................................................................44
Đối với loại tài sản này, luật đã quy định rất rõ những loại tài sản là tài sản chung như sau:
Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng ......................................................................................44
- Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất. Nghĩa là vợ chồng có quyền
ngang nhau trong việc khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung. Điều này
cũng thể hiện rất rõ trong Điều 29 luật hôn nhân gia đình 2014. Nguyên tắc chung về chế độ
tài sản của vợ chồng................................................................................................................47
2.1.3. Chấm dứt hôn nhân .....................................................................................................65
Điều 67. Quan hệ nhân thân, tài sản khi vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết mà trở về.............75
2.2. QUAN HỆ GIỮA CHA MẸ VÀ CON..........................................................................................76
2.2.1. Việc xác định cha, mẹ, con ............................................................................................76
Đối với trường hợp sinh con tự nhiên, người sinh con ra đương nhiên được coi là người mẹ
của đứa con, còn đối với việc xác định người cha thì trong trường hợp sinh con trong giá thú
thì con được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân
là con chung của vợ chồng. Điều này có thể hiểu rằng cho dù con có được thành thai trước
hoặc trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng thì bằng phương pháp suy đoán, người chồng
đương nhiên là cha của đứa trẻ. Ngoài ra, trong thực tế người vợ có thể mang thai nhiều hơn
280 ngày nên pháp luật cũng có quy định Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ
thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân
theo Điều 88 Luật hôn nhân gia đình 2014. Như trên đã trình bày thì thời điểm chấm dứt hôn
nhân ở đây được hiểu là thời điểm bản án, quyết định của Tòa án về việc ly hôn của vợ chồng
có hiệu lực hoặc kể từ thời điểm người cha chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết mà không
phải là thời điểm hai bên không chung sống với nhau. Trên thực tế có nhiều trường hợp hai
vợ chồng ly thân một thời gian dài trước khi bản án, quyết định ly hôn chính thức có hiệu lực.
Tuy nhiên trong khoảng thời gian trong vòng 300 ngày sau khi hôn nhân chấm dứt thì người
vợ sinh con thì theo quy định trên người chồng vẫn được coi là cha của đứa bé do người vợ
sinh ra. Đối với trường hợp sinh con ngoài giá thú thì Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn
và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng. Trong trường hợp người cha không
nhận con thì nó là con riêng của vợ và sau này, người con có quyền yêu cầu Tòa án xác định
người đó là cha mình khi chứng minh được. Và khi người cha không nhận con thì phải có
chứng cứ chứng minh được người con đó không phải là con của mình mà là con của một
người khác...............................................................................................................................78
2.2.2. Quyền và nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con.........................................................................85
Nghĩa vụ và quyền của con. ...................................................................................................87
Kế thừa Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và Luật Hôn nhân và gia đình 1986, luật hôn
nhân và gia đình năm 2000, luật hôn nhân gia đình 2014 quy định: Điều 70. Quyền và nghĩa
vụ của con................................................................................................................................87
2.3. QUAN HỆ GIỮA CÁC THÀNH VIÊN KHÁC TRONG GIA ĐÌNH..................................................90
2.3.1. Quan hệ giữa anh, chị, em với nhau..............................................................................90
Ngoài ra, anh chị em còn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau theo quy định tại điều 112 luật
hôn nhân gia đình. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa anh, chị, em......................................................91
2.3.2. Mối quan hệ giữa ông bà và cháu..................................................................................92
2.3.3. Quan hệ giữa cô, dì, chú, bác, cậu ruột và cháu ruột.....................................................94
CHƯƠNG 3......................................................................................................................................96
THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ GIA ĐÌNH TRONG LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT NAM
2014 VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ...........................................................................................................96
3.1. THỨC TIỄN THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ GIA ĐÌNH TRONG LUẬT HÔN NHÂN
GIA ĐÌNH VIỆT NAM 2014............................................................................................................96
3.2. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ GIA ĐÌNH......................99
“Sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng .......................105
KẾT LUẬN.......................................................................................................................................106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................109
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Lời nói đầu của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã thể hiện tầm
quan trọng của gia đình: “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng
con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp
phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới
tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt”.
Gia đình là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Mỗi ngành
khoa học có cách nhìn khác nhau, nghiên cứu về gia đình với những mục tiêu
khác nhau. Nói đến gia đình là nói đến các thành viên gia đình cùng chung
sống, đùm bọc và giúp đỡ nhau. Dưới góc độ pháp lý, nghiên cứu về gia đình
nhằm xác định thành viên gia đình, mối quan hệ giữa những thành viên gia
đình để từ đó quy định nghĩa vụ và quyền tương ứng đối với mỗi thành viên.
Trải qua các thời kỳ khác nhau thành viên gia đình cũng có sự thay đổi nhất
định. Tuy nhiên, xác định quan hệ gia đình vẫn dựa trên các mối quan hệ
chính là quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng.
Theo pháp luật hiện hành, quan hệ gia đình được hiểu theo nghĩa rất hẹp.
Chẳng hạn, quan hệ hôn nhân chỉ được hiểu là quan hệ giữa người nam và
người nữ có đăng ký kết hôn. Quan hệ huyết thống dường như cũng chỉ được
hiểu là quan hệ giữa những người có cùng huyết thống về trực hệ và những
người có họ trong phạm vi ba đời. Trong quan hệ nuôi dưỡng cũng chỉ có
quan hệ giữa cha mẹ và các con của người nhận nuôi với người con nuôi. Các
thuật ngữ mà trong đời sống hàng ngày người Việt Nam vẫn sử dụng như
quan hệ họ hàng, thân thích, thân thuộc.
Trước thực tiễn đó đòi hỏi phải nghiên cứu để làm sáng tỏ về gia đình phải có
sự nghiên cứu và tìm hiểu về, để từ đó xây dựng những quy phạm pháp luật
điều chỉnh các mối quan hệ trong gia đình, sao cho các hành vi của các thành
1
viên gia đình phải đúng chuẩn mực đạo đức xã hội. Nghiên cứu đề tài “Gia
đình trong luật hôn nhân gia đình Việt Nam” để phục vụ cho mục đích đó.
2.
Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay đã có nhiều học giả nghiên cứu về gia đình, không chỉ có riêng
ngành luật mà nhiều ngành khoa học khác cũng tham gia vào vấn đề này.
