Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

tóm tắt báo cáo tổng kết đề tài khoa học công nghệ cấp bộ một số giải pháp phát triển giáo dục và đào tạo ở các tỉnh miền núi phía bắc để ứng nguồn nhân lực đã qua đào tạo phục vụ sự ngiệp công ngh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.91 KB, 20 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
**********

TÓM TẮT BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CÔNG NGHỆ CẤP BỘ

MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Ở
CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC ĐỂ ỨNG NGUỒN NHÂN LỰC ĐÃ
QUA ĐÀO TẠO PHỤC VỤ SỰ NGIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN
ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Mã số:

Chủ nhiệm đề tài: TS. Vi Thái Lang

HÀ NỘI-2011

1


LỜI MỞ ĐẦU
1.

TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đưa nước ta trở thành nước công
nghiệp vào năm 2020 như tinh thần của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta phải dựa vào nhiều nguồn lực
khác nhau, trong đó nguồn lực con người giữ vị trí trọng yếu và quyết định.
Sở dĩ như vậy là do đất nước ta sau hơn mười năm đổi mới (Tính đến Đại Hội
VIII) chúng ta đã ra tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ


phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mặt khác,
sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ trong trong thời đại ngày nay
và việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại đã đặt ra những yêu cầu mới đối
với sự phát triển của đất nước, đó là: cần phải đi tắt đón đầu ở một số lĩnh
vực; cần biết tận dung và phát huy mọi cơ hội, mọi nguồn lực; đặc biệt là cấn
phải có những con người nắm bắt được tri thức và công nghệ hiện đại, vận
dụng sáng tạo những tri thức và công nghệ đó vào sự nghiệp phát triển đất
nước. Do đó, Đảng ta đã xác định: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá…lấy việc
phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững” [10- tr.71] là yếu tố quyết định. Tại Đại hội Đại biểu lần thứ XI
Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực có chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện
nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát
triển và ứng dụng khoa học và công nghệ” là một trong ba khâu đột phá trong
chiến lược phát triển đất nước giai đoạn 2011 - 2020. ( 15 - tr.32)
Miền núi phía Bắc, được xác định là địa bàn chiến lược đặc biệt quan
trọng về kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại của nước ta, có vai
trò quyết định đối với môi trường sinh thái của toàn bộ phía Bắc. Vùng này có
diện tích chiếm gần 1/3, diện tích tự nhiên và 13,2% về dân số so với cả nước.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xét trên nhiều chỉ
tiêu và phương diện thì điểm xuất phát của miền núi phía Bắc còn thấp so với
nhiều địa phương khác trong cả nước. Vì vậy, cùng với việc nâng cao các tiền
đề vật chất khác thì việc phát triển nguồn lực con người nhằm đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở khu vực này có vị trí rất quan trọng.
Để có thể phát triển nguồn lực con người thì phát triển giáo dục và đào
tạo ở khu vực này là yếu tố quyết định. Vì những lẽ trên, chúng tôi đã chọn:
“Một số giải pháp phát triển giáo dục và đào tạo ở các tỉnh miền núi phía
Bắc để đáp ừng nguồn nhân lực đã qua đào tạo phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hịên đại hoá ở nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI


2


Nguồn nhân lực và phát triển giáo dục và đào tạo là vấn đề luôn được
quan tâm nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau, nhất là trong thời gian gần
đây, con người được đặt ở trung tâm của mọi sự phát triển, vì vậy trên từng
khía cạnh khác nhau của đề tài đã có nhiều công trình nghiên cứu.
Ở nước ta đã có chương trình khoa học cấp Nhà nước nghiên cứu về
con người mang mã số KX – 07 với tiêu đề “Con người Việt Nam - mục tiêu
và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội”. Trong số 19 đề tài của chương
trình, có đề tài KX- 07 – 14 nghiên cứu “Vấn đề bồi dưỡng và đào tạo lại các
loại hình lao động nhằm đáp ứng nhu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội
trong nền kinh tế mới”. Ở đề tài này, các tác giả đã đề cập vấn đề tương đối
rộng về đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Vì vậy, đề tài được phân chia thành
ba đề tài nhánh: nhánh 1 – nghiên cứu về nội dung, phương pháp bồi dưỡng
và đào tạo lại; nhánh 2 – nghiên cứu về chính sách bồi dưỡng và đạo tạo lại;
nhánh 3 – nghiên cứu về các chính sách tuyển dụng và sử dụng lao động.
Chương trình khoa học này được thông qua là một định hướng cơ bản cho các
quyết sách quan trọng của Đảng và Nhà Nước ta đối với vấn đề liên quan đến
nguồn lực con người; đồng thời nó cũng là cơ sở lý luận quan trọng cho các
công trình nghiên cứu các vấn đề cụ thể khác về phát triển con người trong
tình hình mới.
Ở góc độ phát triển giáo dục và đào tạo, mỗi công trình lớn nhỏ khác
nhau muốn nghiên cứu đến sự phát triển đất nước đều quan tâm đến phát triển
vấn đề này, do đó có rất nhiều công trình nghiên cứu quan tâm đến. Công
trình “Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài” của Nghiêm Đình Vì, Nguyễn
Đắc Hưng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Công trình này
tập trung nêu những cơ hội, thách thức và nhiệm vụ của giáo dục Việt Nam
trong những năm đầu của thế kỷ XX. Công trình “Giáo dục và phát triển

nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI” của Trần Khánh Đức. Công trình này đã đề
cập đến những yêu cầu của thời đại ngày nay đối với giáo dục, trên cơ sở đó,
tác giả đưa ra quan điểm về tư duy giáo dục hiện đại, bao gồm cả nội dung,
phương pháp, cách thức quản lý, đánh giá chất lượng và cả những chính sách
và chiến lượng cho giáo dục hiện nay. Đặc biệt, ở công trình này, tác giả đã
giới thiệu mô hình và kinh nghiệm giáo dục của một số nước trên thế giới và
trong khu vực, trong đó đáng lưu ý là nền giáo dục Nhật Bản qua các thời kỳ,
đó là bài học quý báu đối với sự nghiệp giáo dục của nước ta nói chung, đối
với giáo dục và đào tạo ở miền núi phía Bắc nước ta nói riêng. Mặt khác,
hằng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng, có không dưới bốn mươi
bài báo và bản tin bàn đến vấn đề giáo dục và đào tạo ở nhiều góc độ khác
nhau; từ những chiến lược phát triển giáo dục đến phương pháp cụ thể và kể
cả những bất cập và hạn chế đều được đưa ra trên các mặt báo, tạp chí và
những bản tin phát thanh, truyền hình, các trang báo mạng;v.v.. Vì vậy, trong
khuôn khổ của đê tài này, chúng tôi không tham vọng kể tên hay đánh giá

