Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

dạy học môn khoa học lớp 4 theo lý thuyết kiến tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (487.17 KB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
-------------------------------

NGUYỄN THỊ HẰNG

DẠY HỌC MÔN KHOA HỌC LỚP 4
THEO LÝ THUYẾT KIẾN TẠO

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục Tiểu học

Người hướng dẫn khoa học

TS. Phạm Quang Tiệp

HÀ NỘI, 2014


LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường ĐHSP Hà Nội 2, các
thầy cô giáo trong khoa Giáo dục Tiểu học và các thầy cô trong tổ bộ môn
Phương pháp dạy học Tự nhiên và Xã hội đã giúp đỡ em trong quá trình học
tập tại trường và tạo điều kiện để em thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo ThS. Nguyễn Thị
Hương và thầy giáo TS. Phạm Quang Tiệp, người đã tận tình hướng dẫn chỉ
bảo em trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo trường Tiểu
học Cổ Loa - huyện Đông Anh - thành phố Hà Nội, trường Tiểu học Nguyễn
Thái Học - huyện Vĩnh Tường - tỉnh Vĩnh Phúc và trường Tiểu học Phạm


Công Bình - huyện Yên Lạc - tỉnh Vĩnh Phúc đã hết sức nhiệt tình giúp đỡ em
hoàn thành khóa luận này.
Trong quá trình nghiên cứu, không tránh khỏi những thiếu sót và hạn
chế. Kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn
đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5năm 2014
Sinh viên

Nguyễn Thị Hằng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Qua quá trình nghiên cứu tìm hiểu các nội dung liên quan đến đề tài, tôi
có sử dụng tài liệu của một số nhà nghiên cứu và các tác giả khác.Tuy nhiên
việc sử dụng các tài liệu đó chỉ mang tính tham khảo. Những kết quả và số
liệu trong khóa luận chưa được công bố dưới bất kì hình thức nào.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Hà Nội,tháng 5năm 2014
Sinh viên

Nguyễn Thị Hằng


DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT

GV

:Giáo viên


HSTH

: Học sinh Tiểu học

HS

: Học sinh

LTKT

: Lý thuyết kiến tạo

PPDH

: Phương pháp dạy học

PTKT

: Phương tiện kĩ thuật

TN&XH

: Tự nhiên và Xã hội


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu.................................................................................................................3

3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu...........................................................................................3
4. Phạm vi nghiên cứu...................................................................................................................3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.................................................................................................................3
6. Giả thuyết khoa học...................................................................................................................4
7. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................................4
8. Cấu trúc.....................................................................................................................................4
Chương 1...........................................................................................................................................5
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC DẠY HỌC ..........................................................................5
MÔN KHOA HỌC LỚP 4 THEO LÝ THUYẾT KIẾN TẠO..........................................................................5
1.1. Cơ sở lý luận...........................................................................................................................5
1.1.1. Đổi mới phương pháp dạy học của nước ta hiện nay......................................................5
1.1.2. Lý thuyết dạy học kiến tạo...............................................................................................7
1.1.3. Dạy học môn Khoa học lớp 4.........................................................................................12
1.1.4. Đặc điểm tư duy của học sinh Tiểu học.........................................................................16
1.2. Cơ sở thực tiễn.....................................................................................................................19
Chương 2.........................................................................................................................................29
ĐỀ XUẤT QUY TRÌNH DẠY HỌC MÔN KHOA HỌC LỚP 4..................................................................29
THEO LÍ THUYẾT KIẾN TẠO..............................................................................................................29
2.1. Nguyên tắc khi dạy học môn Khoa học lớp 4 theo lý thuyết kiến tạo...................................29
2.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học và tính sư phạm.....................................................29
2.1.2.Nguyên tắc đảm bảo được bản chất của lý thuyết kiến tạo...........................................29
2.1.3. Nguyên tắc đảm bảo được tính vừa sức của học sinh...................................................30
2.4. Một số ví dụ..........................................................................................................................38
KẾT LUẬN.........................................................................................................................................50


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước phát triển theo xu thế hội
nhập, thì trước hết giáo dục của quốc gia cũng phải có sự giao lưu sâu rộng

với nền giáo dục nước ngoài. Vì vậy, song song với việc kế thừa những
truyền thống giáo dục tốt đẹp từ ngàn xưa để lại, thì việc tiếp thu có chọn lọc
những tinh hoa của nền giáo dục nhân loại để có được những phương pháp
giáo dục mới, là xu hướng phát triển tất yếu của nền giáo dục Việt Nam.
Từ xa xưa, tư tưởng giáo dục của nước ta đã mang những giá trị ngang
tầm với nền giáo dục hiện đại trên thế giới, được thể hiện qua các câu thành
ngữ, tục ngữ:“Học một biết mười / Đi một ngày đàng, học một sàng khôn/ Học
thầy không tày học bạn”…. Tuy nhiên, không phải vì thế mà ta cho rằng việc
chỉ cần giữ nguyên, tiếp nối những tư tưởng giáo dục truyền thống cũ là đủ,
muốn nền giáo dục đạt được hiệu quả thì giáo dục phải không ngừng được cải
cách, và đổi mới giáo dục là một hoạt động mang tính thường xuyên, liên tục.
Trong thời gian qua, nước ta cũng đã thực hiện nhiều cuộc cải cách giáo
dục, nhưng hiệu quả không được như mong đợi. Thiết nghĩ nền giáo dục nước
nhà cần có sự thay đổi một cách triệt để hơn nữa. Điều này đã được khẳng
định trong Nghị quyết Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt nam về định hướng
phát triển và Giáo dục đào tạo 5 năm 2006 - 2010: “Đổi mới tư duy giáo dục
một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình nội dung, phương pháp đến cơ
cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quản lý để tạo được sự chuyển biến cơ bản
và toàn diện của nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của
khu vực và thế giới, khắc phục cách đổi mới chắp vá, thiếu tầm nhìn tổng thể,
thiếu kế hoạch đồng bộ. Phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại, của dân,
do dân và vì dân, đảm bảo công bằng về cơ hội học tập cho mọi người, tạo

1


điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời, đáp ứng nhu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước…”
Đổi mới phương pháp giáo dục có trọng tâm chính là đổi mới phương
pháp dạy học. Tuy nhiên, trong hoạt động đổi mới phương pháp còn có

nhiều hạn chế, giáo viên vẫn còn lúng túng khi tiếp cận các phương pháp
mới. Giáo viên cho dù có tiếp cận với các PPDH mới thì chất lượng việc
áp dụng các phương pháp vẫn còn thấp và chưa đạt hiệu quả mong đợi.
Vậy sử dụng PPDH như thế nào để có thể phát huy tối đa tính chủ động
sáng tạo của học sinh?
Đối với HSTH, việc học sinh có thể chủ động và sáng tạo trong công
việc học tập thực sự là một phương pháp học vô cùng cần thiết. Các em có
thể tự đi tìm hiểu và khám phá thế giới xung quanh mà không bị áp đặt tri
thức hay lý thuyết sẽ giúp hoạt động học tập đạt được hiệu quả cao nhất.
Một trong những phương pháp mới cần được đưa vào chương trình học
cho học sinh chính là PPDH theo lý thuyết kiến tạo.
Lý thuyết kiến tạo ra đời vào thế kỉ 18 và hình hành và phát triển ở cuối
thế kỉ 20. Dạy học theo lý thuyết kiến tạo, người học có thể tích cực, chủ
động kiến tạo tri thức của bản thân qua kinh nghiệm vốn có và tương tác với
môi trường học tập. Dạy học kiến tạo không chỉ giúp người học nắm được
kiến thức kĩ năng, kĩ xảo cần có mà quan trọng hơn là thúc đẩy được khả năng
tư duy, sáng tạo của người học qua những trải nghiệm trong thực tế giúp
người học hoàn thiện tri thức.
Môn Khoa học ở Tiểu học là một môn học tích hợp những kiến thức về
TN&XH thông qua việc học sinh tìm hiểu về môi trường xung quanh, chương
trình môn Khoa học đòi hỏi cao sự tích cực tham gia vào các hoạt động học
tập để tìm kiếm tri thức của học sinh. Dạy học môn Khoa học, giáo viên
không chỉ đơn thuần là cung cấp cho học sinh những kiến thức về TN& XH
một cách thụ động và lý thuyết, mà cần phải tạo cho học sinh niềm tin về tri

2


thức bằng cách để các em tự tìm ra chân lý, từ đó các em có thể ứng dụng vào
thực tế cuộc sống. Vì vậy dạy học kiến tạo là PPDH hoàn toàn phù hợp với

chương trình môn Khoa học cấp Tiểu học. Nhất là ở khối lớp 4, là khối lớp
mà môn Khoa học dần được tách biệt ra khỏi hệ thống môn học TN&XH lớp
1 2 3 và trở thành một môn học độc lập. Việc áp dụng thuyết kiến tạo vào
ngay các bài Khoa học lớp 4 sẽ làm cho học sinh có thói quen học tập mới, tích
cực khám phá môn học và nắm bắt tri thức chủ động, sáng tạo, có hiệu quả.
Trên đây là những lý do làm cơ sở để tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu với
tiêu đề: “Dạy học môn Khoa học lớp 4 theo lý thuyết kiến tạo”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất quy trình dạy học môn Khoa học lớp 4 theo lý thuyết kiến tạo.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Việc vận dụng lý thuyết kiến tạo trong dạy học
môn Khoa học lớp 4.
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học môn Khoa học lớp 4 theo
thuyết kiến tạo.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn về địa bàn: Tiến hành điều tra, khảo sát ở các trường Tiểu học
+ Trường Tiểu học Phạm Công Bình - xã Đồng Văn - huyện Yên Lạc
-tỉnh Vĩnh Phúc.
+ Trường Tiểu học Cổ Loa - xã Cổ Loa- Huyện Đông Anh - tp Hà Nội.
+ Trường Tiểu học Nguyễn Thái Học - thị trấn Thổ Tang - huyện Vĩnh
Tường - tỉnh Vĩnh phúc.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn cho đề tài dạy học môn Khoa học
lớp 4 theo thuyết kiến tạo.
Đề xuất quy trình dạy học môn Khoa học lớp 4 theo thuyết kiến tạo.

3


6. Giả thuyết khoa học

Thiết kế quy trình dạy học môn Khoa học lớp 4 theo thuyết kiến tạo. Từ
đó nâng cao chất lượng dạy và học môn Khoa học trong trường Tiểu học, đáp
ứng được sự đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học hiện nay.
7. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phân tích tổng hợp nguồn tài liệu để
xây dựng cơ sở lý luận của việc ứng dụng LTKT trong môn Khoa học lớp 4.
Phương pháp điều tra: Thiết kế phiếu, xin ý kiến giáo viên về thực trạng
dạy học môn Khoa học lớp 4 theo lý thuyết kiến tạo.
Phương pháp trò chuyện: Trao đổi trực tiếp với giáo viên giảng dạy và
quản lý về thực trạng dạy hoc môn Khoa học lớp 4.
8. Cấu trúc
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo nội dung
chính của khóa luận gồm:
Chương 1.Cơ sở lý luận, thực tiễn.
Chương 2. Đề xuất quy trình dạỵ học môn Khoa học lớp 4 theo lý thuyết
kiến tạo.