Trong lĩnh vực pháp luật, chuyên ngành Luật Hôn nhân và gia đình đã có
nhiều bài viết về các khía cạnh của gia đình như: Quan hệ nhân thân giữa vợ
chồng; quan hệ cha mẹ con, … Một số đề tài hiện đã đề cập đến thành viên
gia đình như: Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam , Tập I
– Gia đình , NXB Trẻ TP.HCM của TS.Nguyễn Ngọc Điện (2002); Việt Nam
dân luật lược giảng – Luật gia đình. Quyển tập 1, tập 1 của Vũ Văn Mẫu
(1973); ... Tuy nhiên, những tác phẩm này còn phân tích một cách rời rạc và
chưa tạo ra cách nhìn có hệ thống về gia đình
Đây là công trình nghiên cứu về gia đình một cách có hệ thống và hoàn chỉnh,
có sự so sánh đối chiếu với một số ngành khoa học khác, có sự kết hợp giữa
lý luận và thực tiễn để đưa ra được sự điều chỉnh của pháp luật về gia đình
một cách phù hợp nhất. Công trình là cái nhìn xuyên suốt các quy phạm pháp
luật quy định về thành viên gia đình trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
3.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài là nghiên cứu vấn đề lý luận chung về gia đình, cơ sở
để phát sinh, hình thành gia đình, mối quan hệ, quyền và nghĩa vụ của các
thành viên gia đình theo quy định của pháp luật. Đồng thời nghiên cứu thực
tiễn áp dụng pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa các thành viên gia đình,
từ đó làm rõ những điểm đã đạt được, vướng mắc hạn chế cần hoàn thiện
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận gia đình
từ nhiều góc độ khác nhau, đặc biệt là từ góc độ luật HN&GĐ . Nghiên cứu
về các mối quan hệ tạo thành gia đình theo luật HNGĐ Việt Nam năm 2014,
2
trên cơ sở phân tích, so sánh với các quy định điều chỉnh quan hệ gia đình
trong các văn bản pháp luật trước đây. Đồng thời nghiên cứu thực tiễn áp
dụng các quy định điều chỉnh về gia đình trong cuộc sống hiện tại.
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về những vấn đề lý luận về gia đình theo quan điểm
luật học mà chủ yếu là luật HNGĐ. Những quy định của pháp luật điều chỉnh
về gia đình và các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Thực tiễn
thực hiện các quy định của pháp luật về gia đình
4.2.
Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của luận văn, vấn đề gia đình được xem xét, nghiên cứu theo
Luật HN&GĐ năm 2014 theo 3 mối quan hệ cơ bản tạo thành gia đình là
quan hệ giữa vợ và chồng, quan hệ giữa cha mẹ và con và quan hệ giữa các
thành viên khác trong gia đình. Trong quá trình nghiên cứu có sự so sánh, đối
chiếu với các quy định điều chỉnh về gia đình trong hệ thống pháp luật
HNGĐ Việt Nam. Trên cơ sở đó đánh giá về hiệu quả điều chỉnh, việc áp
dụng các quy định hiện hành về gia đình để phát hiện những điểm vướng
mắc, bất cập và đưa ra các đề xuất, kiến nghị.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp cụ thể như: Phương pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh, đối chiếu, hệ thống, diễn giải, quy nạp ..để thực hiện các
mục tiêu đã đặt ra
6. Tính mới và đóng góp của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên sâu, tương đối toàn diện, có hệ
thống về sự điều chỉnh của pháp luật về gia đình từ góc độ lý luận và thực
tiến theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
3
- Luận văn đã: phân tích khái quát trên cơ sở khoa học để xây dựng khái niệm
gia đình và thành viên gia đình, cũng như khắc họa được những chức năng cơ
bản của gia đình trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay, để từ đó làm rõ cơ sở
xây dựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ trong gia đình
hiện nay một cách hiệu quả..
- Đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh gia đình về
tính khả thi, hiệu quả điều chỉnh cũng như những vướng mắc, bất cập còn tồn
tại cần khắc phục, sửa đổi
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Một số lý luận chung về gia đình
Chương 2. Nội dung điều chỉnh về gia đình theo luật hôn nhân gia đình
năm 2014
Chương 3. Thực tiễn thực hiện các quy định về gia đình trong luật hôn
nhân gia đình Việt Nam và một số kiến nghị
4
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIA ĐÌNH
1.1. KHÁI NIỆM GIA ĐÌNH
1.1.1. Gia đình theo quan điểm triết học
Triết học nghiên cứu gia đình trong quá trình phát triển của lịch sử và các
hình thái kinh tế - xã hội. Theo quan điểm triết học, hôn nhân và gia đình
không ngừng vận động và phát triển. Theo C.Mac – Ph.Anghen thì có ba hình
thức hôn nhân chính tương ứng với ba giai đoạn phát triển của nhân loại: Ở
thời đại mông muội có chế độ quần hôn; ở thời đại dã man có chế độ hôn
nhân cặp đôi; ở thời đại văn minh có chế độ một vợ một chồng [2 tr55-129].
Gia đình là một phạm trù lịch sử, các hình thái và chức năng của gia đình
là do tính chất của quan hệ sản xuất, quan hệ xã hội cũng như trình độ phát
triển văn hóa của xã hội quyết định. Trong lịch sử đã trải qua bốn hình thái
gia đình, đó là gia đình huyết tộc, gia đình pu-na-lu-an, gia đình cặp đôi, gia
đình một vợ một chồng.
Gia đình huyết tộc là hình thái gia đình đầu tiên trong lịch sử. Lúc này
các tập đoàn hôn nhân đều phân theo thế hệ: Trong phạm vi gia đình, tất cả
ông và bà đều là vợ chồng với nhau; các con của ông bà tức là các người cha
và các bà mẹ cũng là vợ chồng với nhau; đến lượt con cái của những người
này tức là cháu của ông bà cũng hợp thành một nhóm vợ chồng thứ ba; đến
lượt con cái của những người con ấy là chắt của ông bà nói đầu tiên lại hợp
thành nhóm vợ chồng thứ tư. Như vậy, những người cùng thế hệ là vợ chồng
của nhau, những người khác thế hệ không có quyền và không có nghĩa vụ vợ
chồng với nhau.