3


mức độ ảnh hưởng của những công trình đó đến sự phát triển của giáo dục
nước ta, mà chúng tôi sẽ tiếp thu, tham khảo những đề xuất, những kiến nghị
phù hợp với hướng nghiên cứu của đề tài. Khu vực miền núi phía Bắc nước ta
là một trong những vùng đặc biệt, do đó được các cấp, các ngành rất quan tâm
nhất là những động lực tạo đà cho sự phát triển ở đây, và vì vậy, vấn đề giáo
dục của vùng này cũng đã có một số công trình nghiên cứu và có nhiều những
đề án, dự án của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của các tổ chức quốc tế và của các
nhà khoa học nhằm hỗ trợ cho sự phát triển giáo dục ở vùng này, tuy nhiên
hiệu quả thu được chưa tương xứng với những gì đã đầu tư.
Như vậy, tuy đã có nhiều đề tài và công trình nghiên cứu về con người,
về nguồn nhân lực, về phát triển giáo dục và đào tạo theo những khuynh

hướng và phạm vi rộng, hẹp khác nhau nhưng chưa có một đề tài nào tập
trung nghiên cứu vấn đề phát triển giáo dục đào tạo ở địa bàn khu vực miền
núi phía Băc nước ta để đáp ứng nhu cầu tạo nguồn nhân lực qua đào tạo
trong thời đại ngày nay. Vì vậy, vấn đề “Một số giải pháp phát triển giáo dục
và đào tạo ở các tỉnh miền núi phía Bắc để đáp ứng nguồn nhân lực đã qua
đào tạo phục vụ sự công nghiệp hoá hịên đại hoá ở nước ta hiện nay” cần
được nghiên cứu một cách cụ thể từ nhiều khía cạnh.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Nguồn nhân lực bao hàm nhiều phương diện, đề tài này không nghiên
cứu nguồn nhân lực nói chung với tất cả các mặt của nó, mà chỉ tập trung
nghiên cứu những vấn đề đang ảnh hưởng đến sự phát triển của giáo dục đào
tạo ở miền núi phía Bắc nước ta, cũng như tác động của nó đến chất lượng
nguồn nhân lực, qua đó đề tài khuyến nghị một số giải pháp nhằm phát triển
giáo dục và đào tạo vùng này, nhằm tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
a, Mục đích: Xác lập căn cứ khoa học cho việc đề xuất phương hướng
và giải pháp phát triển giáo dục đào tạo nguồn nhân lực ở miền núi phía Bắc
nước ta nhằm đáp ứng yêu cầu công nghịêp hoá, hiện đại hoá.
b, Nhiệm vụ: Để đạt được mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò của nguồn nhân lực
đối với công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước nói chung, miền núi phía
Bắc nói riêng.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng và tình hình giáo dục và đào
tạo ở miền núi phía Bắc nước ta, chỉ ra nguyên nhân cần khắc phục.
- Đề xuất và kiến giải những quan điểm định hướng và giải pháp khả
thi phát triển giáo dục đào ở miền núi phía Bắc nhằm đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.

4



5. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước. Kế thừa kết quả
nghiên cứu của các công trình có liên quan đến đề tài.
Sử dụng phương pháp biện chứng mác xít, kết hợp với các phương
pháp: phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, điều tra xã hội .
6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
- Trên cơ sở những luận cứ khoa học được xác lập, đi sâu phân tích,
đánh giá thực trạng nguồn nhân lực và tình hình giáo dục và đào tạo ở miền
núi phía Bắc, từ đó làm nổi bật sự cần thiết phải phát triển giáo dục đào tạo để
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Kiến giải có căn cứ lý luận và thực tiễn những giải pháp cơ bản phát
triển giáo dục đào tạo nguồn nhân lực.
- Đề tài có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan tham
mưu của Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh miền núi phía Bắc và các cơ quan
hữu trách; dùng làm tài liệu tham khảo trong các trường Đại học Sư phạm,
các trường ở các bậc học, các cơ sở đào tạo nghề.
7. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương, 6 tiết.

5


NỘI DUNG
Chương 1. NGUỒN NHÂN LỰC CHO CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA VÀ YÊU CẦU PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
1.1. Nguồn nhân lực và vai trò của nguồn nhân lực đối với công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.

1.1.1. Nguồn nhân lực
Khái niệm “Nguồn nhân lực”: Tuỳ thuộc vào mục đích cụ thể của
người sử dụng, có thể hiểu khái niệm này có nội hàm rộng, hẹp khác nhau,
song về cơ bản các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng: nguồn nhân lực,
đó là nguồn lực con người, bao gồm sức mạnh của thể chất, trí tuệ, tinh thần
và sự tương tác giữa các cá nhân trong một cộng đồng xã hội, một quốc gia,
được đem ra hoặc có khả năng đem ra sử dụng vào những công việc hữu ích.
Từ những quan điểm đó, có thể hiểu nguồn nhân lực có các đặc điểm cơ bản
sau:
+ Những người có khả năng tham gia vào quá trình lao động sản xuất
ra các giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội.
+ Nguồn nhân lực phải là những người trong một độ tuổi nhất định
trong khuôn khổ quy định của pháp luật.
+ Khả năng tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần của nguồn nhân
nhân lực phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó cơ bản nhất là chất lượng và số
lượng của nó.
- Nguồn nhân lực chất lượng cao: Được hiểu là nguồn nhân lực được
đào tạo cơ bản, nắm được những tri thức khoa học hiện đại và có khả năng
ứng dụng những tri thức đó vào sản xuất ở các lĩnh vực cụ thể nhất định. Nói
cách khác là những nhân lực được đầu tư phát triển, tạo lập kỹ năng, kiến
thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo cao, đáp ứng yêu cầu của nền
sản xuất hiện đại.
Trong nền kinh tế toàn cầu hoá cạnh tranh quyết liệt và đầy biến động
như hiện nay, yêu cầu phải có một đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao
càng cần thiết và có thể khẳng định rằng thế thắng sẽ nghiêng về dân tộc hay
quốc gia nào có sở hữu đông đảo nguồn nhân lực chất lượng cao. Do đó, đối
với những vùng kinh tế cần đẩy mạnh sư phát triển, phải có đội ngũ này dưới
nhiều hình thức hác nhau. Nghĩa là nếu có nguồn nhân lực chất lượng cao tại
chỗ để tự nó sẽ làm cho vùng miền ấy phát triển là tốt nhất, nhưng nếu chưa
có nguồn nhân lực chất lượng cao tại chỗ thì cần biết tận dụng các cơ hội để

sở hữu hay phát huy vai trò của lực lượng này của vùng khác.

