HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
ĐÀM TRỌNG TÙNG
b¶o vÖ ®éc lËp d©n téc cña viÖt nam
tríc mèi ®e däa an ninh phi truyÒn thèng
tõ n¨m 2001 ®Õn n¨m 2015
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ PHONG TRÀO CỘNG SẢN,
CÔNG NHÂN QUỐC TẾ VÀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
Mã số: 62 22 03 12
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. NGUYỄN THỊ QUẾ
2. PGS.TS. THÁI VĂN LONG
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả luận án
Đàm Trọng Tùng
MỤC LỤC
Trang
1
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN
1.1. Những vấn đề liên quan đến luận án đã được nghiên cứu
1.2. Những vấn để luận án tiếp tục nghiên cứu
6
6
20
Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG CỦA MỐI
ĐE DỌA AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM
2.1. Một số vấn đề lý luận về mối đe dọa an ninh phi truyền thống và
tác động của nó đến độc lập dân tộc
2.2. Thực trạng mối đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam từ
năm 2001 đến 2015
26
26
46
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI BẢO VỆ ĐỘC
LẬP DÂN TỘC CỦA VIỆT NAM TRƯỚC MỐI ĐE DỌA AN
NINH PHI TRUYỀN THỐNG TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2015
3.1. Quan điểm của Việt Nam về bảo vệ độc lập dân tộc trước mối đe
dọa an ninh phi truyền thống
3.2. Quá trình triển khai bảo vệ độc lập dân tộc của việt nam trước
mối đe dọa an ninh phi truyền thống
72
72
87
Chương 4: ĐÁNH GIÁ VỀ BẢO VỆ ĐỘC LẬP DÂN TỘC CỦA VIỆT
NAM TRƯỚC MỐI ĐE DỌA AN NINH PHI TRUYỀN
THỐNG TỪ NĂM 2001 ĐẾN 2015 VÀ KINH NGHIỆM ĐỐI
VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
4.1. Đánh giá về bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam trước mối đe
dọa an ninh phi truyền thống từ năm 2001 đến năm 2015
4.2. Kinh nghiệm của Việt Nam về bảo vệ độc lập dân tộc trước mối
đe dọa an ninh phi truyền thống đối với các nước đang phát triển
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
121
121
139
160
162
163
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Tiếng Việt
Tiếng Anh
Chữ
viết tắt
ACDM
Ủy ban quản lý thiên tai ASEAN
ADB
Ngân hàng Phát triển Châu Á
ADMM
Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng
ASEAN
APEC
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu ÁThái Bình Dương
ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á
ASEAN Committee on Disaster
Management
Asian Development Bank
ASEAN Defence Ministers Meeting
Asia-Pacific Economic Cooperation
The Association of Southeast Asian
Nations
The Asia-Europe Meeting
ASEM
Diễn đàn hợp tác Á- Âu
ARF
ASEAN Regional Forum
ANTT
ANPTT
ANQG
CNXH
Diễn đàn an ninh khu vực
ASEAN
An ninh truyền thống
An ninh phi truyền thống
An ninh quốc gia
Chủ nghĩa xã hội
CNTB
Chủ nghĩa tư bản
Capitalism
EU
FAO
FNGO
HDI
IMF
LHQ
Liên minh Châu Âu
Tổ chức Nông nghiệp và lương
thực Liên hợp quốc
Tổ chức phi chính phủ nước ngoài
Chỉ số phát triển con người
Quỹ Tiền tệ quốc tế
Liên hợp quốc
European Union
Food and Agriculture Organization
of the United Nations
Foreign- Non-Governmental Organization
Human Development Index
The International Monetary Fund
The United Nations
MDGs
ODA
Mục tiêu thiên niên kỷ
Viện trợ chính thức trực tiếp
The Millennium Development Goals
Official Development Assistance
UNDP
WB
Chương trình phát triển Liên hợp
quốc
Chương trình môi trường Liên
hợp quốc
Ngân hàng thế giới
United
Nations
Programme
United
Nations
Programme
World Bank
WMO
Tổ chức Khí tượng thế giới
The
World
Organization
WHO
Tổ chức Y tế thế giới
World Health Organization
WTO
Tổ chức Thương mại thế giới.
Worrld Trade Organnization
UNEP
Traditional Security
Non - Traditional Security
National Security
Socialism
Development
Environment
Meteorological
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau chiến tranh lạnh, cục diện thế giới có nhiều thay đổi, xu thế hòa bình
hợp tác phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế, nền độc lập dân tộc của các quốc gia đang phải đối mặt với những
thách thức mới từ mối đe dọa “an ninh phi truyền thống”. Mối đe dọa an ninh
phi truyền thống (ANPTT) đã trở thành vấn đề toàn cầu, mang tính nguy hiểm
cao, có sức ảnh hưởng lớn. Tính chất nguy hiểm của mối đe dọa ANPTT không
chỉ biểu hiện ở mức độ hủy hoại, sự tàn phá của nó đối với cuộc sống của con
người, mà còn đối với sự ổn định xã hội, đối với độc lập dân tộc (ĐLDT) của
các quốc gia, sự an nguy của chế độ chính trị, sự tồn vong của cộng đồng nhân
loại trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Các thảm họa thiên tai, động đất,
sóng thần, bão lụt, dịch bệnh, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, biến đổi khí hậu,
nước biển dâng… ngày càng thách đố các thành tựu của khoa học, kỹ thuật
hiện đại và sự nỗ lực cố gắng của con người. Khủng bố, tội phạm xuyên quốc
gia, tội phạm công nghệ cao, những vấn đề tài chính, năng lượng, lương thực…
ngày càng thử thách nghiệt ngã năng lực điều hành của các chính phủ, ĐLDT
của các nước, sự vững chắc của các thể chế chính trị và các nền kinh tế, kể cả
nền kinh tế giàu mạnh nhất, cũng như tính khả thi của các liên kết quốc tế, làm
cho không một quốc gia nào có thể yên ổn xây dựng và phát triển.
Trong bối cảnh đó, thế giới đã và đang đẩy mạnh hợp tác, cùng nhau nỗ
lực đối phó với các mối đe doạ ANPTT. Nhiều diễn đàn, cơ chế song phương,
đa phương, những định ước, quy định giữa các nước, các nhóm nước, giữa
các châu lục và toàn cầu được hình thành nhằm khắc phục, chế ngự, đối phó
và giải quyết tình hình. Nhiều quốc gia đã có những thể chế, luật pháp, quy
định, thực hiện nhiều biện pháp để đối phó với mối đe dọa ANPTT và bảo vệ
nền độc lập của mình, thúc đẩy đất nước phát triển.