4


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC DẠY HỌC
MÔN KHOA HỌC LỚP 4 THEO LÝ THUYẾT KIẾN TẠO
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Đổi mới phương pháp dạy học của nước ta hiện nay
1.1.1.1. Khái niệm phương pháp dạy học
Thuật ngữ phương pháp dạy học bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp (Methodos)
có nghĩa là con đường để đạt được mục đích dạy học. [31/tr6]
Giáo dục cho rằng:“Phương pháp dạy học là cách thức, là con đường

mà thầy và trò sử dụng, giúp cho học sinh chiếm lĩnh nội dung bài học, thông
qua đó đạt được mục đích dạy học”.
Heghen quan niệm: “Phương pháp là cách thức làm việc của chủ thể,
cách thức này tùy thuộc vào nội dung vì phương pháp là sự vận động bên
trong của nội dung”.
Theo cách hiểu đó PPDH là hệ thống những cách thức hoạt động (hành
động và thao tác) của giáo viên và học sinh nhằm thực hiện tốt mục đích và
nhiệm vụ dạy học. Phương pháp dạy học bao gồm phương pháp dạy và
phương pháp học. Phương pháp dạy được hiểu là phương pháp tổ chức nhận
thức, phương pháp điều khiển các hoạt động trí tuệ và thực hành, phương
pháp giáo dục ý thức và thái độ đúng đắn cho học sinh. Phương pháp học là
phương pháp nhận thức và rèn luyện để hình thành hệ thống tri thức và kĩ
năng thực hành, hình thành nhân cách người học. Phương pháp dạy và
phương pháp học không tồn tại độc lập mà nó liên quan và phụ thuộc vào
nhau. Chúng vừa là mục đích vừa là nguyên nhân tồn tại của nhau.
5


Nói cách khác, PPDH là tổ hợp những cách thức hoạt động của cả thầy
và trò nhằm đạt được mục đích của việc dạy học.
1.1.1.2. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học[14]
Định hướng đổi mới PPDH đã được xác định trong Nghị quyết Trung
ương 4 khóa VII (1/ 1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12/1996),
được thể chế hóa trong luật Giáo dục (2005) được thể chế hóa trong các chỉ
thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là chỉ thị số 14 (4/1999).
Luật Giáo dục, điều 28.2 đã ghi: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với
đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm
vui, tình cảm, hứng thú học tập cho học sinh”.

Đổi mới PPDH không có nghĩa là gạt bỏ các PPDH truyền thống mà
phải vận dụng một cách hiệu quả các PPDH hiện có theo quan điểm dạy
học tích cực kết hợp với các PPDH hiện đại. Có thể nói cốt lõi của việc đổi
mới dạy học là hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen
học tập thụ động.
1.1.1.3. Những xu hướng đổi mới PPDH
Hiện nay nước ta có nhiều công trình nghiên cứu, thử nghiệm về đổi mới
PPDH theo nhiều hướng khác nhau, theo GS. Lê Trọng Tín,[10] những
hướng đổi mới đó là:
Hướng 1: Tăng cường tính tích cực, tìm tòi, sáng tạo của người học, tiềm
năng trí tuệ nói riêng và nhân cách nói chung, thích ứng năng động với thực
tiễn luôn đổi mới.
Hướng 2: Tăng cường năng lực vận dụng tri thức đã học vào cuộc sống
sinh hoạt và sản xuất luôn biến đổi.

6


Hướng 3: Chuyển dần trọng tâm của PPDH từ tính chất thông báo, tái
hiện đại trà chung cho cả lớp sang tính chất phân hóa – cá thể hóa cao độ, tiến
lên theo nhịp độ cá nhân.
Hướng 4: Liên kết nhiều PPDH riêng lẻ thành hệ thống PPDH phức hợp.
Hướng 5: Liên kết PPDH với các PTKT dạy học hiện đại (phương tiện
nghe nhìn, máy vi tính…) tạo ra các tổ hợp PPDH có dùng PTKT dạy học.
Hướng 6: Chuyển hướng phương pháp khoa học thành PPDH đặc thù
của môn học.
Hướng 7: Đa dạng hóa các PPDH phù hợp với các cấp học, bậc học, các
loại hình trường và các môn học.
1.1.2. Lý thuyết dạy học kiến tạo
1.1.2.1.Khái niệm

Một số khái niệm về kiến tạo:
Theo từ điển Tiếng Việt, “kiến tạo” có nghĩa là xây dựng nên. Đây là
hoạt động của con người tác động nên một đối tượng nhằm tạo nên một đối
tượng mới theo nhu cầu của bản thân.
Mebrien và Brant (1997) đã chỉ ra rằng: “Kiến tạo là một cách tiếp cận
dạy dựa trên nghiên cứu về việc học với nềm tin rằng: Tri thức được tạo nên
bởi mỗi cá nhân người học sẽ trở nên vững chắc hơn rất nhiều so với việc nó
được nhận từ người khác”. Một số nhà nghiên cứu cho rằng: “Tất cả các tri
thức đều là một sản phẩm của những hoạt động tri thức của chính chúng ta
và học sinh có thể trình bày, kiểm chứng, bảo vệ hay phê phán các khái niệm
được xây dựng”.[23]
Về quan điểm của dạy học kiến tạo thì theo Brooks (1993) có nói:
“Quan điểm kiến tạo trong dạy học khẳng định rằng học sinh cần phải kiến
tạo nên những hiểu biết về thế giới bằng cách tổng hợp những kinh nghiệm
mới vào trong những cái mà họ đã có trước đó”. Còn Mbruno (1999) đã đề

7


cập tới rằng: “Người học tạo nên những kiến thức của bản thân bằng cách
điều khiển những ý tưởng và cách tiếp cận dưạ trên những kiến thức và kinh
nghiệm đã có, áp dụng chúng vào những tình huống mới, hợp thành tổng thể
thống nhất giữa những kiến thức mới thu được với những kiến thức đang tồn
tại trong trí óc”.
Theo cá nhận tôi, kiến tạo chính là cách cá nhân người học tự tìm ra tri
thức bằng cách vận dụng những và hiểu biết của bản thân, điều hòa với vốn
kinh nghiệm đã có trong việc tìm ra tri thức mới. Trong đó người học cần biết
dung hòa tri thức mới với những kinh nghiệm sẵn có, và biết vận dụng tri thức
vừa tiếp nhận vào những tình huống cụ thể trong cuộc sống.
1.1.2.2.Bản chất của lý thuyết kiến tạo

Lý thuyết kiến tạo về cơ bản là một lý thuyết dựa trên quan sát và nghiên
cứu khoa học nhằm trả lời cho câu hỏi:“Con người học như thế nào?” Lý
thuyết kiến tạo nói rằng con người kiến tạo những sự hiểu biết và tri thức về
thế giới thông qua sự trải nghiệm và phản ánh. Đó chính là, khi chúng ta đối
mặt với những điều mới mẻ, chúng ta phải điều ứng nó với những kinh
nghiệm có từ trước. Cũng có thể nó sẽ phá hỏng điều người học đang tin
tưởng và loại bỏ chúng vì không thích đáng. Lúc này, chính người học sẽ là
người kiến tạo tri thức cho bản thân. Để làm được điều này, trong quá trình
kiến tạo tri thức người học cần phải đưa ra những nghi vấn, đánh giá những gì
mà họ đã biết, tức là đánh giá chính kinh nghiệm của mình.
Bản chất của con đường dạy học kiến tạo này chính là lối tư duy phê
phán, lý thuyết này chống lại cách dạy học giáo điều, truyền thống theo thuyết
hành vi. Thế nào là thuyết hành vi? Dạy học theo thuyết hành vi cho rằng,
người học bắt chước, thực hiện hành vi, thao tác mà người dạy đưa làm mẫu.
Các kiến thức được người dạy mang đến, cung cấp sẵn cho người học, vì vậy
người học vô cùng thụ động. Có thể ví người học như cái cốc chưa có nước,

8


đang đợi sẵn để người học rót nước vào. Người dạy rót nhiều nước thì cốc
đầy,người học được nhiều kiến thức. Ngược lại người dạy rót ít nước thì cốc
vơi, người học được ít kiến thức. Khi họctheo thuyết hành vi, các hoạt động
của người họcđều mang tính dập khuôn, máy móc, khả năng tư duy, sáng tạo
bị bào mòn và dần mất đi. Các phương pháp truyền thống như: phương pháp
thuyết trình, giảng giải, phương pháp giải thích- minh họa,…chính là các
PPDH đặc trưng của thuyết hành vi.
LTKT trong giáo dục đi theo hướng phải đổi mới PPDH trong tất cả loại
hình trường hiện nay. Các PPDH này nhằm tích cực hóa tư duy người học,
giúp người học tự tìm kiếm, phát hiện, khám phá ra vấn đề và giải quyết các

vấn đề đó trong quá trình dạy học. Như vậy, học theo thuyết kiến tạo giúp
người học được chiếm lĩnh tri thức thông qua các hoạt động dưới vai trò tổ
chức, định hướng của người dạy, khi đó chính là lúc người học được học bằng
cách tư duy, khám phá vấn đề. Theo ý tưởng của J. Deway, Peaget, Vư gốt
xki, Bruner cho rằng: “Phải nhanh chóng thay đổi quan niệm người học chỉ
là chiếc lý rỗng mà người dạy muốn rót gì vào cũng được”. Và học theo
thuyết kiến tạo sẽ giúp người học tự tìm kiếm, phát hiện, khám phá ra vấn đề
và giải quyết các vấn đề đó trong quá trình dạy học.
Dạy học theo LTKT là một học thuyết về các hoạt động học của người
học phải dựa vào tri thức đã học (tri thức cũ) và vốn kinh nghiệm sống của
họ. Theo như Piaget thì bản chất của kiến tạo chính là sự thống nhất của 2
quá trình đồng hóa và điều ứng. [22]
Đồng hóa là quá trình khớp thực tế với tổ chức nhận thức thực tại, người
học sẽ áp dụng cái mình biết để nhận thức đặc tính của vật và sự vật cũng như
mối quan hệ giữa các sự vật. Nói theo cách khác, đồng hóa chính là sự thống
nhất các thông tin mới vào cấu trúc tinh thần đang có sẵn. Điều ứng là sự thay
đổi của một cấu trúc tinh thần để thu thập thông tin mới. Điều ứng liên quan

9


đến những nhu cầu khớp với thực tế, mỗi vật, mỗi sự vật cần có những đặc
tính mà sớm muộn được tính đến, điều ứng xảy ra khi các cấu trúc hiện tại đã
thất bại trong việc lý giải một vật hoặc một sự vật một cách thỏa đáng. Kết
quả điều ứng sẽ tổ chức lại tư duy dẫn tới một sự đồng hóa khác thỏa đáng
hơn. Đồng hóa và điều ứng đan kết chặt chẽ với nhau trong quá trình nhận
thức. Theo Piaget, thích nghi chính là sự cân bằng giữa đồng hóa và điều ứng.
Như vậy, học theo thuyết kiến tạo, chúng ta tự xây dựng nên hiểu biết cho
chính mình về thế giới mà chúng ta đang sống. Việc học tập chính là một quá
trình thích ứng những khuôn mẫu đã có để hòa hợp với những kinh nghiệm mới.

Học tập kiến tạo dựa trên sự tham gia của người học vào việc giải
quyết vấn đề và những suy nghĩ có tính phê phán (tư duy phê phán được
phát huy) trong hoạt động mà học sinh thấy phù hợp và hứng thú. Thuyết
kiến tạo cho phép người học xây dựng nên kiến thức cho chính mình bằng
cách thử nghiệm các ý tưởng từ những kinh nghiệm và hiểu biết đã có, từ
đó áp dụng những hiểu biết này vào tình huống khác đã biến đổi, có liên
quan đến kiến thức mới.
Dạy học theo LTKT sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho người học được học tập
với những trải nghiệm phong phú mà giáo viên là người định hướng cho các
em xây dựng nên kiến thức cho chính mình cũng như cách thức và con đường
tìm ra tri thức đó.
1.1.2.3. Quan điểm dạy học kiến tạo
PPDH theo LTKT dựa trên các quan điểm sau: [13]
- Dạy học thúc đẩy quá trình cơ cấu, cơ cấu lại sơ đồ nhận thức của
người học thông qua quá trình đồng hóa và điều ứng dựa trên kinh nghiệm
hiện có để đạt tới sự cân bằng mới nhằm thích nghi với môi trường học tập.
- Người học tích cực, chủ động và sáng tạo trong quá trình học từ đó tạo
dựng nên kiến thức về thế giới khách quan. Học qua thất bại có vai trò quan trọng.

10


- Dạy học phải dựa trên trình độ hiện tại và chú ý đến động cơ thúc đẩy
hoạt động học của người học.
- Dạy học theo nhóm có ý nghĩa quan trọng vì là hoạt động hợp tác giúp
người học giải quyết các vấn đề gặp phải, điều chỉnh hoạt động học tập của
bản thân và hòa nhập vào cộng đồng xã hội.
- Thực hiện tự đánh giá kết quả, điều chỉnh cách học của người học là
hoạt động quan trọng của dạy học kiến tạo.
1.1.2.4.Các loại kiến tạo trong dạy học

Theo nhiều nhà nghiên cứu có 2 loại lý thuyết ảnh hưởng đến giáo dục
là, thuyết kiến tạo cơ bản và thuyết kiến tạo xã hội.
- Kiến tạo cơ bản (Radial contructivism) đề cao vai trò của mỗi cá nhân
trong quá trình nhận thức và cách thức xây dựng tri thức cho bản thân. Mặt
mạnh của loại kiến tạo này là khẳng định vai trò chủ đạo của học sinh trong
quá trình học tập. Tuy nhiên do coi trọng quá mức vai trò của các cá nhân mà
học sinh bị đặt trong tình trạng cô lập, vì thế kiến thức của học sinh thiếu tính
xã hội. Các con đường kiến tạo cơ bản được hình thành dựa trên các công
trình nghiên cứu của Ernst von Grasersfeld. Điểm cần lưu ý trong thuyết kiến
tạo cơ bản chính là nguồn gốc của kiến thức:“Kiến thức là kiến thức của
người học chứ không phải kiến thức của thế giới bên ngoài”(Straver 1995).
- Kiến tạo xã hội (Social contructivism) nhấn mạnh đến vai trò của các
yếu tố văn hóa, các điều kiện xã hội và sự tác động của các yếu tố đó đến sự
hình thành kiến thức. Kiến tạo xã hội xem xét các cá nhân thông qua mối
quan hệ chặt chẽ với các lĩnh vực xã hội. Nhân cách của học sinh được hình
thành thông qua sự tương tác của họ với những người khác. Người có công
lớn xây dựng nên thuyết kiến tạo xã hội là L.S.Vigotsky, dựa trên cơ sở vững
chắc là triết học Mác- Lênin. Vigotsky đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của
hoạt động xã hội trong quá trình hình thành kiến thức.“Con đường từ đồ vật

11


đến trẻ em và từ trẻ em đến đồ vật đều đi qua người khác… Con đường đi
qua người khác là con đường trung tâm duy nhất của sự phát triển trí tuệ [28]
Ông cho rằng sự thích ứng của tâm lý trẻ và môi trường được thực hiện bằng
các phương tiện xã hội từ môi trường xung quanh.
1.1.3. Dạy học môn Khoa học lớp 4
Trong chương trình cũ, Khoa học chỉ là một phần của bộ môn Tự nhiên
và Xã hội, nhưng trong chương trình mới, Khoa học đã tách thành một môn

học riêng biệt, được học ở hai lớp 4 và 5. Tuy chỉ được học ở giai đoạn II (lớp
4,5), nhưng nội dung dạy học môn Khoa học là sự phát triển kế tiếp của các
kiến thức thuộc các chủ đề Con người và Sức khỏe, Tự nhiên ở giai đoạn I.
Trong chương trình cũ, phần Khoa học được cấu trúc thành 13 chủ đề,
nhưng trong chương trình mới môn Khoa học chỉ bao gồm có 4 chủ đề. Tính
đồng tâm trong cấu trúc nội dung môn học được thể hiện rất rõ. Ba chủ
đề: Con người và Sức khỏe, Vật chất và năng lượng, Thực vật và động vật của
lớp 4 được mở rộng và đào sâu ở lớp 5.
1.1.3.1.Mục tiêu môn Khoa học lớp 4
Về mặt kiến thức:
Cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản và thiết thực về:
- Sự trao đổi chất, nhu cầu dinh dưỡng và sự lớn lên của cơ thể người,
cách phòng tránh một số bệnh thông thường và bệnh truyền nhiễm.
- Sự trao đổi chất, sự sinh sản của động vật và thực vật.
- Đặc điểm và ứng dụng của một số chất, một số vật liệu và dạng năng
lượng thường gặp trong đời sống và sản xuất.
Về mặt kĩ năng:
Bước đầu hình thành và phát triển những kĩ năng:
- Ứng xử phù hợp với các vấn đề về sức khỏe của bản thân, gia đình,
cộng đồng.