6


1.1.2. Vai trò của nguồn nhân lực đối với công nghiệp hoá, hiện đại
hoá:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và những yêu cầu đặt ra đối với nguồn
nhân lực:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá được Nghị quyết Hội nghị Trung ương
7 khoá VII đưa ra khái niệm như sau: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá
trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và
phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến
bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng xuất lao động xã hội cao” ( 10- tr.65)
Thực chất vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã từ lâu được Đảng
ta xác định là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Kể từ đó, các kỳ
Đại hội Đại biểu và Hội nghị của các nhiệm kỳ đều đặc biệt quan tâm đến
những nhiệm vụ cụ thể trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá
Trên nguyên tắc xuất phát từ thực tế và nhận thức rằng nước ta là một
nước nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, Đảng ta đã đưa ra
định hướng phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể trong từng giai đoạn
cách mạng. Trong giai đoạn hiện nay, chưa thể và cũng không thể đi xa hơn
trên con đường thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Chúng ta
có thể có mua được công nghệ và đầu tư mạnh vào các ngành công nghiệp lớn
với những công nghệ hiện đại, nhưng nguồn lực con người chưa sẵn sàng thì
điều đó sẽ không mang lại hiệu quả và chỉ làm chậm thêm sự phát triển.
Chính vấn đề này là bài học quan trọng cho việc định hướng để phát triển khu

vực miền núi và vùng chậm phát triển ở nước ta hiện nay.
Để thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ, mục tiêu và nội dung cơ
bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cần thiết phải có nguồn nhân lực
tương xứng, đáp ứng nhu cầu cấp thiết trước mắt và đảm bảo cho sự phát triển
bền vững lâu dài. Nguồn nhân lực đó phải có chất lượng ở mọi trình độ từ
những người tham gia lao động giản đơn cho đến cán bộ kỹ thuật và người
quản lý. Ở vùng sâu, vùng xa như khu vực miền núi phía Bắc nước ta càng
cần phải tính đến vấn đề chất lượng nguồn nhân lực. Điều đó chỉ có thể được
đáp ứng thông qua phát triển giáo dục và đào tạo.
1.2. Những yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới chất lượng nguồn nhân lực.
1.2.1. Ảnh hưởng của trình độ phát triển kinh tế
Trình độ phát triển kinh tế là trụ cột của mọi sự phát triển nói chung,
trong đó phát triển nguồn nhân lực không thể là ngoại lệ.

7


Sự phát triển của kinh tế một mặt vừa là điều kiện tiên quyết để phát
triển về sức lực cơ bắp, vừa là điều kiện để phát triển về trí tuệ của nguồn
nhân lực. Phát triển kinh tế mang lại cho đời sống của nguồn nhân lực ổn định
cả về vật chất và tinh thần.
Hiện nay, trong các hoạt động sản xuất, công nghệ thường được thay đổi
rất nhanh chóng nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất, điều này đã thúc
đẩy vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cường độ ngày càng
nhanh.
Nguồn nhân lực và trình độ phát triển kinh tế có quan hệ biện chứng với
nhau, vấn đề phát triển kinh tế phải được giải quyết ở một mức độ nhất định
thì vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực mới có cơ sở vật chất để khắc
phục. Vì vậy, cần phải tìm nguyên nhân ở nhiều yếu tố khác nhau, trên cớ đó
chọn đúng, chọn trúng những mắt khâu cơ bản để cùng làm cho nguồn nhân

lực ở đây phát triển và đỡ tốn kém nhất về mặt kinh tế, sau đó chính nguồn
nhân lực có chất lượng của vùng này sẽ tìm ra con đường để phát triển kinh tế
của vùng này.
1.2.2. Truyền thống văn hoá ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực.
Văn hoá là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Từ
góc độ văn hóa của cộng đồng, nó thôi thúc từ đáy lòng con người, làm cho
con người trong cộng đồng đó mong muốn được hoạt động. Văn hóa vừa có
chức năng giáo dục, vừa có chức năng hướng con người đến hoạt động thẩm
mỹ, vì vậy, nó là động lực vô hình nhưng có sức mạnh tiềm tàng đối với chất
lượng nguồn nhân lực.
Văn hoá là tập hợp tất cả những tư tưởng, tình cảm, tập quán, thói quen,
lối sống, cách ứng xử và phương thức tư duy của mỗi con người hoặc cộng
đồng người. Văn hoá được hình thành trên cơ sở hoạt động sản xuất vật chất
của con người, mà hoạt động sản xuất vật chất phụ thuộc rất lớn vào điều kiện
tự nhiên của từng vùng.
Khu vực miền núi phía Bắc nước ta có điều kiện tự nhiên đa dạng và
phức tạp, đó cũng là vùng có nhiều đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống,
vì lẽ đó, đây là vùng có nền văn hoá đa dạng phong phú nhất nước ta. Nhiều
nét văn hoá đặc sắc của khu vực đã và đang trở thành những nguồn lực quan
trọng cho sự phát triển toàn vùng. Tuy nhiên, ở vùng này còn tồn tại nhiều
phong tục, tập quán lạc hậu, bảo thủ, kết hợp với địa hình hiểm trở, giao
thông, liên lạc khó khăn đã trở thành những rào cản rất lớn đối với việc giao
lưu văn hóa, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, nhất là việc tiếp thu những
tiến bộ khoa học, điều đó đã làm cho sự phát triển của toàn vùng còn chậm
chạp.

8


Tiềm năng của con người là vô cùng to lớn, nhưng không phải lúc nào, ở

đâu cũng phát huy hết được những tiềm năng này trong cuộc sống. Văn hoá
sẽ giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo của con người, nhận thức được vai trò
của văn hoá vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội
1.2.3. Tốc độ gia tăng dân số ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực.
Quy mô và tốc độ gia tăng dân số có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
nguồn nhân lực. Sự gia tăng dân số vừa đáp ứng nhu cầu số lượng nguồn nhân
lực của xã hội, vừa là điều kiện để tăng trưởng, phát triển kinh tế và đào tạo
phát triển nguồn nhân lực.
Nếu quy mô dân số và sự tăng trưởng của nó phù hợp với tăng trưởng
kinh tế thì nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoạch định chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển chất lượng nguồn nhân lực nói
riêng. Ngược lại, nếu dân số tăng nhanh, làm cho số lượng nhân khẩu ăn theo
trên mỗi lao động cao thì sẽ có tác động tiêu cực đến việc hoạch định chính
sách cũng như những đầu tư cho chất lượng nguồn nhân lực.
Đối với những khu vực kinh tế - xã hội chậm phát triển, đời sống vật chất
chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp và phần lớn phụ thuộc tự nhiên thì sự
gia tăng dân số rất phức tạp. Bởi vì, ở những vùng đó lao động chủ yếu dựa
vào sức lực cơ bắp, những lao động truyền thống của họ cần hàm lượng trí tuệ
không nhiều, do đó họ cần nhiều nhân khẩu và lao động, chính điều đó làm
cho vấn đề kiểm soát mức độ gia tăng dân số và quy mô ở những vùng này là
rất khó khăn.
Điều kiện tự nhiên trong từng vùng cũng ảnh hưởng đáng kể đến quy mô
và mức độ gia tăng dân số. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, thì dân số sẽ dễ
được kiểm soát ở khía cạnh mức sinh và tỷ lệ sinh, nhưng sự gia tăng tự nhiên
vẫn nhanh hơn vì những vùng khác sẽ di cư tự nhiên đến; nếu điều kiện tự
nhiên khó khăn thì cũng dẫn tới tình trạng sinh đẻ không theo kế hoạch, di cư
tự do đi, tất cả những điều đó đều làm cho mọi chiến lược dân số và phát triển
nguồn nhân lực không có tính khả thi.
1.2.4. Các chính sách vĩ mô tác động đến chất lượng nguồn nhân lực
Chính sách vĩ mô của nhà nước có tác động đến mọi mặt của đời sống xã