Trong xu thế toàn cầu hoá, ĐLDT của các quốc gia bị đặt trước những
thách thức nghiêm trọng. Trước tác động mạnh mẽ cũng như tính chất nguy
hiểm của các mối đe dọa ANPTT và việc thực thi những định chế, cơ chế để
2
đối phó với các mối đe dọa ấy, vấn đề phát triển đất nước và bảo vệ, củng cố
nền ĐLDT của mỗi quốc gia vừa có thuận lợi vừa gặp nhiều khó khăn, phức
tạp. Việc bảo đảm sự phát triển bền vững và giữ vững tính độc lập tự chủ của
nền kinh tế; việc đảm bảo độc lập, tự chủ về chính trị; giữ gìn và bảo vệ bản sắc
văn hóa dân tộc; bảo vệ môi trường sinh thái; bảo vệ các quyền cơ bản của con
người... - những nội dung cơ bản bảo vệ ĐLDT của các nước trong bối cảnh
mới đang gặp nhiều khó khăn. Các nước trên thế giới đều đã thực hiện những
biện pháp cần thiết để bảo vệ ĐLDT trước các mối đe doạ ANPTT ngày càng
diễn biến phức tạp. Đối với các nước đang phát triển, thì vấn đề bảo vệ ĐLDT
trước mối đe doạ ANPTT càng trở nên khó khăn, phức tạp hơn.
Đối với Việt Nam, mối đe doạ ANPTT ngày càng trở nên nghiêm trọng.
Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định: “Các yếu tố đe dọa
ANPTT, tội phạm công nghệ cao tiếp tục gia tăng. Những vấn đề toàn cầu
như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí
hậu, thiên tai, dịch bệnh... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp” [48, tr.28]. Mối đe
doạ ANPTT đã và đang thách thức nền ĐLDT của đất nước, đặc biệt là tính
độc lập tự chủ và sự vững chắc của nền kinh tế, sự ổn định chính trị - xã hội,
độc lập, chủ quyền quốc gia, an ninh đất nước và cuộc sống của nhân dân.
Đảng và Nhà nước Việt Nam đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp không
chỉ để đối phó với mối đe doạ ANPTT, mà còn để bảo vệ, củng cố nền
ĐLDT, giữ vững chủ quyền quốc gia, thể chế chính trị, nền kinh tế đất nước
trước các mối đe dọa đó. Đây còn là một nội dung, yêu cầu quan trọng của
việc giải quyết mối quan hệ lớn “giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế”
[48, tr.73] mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định, cần phải nhận thức đúng
và giải quyết tốt trong tình hình hiện nay.
Từ năm 2001 đến năm 2015, Việt Nam đã thực hiện nhiều nội dung, biện
pháp ứng phó với mối đe doạ ANPTT để bảo vệ ĐLDT, đạt được thành công
nhất định và thu được những kinh nghiệm có giá trị. Việc nhìn nhận, đánh giá
các mối đe doạ ANPTT; nghiên cứu, phân tích sự tác động, ảnh hưởng của nó
đối với ĐLDT của Việt Nam; làm rõ những nội dung, biện pháp mà Đảng và
Nhà nước Việt Nam thực hiện bảo vệ ĐLDT trước mối đe doạ ANPTT là đòi
3
hỏi cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Làm rõ các vấn đề đó sẽ có cơ sở để
rút ra những kinh nghiệm bổ ích cho thời gian tới nhằm thực hiện tốt và hiệu
quả hơn việc bảo vệ ĐLDT trước mối đe dọa ANPTT đối với Việt Nam, cũng
như các nước đang phát triển.
Từ những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài “Bảo vệ độc lập dân tộc của
Việt Nam trước mối đe dọa an ninh phi truyền thống từ năm 2001 đến năm
2015” để viết luận án tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử phong trào Cộng
sản, công nhân quốc tế và giải phóng dân tộc.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án làm rõ một số vấn đề lý luận, thực trạng về mối đe dọa an ninh phi
truyền thống, tác động của nó đến độc lập dân tộc và quá trình bảo vệ độc lập
dân tộc của Việt Nam trước mối đe dọa này. Qua đó, đánh giá những thành tựu,
hạn chế trong bảo vệ độc lập dân tộc trước mối đe dọa an ninh phi truyền thống,
góp phần tìm kiếm cách thức kết hợp các giải pháp nhằm ứng phó có hiệu quả
đối với vấn đề an ninh phi truyền thống ở Việt Nam; đồng thời rút ra những kinh
nghiệm đối với các nước đang phát triển hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích quan niệm, tác động của mối đe dọa an ninh phi truyền thống
đến độc lập dân tộc và thực trạng mối đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt
Nam từ năm 2001 đến năm 2015.
- Phân tích làm rõ quan niệm, nội dung, hình thức, biện pháp, chủ thể,
các lực lượng bảo vệ độc lập dân tộc trước mối đe dọa an ninh phi truyền
thống và quá trình triển khai bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam trước các
mối đe dọa này từ năm 2001 đến năm 2015.
- Đánh giá những thành tựu, hạn chế trong bảo vệ độc lập dân tộc của
Việt Nam trước mối đe dọa an ninh phi truyền thống từ năm 2001 đến 2015,
góp phần tìm kiếm cách thức kết hợp các giải pháp nhằm ứng phó có hiệu quả
đối với vấn đề an ninh phi truyền thống ở Việt Nam; đồng thời rút ra một số
kinh nghiệm trong cho các nước đang phát triển.
4
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu quá trình bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam trước
mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu những chủ trương, nội
dung, biện pháp và sự triển khai của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong bảo vệ
độc lập dân tộc trước mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
- Về không gian: Nghiên cứu quá trình bảo vệ độc lập dân tộc ở Việt
Nam trước các mối đe dọa an ninh phi truyền thống bao gồm: biến đổi khí
hậu; an ninh kinh tế, tài chính; an ninh năng lượng; an ninh lương thực; tội
phạm công nghệ cao; tội phạm xuyên quốc gia.
- Về thời gian: Nghiên cứu quá trình bảo vệ độc lập dân tộc của Việt
Nam trước mối đe dọa an ninh phi truyền thống từ năm 2001 đến 2015. Đây
là giai đoạn các vấn đề về mối đe dọa an ninh phi truyền thống nổi lên được
xem như là nguy cơ đối với nền hòa bình, độc lập của các quốc gia dân tộc;
đồng thời, là quãng thời gian 15 năm Đảng, Chính phủ Việt Nam đã có nhiều
chủ trương, biện pháp và kinh nghiệm trong phòng ngừa, ứng phó với các mối
đe dọa này để bảo vệ độc lập dân tộc và con đường phát triển đất nước.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án nghiên cứu vấn đề bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam trước
các mối đe dọa an ninh phi truyền thống dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt
Nam về độc lập dân tộc, bảo vệ và củng cố độc lập dân tộc…
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án, nghiên cứu
sinh sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp logic và kết hợp chặt chẽ hai
phương pháp lịch sử, logic là chủ yếu; đồng thời sử dụng một số phương pháp
khác như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, .... để nghiên cứu.
5
5. Những đóng góp về khoa học
- Luận án làm rõ quan niệm về mối đe dọa an ninh phi truyền thống và
luận giải tác động của nó đến độc lập dân tộc, góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý
luận và thực trạng với tư cách là khung lý thuyết về bảo vệ độc lập dân tộc
của Việt Nam trước mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
- Đã “khuôn” những vấn đề cụ thể trong nội hàm của mối đe dọa
ANPTT ở Việt Nam - những yếu tố phi truyền thống được xem là đe dọa trực
tiếp hoặc gián tiếp đến ĐLDT. Phân tích rõ thực trạng mối đe dọa ANPTT ở
Việt Nam, bao gồm cả việc nhận diện, làm rõ tính chất, đặc điểm, cũng như
sự phát triển của từng vấn đề trong khoảng thời gian theo phạm vi nghiên cứu.