Gia đình pu-na-lu-an: Khi xã hội phát triển đến một giai đoạn nhất định,
một hay nhiều nhóm chị em gái trở thành hạt nhân của một cộng đồng, còn
5
những anh em trai cùng mẹ của họ lại trở thành hạt nhân của một cộng đồng
khác. Bằng cách này mà từ hình thái gia đình huyết tộc đã xuất hiện hình thái
gia đình pu-na-lu-na. Theo hình thái gia đình pu-na-lu-an, một số chị em gái
cùng mẹ hay xa hơn đều là vợ chung của những người chồng chung, trừ
những anh em trai của những người này. Khi các anh em trai cùng có vợ
chung thì họ trở thành chồng chung. Lúc đó, những người này không cần coi
nhau là anh em mà gọi nhau là “người bạn đường” hay “người cùng hội cùng
thuyền”. Một cách tương tự, một số anh em trai cùng mẹ hoặc xa hơn, đều lấy
chung một số vợ không phải là chị em gái của họ và những người vợ ấy đều
gọi nhau là pu-na-lu-a. Đây là hình thức cổ điển của một kết cấu gia đình có
đặc trưng là: Chung chồng, chung vợ với nhau trong phạm vi một gia đình
nhất định, nhưng phải loại trừ những anh em trai của các người vợ, đồng thời
cũng loại trừ những chị em gái của những người chồng.
Gia đình cặp đôi: Một loại hình thức kết hôn từng cặp, lúc bấy giờ, trong
số những người vợ của mình, người đàn ông có một vợ chính, và trong số
nhiều người chồng khác, anh ta là người chồng chính của người đàn bà ấy. Do
thị tộc ngày càng phát triển và những nhóm “anh em trai” và “chị em gái”
không còn có thể lấy nhau được nữa ngày càng nhiều, càng mở rộng và phát
triển hơn nữa thì tất cả những người bà con họ hàng cùng dòng máu đều
không được lấy nhau. Trong tình trạng cấm kết hôn ngày càng phức tạp thì
chế độ quần hôn ngày càng không thể thực hiện được, chế độ ấy đang bị gia
đình cặp đôi ngày càng lấn át và thay thế. Một người đàn ông sống với một
người đàn bà với một sự gắn bó với nhau rất lỏng lẻo, mối liên hệ vợ chồng
vẫn có thể bị bên này hay bên kia cắt đứt một cách dễ dàng và con cái lúc này
cũng chỉ thuộc về người mẹ.
Gia đình một vợ một chồng: Gia đình một vợ một chồng nảy sinh từ gia
đình cặp đôi, nó đánh dấu cho buổi ban đầu của thời đại văn minh. Gia đình
6
ấy dựa trên sự thống trị của người chồng, nhằm chủ đích là làm cho con cái
sinh ra phải có cha đẻ rõ ràng không ai tranh cãi được và sự rõ ràng về dòng
dõi đó là cần thiết, vì những đứa con đó sau này sẽ được thừa hưởng tài sản
của người cha với tư cách là người kế thừa trực tiếp. Gia đình một vợ một
chồng khác với gia đình cặp đôi ở chỗ là quan hệ vợ chồng chặt chẽ hơn
nhiều, hai bên không còn có thể tùy ý bỏ nhau được nữa.
Qua bốn hình thái gia đình trên ta thấy triết học không nghiên cứu gia
đình cụ thể ở từng giai đoạn mà nghiên cứu sự vận động và phát triển của nó
theo các hình thái kinh tế - xã hội. Các hình thái gia đình cũng vận động và
phát triển theo quy luật của sự vận động phát triển của các hình thái kinh tế xã hội.
1.1.2. Gia đình theo quan điểm xã hội học
Rất nhiều ngành cùng tham gia nghiên cứu về gia đình cố gắng đưa ra
khái niệm về gia đình như các nhà triết học, tâm lý học, giáo dục học, văn
hóa… nhưng chưa có ngành nào nghiên cứu về gia đình nhiều như ngành xã
hội học. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về gia
đình. Tùy vào từng lĩnh vực nghiên cứu mà mỗi nhà khoa học lại có một khái
niệm gia đình riêng phù hợp với lĩnh vực mà mình nghiên cứu. Có thể nói,
chưa có ngành nào lại đưa ra nhiều khái niệm gia đình như ngành xã hội học.
Trong Tập bài giảng Xã hội học của Trường Đại học luật Hà nội, nhóm
tác giả đã nêu hai khái niệm về gia đình để phục vụ cho việc giảng dạy:
Gia đình là một thiết chế xã hội, trong đó những người có quan hệ ruột
thịt (hoặc đặc biệt cùng chung sống). Gia đình là một phạm trù biến đổi
mang tính lịch sử và phản ánh văn hóa của dân tộc và thời đại. Gia đình là
trường học đầu tiên có mối quan hệ biện chứng với tổng thể xã hội [8 tr335].
Gia đình – đơn vị xã hội (nhóm xã hội nhỏ), là hình thức tổ chức xã hội
quan trọng nhất của sinh hoạt cá nhân dựa trên hôn nhân và các quan hệ
7
huyết thống, tức là quan hệ vợ chồng, giữa cha và mẹ, giữa anh chị em và
người thân thuộc khác cùng chung sống và có kinh tế chung [8 tr335].
Môn Xã hội học được giảng dạy ở trường Đại học luật là môn học nhằm
mục đích giúp người học hiểu biết hơn về xã hội nhằm nhanh chóng tiếp cận
hiểu biết pháp luật. Thực hiện ba chức năng cơ bản là chức năng nhận thức,
chức năng thực tiễn và chức năng tư tưởng. Khái niệm gia đình được nhóm
tập thể đưa ra cũng không nằm ngoài ba chức năng trên. Do đó, hai khái niệm
trên của tập thể tác giả đã chưa phản ánh một cách đầy đủ về gia đình. Ngoài
hai khái niệm trên thì còn có những khái niệm khác nhau của các tác giả xã
hội học khác khi nghiên cứu về gia đình.