hội như: Kinh tế; giáo dục và đào tạo; chính sách tiền lương; chính sách sử
dụng nguồn nhân lực; chính sách bảo hộ lao động;v.v. Với hệ thống chính
sách xã hội, nhà nước có thể thiết lập được một môi trường pháp lý cho sự
vận hành và phát triển của tất cả các lĩnh vực, trong đó có cả những yếu tố
trực tiếp và những yếu tố giáp tiếp tác động đến chất lượng nguồn nhân lực.
Việc hoạch định các chính sách vĩ mô cần phải xuất phát từ những điều
kiện cụ thể của từng lĩnh vực, mặt khác phải phù hợp với quy luật khách
quan.

9


Chính sách vĩ mô có hai dạng cơ bản, một dạng là những chủ trương,
đường lối chung của Đảng và Nhà nước về kinh tế - xã hội, có tầm chiến lược
phát triển chung cho đất nước trong một thời gian dài. Dạng thứ hai là những
chiến lược cụ thể cho phát triển nguồn nhân lực, đó là những chiến lược có
tính lâu dài trong vấn đề quy hoạch, phát triển theo giai đoạn, theo vùng
miền;v.v. vẫn được coi như chính sách vĩ mô.
1.2.5. Giáo dục và đào tạo là yếu tố quyết định chất lượng nguồn nhân
lực
Con người là yếu tố quyết định đối với lực lượng sản xuất. Ngày nay,
khoa học, công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và là yếu tố
quyết định sự phát triển mọi mặt kinh tế - xã hội thì nguồn nhân lực càng cần
được quan tâm phát triển, sự phát triển này sẽ là yếu tố quyết định đối với quá
trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đât nước.
Giáo dục và đào tạo là hệ thống chặt chẽ nhất, bài bản nhất và hoạt động
theo một trình tự hợp quy luật nhất nhằm hình thành và phát triển về nhân
cách, thể lực và trí tuệ của nguồn nhân lực. Vì vậy, giáo dục có vừa có chức
năng văn hoá xã hội, vừa có chức năng kinh tế.
Trong đó, chức năng nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài là trọng tâm

của chức năng văn hoá xã hội.
Chức năng kinh tế của giáo dục cũng chính là chức năng đào tạo nguồn
nhân lực. Qua giáo dục, người lao động được tiếp thu những tri thức, kỹ năng
lao động trên mọi lĩnh vực.
Với vai trò to lớn của giáo dục và đào tạo đối với vấn đề chất lượng
nguồn nhân lực như trên, từ cuối những năm thế kỷ XX, hầu hết chính phủ
các nước đã có những chiến lược và hành động cụ thể với giáo dục và đào tạo
của quốc gia mình, tăng đầu tư cho giáo dục và đào tạo ở mức ngày càng cao.
Nước ta đang trên đường hội nhập và phát triển cũng đã và đang có những
bước đi phù hợp trong chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo. Hiến pháp
của Nhà nước đã chỉ rõ “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”; coi đầu
tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển; ngoài ra hầu hết các kỳ Đại hội Đại
biểu của Đảng đều có những nội dung định hướng, chỉ đạo vấn đề phát triển
giáo dục và đào tạo của đất nước. Tuy nhiên, những cố gắng của nước ta
trong cải cách giáo dục vẫn còn nhiều vấn đề phải được quan tâm giải quyết
một cách quyết liệt và sâu sát hơn, nhất là ở khu vực miền núi phía Bắc, đó
cũng là nội dung trong khuôn khổ của đề tài này cần phải làm rõ.
Chương 2. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC VÀ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO Ở KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Thực trạng nguồn nhân lực

10


- Khái quát kinh tế xã hội – Quan điểm đánh giá
Khu vực miền núi phiá Bắc nước ta gồm 14 tỉnh: Hà giang, Cao Bằng,
Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ,
Bắc Giang, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình và một số tỉnh có miền
núi như: Vĩnh Phúc, Quảng Ninh;v.v.. Khu vực này được xác định là địa bàn
chiến lược đặc biệt quan trong về kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng và đối
ngoại của cả nước; cũng là nơi có vai trò quyết định đối vấn đề môi trường

sinh thái của cả vùng phía Bắc. Tổng diện tích tự nhiên chiếm gần 28,8%, với
13% dân số so với cả nước và có gần 30 dân tộc khác nhau cùng sinh sống.
Do địa hình phức tạp, bị chia cắt bởi các dãy núi cao, có độ dốc lớn, xen
giữa các dãy núi là khá nhiều sông, suối, nên vùng địa lý – tự nhiên miền núi
phía Bắc nước ta có những đặc điểm đặc biệt cả về đất đai, khí hậu và chủng
loại động thực vật…nhờ đó, có tiềm năng, lợi thế để phát triển nông, lâm
nghiệp, thủy điện, khoáng sản, du lịch và kinh tế cửa khẩu. Căn cứ vào điều
kiện tự nhiên, người ta thường chia miền núi phía Bắc thành hai vùng: vùng
Đông Bắc và vùng Tây Bắc với những đặc điểm cơ bản sau:
- Vùng Tây Bắc gồm các tỉnh: Lai châu, Điện Biên, Sơn La, Hoà Bình và
một số huyện miền núi của các tỉnh Hà Tây, Ninh Bình. Đây là vùng địa hình
đồ sộ và cao nhất nước ta.
- Vùng phía Bắc và Đông Bắc gồm các tỉnh còn lại. Đây là vùng có độ
cao trung bình dưới 1.000 m so với mặt biển, là vùng sinh thuỷ của nhiều con
sông lớn như sông Lô, sông Chảy, sông Đáy, sông Gâm, có địa hình thấp dần
từ Tây sang Đông và từ Bắc xuống Nam.
- Với những điều kiện tự nhiên như kể trên của cả hai vùng đều là những
rào cản đôi với hoạt động kinh tế - xã hội toàn vùng, trong đó có giáo dục và
đào tạo.
- Về mặt kinh tế - xã hội, kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới do Đảng
Cộng Sản Việt Nam đề xướng tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến
nay, miền núi và vùng đồng bào các dân tộc thiểu số phía Bắc đã có nhiều thay
đổi về mọi mặt.
Về kinh tế trong nhưng năm qua vùng này đã có mức tăng trưởng bình
quân khoảng 6 - 7 %/ năm. Từ chỗ sản xuất chủ yếu là nông nghiệp và mang
nặng tính chất tự nhiên, tự túc, tự cấp đã dần được thay thế bằng kinh tế hàng
hoá; nhiều ngành nghề mới được mở mang gắn với yêu cầu của thị trường
trong nước và quốc tế. Các ngành nông - lâm - ngư nghiệp và chăn nuôi gia
súc, gia cầm được tập trung theo hướng đầu tư sản xuất hàng hoá và dần phù
hợp với điều kiện tự nhiên của từng khu vực; bắt đầu hình thành nên những