- Luận án làm rõ quan niệm, nội dung, hình thức, biện pháp, chủ thể, các
lực lượng và quá trình triển khai của Việt Nam trong bảo vệ độc lập dân tộc
trước mối đe dọa an ninh phi truyền thống từ năm 2001 đến năm 2015.
- Đánh giá thành tựu, hạn chế trong bảo vệ độc lập dân tộc của Việt Nam
trước mối đe dọa an ninh phi truyền thống, đặc biệt luận án góp phần tìm
kiếm cách thức kết hợp các giải pháp nhằm ứng phó có hiệu quả đối với vấn
đề an ninh phi truyền thống ở Việt Nam, đồng thời rút ra kinh nghiệm cho các
nước đang phát triển.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác giả
và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án gồm 4 chương, 8 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
Do vị trí và tầm quan trọng của vấn đề nên việc nghiên cứu về đấu
tranh bảo vệ độc lập dân tộc, về ANPTT, cũng như mối đe dọa của ANPTT
đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, khu vực và trên thế giới là
chủ đề thu hút sự chú ý của nhiều nhà chính trị, nhiều nhà khoa học trong và
ngoài nước. Mặc dù các cách tiếp cận và góc độ nghiên cứu khác nhau, song
các công trình nghiên cứu đã phác họa được bức tranh tổng thể về vấn đề
quan trọng và phức tạp này. Các kết quả nghiên cứu đó là cơ sở cứ liệu, căn
cứ quan trọng để tác giả tập hợp nguồn tư liệu, kế thừa và tiếp tục nghiên cứu
làm rõ nội dung của luận án.
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC NGHIÊN CỨU
1.1.1. Các công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước
- Về sách:
+ Cuốn sách: "Xu hướng phát triển kinh tế thế giới hiện nay và tác động
đối với an ninh trật tự ở Việt Nam" của Nguyễn Văn Ngừng [111] đã tập trung
nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm chủ yếu của nền kinh tế thế giới và xu hướng vận
động trong thời gian tới; từ đó đánh giá những tác động của nó đối với kinh tế
Việt Nam và những ảnh hưởng đối với an ninh ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác
giả đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế, bảo vệ an ninh quốc gia và
giữ gìn trật tự an toàn xã hội dưới tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa.
+ Cuốn sách: "Chủ nghĩa khủng bố và chính sách đối ngoại của Mỹ" của
PaulPillar [114] đã đưa ra một số quan điểm về chủ nghĩa khủng bố, phân
tích, đánh gia chính sách đối ngoại hai mặt của Mỹ và việc chính quyền Mỹ lợi
dụng chống khủng bố để lôi kéo đồng minh, thực hiện âm mưu bá chủ thế giới.
+ Cuốn sách: "Chiến lược phòng thủ quốc gia chống vũ khí sinh học"
của Anthony H.Cordosman [34] đã phân tích việc sản xuất vũ khí sinh học và
7
chiến lược phòng thủ quốc gia bằng vũ khí sinh học của Mỹ và một số nước
khác, vũ khí này có thể rơi vào tay các tổ chức khủng bố.
+ Cuốn sách: "Bàn về an ninh phi truyền thống" của Lục Trung Vĩ [187]
đã trình bày nhân tố an ninh quốc gia phi truyền thống thuộc các phạm trù: an
ninh kinh tế, an ninh chính trị và an ninh xã hội. Trong đó, những vấn đề như
an ninh tiền tệ, an ninh năng lượng, an ninh khoa học kỹ thuật, an ninh môi
trường sinh thái đã ít nhiều liên quan đến an ninh kinh tế. Những vấn đề chủ
nghĩa chia rẽ dân tộc, chủ nghĩa tôn giáo cực đoan và chủ nghĩa khủng bố
thuộc về an ninh chính trị nhiều hơn. Những vấn đề như bệnh dịch truyền
nhiễm, buôn lậu ma tuý, an ninh dân số, cướp biển, hoạt động phạm tội có tổ
chức về cơ bản thuộc vấn đề an ninh xã hội. Những hoạt động phạm tội như
phổ biến vũ khí hạt nhân, rửa tiền, tấn công vào mạng tin học trên mức độ khác
nhau mang đặc điểm hoạt động tội phạm xuyên quốc gia.
+ Cuốn sách "Độc lập dân tộc của các nước đang phát triển trong xu
thế toàn cầu hoá" của Thái Văn Long [100] đã đề cập tới những nhân tố tác
động, nội dung bảo vệ ĐLDT của các nước đang phát triển trước nguy cơ,
thách thức do toàn cầu hoá gây nên, và đặt ra những vấn đề đối với Việt Nam.
+ Cuốn sách: "An ninh kinh tế thời kỳ hội nhập và gia nhập WTO" của
Nguyễn Xuân Yêm [190] đã cho rằng vấn đề an ninh kinh tế chiếm một vị trí
trung tâm trong lĩnh vực an ninh quốc tế và ANQG hiện nay và sẽ chỉ đạo
hướng đi của an ninh quốc tế trong thế kỷ XXI cũng như việc chế định chiến
lược an ninh của các nước. Tác giả hiểu an ninh kinh tế trên hai bình diện
quốc gia và quốc tế; vấn đề an ninh kinh tế trên bình diện quốc tế là sự kéo
dài của an ninh kinh tế ở bình diện quốc gia.
+ Cuốn sách: "Phòng chống buôn bán người" của Trung tâm Nghiên cứu
và ứng dụng Khoa học về Giới - Gia đình - Phụ nữ và vị thành niên [150] đã
cho thấy bức tranh buôn bán người, đặc biệt là buôn bán phụ nữ trẻ em, cả
môi giới hôn nhân bất hợp pháp tác động đến quyền của phụ nữ trẻ em.
8
+ Cuốn sách: "Chủ quyền quốc gia dân tộc trong xu thế toàn cầu hoá và
vấn đề đặt ra với Việt Nam" của Phan Văn Rân - Nguyễn Hoàng Giáp [121] đã
đưa ra quan niệm về chủ quyền quốc gia dân tộc, những nội dung đảm bảo chủ
quyền quốc gia dân tộc trong xu thế toàn cầu hóa và rút ra những vấn đề mang
tính định hướng trong đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
+ Cuốn sách: "Hội nhập quốc tế và những vẩn đề đặt ra cho công tác
bảo vệ an ninh quốc gia" của Nguyễn Văn Hưởng [85] đã cho rằng, nội dung
của ANQG sẽ phải mang tính tổng hợp cao, không chỉ là ANTT (an ninh
chính trị và an ninh quân sự) mà cả ANPTT (an ninh kinh tế, văn hóa, xã hội,
thông tin, môi trường...). Ranh giới giữa ANTT và ANPTT không phải là
tuyệt đối mà có thể tác động lẫn nhau.