Trong cuốn “Gia đình trong bối cảnh đổi mới”, gia đình được định nghĩa
như sau: Gia đình là một nhóm người có quan hệ với nhau bởi hôn nhân,
huyết thống, hoặc quan hệ nuôi dưỡng, có đặc trưng giới tính qua quan hệ
hôn nhân, cùng chung sống, có chung ngân sách [31 tr114]. Do trong thực
tiễn tồn tại nhiều loại mô hình gia đình nên việc nghiên cứu gia đình và giới
trong thời kỳ đổi mới nhằm thực hiện quản lý xã hội của các nhà quản lý cũng
chỉ nghiên cứu những gia đình mang tính chất tiêu chuẩn. Do vậy, khái niệm
nêu trên cũng chưa thực sự đầy đủ và bao quát hết mọi gia đình trong xã hội.
Khi nghiên cứu xã hội học về “Một số lĩnh vực nghiên cứu của xã hội
học”, nhóm tác giả đã đưa ra khái niệm về gia đình cho lĩnh vực mình nghiên
cứu như sau. Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù,một nhóm xã hội nhỏ
mà các thành viên của nó gắn bó với nhau bởi mối quan hệ hôn nhân, quan
hệ huyết thống hoặc quan hệ con nuôi,bởi tính cộng đồng về sinh hoạt, trách
nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp ứng những nhu cầu riêng của các thành
viên cũng như để thực hiện tính tất yếu của xã hội về tái sản xuất con người
[35 tr310]. Khái niệm do tác giả đưa cũng chưa phản ánh đầy đủ về gia đình
8
bởi hình thức gia đình rất đa dạng. Khái niệm này khá tương đồng với quy
định tại khoản 10 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Mặc dù chưa có một khái niệm chung về gia đình nhưng các nhà xã hội
học đều ghi nhận gia đình là một nhóm xã hội nhỏ, trong đó các thành viên có
quan hệ quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hay quan hệ nuôi dưỡng,
cùng chung sống. Bởi tính đa dạng của gia đình mà làm cho bất cứ một khái
niệm nào về gia đình cũng trở nên lỏng lẻo, điều này đã tạo nên nhiều tranh
luận giữa các nhà khoa học, nó đã và đang thách thức các nhà khoa học xã hội
học đưa ra một định nghĩa đầy đủ về khái niệm gia đình.
Xã hội học coi gia đình là một thể chế xã hội luôn vận động và phát triển.
Vì gia đình là một thể chế nên mỗi con người từ khi sinh ra đã đặt vào những
quan hệ nhất định. Gia đình là một cơ thể sống, nằm trong quá trình phát triển
không ngừng, gắn với sự phát triển chung của xã hội. Khi xã hội phát triển, sự
phân chia lao động càng được đẩy mạnh, gắn liền với quá trình công nghiệp
hóa và đô thị hóa sẽ dẫn đến sự xé nhỏ gia đình, từ gia đình lớn trong đó có
nhiều thế hệ chuyển sang gia đình nhỏ chỉ có bố mẹ và con cái. Sự phát triển
từ gia đình gia trưởng sang gia đình hạt nhân trở thành một quá trình có tính
quy luật.
Nhìn chung thì các nhà xã hội học vẫn nhìn nhận gia đình là một thiết
chế xã hội gồm những người dựa trên ba mối quan hệ truyền thống là quan hệ
hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng mà chưa có nhà xã hội
học nào mở rộng ba mối quan hệ trên khi nghiên cứu về gia đình.
1.1.3. Gia đình theo quan điểm luật học
1.1.3.1. Gia đình theo luật La Mã
Nhà nước La Mã rộng lớn ra đời, phát triển và tồn tại trong một thời kỳ
dài của lịch sử. Sự xuất hiện gia đình La Mã là một hiện tượng xã hội tự nhiên
mà theo đó Nhà nước luôn có những quy định nhằm điều chỉnh quan hệ hôn
9
nhân và gia đình theo từng thời kỳ phát triển của lịch sử. Do trải qua nhiều
thời kỳ khác nhau nên những quy định trong các thời kỳ cũng có nhiều sự
khác nhau.
Qua nghiên cứu của nhiều học giả, gia đình La Mã là loại hình gia đình
phụ hệ với quyền lực của người chủ Pater familias. Đó là sự thống nhất giữa
vợ, con cái, họ hàng, kẻ làm thuê và nô lệ dưới sự điều khiển của gia chủ.
Pater familias – chủ hộ theo chế độ hôn nhân và gia đình La Mã – là thể nhân
có toàn quyền (manus) duy nhất trong gia đình. Pater familias tập trung trong
tay mọi quyền lực và quyết định tất cả mọi vấn đề liên quan đến mọi thành
viên gia đình. Chủ gia – Pater familias trong gia đình La Mã là công dân đầy
đủ quyền hạn. Thuật ngữ familia lúc đầu được dùng để chỉ nô lệ trong thành
phần kinh tế gia đình, sau đó được dùng để gọi tất cả những gì thuộc về kinh
tế gia đình: Tài sản và lực lượng lao động, lực lượng lao động trong gia đình
La Mã bao gồm vợ, con, họ hàng, nô lệ, kẻ làm thuê.
Chế độ gia đình La Mã cổ xưa cũng như chế độ quyền sở hữu lúc đó còn
mang dấu ấn của một hình thái đầu tiên, tiền nhà nước – chế độ công xã
nguyên thủy mà đặc điểm cơ bản là sở hữu chung về phương tiện sản xuất và
sản phẩm lao động. Cùng với sự xuất hiện của nhà nước đã xảy ra sự phân
hóa tài sản trong thị tộc: Quyền lực dần dần rơi vào tay những gia đình giàu
có mà đứng đầu những gia đình này là các gia chủ đầy quyền lực. Lúc đầu gia
chủ có quyền lực như nhau (manus) đối với vợ, con, nô lệ, đồ vật. Sau đó
quyền lực nói trên được tách riêng thành quyền lực đối với vợ (manus mariti)
và quyền đối với con cái (manus patria potertas). Gia đình đối ngẫu với sự
phụ thuộc vào một gia chủ đã là sự biểu hiện rõ nhất về quyền lực gia chủ
Pater familias. Trong trường hợp con gái đã đi lấy chồng thì không còn quan
hệ với gia đình đối ngẫu nữa.
10
Vào thời cổ xưa quyền lực của gia chủ là vô hạn. Tuy nhiên, dần dần
quyền lực đó cũng bắt đầu có những giới hạn nhất định, manus Pater familias
– nội dung quyền lực của chủ hộ qua từng thời kỳ tồn tại phát triển của nhà
nước La Mã cũng thay đổi. Tư cách của những người phụ thuộc vào gia chủ
đã được công nhận trong luật dân sự, những thành viên gia đình về sau đã có
quyền tư pháp. Sự suy yếu quyền lực của gia chủ là hậu quả của những biến
đổi các quan hệ sản xuất của sự tan rã gia đình phụ hệ, sự phát triển thương
mại và tiếp theo là sự khẳng định vai trò của những thành viên lớn tuổi trong
gia đình, những người này đã có sự độc lập tương đối. Quan hệ họ hàng dần
dần đã thay thế cho các quan hệ đối ngẫu. Như vậy, hình thái gia đình La Mã
là hình thái chuyển tiếp của chế độ gia đình phụ hệ với đặc thù quyền lực tập
trung trong tay chủ hộ.
Với các đặc trưng của thời kỳ bấy giờ nên khái niệm gia đình trong thời
kỳ La Mã theo các tư liệu lịch sử cổ đại là sự liên minh, liên kết giữa chồng,
vợ, con, những người thân thuộc ruột thịt và cả nô lệ dưới quyền của chủ hộ
[6 tr39].
Từ khái niệm trên của gia đình La Mã cho ta thấy trong gia đình của
người La Mã có các thành viên: Chủ hộ, vợ, con cái, họ hàng, nô lệ và người
làm thuê. Trong đó chủ hộ (pater familias) là người có quyền lực tuyệt đối,
những thành viên khác trong gia đình như vợ, con cái, những người thân
thuộc ruột thịt và nô lệ được coi là lực lượng lao động trong gia đình.
1.1.3.2. Gia đình theo pháp luật Việt Nam
Luật học nhìn nhận gia đình là sự liên kết của nhiều người có quan hệ
với nhau do có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi
dưỡng.
Hôn nhân là mối quan hệ giữa vợ và chồng, là tiền đề để xây dựng gia
đình. Khoản 6 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 giải thích: “Hôn
11
nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn”. Quan hệ hôn nhân giữa
hai bên nam, nữ được xác lập khi tuân thủ các quy định của pháp luật hôn
nhân và gia đình về điều kiện kết hôn và phải được đăng ký tại cơ quan có
thẩm quyền đăng ký kết hôn. Như vậy, khi một người nam và một người nữ
kết hôn với nhau thì giữa hai người này tồn tại quan hệ hôn nhân và hai người
trở thành những thành viên của gia đình.
Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa cha mẹ và con; ông bà và cháu; cụ
và chắt; cô, dì, chú, bác, cậu và cháu; anh chị em với nhau… phát sinh do sự
kiện sinh đẻ. Cụ là người sinh ra ông bà và các anh em của ông bà, thế hệ ông
bà là thế hệ tiếp theo của cụ; ông bà là người sinh ra cha mẹ và các anh em
của cha mẹ như cô dì chú bác cậu, thế hệ này lại là thế hệ tiếp theo của ông
bà; đến lượt cha mẹ là người sinh ra các con, các con trở thành thế hệ tiếp
theo của cha mẹ. Do giữa những người này có những sự kiện là sinh đẻ để tạo
ra thế hệ tương lai hoặc cùng được sinh ra từ một gốc, nên giữa họ có quan hệ
huyết thống với nhau.
Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ phát sinh do sự kiện nuôi con nuôi. Do
việc nhận nuôi con nuôi, người nhận con nuôi được gọi là cha mẹ nuôi và
người được nhận làm con nuôi được gọi là con nuôi. Người con nuôi trở
thành thành viên gia đình của người nuôi, bình đẳng với những người con đẻ
của người nuôi. Khoản 1 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi quy định: “Kể từ ngày
giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền,
nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia
đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của
pháp luật về hôn nhân gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của
pháp luật có liên quan”. Theo quy định trên người con nuôi có đầy đủ quyền
và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật dân sự và pháp luật hôn nhân và gia
đình. Người con nuôi sẽ bình đẳng với mọi người con khác trong gia đình về
12
quyền và nghĩa vụ. Những người này có quan hệ với nhau do cùng quan tâm,
chăm sóc và giúp đỡ lẫn nhau về vật chất và tinh thần, cùng nhau xây dựng
kinh tế gia đình và cũng cùng nhau vun đắp phát triển khối tài sản chung của
gia đình. Trong trường hợp, nếu một trong số những người này có khối tài sản
riêng thì người đó phải đóng góp tài sản để duy trì đời sống chung phù hợp
với thu nhập, khả năng thực tiễn của mình. Những thành viên gia đình là
những người tích cực trong việc giúp đỡ nhau về mặt tinh thần, là chỗ dựa
tinh thần của nhau, là nơi động viên, an ủi những thành viên khác tốt nhất khi
gặp khó khăn, thất bại trong cuộc sống. Đồng thời, gia đình cũng là nơi để các
thành viên gia đình chia sẻ thành công của nhau một cách chân tình nhất. Các
thành viên gia đình có quyền và nghĩa vụ tương ứng với nhau, nghĩa vụ của
người này là quyền của người kia và ngược lại.
Không phải gia đình nào cũng có đầy đủ các mối quan hệ nêu trên,
trong từng trường hợp cụ thể, gia đình có thể chỉ có một mối quan hệ như chỉ
có quan hệ hôn nhân hoặc chỉ có quan hệ nuôi dưỡng, cũng có thể có hai, ba
hoặc có nhiều mối quan hệ.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và Luật Hôn nhân và gia đình
năm 1986 không giải thích về gia đình, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
tại khoản 10 Điều 8 đã giải thích: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó
với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm
phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của Luật
này”.