vùng sản xuất với quy mô lớn hơn. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích
cực. Có được những tiến bộ đó trước hết phải kể đến việc hoạch định đường lối

11


chiến lược, sách lược đúng đắn của Đảng ta và sự chỉ đạo trực tiếp, năng động
của các cấp uỷ đảng và chính quyền ở các địa phương; thành tựu đó cũng thể
hiện sự tin tưởng vào Đảng, Nhà nước và tinh thần cần cù, đoàn kết của toàn
thể đồng bào các dân tộc ở trong toàn khu vực này.
Từ những tiến bộ về kinh tế, bộ mặt nông thôn, đời sống xã hội của
đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc nước ta cũng đã có những thay đổi
đáng kể. Dưới ánh sáng của Nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VIII, lần thứ IX, lần thứ X và lần thứ XI, khu vực miền núi phía Bắc
đã được Chính phủ tập trung đầu tư nhiều mặt như: giao thông, điện lưới,
trường học, trạm y tế, nước sạch nông thôn, v.v… Nhờ vậy, đời sống – xã hội
của khu vực này đã có những đổi thay đáng mừng. Tỷ lệ đói nghèo đã giảm,
trẻ em đến trường đông hơn, tất cả các tỉnh đã giải quyết xong nạn mù chữ và
phổ cập giáo dục tiểu học, tiến tới phổ cập trung học cơ sở; nhiều hoạt động
sinh hoạt văn hoá đặc sắc của cộng đồng các dân tộc được khôi phục và phát
triển, tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc được củng cố và tăng cường. Tuy
nhiên, ngoài những mặt phát triển kể trên, ở miền núi và đồng bào các dân tộc
thiểu số phía Bắc cũng còn nhiều khó khăn và thách thức rất lớn. Mặc dù kinh
tế có sự tăng trưởng nhưng còn chậm, thực chất của tăng trưởng còn thấp so
với mức bình quân theo đầu người trong cả nước.
Khu vực miền núi phía Bắc nước ta chiếm một diện tích tương đối lớn,
nhưng sự phát triển lại không đồng đều giữa các tiểu vùng, cho nên Nhà nước
đã chia miền núi thành ba khu vực cơ bản để có chính sách ưu tiên phát triển
thích hợp.
Để có thể thúc đẩy giáo dục và đào tạo ở khu vực miền núi phía Bắc

nước ta phát triển, nâng tỷ lệ người lao động qua đào tạo ngày càng cao, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì một đòi hỏi tất yếu đang đặt ra
là: phải xuất phát từ thực tế, đánh giá chân thực, khách quan thực trạng
các yếu tố đang tác động đến giáo dục và đào tạo trong toàn khu vực này,
tìm ra khuynh hướng vận động đặc thù của nó, trên cơ sở đó mới có
những giải pháp thúc đẩy nó phát triển một cách thích hợp.
- Thực trạng nguồn nhân lực.
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, vấn đề con người đã được
Đảng và Nhà nước ta đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển: “tư tưởng chỉ
đạo xuyên suốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về các lĩnh
vực văn hoá, xã hội là chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người,
với tư cách vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng” [9- tr. 45-46].
Trên tinh thần đó, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách nhằm phát
huy nguồn nhân lực, để không chỉ khơi dậy những phẩm chất quý báu vốn
có của con người Việt Nam như cần cù, nhẫn nại, đoàn kết tương ái, tương
thân,… mà còn tạo điều kiện để con người Việt Nam năng động, sáng tạo

12


trong nền kinh tế thị trường, chủ động hoà nhập với quốc tế và việc đó
cũng chính là nhằm thúc đẩy lực lượng sản xuất của đất nước phát triển.
Theo tinh thần Nghị quyết của các kỳ Đại hội Đại biểu của Đảng, các
cấp uỷ đảng và chính quyền ở các địa phương khu vực miền núi phía Bắc
nước ta đã nỗ lực quan tâm, chăm sóc và phát huy nguồn nhân lực ở địa
phương mình một cách tối đa, nhờ đó trong thời gian qua mọi mặt của đời
sống kinh tế - xã hội trong toàn khu vực đã được nâng lên đáng kể. Những
vấn đề có ảnh hưởng đến các chỉ số phát triển con người như điều kiện chăm
sóc sức khoẻ, khả năng đáp ứng nhu cầu vật chất cho sinh hoạt, nâng cao
năng lực, trình độ hiểu biết về mọi mặt của đời sống văn hoá - tinh thần v.v…