+ Cuốn sách: "Quốc phòng an ninh trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam" của Nguyễn Vĩnh Thắng [131] đã tập trung làm rõ cơ sở
lý luận và thực tiễn, trình bày có hệ thống quan điểm cơ bản của Đảng Cộng
sản Việt Nam về quốc phòng, an ninh trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
+ Cuốn sách "Hội nhập kinh tế quốc tế: Những vấn đề đặt ra đối với
công tác công an" của Phạm Ngọc Hiền [64] đã trình bày khá nhiều nghiên
cứu ở một số nước trên thế giới về ANPTT, đặc biệt là ở Mỹ, Nhật Bản và
Trung Quốc; nêu lên những vấn đề đặt ra đối với công tác công an trong đối
phó với các mối đe dọa ANPTT và hợp tác quốc tế về vấn đề này.
+ Cuốn sách "Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của Việt Nam trong bối
cảnh mới" của Nguyễn Xuân Thắng [132] đã làm rõ mối quan hệ giữa độc lập,
tự chủ và hội nhập quốc tế; kinh nghiệm xử lý mối quan hệ này của một số quốc
gia trên thế giới; sự tiến triển trong nhận thức và kết quả thực tiễn xử lý mối
quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của Việt Nam; đề xuất những
định hướng chủ yếu và các giải pháp về xử lý mối quan hệ này đến năm 2020.
+ Cuốn sách "Hỏi - đáp về bảo vệ an ninh quốc gia trong bối cảnh toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế" của Phạm Ngọc Hiền [65] đã nhận thức rõ về an
ninh và bảo vệ an ninh quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc
9
tế; tác động của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đối với ANQG
Việt Nam; quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp bảo vệ ANQG trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
+ Cuốn sách: "Một số vấn đề chính trị quốc tế trong giai đoạn hiện nay"
của Nguyễn Hoàng Giáp [58] đã đề cập tới những vấn đề chính trị quốc tế đang
được thế giới quan tâm, về mối quan hệ giữa các nước lớn, quan hệ giữa các
nước phát triển với các nước đang phát triển, hay quan hệ giữa các tổ chức quốc
tế với các nước phát triển và với các nước đang phát triển; về một số vấn đề
nóng hiện nay như: vấn đề toàn cầu hóa, vấn đề dân chủ, tiến bộ xã hội trong
chính trị quốc tế và bảo vệ môi trường, phát triển bền vững, vấn đề khoảng cách
giàu nghèo giữa các nước, vấn đề ĐLDT, chủ quyền quốc gia, trật tự thế giới
mới trong đời sống chính trị thế giới cũng như thực tế ở khu vực Đông Á...
+ Cuốn sách: "An ninh môi trường" của Nguyễn Đình Hòe, Nguyễn
Ngọc Sinh [75] đã trình bày tương đối rõ về lý luận và thực tiễn liên quan đến
vấn đề an ninh môi trường.
+ Cuốn sách: "Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam với cuộc đấu tranh bảo vệ
độc lập dân tộc của các nước đang phát triển sau chiến tranh lạnh" của
Nguyễn Hữu Toàn [141] đã phân tích quá trình thực hiện đường lối đổi mới
và kinh nghiệm bảo vệ ĐLDT của Việt Nam; đóng góp của Việt Nam trong
bảo vệ ĐLDT của các nước đang phát triển sau chiến tranh lạnh; đồng thời, đề
xuất chủ trương, nội dung, giải pháp tăng cường hiệu quả ĐLDT của Việt
Nam và các nước đang phát triển đến 2020.
+ Cuốn sách "Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới" của Bế
Xuân Trường, Nguyễn Bá Dương [154] đã giúp cho cán bộ, chiến sĩ trong lực
lượng vũ trang và nhân dân cả nước nhìn nhận rõ hơn bản chất khoa học, cách
mạng, tính đúng đắn, sáng tạo của đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định trong những năm đổi mới.
Qua đó, luận chứng rõ hơn một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
10
- Bài viết trên tạp chí:
+ Bài viết: "Nhận dạng chủ nghĩa khủng bố" của Hoàng Mạnh Chiến
[31] đã đề cập đến quan niệm của Mỹ về chủ nghĩa khủng bố và liên quan tới
luật pháp Việt Nam.
+ Bài viết: "Về khái niệm khủng bố và tội phạm khủng bố" của Hoàng
Kông Tư [163] đã đề cập khái niệm, luật pháp điều chỉnh tội phạm khủng bố
của một số nước và Việt Nam.
+ Bài viết: "Tác động của nhân tố an ninh phi truyền thống đối với văn
hóa và con người ở một số nước Đông Á" của Lê Văn Cương [35] đã cho rằng
từ khi chiến tranh lạnh kết thúc, đối đầu quân sự trên quy mô toàn cầu không
còn, song nguy cơ đe dọa trực tiếp đến sự phát triển, ổn định chính trị và an
ninh xã hội, an ninh con người xuất phát từ những nhân tố phi quân sự lại càng
gay gắt. Các nhân tố đó là chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa khủng bố, an
ninh tài chính tiền tệ, năng lượng, an ninh khoa học - kỹ thuật, hiệu ứng nhà
kính với sự nóng lên của trái đất và mất cân bằng sinh thái, buôn lậu ma túy,
dịch bệnh truyền nhiễm, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, rửa tiền, tấn công
mạng, di dân bất hợp pháp, bùng nổ dân số, cạn kiệt nguồn nước, cướp biển,...
Các nhân tố ANPTT nói trên hầu hết đã tồn tại trong thời kỳ đối đầu Đông Tây (1946 - 1991), một số đã có trước đây hàng trăm năm, thậm chí hàng nghìn
năm (như hoạt động khủng bố, chủ nghĩa dân tộc, tôn giáo cực đoan, tội phạm
có tổ chức). Tác giả cho rằng toàn cầu hóa và sự phát triển nhanh chóng của
khoa học công nghệ làm cho các vấn đề thuộc ANPTT có điều kiện phát triển
dưới biểu hiện mới, quy mô ngày càng lớn, tính chất ngày càng gay gắt và gây
hậu quả ngày càng khó lường cho an ninh toàn cầu, an ninh quốc tế, an ninh
khu vực, an ninh quốc gia, an ninh xã hội và an ninh con người.
+ Bài viết: "Tiếp cận thách thức an ninh phi truyền thống" của Nguyễn
Vũ Tùng [162] đã tiếp cận quan niệm ANPTT dưới góc độ là thách thức, cho
rằng cần được hiểu trong bối cảnh so sánh với ANTT; ANPTT nổi lên trước
hết như một sự phê phán đối với cách tiếp cận ANTT. Sự phê phán này được
11
tiến hành cả từ lý luận và thực tiễn. Đồng thời, ANTT và ANPTT không hoàn
toàn có tính loại trừ nhau, bởi xét từ góc độ chung nhất, nếu ANQG được đảm
bảo thì an ninh của người dân sống trong quốc gia đó mới được đảm bảo.
Ngược lại, nếu một nước đảm bảo được quyền sống, quyền phát triển mọi mặt
của người dân, thì sức mạnh tổng hợp của nước đó được tăng cường và ngày
càng có khả năng bảo vệ an ninh và vị thế của mình trên trường quốc tế.