12


- Quan sát và làm một số thí nghiệm thực hành khoa học gần gũi với đời
sống sản xuất, sinh hoạt.
- Nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập, biết tìm kiếm thông
tin để giải đáp.
- Diễn đạt hiểu biết của bản thân bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ…
- Phân tích, so sánh, rút ra những đặc điểm chung và riêng của một số sự

vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên.
Về mặt thái độ:
Hình thành và phát triển ở học sinh những thói quen:
- Tự giác thực hiện các quy tắc giữ vệ sinh, an toàn cho bản thân cho gia
đình và cộng đồng.
- Ham hiểu biết khoa học, có ý thức vận dụng những kiến thức đã học
vào cuộc sống.
- Yêu thiên nhiên, con người, yêu đất nước, yêu cái đẹp, có ý thức và
hành vi bảo vệ môi trường xung quanh.
1.1.3.2. Nội dung môn Khoa học lớp 4
Nội dung chương trình khoa học lớp 4 có 3 chủ đề lớn
- Chủ đề 1: Con người và sức khỏe: gồm 19 bài
Học sinh biết được để duy trì sự sống của con người cần những yếu tố
gì? Một khi thiếu những yếu tố đó, con người sẽ không thể tồn tại, và trong
quá trình tồn tại, con người phải có mối quan hệ như thế nào với môi trường
xung quanh, đó là các quá trình trao đổi chất.
Trong chủ đề này, học sinh còn biết thức ăn mà con người ăn hằng ngày
có những chất dinh dưỡng nào, vai trò của các chất dinh dưỡng đó là gì và để
có được các chất dinh dưỡng một cách an toàn ta cần ăn uống như thế nào. Từ
đó học sinh tự tìm ra câu trả lời để sống và ăn uống đảm bảo an toàn.
Học sinh biết được một số bệnh do thiếu chất dinh dưỡng gây nên và
một số bệnh lây qua đường tiêu hóa. Đặc biệt nếu biết được trạng thái như thế

13


nào khi bị bệnh và đã bị bệnh, ăn uống ra sao cho đúng cách khi bị bệnh đảm
bảo sức khỏe. Cho biết những việc làm phòng tránh tai nạn đuối nước.
- Chủ đề 2: Vật chất và năng lượng: gồm 38 bài
Ở chủ đề này học sinh sẽ biết được nước có những tính chất gì? Tồn tại

như thế nào? HS biết được vòng tuần hoàn của nước trong tự nhiên, vị trí, vai
trò của nước trong cuộc sống.
Nước và không khí là hai yếu tố quan trọng bậc nhất cho sự sống vì vậy
chủ đề này cung cấp cho học sinh những kiến thức liên quan tới không khí
như: Cách nhận ra không khí, không khí có những tính chất gì? Không khí có
những thành phần nào? Vai trò tác dụng của không khí…
Biết được sự hình thành của âm thanh, cách phát hiện ra âm thanh, tác
dụng tác hại trong cuộc sống hàng ngày.
Ánh sáng không thể thiếu được để trái đất có thể tồn tại, những hiện
tượng tự nhiên nóng lạnh, nhiệt độ, vật dẫn điện, vật cách điện.
- Chủ đề 3: Thực vật và động vật: 14 bài
Học sinh có kiến thức về các loài thực vật động vật tồn tại xung quanh
chúng ta, động vật, thực vật cần gì để sống, chúng có nhu cầu về nước như thế
nào, nhu cầu dinh dưỡng và không khí của chúng ra sao, sự trao đổi chất ở
thực vật và động vật như thế nào, có gì giống và khác nhau.
1.1.3.3.Đặc điểm môn Khoa học lớp 4
Khoa học là một môn học mang tính thực tiễn cao, môn Khoa học lớp 4
đòi hỏi sự tích cực tìm tòi tri thức, cho phép học sinh tự do khám phá, tìm ra
bản chất của thế giới xung quanh, môn Khoa học có những đặc điểm sau:
- Môn Khoa học mang tính tích hợp:
Dạy học tích hợp là việc kết hợp các kiến thức, khái niệm thuộc các môn
học, các lĩnh vực khác nhau trong một nội dung thống nhất, đối với môn Khoa
học lớp 4, nội dung chương trình là sự tích hợp của nhiều ngành khoa học như
Vật lý, Hóa học, Sinh học, Môi trường, Sức khỏe…môn Khoa học lớp 4 có sự

14


xem xét Tự nhiên- Con người- Xã hội trong một thể thống nhất, chúng có
quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau.

Nội dung môn Khoa học đầy đủ, các ngành, môn học được lồng ghép có
hệ thống, bài bản, có mục tiêu rõ ràng nhằm đem đến nội dung đầy đủ và
hoàn thiện nhất về thế giới, nội dung lựa chọn tích hợp vừa mang tính cơ bản,
phù hợp với sự phát triển của tư duy non nớt của HSTH, vừa phải mang tính
thiết thực, gần gũi. Từ đó học sinh có thể vận dũng những điều đã học vào
thực tế cuộc sống, nhằm giải quyết những vấn đề một cách chủ động, linh
hoạt, sáng tạo.
Học theo hướng tích hợp giúp các em quan tâm hơn tới con người và xã
hội xung quanh, việc học gắn liền với cuộc sống đời thường là yếu tố để các
em học tập. Những thắc mắc nảy sinh từ thực tế làm nảy sinh nhu cầu tự giải
quyết vấn đề của các em, chẳng hạn: “Vì sao lại phải lọc nước, nước cần cho
sự sống như thế nào?”....
- Môn Khoa học lớp 4 mang tính đồng tâm:
HSTH giai đoạn lớp 1,2,3 có tư duy trực quan chiếm ưu thế. Như vậy, từ
việc học những kiến thức đơn giản, tới giai đoạn lớp 4,5, tư duy trừu tượng đã
bắt đầu phát triển, học sinh lớp 4 bắt đầu biết phân tích, đánh giá, biết gộp
thành tổng thể. Cùng một kiến thức, lớp 1,2.3 học sinh được học những nội
dung đơn giản hơn. Lên tới lớp 4, môn Khoa học lớp 4 bắt đầu mở rộng cũng
như đào sâu kiến thức của học sinh, môn Khoa học lớp 4 được sắp xếp theo
hướng đồng tâm, kiến thức trong các chủ đề của lớp dưới được nâng cao dần,
đi từ cụ thể tới trừu tượng, từ xa đến gần, từ dễ đến khó, mức độ phức tạp của
các chủ đề cũng được nâng cao hơn. Như vậy, học sinh có thể tích cực chủ
động học tập kiến tạo tri thức từ những kiến thức đã học ở lớp dưới cũng như
từ những kinh nghiệm sẵn có của bản thân. Vẫn chủ đề đó, học sinh được

15


phân tích tìm hiểu cụ thể hơn, khó hơn, nâng cao hơn, kiến thức cũ là cơ sở
cho kiến thức mới, kiến thức cơ bản là cơ sở của kiến thức nâng cao.

Đặc điểm đồng tâm trong môn Khoa học làm cho học sinh hiểu sâu, hiểu
rõ vấn đề, tạo tiền đề để học sinh nâng cao kiến thức về Khoa học cho những
bậc học sau.
- Chương trình môn Khoa học lớp 4 chú ý đến vốn sống, vốn hiểu biết
của học sinh thông qua bài học:
Ngày nay, do điều kiện sống được nâng cao, dân trí phát triển, sự hỗ trợ
của công nghệ, truyền thông cũng làm cho học sinh Tiểu học có được những
những vốn kiến thức đa dạng hơn, các em cũng thường xuyên có điều kiện
được gia đình và nhà trường tổ chức những chuyến đi trải nghiệm thức tế,
điều này ảnh hưởng không nhỏ tới việc học tập môn Khoa học. Vì vậy, Khoa
học lớp 4 rất chú trọng tới vốn hiểu biết, kinh nghiệm sống của các em. Dưới
những hiểu biết của bản thân về tự nhiên, con người, xã hội, qua sự hướng
dẫn của giáo viên, học sinh có thể tự mình kiến tạo tri thức, đưa ra những
nhận định về một nội dung vấn đề trong môn Khoa học, tự mình làm những
thực nghiệm, thí nghiệm để quan sát tìm ra chân lý, tìm ra kiến thức. Từ đó
ứng dụng vào cuộc sống.
Những đặc điểm trên của môn Khoa học 4 chính là cơ sở để xây dựng
các bài dạy theo lý thuyết kiến tạo.
1.1.4. Đặc điểm tư duy của học sinh Tiểu học
Từ 6 tuổi, trẻ em bắt đầu được cắp sách tới trường, việc đi học tại trường
phổ thông là bước ngoặt lớn trong đời sống của trẻ. Bắt đầu từ đây, hoạt động
chủ đạo của trẻ là hoạt động học tập, điều này quyết định những biến đổi tâm
lí, nhận thức và tư duy cơ bản của lứa tuổi, tất cả những biến đổi này của trẻ
phát triển để phù hợp với việc tiếp nhận tri thức từ thế giới xung quanh.
Ở cấp Tiểu học, tư duy của trẻ được chia ra làm hai giai đoạn:

16


Giai đoạn 1(Lớp 1,2,3): Ở giai đoạn này, tư duy chủ yếu là tư duy cụ thể

(có trước tuổi học) tiếp tục phát triển và chiếm ưu thế, HSTH ở các lớp này
nhận thức đối tượng của thế giới khách quan phải dựa vào vật thật hoặc hình
ảnh trực quan. Tư duy trừu tượng bắt đầu được hình thành song còn non yếu,
đây là một cấu tạo tâm lý mới trong trí tuệ của HSTH.
Giai đoạn 2(Lớp 4,5): Ở giai đoạn này, tư duy cụ thể vẫn tiếp tục phát
triển, tức là học sinh tiếp thu tri thức mới vẫn dựa vào các hình ảnh trực quan.
Tư duy trừu tượng dần chếm ưu thế. Nghĩa là ngoài hình ảnh trực quan, học
sinh biết dựa vào kiến thức và kinh nghiệm đã biết để tiếp thu tri thức mới.
Trong giai đoạn này, học sinh cũng có thể tiến hành các thao tác tư duy với
ngôn ngữ, các sơ đồ, kí hiệu, quy ước…. để rút ra kết luận khoa học.
Ở cấp Tiểu học, hứng thú của trẻ ngày càng bộc lộ và phát triển rõ rệt.
Đặc biệt là hứng thú nhận thức, hứng thú tìm hiểu thế giới xung quanh,
các em thể hiện tính tò mò ham hiểu biết. Sự phát triển hứng thú học tập của
HSTH phụ thuộc trực tiếp vào việc tổ chức công tác học tập. Giáo viên phải
có nhiệm vụ tổ chức cho học sinh những mô hình học tập mang tính tích cực
để phát huy được hứng thú cho trẻ.
Ở nhiều em mới đi học thì vùng hưng phấn ưu thế được thành lập còn
yếu. Chúng được thành lập một cách khó khăn và dễ bị dập tắt. Vùng ưu thế
khác xuất hiện để thay thế vùng ưu thế kia bị mất đi nhanh chóng. Sự dịch
chuyển chú ý từ đối tượng này sang đối tượng khác không được duy trì lâu, vì
cường độ tập trung chú ý của trẻ còn rất yếu, làm trẻ bị phân tán chú ý.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là sự không bền vững của chú ý là
một đặc điểm lứa tuổi, quy định tất yếu sự không thể có được khả năng tập
trung chú ý lâu dài của học sinh nhỏ ở Tiểu học. Những thực nghiệm tâm lý
học đã chứng minh rằng: Ngay từ lớp 1 học sinh đã có khả năng chú ý mạnh
mẽ, đầy đủ, tức là chú ý được tập trung 35 phút trên lớp học, nếu như hoạt

17



động học tập củahọc sinh được tổ chức một cách khoa học, hợp lý, đảm bảo
thu hút mỗi học sinh hoạt động học tập.
Hoạt động học tập đòi hỏi trẻ phải có kĩ năng điều khiển trí nhớ của
mình. Các nghiên cứu cho thấy hiệu quả của trí nhớ ở học sinh phụ thuộc
nhiều vào phương pháp và cách thức tổ chức để ghi nhớ và nhớ lại tài liệu.
Việc dạy cho HSTH các phương pháp và cách thức thích hợp để ghi nhớ có
vai trò quan trọng, nó thúc đẩy sự phát triển trí nhớ có chủ định của các em.
HSTH gần như không hiểu là có thể và cần phải học ghi nhớ những điều
chúng nghe và đọc được. Hoạt động ghi nhớ như thế còn chưa được học sinh
biết đến. Chúng thường chỉ có sự ghi nhớ với những gì mà chúng có hứng thú
hoặc những câu hỏi cần được giải đáp.
Vấn đề cơ bản và nổi bật nhất trong bộ mặt tâm lí của HSTH là đời sống
tình cảm của các em. HSTH dễ xúc cảm trước thế giới. Trẻ thường biểu hiện
cảm xúc trong khi tri giác các sự vật, hiện tượng cụ thể hấp dẫn. Những lời
triết lý khô khan, những hình ảnh, thiếu sinh động khó gây cảm xúc ở trẻ. Trẻ
nhỏ thường thể hiện cường độ cảm xúc mạnh mẽ dễ xúc động, khó kìm hãm
và khó làm chủ tình cảm của mình.
Do đó, việc dạy học được xây dựng trên cơ sở hoạt động tư duy tích cực,
muôn màu sẽ nhanh chóng giáo dục cho HSTH lòng yêu lao động trí óc, lòng
vui sướng cũng như nỗi thoả thê với sự tìm tòi phát hiện cái mới.
HSTH không thể tập trung và ghi nhớ một cách may móc và thụ động
được, các PPDH cũ sẽ làm các em cảm thấy nhàm chán trong khi học tập,
việc GV chỉ đơn thuần cung cấp tri thức mới sẽ làm cho các em không phát
triển được tư duy trừu tượng, cũng như không có sự liên hệ kinh nghiệm bản
thân vào quá trình kiến tạo tri thức. Đồng thời, sự hưng phấn học tập cũng
giảm dần do sự nhàm chán của môn học.
Nói tóm lại, bậc Tiểu học là đạt nền móng đầu tiên cho sự phát triển của
trẻ. Căn cứ vào đặc điểm nhân cách, khả năng chú ý, ghi nhớ, khả năng tư duy

18



và hứng thú học tập với môn học của học sinh mà giáo viên cần linh hoạt điều
chỉnh những PPDH phù hợp, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo
cho học sinh trong quá trình kiến tạo tri thức. Vì vậy, dạy học theo lý thuyết
kiến tạo là vô cùng cần thiết và hợp lý.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng dạy học môn Khoa học lớp 4
Trước tiên chúng tôi tiến hành điều tra ý kiến của giáo viên về các nội
dung có trong phiếu điều tra kết hợp với trao đổi, trò chuyện với giáo viên
1. Nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng của môn Khoa học:
Nội dung phiếu điều tra: Câu 1 (phụ lục 1)
Kết quả điều tra được tổng kết ở biểu đồ 1

Biểu đồ 1: Quan niệm của giáo viên về tầm quan trọng của môn
Khoa học lớp 4
Biểu đồ 1 ở trên cho ta thấy 30% giáo viên đều cho rằng môn Khoa học
là môn học thiết thực với học sinh, là một trong những môn học chính ở
chương trình lớp 4 và đóng vai trò rất quan trọng, 54% giáo viên cho rằng đó
là môn học quan trọng, 16 % giáo viên cho rằng đó là môn học bổ trợ, và chỉ
là môn phụ trong chương trình học.
19


2. Nhận thức của giáo viên về tác dụng của việc áp dụng các phương
pháp dạy học mới theo hướng tích cực hóa người học trong dạy học môn
Khoa học 4:
Nội dung điều tra: Câu 2 phụ lục 1
Kết quả điều tra được tổng kết ở biểu đồ 2


Biểu đồ 2: Ý kiến của giáo viên về sự cần thiết của việc áp dụng các
phương pháp mới phát huy tính tích cực của học sinh.
Qua biểu đồ cho thấy đại đa số giáo viên đều nhận thức được tác dụng
của việc áp dụng các phương pháp mới trong dạy học môn Khoa học lớp 4, có
25% giáo viên được hỏi cho rằng việc áp dụng các PPDH mới là điều rất cần
thiết, 65% giáo viên được hỏi cho rằng áp dụng các PPDH tích cực vào dạy
môn Khoa học là điều cần thiết và 20% còn lại giáo viên cho rằng đây là điều
không cần thiết.
Như vậy hầu hết các giáo viên được hỏi đều có nhận xét rằng áp dụng
các PPDH tích cực vào dạy môn Khoa học lớp 4 là điều nên làm để tạo không
khí học tập rất tích cực và có hiệu quả đối với cả thầy và trò.

20


×