đều có những đổi thay đáng mừng.
Tuy nhiên, những đổi thay này mới chỉ là kết quả ban đầu và đó là so
sánh với thời kỳ trước khi thực hiện theo đường lối đổi mới, còn so với các
vùng khác cùng thời điểm hiện nay thì sự thay đổi này còn ở mức thấp. Để có
thể nhận thức đúng đắn được thực trạng của nguồn nhân lực trong khu vực
này, chúng tôi khảo sát một số mặt cơ bản sau:
2.1.1. Quy mô và tốc độ gia tăng dân số miền núi phía Bắc nước ta
Miền núi phía Bắc nước ta có khoảng 7,2 triệu người trong độ tuổi lao
động sống rải rác theo từng cụm dân cư nhỏ, đông nhất là vài chục hộ, ít nhất
là 3 - 5 hộ tạo thành từng làng, bản tương đối độc lập. Việc phân bố dân cư
không đều trong khu vực là do điều kiện tự nhiên quy định. Trong đó, vừa do
sự phân cắt mạnh của địa hình, vừa do khu vực này có nhiều dân tộc cư trú,
có cách thức làm ăn sinh hoạt tương đối khác nhau đã tạo nên nhưng cộng
đồng dân cư nhỏ, sống rải rác ở các địa hình cao – thấp, tương đối khác nhau
trong từng vùng lãnh thổ. Đây là một đặc điểm gây cản trở rất lớn tới việc đầu
tư và phát triển nguồn nhân lực nói chung và phát triển giáo dục nói riêng.
Trong thực tế, vấn đề quy mô và tốc độ gia tăng dân số sẽ được giải
quyết phù hợp theo hướng tích cực nếu như các phương tiện giao thông liên lạc
phát triển tốt.
Nói chung, vấn đề quy mô và tốc độ gia tăng dân số của khu vực miền
núi phía Bắc nước ta hiện nay đã dần được kiểm soát và có những dấu hiệu
phát triển tích cực, nhưng có phát huy được sức mạnh đó để xây dựng và
đào tạo một đội ngũ nguồn nhân lực qua đào tạo, để tạo điều kiện cho lực
lượng sản xuất ở khu vực này phát triển như mong muốn hay không thì còn
phụ thuộc cơ bản vào chất lượng người lao động, cho nên cần phải đánh giá
quy mô, tốc độ gia tăng dân số gắn với chất lượng người lao động.
2.1.2. Thực trạng chất lượng người lao động ở miền núi phía Bắc nước
ta hiện nay

13



Về thực trạng sức khoẻ của người lao động ở khu vực miền núi phía
Bắc nước ta, do chưa có một cuộc điều tra, khảo sát cụ thể nào để đánh giá
tổng quát về thực lực người lao động trong khu vực, nên chúng tôi chỉ căn cứ
vào một số kết quả thống kê về mức độ chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân
trong khu vực, để đưa ra những nhận định chung nhất về tình trạng sức khoẻ
của người lao động ở đây và những ảnh hưởng của nó đối với giáo dục và đào
tạo của khu vực.
Về thực trạng dân trí, có thể nói nhân dân các dân tộc miền núi phía
Bắc nước ta vẫn còn chịu ảnh hưởng của những tư tưởng sản xuất nhỏ,
manh mún, lạc hậu, với thói quen tự sản, tự tiêu là chính.
Từ khi kinh tế thị trường thâm nhập và phát triển trong khu vực, một số
hộ dân đã nhanh chóng thay đổi hình thức sản xuất tự cấp, tự túc truyền thống
để chuyển sang những hình thức sản xuất mới, thay đổi cơ cấu cây trồng, vật
nuôi cũng như trong kinh doanh và dịch vụ, nhờ đó đời sống kinh tế ổn định,
nhiều hộ trở nên giàu có. Ngược lại, một số hộ vẫn giữ nếp sống cũ, không
giám từ bỏ cây lúa, cây ngô truyền thống để đầu tư phát triển những loại cây,
con phù hợp với điều kiện tự nhiên và theo yêu cầu của thị trường, vì thế vẫn
còn khó khăn về kinh tế, làm cho khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn.
Ngoài ra, những chi phí như học phí; đóng góp xây dựng trường, lớp;
chi phí cho quần áo; sách, vở; dụng cụ học tập; học thêm của học sinh
trong khu vực này cũng rất thấp.
Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chương trình đầu
tư cho phát triển hệ thống giáo dục quốc dân nói chung, ở miền núi phía Bắc
nói riêng, nhờ đó ngành Giáo dục và Đào tạo đã thu được những thành công
lớn về tỷ lệ học sinh đến trường ở tất cả các bậc học. Trong đó các trường
nghề, các trường trung cấp chuyên nghiệp, các trường cao đẳng, đại học trong
vùng trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực cho các địa phương trong vùng đã có
những tiến bộ vượt bậc

Tuy nhiên, vấn đề chất lượng giáo dục trong khu vực miền núi phía
Bắc nước ta vẫn còn hết sức thấp kém, nhất là ở vùng sâu, vùng xa.
Trong thời gian qua, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan
khác nhau, trên cả nước ta nói chung, khu vực miền núi phía Bắc nói riêng,
lực lượng người lao động có bằng đại học và cao đẳng đã tăng lên nhanh
chóng so với đội ngũ kỹ thuật viên và công nhân lành nghề, nhưng đó không
hoàn toàn là biểu hiện tích cực của sự phát triển, bởi vì tỷ lệ người được đào
tạo để lao động trực tiếp còn quá thấp, thậm chí thụt lùi. Vấn đề này có nhiều
nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân là các địa phương đã liên
kết đào tạo với các trường đại học, mở tràn lan các lớp tại chức, với số lượng
ngày một đông nhưng chất lượng không thể kiểm soát bởi rất nhiều lý do
khác nhau.

14


Có thể khẳng định rằng, có một số yếu tố cơ bản đang ảnh hướng rất
lớn đến chất lượng người lao động ở khu vực miền núi phía Bắc nước ta hiện
nay, cụ thể là:
Thứ nhât: Mức độ đầu tư cho giáo dục và đào tạo ở nước ta còn thấp so
với các nước trong khu vực và quốc tế, ở miền núi phía Bắc lại là nơi có mức
kinh phí chi cho giáo dục thấp nhất so với cả nước.
Thứ hai: đội ngũ cán bộ, giáo viên vừa thiếu, vừa yếu.
Thứ ba: cơ cấu giáo dục và đào tạo giữa các bậc học các ngành học
chưa phù hợp, nội dung chương trình chậm được đổi mới so với tình hình
phát triển khoa học – công nghệ, chưa có các biện pháp kết hợp một cách hiệu
quả những cơ sở vật chất trong mạng lưới các trường phổ thông, các trung
tâm hướng nghiệp dạy nghề.
Thứ tư: phần lớn dân cư toàn vùng chủ yếu sống bằng nghề nông - lâm
- nghiệp truyền thống, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển không

đáng kể, cho nên chưa tạo dựng được môi trường kinh tế có nhu cầu lớn về
trình độ lành nghề của người lao động trong sản xuất, nhất là những nhu cầu
hiểu biết về khoa học – công nghệ, do đó đào tạo nghề chưa phát triển.
2.2. Tình hình Giáo dục và Đào tạo ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta
hiện nay.
2.2.1. Quy mô và hệ thống mạng lưới trường lớp
Sau một thời gian phát triển nền giáo dục nhân dân, đến năm 2009 giáo
dục nước ta đã đạt được mục tiêu đề ra về chống nạn mù chữ và phổ cập giáo
dục tiểu học. Trình độ dân trí của nước ta có bước tiến đáng kể 97,06%
huyện, quận, thành phố: 97,7% xã phường thị trấn đã được công nhận đạt
chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ, 94% dân số
trong độ tuổi 15-35 biết chữ, 90% trẻ em 11 – 14 tuổi tốt nghiệp tiểu học. Đạt
được thành tích kể trên có sự đóng góp đáng kể của giáo dục khu vực miền
núi phía Bắc, mặc dù nhiều con số trong tỷ lệ này của khu vực còn ở mức
thấp hơn bình quân cả nước.
- Giáo dục mầm non ở khu vực miền núi phía Bắc nước ta đã có những
định hướng đúng.
- Giáo dục phổ thông ở khu vực miền núi phía Bắc, các lớp tiểu học đã
mở tận thôn bản, do vậy đã xoá được các “điểm trắng” về giáo dục.
- Hệ thống các trường bán trú dân nuôi cấp xã đã và đang được mở
rộng, việc làm này đã tạo điều kiện tốt cho học sinh và cha mẹ chăm lo đến
việc học tập của các em hơn. Đội ngũ cán bộ quản lý các trường PTDTNT và
các cấp quản lý giáo dục khác ở vùng dân tộc, miền núi đã được bồi dưỡng
thường xuyên tại trường cán bộ quản lý giáo dục của Bộ.