Theo Từ điển luật học thì gia đình là: “Tập hợp những người gắn bó với
nhau do quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm
phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của luật Hôn
nhân và gia đình.Gia đình Việt nam thường bao gồm nhiều thế hệ cùng chung
sống như: ông bà, cha mẹ, con cháu… Họ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn
13
nhau về vật chất và tinh thần, sinh đẻ hay nuôi dạy thế hệ trẻ dưới sự giúp đỡ
của Nhà nước và xã hội. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để các thế
hệ trong gia đình chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau nhằm giữ gìn và phát huy
truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt nam. Gia đình có các chức năng cơ
bản: 1) chức năng sinh đẻ; 2) chức năng giáo dục; 3) chức năng kinh tế. Bên
cạnh chức năng cơ bản đó, gia đình còn phải thực hiện chức năng quan tâm
và chăm sóc người cao tuổi” [1 tr282]. Giải thích trên về gia đình tương đồng
với khoản 2 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Từ điển đã giải
thích ngắn gọn về gia đình Việt Nam trong đó có các thành viên của nhiều thế
hệ chung sống, chăm sóc và giúp đỡ nhau, cùng với đó là nêu lên chức năng
cơ bản của gia đình.
Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình của Trường Đại học luật Hà Nội đã
đưa khái niệm về gia đình theo Luật Hôn nhân và gia đình như sau: “Gia
đình theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam là sự liên kết của nhiều người
dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng, có quyền và nghĩa vụ
tương ứng với nhau, cùng quan tâm giúp đỡ lẫn nhau về vật chất và tinh
thần, xây dựng gia đình, nuôi dạy thế hệ trẻ dưới sự giúp đỡ của Nhà nước và
xã hội”. Khái niệm gia đình trên theo Luật Hôn nhân và gia đình, mục đích để
giảng dạy môn Luật Hôn nhân và gia đình do đó khái niệm gia đình này phù
hợp với quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình.
Như vậy các khái niệm gia đình trên đều chưa bao quát được các trường
hợp trong thực tiễn khi nghiên cứu về thành viên gia đình. Trong thực tiễn,
gia đình không chỉ có ba mối quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng
mà còn có những mối quan hệ khác phát sinh từ ba mối quan hệ trên. Để phục
vụ cho việc nghiên cứu đề tài, em mạnh dạn đưa ra khái niệm gia đình của
mình:
14
Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ
huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng hay những người không có ba mối
quan hệ trên nhưng từ ba mối quan hệ đó mà cùng sống chung với nhau, làm
phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa những người này với nhau theo quy
định của pháp luật.
1.2. VAI TRÒ VÀ CÁC CHỨNG NĂNG CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH
TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI HIỆN NAY
Gia đình là một hiện tượng xã hội có tính chất tự nhiên. Bất cứ xã hội nào
cũng đều có gia đình, tập hợp các gia đình để hình thành nên xã hội. Ngược
lại, xã hội muốn tồn tại và phát triển thì cần có gia đình. Theo quy luật tự
nhiên, mỗi người khi sinh ra đều có gia đình, lớn lên trong gia đình đó. Khi
trưởng thành lại thành lập một gia đình mới. Gia đình hình thành và phát triển
không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người, theo quy luật, thế hệ này
đến thế hệ khác hình thành nên các gia đình theo quy luật phát triển của xã
hội, mang tính chất tự nhiên. Lấy hiện tượng ấy làm căn bản, Luật Hôn nhân
và gia đình tất nhiên phải chú trọng đến các điều kiện tự nhiên hơn là đến ý
chí các đương sự. Nói một cách khác, vai trò của ý chí chỉ được pháp luật
công nhận, một khi các điều kiện tự nhiên được hội đủ.
Gia đình có địa vị rất quan trọng và thường được coi là nền tảng quốc gia.
Trên nguyên tắc, các vấn đề liên quan đến gia đình thường có tính chất cưỡng
chế: Các thành viên gia đình không thể tự ý thỏa thuận gạt bỏ các điều khoản
ấy được. Mỗi gia đình được coi là một tế bào của xã hội. Để góp phần xây
dựng quốc gia vững mạnh thì mỗi gia đình phải vững mạnh. Để xây dựng gia
đình vững mạnh thì mỗi thành viên gia đình phải có cách xử sự phù hợp. Để
mọi người trong gia đình nói riêng và trong cả cộng đồng xã hội nói chung có
cách xử sự phù hợp thì cần có những quy định chung cho cách xử sự đó. Do
đó, bất kỳ quốc gia nào cũng đều dùng pháp luật để điều chỉnh vấn đề gia
15
đình và bắt buộc mọi người trong xã hội phải tuân theo. Nếu có bất cứ thành
viên nào không tuân theo thì phải chịu những chế tài do pháp luật dự liệu.
Chẳng hạn, Luật Hôn nhân và gia đình quy định nữ từ 18 tuổi trở lên được
đăng ký kết hôn thì khi nữ chưa được 18 tuổi thì các bên không được thỏa
thuận kết hôn khi chưa đạt độ tuổi luật định.
Trong gia đình, luân thường đạo lý là yếu tố quan trọng giữ vững trật tự
gia đình mà ở đó mỗi thanh viên gia đình phải tuân theo. Trong mỗi cộng
đồng hay dân tộc đều đỏi hỏi phải có đạo đức, luân thường đạo lý của cộng
đồng, dân tộc đó, song chưa có nơi nào luân thường đạo lý lại được thể hiện
rõ nét như trong gia đình. Trong mỗi gia đình thì luân thường đạo lý như một
đạo luật thường trực trong mỗi thành viên của gia đình, thậm chí nó còn là
của chung một cộng đồng xã hội hay của cả một quốc gia. Lịch sử nhân loại
chứng tỏ rằng nền tảng và tổ chức gia đình chỉ bền vững, nếu được căn cứ vào
một nền đạo lý nghiêm chỉnh. Cũng vì lẽ ấy, ở các quốc gia mà gia đình có
một tổ chức bền vững, các điều khoản trong luật gia đình thường cũng có thể
coi như những quy chế trong đạo lý. Các điều được quy định trong luật có
tính chất luân thường đạo lý như vợ chồng chung thủy, con cái phải thương
yêu kính trọng ông bà, cha mẹ đã nói lên điều đó.