+ Bài viết: "An ninh phi truyền thống và một số vấn đề Việt Nam cần
quan tâm" của Hải Minh [105] đã cho rằng, sự thay đổi nhanh với tốc độ
nhiều khi không còn kiểm soát được của thế giới hiện đại đặt tất cả các quốc
gia, trong đó có Việt Nam trước thách thức an ninh hoàn toàn mới.
+ Bài viết: "Biến đổi khí hậu toàn cầu và tác động tới an ninh, quốc
phòng" của Đỗ Quốc Tuân [155] đã cho rằng, nhân loại đang phải đối mặt với
những vấn đề thời sự toàn cầu hiện nay như phát triển bền vững, khủng hoảng
tài chính và tín dụng, chiến tranh và xung đột vũ trang, đói nghèo, biến đổi
khí hậu... Biến đổi khí hậu có nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ
yếu là do tác động chủ quan của chính con người, dẫn đến những ảnh hưởng
sâu rộng tới toàn bộ hành tinh cũng như mọi mặt đời sống xã hội con người.
+ Bài viết: "Những nội dung cơ bản của công tác bảo vệ an ninh quốc gia
theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI" của Tô Lâm [92] đã khẳng
định tại Đại hội XI, Đảng Cộng sản Việt Nam bổ sung vào nghị quyết về mục
tiêu, nhiệm vụ của an ninh, quốc phòng là sẵn sàng ứng phó các mối đe dọa
ANPTT (khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao, vũ khí
hủy diệt hàng loạt, thảm họa môi trường, biến đổi khí hậu, tài chính - tiền tệ...).
+ Bài viết: "An ninh phi truyền thống - vấn đề mang tính toàn cầu" của
Nguyễn Mạnh Hưởng [84] đã cho rằng, trong lịch sử của mình, chưa có khi
nào nhân loại đạt được những bước tiến dài trên con đường phát triển như
ngày nay, nhưng cũng chưa bao giờ con người phải đối mặt với những nguy
cơ đe dọa đến chính sự tồn vong của mình như bây giờ. Cạn kiệt tài nguyên,
biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, thảm họa thiên tai, dịch bệnh, khủng
12
bố, tội phạm xuyên quốc gia... đang đặt ra những yêu cầu bức thiết phải có sự
nỗ lực chung của cả cộng đồng quốc tế để đối phó, vì sự an nguy của mỗi
quốc gia dân tộc cũng như của toàn nhân loại.
+ Bài viết: "Nhận dạng một số nguy cơ gây mất ổn định an ninh quốc gia
có nguyên nhân từ mất an ninh kinh tế" của Bùi Minh Tuyên [159] đã cho
rằng, trước đây sức mạnh của quốc gia là sự khẳng định bằng sức mạnh quân
sự; ngày nay lại được đánh giá bằng sức mạnh kinh tế. Tác giả phân tích một số
nguy cơ mất ổn định bắt nguồn từ mất an ninh kinh tế, an ninh nội bộ ở Việt
Nam, như tình trạng mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ ở các ban, ngành Trung
ương đến địa phương; những bất cập trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô
và nguy cơ từ việc chuyển dịch sở hữu tài sản Nhà nước thành tư nhân.
+ Bài viết: "An ninh môi trường ở khu vực Đông Nam Á" của Đỗ Tiến
Dũng [42] đã cho rằng, vấn đề an ninh môi trường không chỉ mang tính quốc
gia mà còn mang tính khu vực và toàn cầu. Theo tác giả, thách thức an ninh
môi trường ở Đông Nam Á ngày càng nghiêm trọng, do đó bảo đảm an ninh
môi trường đòi hỏi chú trọng tìm kiếm một phương thức phát triển hợp lý dựa
trên cơ sở thống nhất lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, kết hợp tăng trưởng
kinh tế với bảo tồn thiên nhiên.
+ Bài viết: "Đấu tranh quốc phòng, bảo vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới" của Nguyễn Đình Chiến [30] đã cho
rằng, các thách thức ANPTT mang tính toàn cầu như thảm họa môi trường,
dịch bệnh, biến đổi khí hậu, khủng bố, các loại tội phạm xuyên quốc gia; tập
đoàn kinh tế nước ngoài lợi dụng hỗ trợ nhân đạo, liên kết, liên doanh, đầu tư
kinh tế, để chi phối, khống chế nền kinh tế, làm tổn hại đến định hướng
XHCN của nền kinh tế thị trường, phá hoại tài nguyên, môi trường gây mất
ổn định ở nước ta.
+ Bài viết: "Ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang
tính toàn cầu" của Tô Lâm [93] đã phân tích quan điểm, chủ trương của
Đảng, Nhà nước ta về phòng, chống nguy cơ đe dọa ANPTT; nêu ra các giải
pháp phòng ngừa, đối phó.
13
+ Bài viết: "Quan điểm của Việt Nam về một số thách thức ANPTT hiện
nay" của Nguyễn Thị Thúy Hà [61] đã trình bày những quan điểm của Đảng
và Nhà nước Việt Nam về ANPTT cũng như những giải pháp nhằm ứng phó
hiệu quả với các nguy cơ này.
+ Bài viết: "Tư duy mới về an ninh quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế" của Đặng Văn Hiếu [69] đã cho rằng, cần phải đổi mới
tư duy về ANQG nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, trong đó đánh giá
đúng tính chất phức tạp của ANPTT đối với nước ta; trên cơ sở đó, nêu ra một
số nhiệm vụ trọng tâm đối với Đảng, Nhà nước và lực lượng Công an nhân
dân trong giai đoạn hiện nay.
- Bài báo:
+ Bài viết: "Tội phạm mạng đe dọa an ninh năng lượng toàn cầu" của
Thủy Hoàng [74] đã thông tin về việc các chuyên gia Liên hợp quốc và nhiều
công ty năng lượng hàng đầu thế giới cảnh báo tội phạm mạng đã trở thành
mối đe dọa mới và lớn nhất đối với ngành công nghiệp năng lượng và an ninh
năng lượng toàn cầu.
+ Bài viết: "Châu Á trước những thách thức an ninh năng lượng và
lương thực" của Song Phương [115] đã dự báo sự phát triển quá nóng tại các
quốc gia châu Á đi kèm với nhu cầu về năng lượng và lương thực tăng cao.
Giải quyết bài toán này cần nỗ lực chung của toàn khu vực, mọi hành động
đơn phương đều bị coi là nguy hiểm.
+ Bài viết: "Chính sách năng lượng mới của Mỹ" của Nguyễn Thông
[133] đã coi trọng việc khai thác, tiết kiệm năng lượng và phát triển các
nguồn năng lượng kiểu mới, thoát khỏi sự phụ thuộc vào các nguồn năng
lượng truyền thống.
+ Bài viết: "Vấn đề an ninh năng lượng ở Đông Á: Thực trạng và giải
pháp" của Hoàng Minh Hằng [62] đã cho rằng, năng lượng có một vai trò hết
sức quan trọng, nó không chỉ cải thiện chất lượng cuộc sống mà còn làm cho
14
kinh tế và xã hội phát triển. Mỗi quốc gia dù giàu hay nghèo đều coi việc đảm
bảo nguồn năng lượng là tiền đề cần thiết cho sự phát triển bền vững của mình.