15


- Đào tạo chuyên nghiệp và dạy nghề: một hệ thống các trường đào tạo
nghề, các trường Cao đẳng, Đại học.. tiếp tục củng cố và phát triển, đã mở

thêm trường Đại học Tây Bắc nhằm đào tạo cán bộ có trình độ cao cho các
tỉnh thuộc khu vực này
2.2.2. Chất lượng giáo dục
Thứ nhất là, quan niệm về chất lượng giáo dục phải trên cơ sở đồng bộ.
Thứ hai là, việc quản lý chất lượng giáo dục còn mang tính hình thức
và chưa có các giải pháp đồng bộ.
Thứ ba là, chưa tập hợp được đông đảo các lực lượng xã hội tham gia
vào vấn đề đảm bảo chất lượng giáo dục. Về cơ bản, chăm lo chất lượng giáo
dục chỉ tập trung ở các nhà quản lý, các Sở, các Phòng giáo dục, các Trường.
Vì lẽ đó, chúng tôi đã tiến hành khảo sát đánh giá chất lượng giáo dục ở
vùng này bằng hình thức phỏng vấn, kiểm trực tiếp, phát phiếu thăm dò;v.v.
và đối chiếu với các số liệu của tổng cụ thống kê. Trên cơ sở đó chúng tôi kết
luận và chỉ ra một số nguyên nhân cơ bản của thực trạng đó.
Qua thực trạng yếu kém của chất lượng giáo dục của khu vực miền núi
phía Bắc, theo chúng tôi có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác
nhau, trong đó có thể kể đến một số nguyên nhân cơ bản sau đây:
Một là, chưa có các biện pháp hạn chế được tối đa những khó khăn do
điều kiện khách quan mang lại.
Hai là, chưa có chính sách đủ mạnh để thu hút những người quản lý và
giáo viên giỏi giảng dạy cho giáo dục vùng sâu, vùng xa.
Ba là, chương trình và thời gian học của các bậc học chư phù hợp với
đối tượng. Khu vực này có nhiều con em dân tộc thiểu số sinh sống, có nhiều
phong tục tập quán, ngôn ngữ khác nhau, cho nên khi đi học ở trường, việc
học tập theo tiếng phổ thông đã là một ngoại ngữ, nhiều khi tiếng chưa hiểu
thì đương nhiên nghĩa chưa rõ. Trong khi đó, chúng ta đang bố trí một chương
trình và thời gian học như nhau ở mọi đối tượng là không phù hợp, vì vậy cần
có những cải cách từ những vấn đề này.
Bốn là, có nguyên nhân từ công tác quản lý.
2.2.3. Xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị cho trường học ở khu vực miền
núi phía Bắc

2.2.3.1. Triển khai thực hiện Chương trình Kiên cố hóa trường, lớp học và
nhà công vụ cho giáo viên:
2.2.3.2. Đầu tư xây dựng, nâng cấp các trường PTDTNT, bán trú:
2.2.4. Đội ngũ giáo viên

16


Đội ngũ giáo viên, giảng viên tiếp tục tăng thêm về số lượng, hầu hết
đạt chuẩn đào tạo, hợp lý hơn về cơ cấu.
Số giáo viên người dân tộc ở các cấp còn tương đối ít về số lượng và
tập trung chủ yếu ở vùng thấp. Số giáo viên có nguồn đào tạo rất khác nhau
nên còn hạn chế về năng lực chuyên môn. Số giáo viên người Kinh biết tiếng
dân tộc, hiểu được tâm, sinh lý học sinh dân tộc còn quá ít.
2.2.5. Một số chế độ chính sách đối với giáo dục miền núi, vùng dân tộc
Để thực hiện công bằng trong giáo dục. Đảng và Nhà nước đã có những
chính sách ưu tiên cho con em đồng bào các dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng
xa, chính sách đãi ngộ cho cán bộ giáo viên công tác ở miền núi, vùng dân
tộc.
Cùng các cơ chế và nhiều chính sách hiện hành khác đã tác động tích
cực đến việc phát triển quy mô, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đào
tạo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội của vùng.
Kết luận: Giáo dục khu vực miền núi phía Bắc nước ta trong thời gian
qua đã đạt được những thành tựu đáng kể như đã nêu ở trên. Song sự phát
triển đó không đồng đều giữa vùng thấp và vùng cao, giữa các dân tộc trong
vùng. Công tác quản lý giáo dục trong vùng chưa được quan tâm đúng mức,
mạng lưới trường, lớp trong toàn vùng chưa đủ để đáp ứng nhu cầu học tập
của người học. Việc đánh giá kết quả học tập của học sinh còn mang nặng
hình thức, còn bị tác động bởi các chỉ tiêu và bệnh thành tích. Chương trình
và nội dung ở bậc học trung học cơ sở và trung học phổ thông chưa có tính

phân luồng để giúp các em không có khả năng học lên cao đi học nghề. Các
chính sách hỗ trợ cho phát triển giáo dục trong toàn vùng đã ngày càng hoàn
thiện nhưng chư đủ sức thu hút các lực lượng xã hội tham gia vào nhiệm vụ
này, nhất là đội ngũ có chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm cao. Cho nên cần có
những điều chỉnh ở tất cả những mặt còn hạn chế như đã nêu ở trên.
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VÀ
ĐÀO TẠO Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC
NƯỚC TA HIỆN NAY
3.1. Đổi mới toàn diện hoạt động nhận thức và thực tiễn đối với giáo dục
ở miền núi phía Bắc nước ta
3.1.1. Những nhận thức và định hướng chung về phát triển giáo dục ở
miền núi phía Bắc nước ta hiện nay
3.1.2. Giải quyết đồng bộ một số yếu tố kinh tế - xã hội ảnh hưởng trực tiếp
đến giáo dục và đào tạo trong khu vực

17


Thứ nhất, cần đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường, tăng cường công
tác xóa đói, giảm nghèo trong khu vực
Thứ hai, cần điều chỉnh một số chính sách vĩ mô để hỗ trợ cho giáo dục
miền núi phía Bắc phát triển. Đảng và Nhà nước ta đã phân vùng đồng thời có
các Ban Chỉ đạo từng vùng để nghiên cứu, chỉ đạo các vùng đó phát triển.
Thứ ba, tăng cường kiểm soát dân số, hỗ trợ cho việc ổn định hoạt động
giáo dục trong khu vực.
Thứ tư, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc hỗ trợ cho phát triển giáo
dục và đào tạo.
Thứ năm, đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn miền núi, tạo
điều kiện cho giáo dục phát triển.
3.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giáo dục khu vực

miền núi phía Bắc nước ta hiện nay
Thứ nhất là, đổi mới quản lý giáo dục đối với khu vực miền núi phía
Bắc.
Thứ hai là, xây dựng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục.
Thứ ba là, đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy và
công tác kiểm tra đánh giá.
Thứ năm là, xã hội hoá giáo dục, gắn liền đào tạo với nhu cầu xã hội.
Tóm lại, Để có thể thúc đẩy giáo dục khu vự miền núi phía Bắc nước ta
phát triển, cần tác động trước hết đến vấn đề nhận thức và thực tiễn chung
mang tính tổng thể trong toàn vùng. Về mặt nhận thức, thực chất là giải quyết
vấn đề “quan trí”, sau đó mới là vấn đề “dân trí” đối với vai trò của hoạt động
giáo dục trong tình hình hiện nay. Trên cơ sở đó mới có các hoạt động cụ thể
nhằm phát huy vai trò các mặt như: kinh tế, văn hóa, dân số;v.v. để hỗ trợ
giáo dục khu vực này phát triển. Tuy nhiên những yếu tố cơ bản để thúc đẩy
giáo dục khu vực này phát triển vẫn là những yếu tố trực tiếp tạo nên quy
trình hoạt động giáo dục, cho nên bằng mọi cách phải tạo điều kiện thuận lợi
cho những yếu tố bên trong của giáo dục phát triển. Về cấu trúc của các yếu
tố trong quy trình giáo dục là như nhau, nhưng cách thức giải quyết vấn đề sẽ
khác nhau bởi nhứng điều kiện vùng miền khác nhau, giáo dục ở miền núi
phía Bắc nước ta sẽ phát triển tốt nếu chúng ta tân dụng tốt những lợi thế và
hạn chế những khó khăn trong vùng.
KẾT LUẬN
Nguồn nhân lực là yếu tố cơ bản có ý nghĩa quyết định đối với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta nói chung, ở khu vực miền
núi phía Bắc nói riêng. Nguồn nhân lực đó tất yếu phải là sản phẩm của giáo
dục và đào tạo. Như vậy, giáo dục và đào tạo càng phát triển, với nội dung,

18



phương pháp tiên tiến, quy mô cơ cấu các ngành nghề hợp lý sẽ làm thay đổi
căn bản chất lượng nguồn nhân lực.
Khu vực miền núi phía Bắc nước ta đang là vùng có các chỉ số phát
triển thấp so với các chỉ số bình quân của cả nước, vì vậy, để đưa vùng này
phát triển cần có một nguồn nhân lực có chất lượng về mọi mặt. Điều kiện tự
nhiên của khu vực miền núi phía Bắc nước ta rất hiểm trở, gây nhiều khó
khăn cho việc phát triển giáo dục và đào tạo trong toàn vùng, kết hợp với các
yếu tố kinh tế - xã hội chưa phát triển hợp lý và chưa có các giải pháp phát
huy hết các yếu tố chủ quan trong công tác giáo dục và đào tạo trong vùng,
càng làm cho chất lượng giáo dục trong khu vực này kém phát triển.
Để giáo dục và đào tạo khu vực miền núi phía Bắc nước ta có chất
lượng và hiệu quả, cần đánh giá đúng thực trạng nền giáo dục ở vùng này và
các yếu tố đang ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục của toàn vùng, trên cơ sở
đó, mới đề xuất một số khuyến nghị và giải pháp giải quyết vấn đề một cách
hợp lý.
Trong các yếu tố đang ảnh hưởng đến giáo dục và đào tạo khu vực
miền núi phía Bắc nước ta, trước hết phải kể đến yếu tố nhận thức của một bộ
phận cán bộ và nhân dân trong vùng chưa đúng về vai trò của giáo dục và đào
tạo đối với sự phát triển và vai trò của sức mạnh tổng hợp trong việc phát
triển tất cả các yếu tố nói chung, trong phát triển giáo dục nói riêng. Mặt
khác, trong công tác quản lý của giáo dục và đào tạo ở nước ta, chưa gắn
được quyền lợi và nghĩa vụ một cách cụ thể và rõ ràng, các chính sách chưa
có các chế tài thưởng, phạt đủ mạnh để có sức thu hút đối với nhười làm công
tác giáo dục và đào tạo trong khu vực miền núi, cho nên đầu tư tốn kém,
nhưng hiệu quả không cao.
Đối với những khu vực có điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa khác
nhau, không thể áp dụng một cách đồng nhất tất cả các nội dung chương trình,
phương pháp giáo dục như nhau. Do đó, để giáo dục miền núi phía Bắc nước
ta phát triển, cần điều chỉnh nội dung chương trình, phương pháp cho phù hợp
với điều kiện cụ thể của vùng miền.

Đội ngũ cán bộ, giáo viên là nguồn nhân lực của giáo dục và đào tạo
trong khu vực, có thể nói đó là nguồn lực của các nguồn lực, cho nên, cần đầu
tư thỏa đáng cho đội ngũ này. Cần tính lương theo mức độ đóng góp sức lao
động về trí tuệ và thời gian lao động trong một ngày cụ thể, gắn với những
nhiệm vụ cụ thể như hiệu quả chất lượng giáo dục, làm công tác dân vận
trong địa bàn giáo dục của mình;v.v.. Trên cơ sở những lợi ích của người lao
động, cần có chính sách đủ mạnh để thu hút mọi lực lượng xã hội tham gia
các hoạt động nâng cao chất lượng giáo dục trong khu vực, nhất là chính sách
thu hút nhân tài phục vụ cho giáo dục ở khu vực miền núi phía Bắc nước ta
hiện nay.

19


CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

1- Vi Thái Lang (2009), “Vấn đề đặt ra đối với giáo dục và đào tạo ở miền
núi và vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay”. T/c Dân tộc. Số 102. tháng 6.
2- Vi Thái Lang (2011), “Tác động của hệ thống chính sách giáo dục Việt
Nam đối với việc tiếp cận đại học của học sinh, sinh viên thiệt hòi”. Nhà xuất
bản Nông nghiệp.

20



×