Ở bất kỳ thiết chế xã hội nào thì gia đình cũng có các chức năng cơ bản sau:
Chức năng sinh đẻ (hay còn gọi một cách khác là chức năng tái sản xuất
con người): Là chức năng quyết định, đảm bảo duy trì và phát triển thế hệ
tương lai. Gia đình, là nơi các thế hệ tiếp theo được sinh ra, tồn tại và phát
triển, là nơi tái sản xuất ra con người để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của
gia đình và xã hội. Chức năng sinh đẻ giúp con người duy trì nòi giống từ thế
hệ này sang thế hệ khác, đảm bảo một mạch sống liên tục của con người trên
hành tinh, duy trì sự phát triển và ổn định của xã hội loài người. Nếu không
thực hiện chức năng sinh đẻ, gia đình một ngày nào đó bị tuyệt vong do thế hệ
16
trước chết đi, không còn thế hệ sau để thay thế. Nhìn rộng ra cả một dân tộc,
nếu các gia đình không thực hiện chức năng sinh đẻ thì các gia đình dần dần
sẽ bị lụi tàn, dẫn đến dân tộc đó cũng không thể tồn vong. Tương tự như vậy,
quốc gia bị diệt vong nếu các gia đình trong quốc gia đó không thực hiện
chức năng sinh đẻ. Nói một cách khác, chức năng sinh đẻ có tính chất quyết
định sự tồn vong của một dân tộc, một quốc gia và nói rộng ra là của cả loài
người.
Chức năng giáo dục: Là chức năng chủ yếu của gia đình, nó rất quan
trọng trong việc hình thành, phát triển nhân cách của các thế hệ trong gia
đình, đặc biệt là thế hệ trẻ. Giáo dục trong gia đình phải kết hợp với giáo dục
nhà trường và giáo dục ngoài xã hội. Tuy nhiên, gia đình là môi trường giáo
dục đầu tiên đối với mỗi con người. Gia đình là nơi mỗi con người từ khi sinh
ra được học những bài học đầu tiên, trong quá trình hình thành và phát triển
con người được các thành viên gia đình đó giáo dục, chỉ dạy những điều
đúng, sai để nhận thức và hình thành nên nhân cách của con người. Do vậy,
gia đình thực hiện chức năng giáo dục có hiệu quả hay không phụ thuộc vào
nhận thức của các thế hệ đi trước. Trong mỗi gia đình, nhận thức về các sự
vật, hiện tượng trong xã hội cũng có thể không giống nhau, đặc biệt là các thế
hệ đi trước. Thế hệ trước nhận thức một cách đúng đắn thì sẽ truyền lại cho
thế hệ sau sự nhận thức đó, thế hệ sau có cơ hội tiếp thu tư tưởng đúng đắn.
Ngược lại, nhận thức sai lầm của thế hệ trước có thể dẫn đến việc truyền thụ
những nhận thức sai lầm đó cho thế hệ sau. Do đó, nhân cách của con người
được hình thành và phát triển thông qua chức năng giáo dục của gia đình, gia
đình có chức năng giáo dục để hình thành tư duy của các thành viên gia đình
đó một cách đúng đắn, phù hợp với các chuẩn mực của xã hội.
Chức năng kinh tế: Gia đình được coi như một đơn vị kinh tế cơ bản, độc
lập của xã hội. Mỗi gia đình trong xã hội điều tham gia vào quá trình lao động
17
sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Của cải vật chất này trước hết dùng để nuôi
sống các thành viên gia đình, sau nữa là làm giàu cho xã hội. Mỗi gia đình là
một đơn vị kinh tế, trong đó đa phần các thành viên gia đình tham gia vào quá
trình sản xuất để tạo ra khối tài sản chung cho cả gia đình. Khối tài sản chung
này trước hết được dùng vào việc phục vụ nhu cầu chung của tất cả các thành
viên gia đình, sau đó là tạo ra tài sản dự trự cho gia đình. Các thành viên gia
đình tùy theo khả năng và năng lực của từng người có trách nhiệm tạo dựng
khối tài sản ngày càng lớn hơn. Trong một cộng đồng cùng chung sống nhưng
các gia đình điều có cách tạo dựng kinh tế cho gia đình hoàn toàn độc lập với
các gia đình khác và độc lập với cộng đồng xã hội. Ngoài đảm bảo cơ sở vật
chất, kinh tế gia đình còn góp phần tích cực vào việc gia đình thực hiện các
chức năng xã hội như sinh đẻ, nuôi dạy, giáo giục các thành viên gia đình.
Như vậy, chức năng kinh tế giúp gia đình tạo dựng cơ sở vật chất để đảm bảo
cuộc sống của các thành viên, giúp thực hiện tốt các chức năng khác của gia
đình.
1.3. NHỮNG YẾU TỐ CHI PHỐI ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA GIA ĐÌNH TRONG CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ
1.3.1. Đạo đức
Đạo đức là gì? Là toàn bộ những quan niệm về thiện, ác, lương tâm, lối
sống, danh dự, trách nhiệm, và những quy tắc đánh giá mang tính phổ biến
chung của một cộng đồng xã hội, làng, xã, hay thậm chí là trong phạm vi dân
tộc. Xã hội loài người từ khi có chế định gia đình cho đến nay luôn luôn tồn
tại quan niệm về đạo đức, lối sống mang đặc trưng riêng cửa từng hình thái,
kiểu mẫu gia đình, dòng tộc, làng xã. Do đó, dưới góc độ nghiên cứu pháp lý
đạo đức được xem như điều lệ của doanh nghiệp hay luật bất thành văn của
cộng đồng người nhất định nào đó. Ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, đặc
trưng của cộng đồng xã hội mà có sự khác nhau về quan niệm đạo đức, lối
18
sống. Nhưng, ở bất kỳ giai đoạn, cộng đồng hay dân tộc nào quan niệm về
đạo đức, sự tồn tại của đạo đức luôn có sự tác động, chi phối tới sự hình thành
và phát triển của gia đình - Tế bào xã hội. Sự tác động, chi phối của đạo đức
tới sự hình thành và phát triển của gia đình trong các giai đoạn lịch sử được
thể hiện cụ thể trong các khía cạnh như:
+ Đạo đức là văn hóa, là nền tảng cho văn hóa gia đình: Trong một cộng đồng
xã hội, dòng tộc, các quan niệm về đạo đức đã được thừa nhận chung luôn
luôn tồn tại và tác động tới sự hình thành của gia đình. Gia đình không thể
tách rời xã hội, càng không thể đi ngược lại văn hóa chung của xã hội. Do đó
sự tồn tại của đạo đức như sợi chỉ kết nối cộng đồng, kết nối các gia đình
trong phạm vi đó kết nối lại với nhau. Các hình thái gia đình cũng từ đạo đức,
quan niệm về cái hay cái đẹp mà hình thành, phát triển qua các giai đoạn lịch
sử.
+ Đạo đức, điểm chung của cộng đồng, làng xã: Sự hình thành của gia đình từ
trước tới nay luôn nằm trong mối quan hệ với xã hội, cồng đồng. Như chính
khái niệm về đạo đức được thừa nhận trong khoa học gia đình từ trước đến
nay. Đạo đức là quan niệm chung về lối sống, thiện ác, tốt, xấu..nói chung của
xã hội, được cả cộng đồng, xã hội đó công nhận và tuân theo. Gia đình trong
sự tồn tại và phát triển của mình không thể đi ngược lại với đa số điểm chung
đã được công nhận đó.
Sự tác động của đạo đức tới sự phát triển và hình thành của gia đình tồn tại ở
những hướng và khía cạnh đối lập nhau. Có những quan niêm đạo đức tồn tại
và là cơ sở cho các quan hệ gia đình tốt đẹp, bên cạnh đó luôn tồn tại những
quan niệm về đạo đức mang tính cổ hủ, lạc hậu sẽ tác động tiêu cực tới hình
thái gia đình. Do đó, trong cộng đồng, giai đoạn lịch sử nào cũng cần phát
huy những quan niệm tốt, hợp lý về đào đức và xóa bỏ dần những quan niệm
có tính tiêu cực để gia đình không ngừng hoàn thiện và tốt đẹp trong quan hệ
với đạo đức.
19
1.3.2. Yếu tố văn hóa, phong tục tập quán
Cũng giống như yêu tố đạo đức, trong mối quan hệ qua lại, sự tác động
tới quá trình hình thành và tồn tại của yếu tố văn hóa, xã hội, phong tục tập
quan cũng đóng một vai trò tác động vô cùng to lớn. Yếu tố văn hóa, phong
tục tập quán cũng có những tác đông tích cực hay tiêu cực tới sự phát triển
của gia đình. Văn hóa, phong tục tập quán thường có sự phân hóa, khác biệt
và sâu sắc hơn đạo đức. Do đó, sự tác đông của yếu tố văn hóa, phong tục tập
quán cũng để lại những dấu ấn sâu sắc hơn.
Bản thân xã hội Việt Nam trong thời cổ đại nói riêng và thế giới nói chung đã
trải qua chế độ mẫu hệ cho tới chế độ trọng nam khinh nữ trong quan hệ gia
đình. Những chế độ đó của gia đình xuất phát từ yếu tố văn hóa, phong tục
tập quán. Sự tồn tại của gia đình trong môi trường văn hóa khác biệt sẽ có
những đặc điểm khác nhau, thời điểm khác nhau tạo nên những gia đình khác
nhau tại một thời điểm nhất định, gia đình tồn tại trong thời điểm, không gian,
địa điểm đó.
Yếu tố văn hóa thể hiện trình độ của xã hội tại thời điểm, không gian, địa
điểm nhất định bao gồm nhiều gia đình, xã hội tạo nên những gia đình mang
đặc trưng văn hóa trong thời điểm và địa điểm nhất định đó. Nền văn hóa phát
triển chung tự thân mỗi gia đình trong nền văn hóa đó là một giá trị văn hóa
riêng cộng lại. Ngược lại văn hóa đặc sắc, lối sống riêng của từng gia đình có
sự tiến bộ, phát triển mang tính tích cực cho sự phát triển cho nền văn hóa xã
hội nói chung. Các nền văn hóa, đặc trưng văn hóa làng xã tồn tại ở nước ta từ
trước đến nay đã tác động không nhỏ tới ý thức, lối sống sinh hoạt văn hóa
của từng gia đình. Đó chính là sự tác động của yếu tố văn hóa tới sự hình
thành, tồn tại của gia đình nói chung.
Yếu tố phong tục tập quán được hiểu như những sinh hoạt chung được lặp đi
lặp lại truyền từ đời này sang đời khác ở một vùng miền, một khoảng thời
gian riêng biệt. Chính sự tồn tại của phong tục tập quá tạo nên nếp sống gia
20
đình, mọi người trong gia đình cùng đi theo phong tục tập quán đó hình thành
nên phong tục tập quán của gia đình
1.3.3. Yếu tố kinh tế - xã hội – khoa học kỹ thuật
Không có môi trường nào có những điều kiện độc đáo để ảnh hưởng
đến hành vi của con người bằng gia đình khi gia đình là môi trường giáo dục
đầu tiên và suốt đời, khi gia đình có được tính thiêng liêng trong bản năng
làm cha mẹ, làm con…của tất cả mọi người
Việc xây dựng gia đình hạnh phúc và bền vững là một quá trình
không đơn giản mà là một sự khẳng định giá trị của nhiều thành viên, của
những trụ cột gia đình với hàng lọat các yêu cầu có tính nguyên tắc, trong
đó, các yếu tố tâm lý-giáo dục có vai trò không nhỏ. Thông thường, gia đình
hạnh phúc luôn thể hiện được tính bền vững của nó, tuy vậy xây dựng gia
đình hạnh phúc và bền vững vẫn có những yếu tố tác động qua lại cần chú ý.
Trong quá trình phát triển, gia đình luôn chịu sự tác động, ảnh hưởng của
các nhân tố kinh tế, văn hóa, xã hội. Sự hạnh phúc hay nguy cơ tan vỡ của
các gia đình có thể bắt đầu từ nhiều nguyên nhân bên trong và bên ngòai gia
đình. Các nguyên nhân bên ngòai có tầm quan trọng đặc biệt với sự phát
triển bền vững của các gia đình vì xã hội đang không ngừng phát triển và có
những biến đổi nhanh chóng trên các bình diện kinh tế-xã hội-văn hóa…,
trong đó có những nhân tố lành mạnh và không lành mạnh có ảnh hưởng lớn
đến gia đình
1.3.4. Yếu tố tôn giáo
“Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân
” và “đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội
mới... ”. Như vậy, tôn giáo có thể được xem như một nguồn lực cả về tinh
thần, vật chất và hoàn toàn có thể tham gia đóng góp vào sự phát triển xã hội.
21