Đông Á hiện là một trong những khu vực có mức cầu về năng lượng lớn trên
thế giới. Trong tương lai, mức cầu này sẽ còn tăng hơn cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của các nền kinh tế trong khu vực. Vì vậy, đảm bảo an ninh năng
lượng đang ngày càng trở thành nhiệm vụ cấp bách đối với toàn khu vực.
- Đề tài, luận văn, luận án:
+ Đề tài: "Các vấn đề an ninh phi truyền thống ở Đông Nam Á: Tác động
đối với ASEAN và Việt Nam" của Nguyễn Phương Bình [15] đã đề cập đến
những cách tiếp cận khác nhau về ANPTT; những thách thức ANPTT ở Đông
Nam Á cũng như quan điểm hợp tác của ASEAN và Việt Nam về ANPTT.
+ Đề tài: "Mối đe dọa đối với an ninh phi truyền thống và tác động của
nó đến quan hệ quốc tế hiện nay" của Hồ Châu [29] đã phân tích các mối đe
đọa ANPTT tác động đến quan hệ quốc tế và kinh nghiệm của Việt Nam
trong việc giải quyết các vấn đề ANPTT.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu tiêu biểu của các tác giả nước ngoài
- Về sách:
+ Cuốn: "Khía cạnh môi trường đối với vấn đề an ninh" (The
environmental dimension to security issues) của Norman Myers [204] đã
chứng minh sự bần cùng hóa môi trường là nguyên nhân chính cho sự căng
thẳng và xung đột giữa các quốc gia. Tác giả cho rằng, các khái niệm an ninh
phải bao gồm thước đo của sự ổn định môi trường; sự tồn tại của chúng ta
không chỉ phụ thuộc vào sự cân bằng quân sự, mà còn là sự hợp tác toàn cầu
để đảm bảo một môi trường sinh thái bền vững.
+ Cuốn: "Đụng độ giữa các nền văn minh” (The Clash Of Civilizations)
của Samuel Hungtington [207] là một công trình nghiên cứu về học thuyết
chính trị - đối ngoại. Theo tác giả, sau chiến tranh lạnh, thế giới chuyển sang
một hệ thống với chủ thể là các nền văn minh khác nhau, khó có thể tránh
khỏi việc đụng độ nhau. Tác giả chia thế giới thành 2 nền văn minh là văn
15
minh phương Tây và văn minh không phải phương Tây; đưa ra kết luận là nền
dân chủ phương Tây sẽ phải đối mặt với chủ nghĩa cực đoan, trào lưu chính
thống của các nền văn minh khác và phải chuẩn bị sẵn sàng trước thách thức
mới của lịch sử. Công trình này mang tính “học thuyết” phù hợp với quan
điểm đối ngoại của Chính quyền Mỹ. Vì vậy, Tổng thống Mỹ G.Bush lúc đó đã
sử dụng để diễn thuyết nguyên nhân khủng bố; tiến hành cuộc chiến chống
khủng bố là “khách quan”, là “sứ mệnh” của Mỹ; việc Mỹ và phương Tây viện
trợ dân chủ, nhân quyền cho các nước có khủng bố là nhằm giải quyết mâu
thuẫn giữa các nền văn minh, từ đó giải quyết triệt để chủ nghĩa khủng bố.
+ Cuốn: "Môi trường và quan hệ quốc tế" (Environment & International
Relations) (1996) của Vogler, John, Mark F,Imber [213] đã nêu lên những
vấn đề chung về an ninh môi trường; kinh tế chính trị quốc tế và thay đổi môi
trường toàn cầu; lý thuyết về thực thể mới, chủ nghĩa thể chế mới và công ước
thay đổi khí hậu.
+ Cuốn: "Sách trắng Quốc phòng" của Hội đồng Nhà nước Trung Quốc
[80] đã chỉ ra rằng những mối đe dọa ANPTT như tội phạm xuyên quốc gia,
môi trường xấu đi, ma túy ngày một nổi bật, đặc biệt là chủ nghĩa khủng bố
đã cấu thành uy hiếp đối với an ninh khu vực và quốc tế.
+ Cuốn: "An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hóa" của Vương Dật
Châu [28] đã phân tích dưới nhiều góc độ từ triết học đến kinh tế, chính trị,
ngoại giao, tạo nên bức tranh tổng thể về an ninh quốc tế trong thời đại toàn
cầu hóa; đã phân tích nội hàm của quan niệm ANPTT, đồng thời có sự phân
biệt giữa ANPTT với ANTT. Những đánh giá và nhận định trên lĩnh vực an
ninh quốc tế cũng như ảnh hưởng của nó đến độc lập và phát triển có giá trị
tham khảo đối với Việt Nam.
+ Cuốn: "Định nghĩa đe dọa an ninh phi truyền thống" (Defining nontraditional security threats) của Saurabh Chaudhuri [209] đã lý giải khá sâu
sắc về mối đe dọa ANPTT khi cho rằng, sau chiến tranh lạnh với sự tác động
của toàn cầu hóa, đã mở ra những khía cạnh mới của an ninh. Bản chất của
16
các mối đe dọa an ninh không ngừng thay đổi và việc đảm bảo an ninh vượt
ra ngoài khuôn khổ nhà nước và an ninh quân sự. Với sự sụp đổ của mô hình
CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu, môi trường quốc tế có sự chuyển
đổi, làm cho chiến lược an ninh toàn cầu cũng thay đổi theo, chuyển trọng
tâm từ sức mạnh quân sự - yếu tố quyết định chính trật tự thế giới trước đây
đến ANPTT với nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Theo tác
giả, kết thúc chiến tranh lạnh đã đánh dấu sự thay đổi trong nghiên cứu, phân
tích về an ninh thế giới từ khuôn khổ truyền thống sang phi truyền thống.
+ Cuốn: "Cộng đồng Đông Á và an ninh phi truyền thống- Một đề xuất từ
Trung Quốc" (East Asia Community and Nontraditional Security) của Wang
Yong [215] đã phân tích những yếu tố tác động đến sự xuất hiện ANPTT, tác
giả đã đưa ra 5 lĩnh vực thuộc nội hàm của khái niệm ANPTT ở Trung Quốc
hiện nay: Một là, vấn đề an ninh liên quan đến phát triển bền vững, bao gồm
bảo vệ môi trường, phát triển tài nguyên, môi trường sinh thái toàn cầu và kiểm
soát phòng chống dịch bệnh; Hai là, mối đe dọa đến sự ổn định an ninh khu
vực và quốc tế, bao gồm an ninh kinh tế, an sinh xã hội, quyền con người và
người tị nạn; Ba là, tổ chức tội phạm xuyên quốc gia, bao gồm cả buôn người
và buôn bán ma túy; Bốn là, tổ chức tồn tại ngoài nhà nước thách thức trật tự
quốc tế, lớn nhất là sự đe dọa của chủ nghĩa khủng bố quốc tế; Năm là, vấn đề
an ninh gây ra bởi phát triển công nghệ và toàn cầu hóa, bao gồm cả an ninh
mạng, an ninh thông tin và an ninh kỹ thuật di truyền. Đồng với quan điểm
trên, nhà nghiên cứu Yong đã đưa ra luận điểm của mình về ANPTT trong
công trình An ninh phi truyền thống và Trung Quốc (2007). Tác giả đã đi sâu
cắt nghĩa nguồn gốc và bản chất của ANPTT xuất phát từ chính các mâu thuẫn
trong xã hội, các mâu thuẫn giữa con người với giới tự nhiên, nhất là tình trạng
người bóc lột người vẫn chưa bị xỏa bỏ, tình trạng dân tộc này chèn ép dân tộc
khác vẫn chưa được khắc phục, bản tính tước đoạt tự nhiên vẫn chưa được loại
trừ, tính nhân bản của con người chưa được khơi dậy. Điều đó đã dẫn tới tình
trạng nghèo đói và xung đột, khai thác tài nguyên kiệt quệ, buôn bán PNTE,
17
ma túy. Do đó, tác giả cho rằng ANPTT luôn mang trong nó bản chất chính trị
- xã hội và kinh tế - xã hội mà muốn giải quyết tận gốc phải bắt đầu từ các cải
biến chính trị - xã hội và kinh tế - xã hội ở từng quốc gia, còn giải pháp hợp tác
quốc tế chỉ là ứng phó với tình huống đã xảy ra và trù liệu các kịch bản trong
tương lai. Tất nhiên, trong khi nhấn mạnh đến bản chất kinh tế - xã hội và
chính trị - xã hội, tác giả cũng không phủ nhận những biến đổi mang tính tự
nhiên của sinh giới, của xã hội đặt ra những mâu thuẫn mới mà loài người phải
giải quyết như dịch bệnh, thay đổi môi trường.
+ Cuốn: "Bàn về an ninh phi truyền thống" của Lục Trung Vĩ [187] đã
trình bày nhân tố an ninh quốc gia phi truyền thống thuộc các phạm trù: an
ninh kinh tế, an ninh chính trị và an ninh xã hội. Trong đó, những vấn đề như
an ninh tiền tệ, an ninh năng lượng, khoa học kỹ thuật, an ninh môi trường
sinh thái đã ít nhiều liên quan đến an ninh kinh tế. Những vấn đề chủ nghĩa
chia rẽ dân tộc, chủ nghĩa tôn giáo cực đoan và chủ nghĩa khủng bố thuộc về
an ninh chính trị nhiều hơn. Những vấn đề như bệnh dịch truyền nhiễm, buôn
lậu ma tuý, an ninh dân số, cướp biển, hoạt động phạm tội có tổ chức về cơ
bản thuộc vấn đề an ninh xã hội. Những hoạt động phạm tội như phổ biến vũ
khí hạt nhân, rửa tiền, tấn công mạng tin học trên mức độ khác nhau mang
đặc điểm hoạt động tội phạm xuyên quốc gia. Hàm ý của ANPTT có thể biểu
đạt là vấn đề xuyên quốc gia do nhân tố phi chính trị, quân sự gây ra, trực tiếp
ảnh hưởng, thậm chí uy hiếp tới sự phát triển, ổn định và an ninh của mỗi
quốc gia, khu vực và toàn cầu.
+ Cuốn: "Định nghĩa an ninh phi truyền thống và ảnh hưởng của nó đối
với Trung Quốc" (Defining Non - Traditional Security and Its Implications for
China ) của Yizhou Wang [217] đã cho rằng, thế giới ngày càng nhiều mối đe
dọa ANPTT trên nhiều lĩnh vực khác nhau, ví dụ như khủng hoảng tài chính,
tội phạm mạng, thoái hóa môi trường sinh thái, buôn bán ma túy, vũ khí hạt
nhân, chính sách khủng bố mới và thậm chí là cả SARS. Theo tác giả, việc ưu
tiên giải quyết hoặc giảm bớt các mối đe dọa ANPTT là rất khó khăn vì các
18
quốc gia còn quá nhiều các nhu cầu khác trong khi nguồn lực còn hạn chế.
Tác giả gợi ý các nghiên cứu về ANPTT phải dựa trên các khái niệm và ý
thức hệ mới, kết hợp các quan điểm mới. Đặc biệt, chúng ta cần phải xây
dựng mối quan hệ tương đối cân bằng và hài hòa giữa “an ninh quốc gia” và
“an ninh phi quốc gia” (an ninh toàn cầu, an ninh khu vực và an ninh giữa các
vùng trong một quốc gia ở các cấp độ khác nhau).
+ Cuốn: "Cộng đồng an ninh trong bối cảnh an ninh phi truyền thống"
(Security Community in the Context of Nontraditional Security) của Wang
Jiangli [214] đã đưa ra một khía cạnh lý thuyết khác khi trình bày các cộng
đồng an ninh trên phương diện chính trị, nhà nước và quốc tế, đồng thời đặt
nó trong bối cảnh mới khi thế giới đang phải ứng phó với mối đe dọa ANPTT.
+ Cuốn: "Mối liên hệ giữa kinh tế, an ninh và quan hệ quốc tế ở Đông Á"
(The Nexus of Economics, Security, and International Relations in East Asia)
của Avery Goldstein, Edward Mansflel [192] đã cho rằng, kinh tế và an ninh có
mối liên hệ với nhau chứ không phải là tách biệt và điều này có ảnh hưởng đến
quan hệ quốc tế ở Đông Á. Hai ông cho rằng bằng nhiều cách tiếp cận khác
nhau có thể giải thích sự năng động của khu vực Đông Á đã tác động đến kinh
tế chính trị và an ninh quốc tế và đánh giá độ bền vững của hòa bình và thịnh
vượng ở Đông Á.
- Bài viết trên tạp chí, báo mạng:
+ Bài: "Hội nghị Thượng đỉnh G7 là một tổ chức an ninh mới" của John
Kirton [89] đã cho rằng, sau chiến tranh thế giới thứ hai, đối với an ninh về cơ
bản có 3 mối đe dọa: mối đe dọa cũ, mối đe dọa mới và mối đe dọa đang xuất
hiện. Hiện nay, thế giới chủ yếu đối mặt với mối đe dọa mới và các mối đe
dọa đang xuất hiện. Trong trường hợp mối đe dọa cũ - ANTT, thì an ninh
quân sự là nền tảng với lực lượng vũ trang đóng vai trò chủ đạo. Còn trong
mối đe dọa mới và mối đe dọa đang xuất hiện, thì các yếu tố có tính phi quân
sự chi phối và lực lượng vũ trang đóng một vai trò tối thiểu.
+ Bài: "Quan hệ đối tác về công nghệ tái tạo: Lối thoát cho an ninh năng
lượng" (Technology Partnerships for Renewables: Key to Energy Security)
19
của tác giả Bertrand Fort, Francis X.Johnson [193] đã đưa ra cách tiếp cận
riêng để giải quyết an ninh năng lượng và an ninh môi trường. Đáng chú ý,
tác giả đã chỉ ra giải pháp công nghệ cho đảm bảo an ninh năng lượng, nhờ đó
mới có thể tận dụng được năng lượng tái tạo, năng lượng sạch, năng lượng
mới. Điều đó tạo nên ý nghĩa kép: vừa đảm bảo an ninh năng lượng, vừa đảm
bảo an ninh môi trường.
+ Bài: "Ba trụ cột bền vững của an ninh quốc gia trong thế giới xuyên
quốc gia" (The Three Pillars of Sustainable National Security in a
Transnational World) của Nayef Al-Rolhan [203] đã nhận định rằng, thế kỷ
XXI đòi hỏi phải có tư duy mới về ANQG. Các quốc gia hiện nay ngày càng
phụ thuộc vào nhau và phải đối mặt với các mối đe doạ an ninh từ nhiều
nguồn khác nhau; các mối đe dọa truyền thống mở đường cho các mối đe dọa
phi truyền thống. Theo tác giả, mối đe dọa ANPTT đã thể hiện vai trò ngày
càng lớn về an ninh, do sự suy giảm tương đối của các mối đe dọa ANTT,
một phần là do sự phụ thuộc, liên kết giữa các quốc gia dân tộc trong điều
kiện toàn cầu hóa ngày càng gia tăng.
+ Bài: "Mối đe dọa ANPTT ở châu Á: Đi tìm cách giải quyết của khu
vực" (Non-traditional security threats in Asia: Finding a regional way forward)
của Edidie Walsh [196] đã cho rằng các mối đe dọa ANPTT nổi lên ở châu Á
hiện nay như tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố, cứu trợ thiên tai, an ninh thông
tin, dịch bệnh và sức khỏe cộng đồng - được xem là vấn đề cốt lõi của ANQG.
Do những biến đổi mạnh mẽ của tình hình thế giới trong quá trình toàn cầu hóa
mà các mối đe dọa ANPTT ngày càng trở nên quan trọng, đe dọa trực tiếp đến
sự ổn định, phát triển bền vững của các quốc gia và toàn nhân loại.
+ Bài: "Năng lượng và An ninh phi truyền thống ở châu Á" (Energy and
Non-Traditional Security (NTS) in Asia) của Mely Caballero-Anthony,
Youngho Chang, Nur Azha Putra [202] đã đề cập đến an ninh năng lượng, tư
duy chính sách truyền thống đã tập trung vào việc bảo đảm cung cấp mà
không chú trọng nhiều đến tác động kinh tế, xã hội và môi trường.
20
+ Bài: "Chiến tranh thông tin: một hình thức mới của chiến tranh nhân
dân" (information war: a new form of people's war) của Wei Jincheng [216]
đã cho rằng, thông tin là một “con dao hai lưỡi” trong thời đại thông tin.
Thông tin không chỉ là một tin tức mà như vũ khí dẫn đường chính xác và vũ
khí chiến tranh điện tử. Hãng Enst &Young công bố công trình An ninh thông
tin: nguy cơ mới mà nhiều người chưa sẵn sàng đối phó, cho rằng bước sang
thế kỷ XXI với sự phát triển ngày càng mạnh của kinh tế tri thức và hội nhập
kinh tế toàn cầu, an ninh thông tin có những sắc thái hoàn toàn mới với những
biểu hiện rất đa dạng, nếu không quan tâm đúng mức sẽ phải gánh chịu tổn
thất kinh tế không nhỏ.
+ Bài: "Những vấn đề an ninh phi truyền thống: An ninh hóa tội phạm
xuyên quốc gia trong khu vực châu Á" (Non-Traditional Security Issues:
Securitisation of Transnational Crime in Asia) của James Laki [197] đã phản ánh
thực trạng buôn lậu thuốc phiện và buôn người trong khu vực châu Á - Thái
Bình Dương, cũng như những ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với khu vực…
1.2. NHỮNG VẤN ĐỂ LUẬN ÁN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.2.1. Những vấn đề liên quan đến luận án đã được giải quyết
Tổng quan các công trình nghiên cứu ở trong nước và ngoài nước nêu
trên đã cho thấy, liên quan đến đề tài luận án đã có khá nhiều công trình khoa
học nghiên cứu, đề cập với những góc độ và các cấp độ khác nhau, nhiều vấn
đề đã được giải quyết.
Một là, nghiên cứu lý luận chung về ANPTT thống với cách tiếp cận đa
diện về nội hàm khái niệm, luận giải bản chất, cấu trúc, tính chất, đặc điểm và
nhận dạng các dấu hiệu của an ninh phi truyền thống.
Tuy còn có sự khác nhau, đặc biệt là về nội hàm, nhưng các nghiên cứu,
về cơ bản, đã có sự thống nhất khi cho rằng, khái niệm ANPTT là khái niệm
mang tính chất “động”, cùng với thời gian, nội hàm của nó có thể còn được
mở rộng hơn. Do vậy, cách đặt vấn đề về mối đe dọa ANPTT của các quốc
gia, các khu vực và cộng đồng còn có sự khác nhau. Trong thời đại toàn cầu
hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, các mối quan hệ, các mặt của đời
21
sống xã hội ngày càng gắn bó chặt chẽ với nhau, thâm nhập, đan xen, tác
động và ảnh hưởng lẫn nhau. Vì thế, việc khuôn những vấn đề cụ thể nào đó
trong nội hàm của mối đe dọa ANPTT là mang ý nghĩa tương đối.
Các vấn đề cạn kiệt tài nguyên, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường,
thảm họa thiên tai, dịch bệnh, khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia… đang đặt
ra những yêu cầu bức thiết phải có sự nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế để
đối phó, là nội hàm cụ thể của mối đe dọa ANPTT, được nhiều công trình
nghiên cứu đề cập.
Hai là, vấn đề ANPTT được nghiên cứu từ góc độ là thách thức đe dọa,
với những hình thái biểu hiện cụ thể, ngày càng nguy hiểm, khó kiểm soát tới
ổn định và phát triển của từng quốc gia, từng khu vực và toàn nhân loại với
nhiều tình huống, biểu hiện và xu hướng mới cần được nhận diện để quản trị
một cách có hiệu quả.
Tính chất nguy hiểm của mối đe dọa ANPTT không chỉ biểu hiện ở
mức độ hủy hoại, sự tàn phá của nó đối với cuộc sống của con người, mà
còn đặt ra nhiều thách thức đối với sự ổn định xã hội, sự tồn vong của cả
cộng đồng, hiệu quả thực tế của hợp tác và hội nhập toàn cầu; thậm chí
còn làm nảy sinh các vấn đề về an ninh quân sự. Phạm vi tác động của
vấn đề ANPTT vượt ra khỏi biên giới lãnh thổ và lợi ích an ninh quốc gia
dân tộc của một nước.
Nhiều công trình đã chỉ rõ, những mối đe dọa ANPTT đối với Việt Nam
không chỉ từ các vấn đề trong nước, mà còn từ các vấn đề khu vực và thế giới,
đặc biệt là các vấn đề khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, an ninh biển, tội
phạm công nghệ cao. Nhiều công trình khẳng định rõ, yêu cầu đối phó với
mối đe dọa ANPTT hiện nay ở Việt Nam là phải trực tiếp phục vụ cho mục
tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Nhiệm vụ an ninh của
Việt Nam trong thời kỳ mới không chỉ là vấn đề giữ gìn an ninh, trật tự an
toàn xã hội, bảo đảm an ninh quốc gia, mà còn phải góp phần làm thất bại mọi
sự chống phá của các thế lực thù địch, bảo đảm sự ổn định, phát triển bền
vững của chế độ, sự bất khả xâm phạm, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh