Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

ĐỀ tài tự học TRONG đào tạo tín CHỈ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.56 KB, 33 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ

Bảng:
Bảng 1:Quan niệm của sinh viên khoa Kinh tế và Quản lý về tự học
Bảng 2: Mức độ cần thiết của việc tự học
Bảng 3: Thời gian trong ngày cho tự học
Bảng 3.1: Trong thời gian ôn thi
Bảng 3.2:Ngoài thời gian ôn thi
Bảng 4: Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tự học
Bảng 5: Những phương pháp tự học hiệu quả
Bảng 6: Những khó khăn gặp phải trong quá trình tự học

Biểu đồ:
Biểu đồ 1: Quan niệm của sinh viên về tự học
Biểu đồ 2: Mức độ cần thiết của việc tự học
Biểu đồ 3 : Thời gian trong và ngoài ôn thi dành cho tự học
Biểu đồ 4 : Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tự học
Biểu đồ 5: Những khó khăn gặp phải trong quá trình tự học


PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài

Hiện nay, nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, hội nhập kinh tế ngày càng mở rộng,
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang là một tất yếu của sự phát triển, nó
trở thành làn sóng mạnh mẽ tác động đến tất cả các nước trên thế giới cũng như mọi mặt của
đời sống xã hội đòi hỏi nền giáo dục Việt Nam không ngừng cải tiến, đổi mới phù hợp với
thế giới và các quốc gia trong khu vực. Có thể nói rằng giáo dục và đào tạo là yếu tố tác
động mạnh mẽ đến quy mô, tốc độ cũng như sự thành công trong sự nghiệp công nghiệp


hóa, hiện đại hóa của đất nước. Giáo dục – đào tạo có ý nghĩa quan trọng trong việc cung
cấp nguồn nhân lực có trình độ cao. Chính vì vậy, để nắm bắt toàn diện những kiến thức
chuyên môn ở bậc đại học đòi hỏi mỗi sinh viên phải có nhiều nỗ lực trong hoạt động học
tập, đăc biệt phải dành thời gian cho việc tự học, tự nghiên cứu, trong đó tự học để thành
công là vô cùng quan trọng. Nếu chúng ta biết nỗ lực tự học,chúng ta sẽ ta nâng cao nâng
cao tri thức văn hóa nói chung và tri thức chuyên môn nói riêng cũng như phát huy được
năng lực của bản thân trên cơ sở chính là sự hướng dẫn của giáo viên.
Ngày nay, hầu hết các trường đại học đều đào tạo theo phương thức tín chỉ. Tuy đã tiếp
cận với hình thức học tín chỉ được một thời gian nhưng trên thực tế nhiều sinh viên vẫn còn
gặp khó khăn trong việc tìm ra phương pháp học, vẫn chưa dành nhiều thời gian cho việc tự
học, chưa xây dựng và rèn luyện kỹ năng tự học cho hợp lý. Trong khi đó tự học, tự nghiên
cứu là khâu then chốt, có tầm quan trọng đặc biệt trong đào tạo của bất kỳ nhà trường nào.
Tự học luôn là phương pháp học học tập hiệu quả, ít tốn kém và phù hợp cho mọi đối
tượng . Muốn nâng cao chất lượng đầu ra cho sinh viên, muốn được xã hội chấp nhận và


không bị đào thải trước xu thế phát triển ngày càng sâu và rộng của quá trình hội nhập cần
thiết phải coi trọng tự học, tự nghiên cứu trong suốt quá trình đào tạo của mình, đặc biệt là
quá trình tự đào tạo. Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi chọn đề tài: “Biện pháp phát
huy tính tích cực tự học theo phương thức đào tạo tín chỉ của sinh viên khoa Kinh tế và
Quản lý trường Đại học Thủy Lợi”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về vấn đề tự học, thực trạng tự học của sinh viên khoa
Kinh tế và Quản lý theo phương thức đào tạo tín chỉ, đề tài đề xuất một số biện pháp phát
huy tính tích cực tự học cho sinh viên khoa Kinh tế và Quản lý trường Đại học Thủy lợi
1.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý thuyết và thực trạng hoạt động tự học của sinh viên theo phương
thức tín chỉ.
Phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động tự học của sinh viên khoa Kinh tế và Quản


Đề xuất biện pháp phát huy tính tích cực tự học của sinh viên.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tiến hành phân tích, so sánh, tổng hợp, hệ thống hóa
tài liệu theo mục đích nghiên cứu của đề tài.
Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Với mục đích tìm hiểu nhận thức của sinh
viên về vấn đề tự học, mức độ; hình thức tự học của sinh viên, những yếu tố ảnh hưởng đến
quá trình tự học của sinh viên cũng như những khó khăn sinh viên gặp phải trong quá trình
tự học.
Phương pháp phỏng vấn: Phương pháp này được sử dụng nhằm bổ trợ cho kết quả thu
được từ phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi. Tự đặt mình vào trong các tình tình huống
nhằm hiểu sâu hơn về vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp quan sát: Đây là phương pháp bổ trợ cho phiếu điều tra, phỏng vấn đánh


giá khách quan về đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp thống kê toán học, phân tích đánh giá số liệu: Để xử lý số liệu thu được, đưa ra
những kết luận chính xác cho đề tài nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê
trong toán học: tính tỷ lệ phần trăm, tính trung bình…
1.5. Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Vấn đề tự học của sinh viên
Khách thể nghiên cứu: 100 sinh viên khoa Kinh tế và Quản lý trường Đại học Thủy Lợi
1.6. Cấu trúc đề tài
Gồm 3 phần:
Phần mở đầu: Nêu lý do, mục tiêu, phương pháp và cấu trúc của đề tài.
Phần nội dung: Cơ sở lý luận của vấn đề tự học, thực trạng tự học của sinh viên khoa
Kinh tế và Quản lý theo phương thức đào tạo tín chỉ. Đề tài đề xuất một số biện pháp phát
huy tính tích cực tự học của sinh viên khoa Kinh tế và Quản lý.
Phần kết luận và kiến nghị.



PHẦN 2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận của tự học theo phương thức đào tạo tín chỉ
2.1.1.Khái niệm tự học
Tuy đã được nghiên cứu từ lâu và rất nhiều trên thế giới, nhưng “tự học” lại là một thuật
ngữ gây nhiều tranh luận, và đôi khi các nhà giáo dục học và ngôn ngữ học cũng không thể
thống nhất hoàn toàn với nhau về định nghĩa tự học là thế nào. Một số nhà nghiên cứu nổi
tiếng đã định nghĩa như sau:
Nhà tâm lý học N.ARubakin coi: Tự tìm lấy kiến thức – có nghĩa là tự học. Tự học là quá
trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội, lịch sử trong thực tiễn hoạt động cá nhân bằng
cách thiết lập các mối quan hệ cải tiến kinh nghiệm ban đầu, đối chiếu với các mô hình phản
ánh hoàn cảnh thực tại, biến tri thức của loài người thành vốn tri thức, kinh nghiệm, kỹ
năng , kỹ xảo của chủ thể.
Trong cuốn “Học tập hợp lí” R.Retke chủ biên, coi “Tự học là việc hoàn thành các nhiệm
vụ khác không nằm trong các lần tổ chức giảng dạy” - Theo tác giả Lê Khánh Bằng: thì tự
học (self learning) là tự mình suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ, các phẩm chất tâm lý
để chiếm lĩnh một lĩnh vực khoa học nhất định
Theo Giáo sư Đặng Vũ Hoạt và Phó giáo sư Hà Thị Đức trong cuốn “Lý luận dạy học
đại học” thì “Tự học là một hình thức tổ chức dạy học cơ bản ở đại học. Đó là một hình thức
nhận thức của cá nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kỹ năng do chính người học tự


tiến hành ở trên lớp hoặc ở ngoài lớp, theo hoặc không theo chương trình và sách giáo khoa
đã được qui định.
Theo tác giả Nguyễn Văn Đạo: “Tự học phải là công việc tự giác của mỗi người do nhận
thức được đúng vai trò quyết định của nó đến sự tích luỹ kiến thức cho bản thân, cho chất
lượng công việc mình đảm nhiệm, cho sự tiến bộ của xã hội”
Theo Giáo sư – Tiến sỹ Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học – là tự mình động não, suy nghĩ, sử
dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp...) và có khi cả cơ bắp (khi
phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh
quan, thế giới quan (như tính trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại

khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biến khó khăn thành thuận
lợi..vv...) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành
sở hữu của mình”.
Từ những quan điểm về tự học nêu trên, chúng tôi đi đến định nghĩa về tự học như
sau: Tự học là quá trình cá nhân người học tự giác, tích cực, độc lập tự chiếm lĩnh tri thức ở
một lĩnh vực nào đó trong cuộc sống bằng hành động của chính mình nhằm đạt được mục
đích nhất định.
2.1.2.

Vai trò của việc tự học

Trong quá trình dạy học nói chung, dạy học ở đại học nói riêng, giáo viên luôn giữ một
vai trò quan trọng đặc biệt không thể thiếu được đó là sự tổ chức, điều khiển, hướng dẫn, chỉ
đạo hoạt động học tập của sinh viên. Nhưng thực tế cho thấy rằng, dù giáo viên có kiến thức
uyên thâm đến đâu, phương pháp giảng dạy hay đến mấy nhưng học sinh không chịu đầu tư
thời gian, không có sự lao động của cá nhân, không có niềm khao khát với tri thức, không có
sự say mê học tập, không có kế hoạch và phương pháp học tập hợp lý, không tự giác tích
cực trong học tập... thì việc học tập không đạt kết quả cao được.
Vì vậy, có thể khẳng định vai trò của hoạt động tự học luôn giữ một vị trí rất quan trọng
trong quá trình học tập của người học.Tự học là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả
của hoạt động học tập.
Học ở đại học, đòi hỏi sinh viên phải tiếp thu một lượng kiến thức lớn và khó, cho nên
ngoài thời gian học trên lớp sinh viên phải tự học, tự nghiên cứu ngoài giờ lên lớp để mở


rộng và đào sâu tri thức. Cũng chính thông qua hoạt động tự học này đã giúp rất nhiều cho
sinh viên trong quá trình học tập biểu hiện.
Thứ nhất, tự học giúp sinh viên nắm vững tri thức, kỹ năng kỹ xảo và nghề nghiệp trong
tương lai.Chính trong quá trình tự học sinh viên đã từng bước biến vốn kinh nghiệm của loài
người thành vốn tri thức riêng của bản thân.Hoạt động tự học đã tạo điều kiện cho sinh viên

hiểu sâu tri thức, mở rộng kiến thức, củng cố ghi nhớ vững chắc tri thức, biết vận dụng tri
thức vào giải quyết các nhiệm vụ học tập mới.
Thứ hai, tự học không những giúp sinh viên không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu
quả học tập khi còn ngồi trên ghế nhà trường mà còn giúp họ có được hứng thú thói quen và
phương pháp tự thường xuyên để làm phong phú thêm, hoàn thiện thêm vốn hiểu biết của
mình.Giúp họ tránh được sự lạc hậu trước sự biến đổi không ngừng của khoa học và công
nghệ trong thời đại ngày nay.
Thứ ba, tự học thường xuyên, tích cực, tự giác, độc lập không chỉ giúp sinh viên mở rộng
đào sâu kiến thức mà còn giúp sinh viên hình thành được những phẩm chất trí tuệ và rèn
luyện nhân cách của mình.Tạo cho họ có nếp sống và làm việc khoa học, rèn luyện ý chí
phấn đấu, đức tính kiên trì, óc phê phán, hứng thú học tập và lòng say mê nghiên cứu khoa
học.
Thứ tư, trong quá trình học tập ở trường đại học, nếu bồi dưỡng được ý chí và năng lực
tự học cần thiết thì sẽ khơi dậy được ở sinh viên tiềm năng to lớn vốn có của họ, tạo nên
động lực nội sinh của quá trình học tập, vượt lên trên mọi khó khăn, trở ngại bên ngoài. Khả
năng tự học chính là nhân tố nội lực, nhân tố quyết định chất lượng đào tạo.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp vai trò của giáo viên và tập thể sinh
viên trong nhà trường.Các lực lượng này có tác dụng lớn trong việc động viên khuyến khích
hướng dẫn sinh viên tự học một cách đúng hướng và hiệu quả.
2.1.3. Bản chất của việc tự học
Thực chất tự học là một quá trình học tập, một quá trình nhận thức không trực tiếp có thầy
giáo. Đó là "lao động khoa học", vất vả hơn nhiều so với quá trình học có thầy bởi vì
người học phải tự xây dựng cho mình cách học và sử dụng hợp lý các điều kiện, hình thức,
phương tiện học tập để đạt được kết quả mong muốn.Có thể nói: "Bản chất của công


việc tự học của sinh viên đại học là quá trình nhận thức một cách tự giác, tích cực, tự lực
không có sự tham gia hướng dẫn trực tiếp của giáo viên nhằm đạt được mục đích, nhiệm vụ
dạy học. Tự học vừa mang ý nghĩa củng cố trau dồi tri thức và có ý nghĩa mở rộng hiểu
biết.Tự học có nghĩa là sinh viên phải độc lập, tự xây dựng kế hoạch, phương pháp học tập

cho mình, tự năng động tìm tòi, phân tích những sách vở, tài liệu tiến tới làm chủ tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo. Bản chất của quá trình tự học là không có sự hướng dẫn của giáo viên nên tất
yếu đòi hỏi nỗ lực, tích cực hoá hoạt động nhận thức của sinh viên. Sự tự kiềm chế đối với
những ảnh hưởng ngoại cảnh hay những ước muốn không hợp lẽ trong tư tưởng là điều kiện
cần thiết đối với quá trình tự học. Nếu thiếu tự kìm chế, kiên trì, những yêu cầu cao, sự
nghiêm túc bản thân thì sinh viên không bao giờ thực hiện được kế hoạch học tập do chính
mình đặt ra. Đây cũng là điều kiện giúp sinh viên từng bước nâng cao chất lượng học tập của
bản thân và các trường đại học cũng sẽ nâng cao được chất lượng đào tạo, hoàn thành mục
tiêu giáo dục nếu tổ chức có hiệu quả công việc tự học cho sinh viên.
2.1.4. Nguyên tắc đảm bảo việc tự học có hiệu quả
Một vấn đề có tính khoa học bao giờ cũng được xây dựng trên những cơ sở và những
nguyên tắc nhất định.việc tự học cũng vậy, để có hiệu quả cao cần tuân thủ những nguyên
tắc sau:
Đảm bảo tính tự giáo dục
Trong thực tế, quá trình giáo dục luôn chứa đựng quá trình giáo dưỡng, do vậy mà trong
công tác tự học của sinh viên, ngoài việc tự củng cố những kiến thức cũ, lĩnh hội những tri
thức mới, mở rộng hiểu biết, người sinh viên từng bước tự hoàn thiện nhân cách của mình
sao cho ngày càng gần với phẩm chất cao quý của các thầy cô giáo.
Đảm bảo tính khoa học trong qua trình tự học
Bản thân quá trình tự học của sinh viên cũng là một quá trình lao động khoa học, hết sức khó
khăn, do vậy phải đòi hỏi có tính khoa học trong ;công tác tự học sẽ đảm bảo được tính tự
giáo dục, kích thích hứng thú học tập dẫn đến kết quả học tập như mong muốn.
Đảm bảo học đi đôi với hành
Tự học không chỉ củng cố kiến thức thông thường mà quan trọng hơn là những kiến thức ấy
được vận dụng vào cuộc sống, cọ sát với thực tế để thhu lượm được những kinh nghiệm thực


tiễn sống động, bổ ích, từ đó giúp cho sinh viên có những điều kiện quen thuộc cũng như
mới mẻ đều có thể vận dụng dung, linh hoạt, sáng tạo những điều mà đã tự tiếp thhu, lĩnh
hội được.

Nâng cao dần đến mức tự giác, tích cực trong quá trình tự học
Nguyên tắc này sẽ trực tiếp quyết định đến kết quả học tập của sinh viên. Kế hoach tự học
có được thực hiện thường xuyên hay không là do yếu tố tự giác quyết định.
Đảm bảo nâng cao dần và củng cố kỹ năng kỹ xảo
Quá trình tự học không chỉ đơn thuần là quá trình tự hình thành tri thức mà còn là quá
trình hoạt động thực tiễn, nâng cao, củng cố kỹ năng kỹ xảo.
Trên thực tế tự học của bản thân mỗi sinh viên mỗi sinh viên cần thiết kế hợp lý khéo léo,
khoa học những nguyên tắc trên để đạt được hiệu quả cao nhất.
2.1.5. Tính tích cực tự học theo phương thức đào tạo tín chỉ
Cho đến nay hình thức đào tạo theo tín chỉ đã được triển khai và áp dụng trong gần 50
trường trong cả nước. Vào thời điểm này việc dạy và học theo hình thức đào tạo tín tín chỉ là
gần như bắt buộc đối với các trường đại học và cao đẳng trên cả nước theo nghị quyết số
37/2004/QH11 khóa XI, kỳ họp thứ sáu của Quốc hội về giáo dục và Quy chế số
43/2007/QĐ-BGD&ĐT của Bộ giáo dục và Đào tạo về đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính
quy theo hệ thống tín chỉ. Mặc dù việc học theo hình thức đào tạo tín chỉ ở Việt Nam được
thực hiện lần đầu tiên ở trường Đại học Bách khoa Tp.HCM vào năm học 1993-1994 và
thực hiện rộng rãi ở các trường đại học và cao đẳng trong cả nước sau Quy chế 43 của Bộ
Giáo dục và đào tạo vào năm 2007 nhưng cho đến nay việc áp dụng hình thức học tập này
vẫn còn nhiều lung túng tại các trường và nhiều sinh viên vẫn chưa thật sự nắm bắt ý nghĩa
của nó so với hình thức đào tạo theo niên chế dẫn đến chưa vận dụng hết những ưu điểm mà
hình thức học theo tín chỉ mang lại.
Đào tạo theo hình thức tín chỉ là một hình thức đào tạo tiên tiến, mang lại hiệu quả cao
đối với cả người học lẫn người dạy và đang được nhiều trường đại học ở Việt Nam áp dụng.
Tín chỉ được sử dụng để tính khối lượng học tập của sinh viên. Một tín chỉ được quy định
bằng 15 tiết học lí thuyết; 30-45 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận; 45-90 giờ thực
tập tại cơ sở; 45-60 giờ làm tiểu luận, bài tập lớn hoặc đồ án, khóa luận tốt nghiệp. Đối với


những học phần lí thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu được 1 tín chỉ, sinh viên
phải dành ít nhất 30 giờ để chuẩn bị cá nhân.

Học theo học chế tín chỉ sinh viên tự quyết định và đăng kí môn học, tự hoạch định kế
hoạch học tập cho riêng bản thân, có thể linh động chương trình đào tạo theo đúng khả năng,
sở thích và thời khóa biểu riêng. Học chế tín chỉ có thể giúp sinh viên có cơ hội học thêm
văn bằng hai song song trong quá trình học tập ở bậc đại học. Cùng với việc trao quyền chủ
động cho sinh viên, học chế tín chỉ cũng đòi hỏi sinh viên chủ động trong việc học, tránh
tâm lý ỷ lại, thầy ghi trò chép như học theo hình thức niên chế..Học tín chỉ nghĩa là bạn được
phép tự lựa chọn chương trình học cho mình, miễn sao đáp ứng đủ số tín chỉ với ngành học
đó, là bạn có thể tốt nghiệp. Học niên chế thì mỗi học kì, trường sẽ đưa ra thời khóa biếu, và
bắt buộc bạn phải học theo đúng thời khóa biểu đó. Học tín chỉ, bạn tự đề ra thời khóa biểu
cho mình, học giảm bớt số môn trong 1 kì, hoặc học vượt, đều là do bạn quyết định. Học tín
chỉ bạn có thể ra trường sớm hơn vì bạn có thể đăng ký học vượt.Tuy nhiên, tín chỉ có nhược
điểm mà nhiều sinh viên không thích, đó là tính điểm theo hệ 4 chứ không phải hệ 10, gây
thiệt thòi cho nhiều sinh viên. Bạn được 9 điểm được quy thành 4. Bạn được 10 điểm, cũng
quy ra thành 4.
Tự học, tự nghiên cứu có tầm quan trọng đặc biệt trong chuyển đổi từ “quá trình đào tạo
sang quá trình tự đào tạo” theo hệ thống tín chỉ. Kết quả tự học, tự nghiên cứu không chỉ
góp phần hoàn thiện kiến thức và chương trình đào tạo mà còn giúp sinh viên khắc sâu và
vận dụng những kiến thức, phương pháp tiếp thu được trên lớp vào giải quyết những vấn đề
đặt ra trong thực tế, nhất là hoạt động nghiên cứu khoa học - đây lại là nhân tố cơ bản có tính
chất quyết định chất lượng đào tạo.
Trong đào tạo theo tín chỉ, kiến thức của bài học phải là tổng của phần kiến thức sinh
viên thu lượm được trong bài giảng của giảng viên ở trên lớpvà phần tự học, tự nghiên cứu;
do đó học ở trên lớp không là chưa đủ mà sinh viên còn phải tự học, tự nghiên cứu. Tự học,
tự nghiên cứu không phải là hoạt động tự phát, ép buộc mà là hoạt động tự giác có mục đích
rất rõ ràng, có sự định hướng của giảng viên. Tự học, tự nghiên cứu có nhiều hình thức
như: làm bài tập, đọc giáo trình, sưu tầm và nghiên cứu tài liệu, hoặc nghiên cứu khoa học,
viết tiểu luận,…


2.2. Vài nét về sinh viên khoa Kinh tế và Quản lý trường Đại học Thủy Lợi

Khoa Kinh tế & Quản lý trường Đai học Thủy lợi được thành lập và đi vào hoạt động từ
năm 1979, cho đến nay đã hơn 30 năm xây dựng và phát triển. Hiện nay Khoa đã xây dựng
được 5 bộ môn:
-Bộ môn Quản lý xây dựng
-Bộ môn Kinh tế
-Bộ môn Kế toán
-Bộ môn Quản trị kinh doanh
-Bộ môn Phát triển kỹ năng
Đào tạo của Khoa được nâng cấp và mở rộng, đến nay khoa quản lý 3 chương trình
đào tạo bậc đại học là: Kinh tế tài nguyên thiên nhiên; Kế toán; Quản trị kinh doanh.
Ở bậc đào tạo đại học, tổng số sinh viên đã và đang học tập tại khoa Kinh tế & Quản
lý là 2174 trong đó số kỹ sư kinh tế thủy lợi đã tốt nghiệp là 1017 (288 hệ chuyên tu, 792 hệ
chinh quy) và hiện đang theo học là 1157 sinh viên.
Sinh viên khoa Kinh tế & Quản lý được đảm bảo chất lượng học tập, ngày càng nâng
cao kiến thức và kỹ năng chuyên ngành. Ngoài việc cải tiến phương pháp giảng dạy của thầy
cô giáo, khoa cũng hướng dẫn cải tiến phương pháp học tâp, như học theo nhóm, học kèm
nghiên cứu, học gắn liền với tình huống thực tế… Trên cơ sở đó, Khoa đã hình thành
chương trình đào tạo cập nhật, tổ chức các buổi hướng dẫn sinh viên học và làm việc theo
nhóm, đưa sinh viên đi tham quan thực tế ở một số địa phương, doanh nghiệp, một số môn
học có yêu cầu sinh viên đi khảo sát thực tế để làm tiểu luận…Sinh viên khoa Kinh tế &
Quản lý có phẩm chất đạo đức tốt, tính kỷ luật cao, biết cách làm việc theo nhóm, say mê
nghiên cứu khoa học và luôn tự rèn luyện nâng cao phẩm chất chính trị, năng lực chuyên
môn của mình. Vì vậy, sinh viên khi ra trường đã thích nghi nhanh với công việc, có khả
năng vận dụng tốt các tình huống để giải quyết công việc một cách có hiệu quả.
Bên cạnh việc học tập, sinh viên khoa Kinh tế và Quản ký cũng nhiệt tình tham gia các
phong trào Đoàn, Hội do trường hoặc khoa tổ chức như tham gia hội diễn văn nghệ chào
mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11, thể dục thể thao chào mừng ngày thành lập đoàn 263… đạt kết quả cao.


Tuy nhiên, sinh viên khoa Kinh tế và quản lý còn có những mặt hạn chế như: thiếu tự

tin và óc phê phán: nhiều bạn sinh viên năm thứ ba, thứ tư Ðại học mà vẫn ngại phát biểu ý
kiến hoặc trình bày vấn đề trước đám đông vì thiếu tự tin, thiếu thói quen suy nghĩ, đi học
chỉ biết "chép chính tả. Tư duy nặng về "điểm chác”, bằng cấp rất phổ biến.Không xác định
tư tưởng học để làm việc mà học để lấy bằng. Ngoài ra sinh viên khoa Kinh tế và Quản lý có
thể lực kém, tinh thần hợp tác làm việc theo team work còn hạn chế, giờ cao su, …
Theo khảo sát những năm qua, tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp khoa Kinh tế & Quản lý
trường đại học Thủy lợi có việc làm khá cao, trong đó nhiều sinh viên đã nắm cương vị lãnh
đạo tại một số doanh nghiệp.
2.3. Thực trạng hoạt động tự học của sinh viên khoa Kinh tế và Quản lý
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát điều tra bằng bảng câu hỏi đối với 100 sinh viên, đối
tượng là sinh viên năm thứ nhất và tập trung vào các vấn đề như: Quan niệm của sinh viên
về vấn đề tự học; nhận thức của sinh viên về sự cần thiết của việc tự học; các yếu tố ảnh
hưởng đến quá trình tự học; các phương pháp tự học mà sinh viên cho là hiệu quả; những
khó khăn mà sinh viên gặp phải trong quá trình tự học … để thấy được thực trạng tự học của
sinh viên khoa Kinh tế và Quản lý.
Thứ nhất, để tìm hiểu thực trạng việc tự học của sinh viên khoa Kinh tế và Quản lý
trường Đại học Thủy Lợi. Trước hết, chúng tôi tiến hành tìm hiểu quan niệm của sinh viên
về vấn đề tự học, kết quả được thể hiện trong bảng 1:
Bảng 1:Quan niệm của sinh viên khoa Kinh tế và Quản lý về tự học
ST
T
1

Quan niệm
Tự học là bản thân người học tích cực độc lập,tự giác
chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo bằng phương pháp
phù hợp.

Số


Tỉ lệ

lượng
12

%
12


2

Tự học là quá trình cá nhân người học tự giác, tích cực,

48

48

33

33

7

7

độc lập tự chiếm lĩnh tri thức ở một lĩnh vực nào đó
trong cuộc sống bằng hành động của chính mình nhằm
3

đạt được mục đích nhất định.

Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các
năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp, với tinh thần không
ngại khó, ngại khổ; kiên trì; nhẫn nại để chiếm lĩnh lĩnh

4

vực nào đó của khoa học.
Tự học là tự bản thân mình nghiên cứu, theo sự hướng
dẫn của giảng viên hoặc giáo trình.

Dựa vào kết quả thống kê ở bảng 1, chúng tôi đã thể hiện quan niệm của việc tự học
theo đánh giá của sinh viên ở biểu đồ 1:
Biểu đồ 1. Quan niệm của sinh viên về tự học
Biểu đồ 1 cho thấy, có 48% sinh viên chọn phương án trả lời: “Tự học là quá trình cá
nhân người học tự giác, tích cực, độc lập tự chiếm lĩnh tri thức ở một lĩnh vực nào đó trong
cuộc sống bằng hành động của chính mình nhằm đạt được mục đích nhất định”.Đây cũng là
khái niệm về việc tự học mà chúng tôi đưa ra ở phần cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài. Như
vậy, có thể thấy rằng hầu hết sinh viên đã nhận thức đúng đắn về quan niệm tự học.Từ đó có
định hướng tốt hơn trong quá trình học tập với mô hình đào tạo tín chỉ hiện nay.
Có 33% sinh viên lựa chon phương án: “Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử
dụng các năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp, với tinh thần không ngại khó, ngại khổ; kiên
trì; nhẫn nại để chiếm lĩnh lĩnh vực nào đó của khoa học”.
Có 12% sinh viên cho rằng: “Tự học là bản thân người học tích cực độc lập,tự giác
chiếm lĩnh tri thức,kỹ năng,kỹ xảo bằng phương pháp phù hợp”.
Chỉ có 7% sinh viên quan niệm: “Tự học là tự bản thân mình nghiên cứu, theo sự
hướng dẫn của giảng viên hoặc giáo trình”. Như vậy với quan niệm tự học đơn giản chỉ là
tự nghiên cứu, tìm hiểu trên những cái có sẵn theo sự hướng dẫn của giảng viên hoặc qua


giáo trình thì mức độ tiếp cận tri thức sẽ rất thấp và khó có thể theo kịp sự thay đổi và phát

triển không ngừng của xã hội.
Thứ hai, nhận thức của sinh viên về sự cần thiết của việc tự học trong mô hình đào
tạo tín chỉ. Để tìm hiểu về vấn đề này, chúng tôi đưa ra 4 mức độ và kết quả được thể hiện
trong bảng 2:
Bảng 2: Mức độ cần thiết của việc tự học
STT
1
2
3
4

Mức độ
Rất cần thiết
Cần thiết
Bình thường
Không cần thiết

Số lượng
2
22
37
39

Tỉ lệ %
2
22
37
39

Dựa vào kết quả thống kê ở bảng 2, chúng tôi đã thể hiện mức độ cần thiết của việc tự

học theo đánh giá của sinh viên ở biểu đồ 2:
Biểu đồ 2: Mức độ cần thiết của việc tự học
Khi chuyển đổi sang đào tạo theo tín chỉ, số giờ giảng dạy trên lớp của giảng viên giảm
rất nhiều, số giờ tự học của sinh viên tăng lên gấp đôi. Nhưng thực tế cho thấy, đa số sinh
viên vẫn rất thụ động không biết cách tự học, không biết sử dụng quỹ thời gian tự học của
mình vào làm việc gì và vì thế, chúng tôi đã điều tra được mức độ cần thiết của việc tự học.
Thông qua kết quả khảo sát được tổng kết trong ở bảng 2 và biểu đồ 2, cho thấy: Có
2% sinh viên cho rằng việc tự học là rất cần thiết . Điều đó có nghĩa là tỷ lệ sinh viên nhận
thấy mức độ rất cần thiết của việc tự học là chưa cao. Qua phỏng vấn bạn N.T.K cho biết:
“Em thấy chỉ cần học trên lớp là đủ, học đại học chỉ cần qua là được, dành thời gian cho
những hoạt động khác”. Hiệu quả của quá trình dạy học chính là sự tương tác của tư duy,
hành động và lời nói giữa giáo viên và sinh viên. Nhờ sự trợ giúp của ngôn ngữ mà tư duy
được củng cố và phát triển. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, lượng thông tin
ngày càng gia tăng. Theo tính toán của các chuyên gia trong lĩnh vực xã hội học, lượng
thông tin tăng gấp đôi cứ sau khoảng 5-6 năm. Bên cạnh đó, chương trình đào tạo được thiết


kết theo hướng ngày càng tinh gọn. Số tiết truyền đạt trực tiếp trên lớp giảm còn hai phần ba
so với trước đây, trong khi yêu cầu đốivới người học ngày càng cao. Do vậy, hơn lúc nào
hết, tầm quan trọng của tự học tăng nhanh.
Số sinh viên cho rằng việc tự học là cần thiết chiếm tỷ lệ 22%. Như vậy, tỷ lệ sinh viên
đánh giá việc tự học là cần thiết và rất cần thiết chỉ chiếm 24% . Điều đó chứng tỏ nhu cầu
tự học của sinh viên là tương đối thấp.Việc tự học đối với sinh viên trong mô hình đào tạo
tín chỉ có vai trò hết sức quan trọng vì qua đó góp phần giúp cho sinh viên rèn luyện khả
năng tư duy và sáng tạo của cá nhân. Ngoài ra, việc tự học còn nâng cao tinh thần trách
nhiệm trong công tác làm việc theo nhóm. Khi đó sinh viên có thể thể hiện tính sáng tạo
trong tư duy và linh hoạt nhạy bén trong suy nghĩ, điều quan trọng hơn hết là sinh viên có
thể đi sâu hơn so với thực tiễn nhằm rèn luyện kỹ năng phân tích tình hình và đưa ra quyết
định, đây là một yếu tố cần và đủ để sau này khi rời khỏi ghế nhà trường sinh viên sẽ không
bỡ ngỡ khi làm việc ở môi trường thực tế. Việc tự học giúp cho sinh viên có thể tiếp thu tốt

bài giảng trên lớp hay củng cố lại các kiến thức đã học, mở mang thêm nhiều kiến thức mới
qua sách vở và mạng Internet phục vụ cho chuyên ngành nghiên cứu, nâng cao kỹ năng làm
việc nhóm, tạo môi trường học tập tiến bộ và tiên tiến,….
Có 37% sinh viên cho rằng tự học trong mô hình đào tạo tín chỉ là bình thường. Điều
đó chứng tỏ rằng khá nhiều sinh viên chưa thấy được vai trò của việc tự học đối với mô hình
đào tạo tín chỉ hiện nay.Hầu hết sinh viên cho rằng những kiến thức có được đã đủ, nhưng
đang quên mất rằng do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, khối lượng tri thức
không ngừng tăng lên. Hơn nữa, xã hội luôn phát triển không ngừng, những kiến thức mà họ
có chỉ như một hạt cát trên sa mạc tri thức. Chính vì vậy, sinh viên phải luôn trau đồi, vận
dụng kiến thức vào thực tế để rút ra cho mình những kỹ năng, kinh nghiệm sống.
Có 39% sinh viên cho rằng tự học đối với họ là không cần thiết. Một bộ phận lớn
trong sinh viên có tư tưởng sai lệch khi cho rằng việc học lại, thi lại đối với sinh viên là một
điều hiển nhiên. Đây là một tư tưởng cần khắc phục để cải thiện kết quả học tập của sinh
viên. Bạn N.Y.H khi được phỏng vấn cho biết rằng: “Chúng mình hay nói với nhau sinh
viên là khoảng thời gian đẹp nhất của mỗi người nên phải cố gắng tận hưởng cho hết, việc
học thì cứ từ từ đã”


Thứba,việc dành thời gian trong ngày cho tự học của mỗi sinh viên là khác nhau.
Chúng tôi đã tiến hành khảo sát và thu đươc số liệu thể hiện ở bảng 3:
Bảng 3.1: Trong thời gian ôn thi
STT
1
2
3
4

Thời gian
Trên 5h/ngày
Từ 3-5h/ngày

Từ 1-3h/ngày
Dưới 1h/ngày

Số lượng
31
39
21
9

Tỷ lệ %
31
39
21
9

Số lượng
3
17
46
34

Tỷ lệ %
3
17
46
34

Bảng 3.2:Ngoài thời gian ôn thi
STT
1

2
3
4

Thời gian
Trên 5h/ngày
Từ 3-5h/ngày
Từ 1-3h/ngày
Dưới 1h/ngày

Biểu đồ 3 : Thời gian trong và ngoài ôn thi
Từ 2 bảng 3.1 , 3.2 và biểu đồ 3, ta thấy có sự chênh lệch rõ rệt giữa thời gian tự học
trong khoảng thời gian ôn thi và ngoài thời gian ôn thi. Nếu như trong thời gian ôn thi , thời
gian sinh viên giành cho việc tự học trên 5h/ngày chiếm tỷ lệ 31% thì ngoài thời gian ôn thi
chỉ còn chiếm 3%.Thời gian từ 3-5h/ngày cũng có sự khác biệt tương tự, ngoài thòi gian ôn
thi tỷ lệ chỉ chiếm 17% nhưng trong thời gian ôn thi đã được tăng lên đến 39%.Khi được
phỏng vấn bạn N.H.L cho biết: “ Mình cảm thấy rất lo lắng mỗi khi đến dịp thi cuối kỳ nên
thường tâp trung ôn thi hết sức vì trước đó mình không học gì cả”. Điều này cho thấy có 1
bộ phận không nhỏ sinh viên quan niệm rằng tự học chỉ để phục vụ thi cử chứ không hề
mang ý nghĩ tích lũy kiến thức cho bản thân.
Mặt khác, khoảng thời gian từ 1-3h/ngày và dưới 1h/ngày dành cho việc tự học có sự
thay đổi ngược lại.Trong thời gian ôn thi tỷ lệ sinh viên giành thời gian cho việc tự học từ 13h/ngày và dưới 1h/ngày lần lượt là: 21% và 9%. Ngoài thời gian ôn thi tỷ lệ này lần lượt là:
46% và 34%.Đây là con số khá lý tưởng nếu như thực tế diễn ra như vậy. Khi tự học sinh


viên có thể chủ động được quỹ thời gian mà không bị ràng buộc, có thể học bất cứ lúc nào.
Từ đó giúp sinh viên nắm kiến thức vững chắc và có thể hiểu sâu và nhớ kỹ hơn các vấn đề
(tự học nên nhớ lâu hơn).
2.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tự học của sinh viên khoa Kinh tế và
Quản lý

Từ những phân tích thực trạng hoạt động tự học của sinh viên khoa Kinh tế và Quản
lý trường Đại học Thủy Lợi, nhóm chúng tôi cũng tiến hành khảo sát để tìm ra các yếu tố
ảnh hưởng đến tính tích cực tự học của sinh viên theo phương thức đào tạo tín chỉ cũng như
việc sinh viên chưa thấy được lợi ích của việc tự học. Điều này được thể hiện ở bảng 4:
Bảng 4: Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tự học
STT

1

Các yếu tố

Ý thức tự học và động cơ nhận thức của

Ảnh

Ảnh

Không

hưởng

hưởng

ảnh

nhiều

ít

hưởng


77

20

3

bản thân
2

Vốn tri thức hiện có

52

42

6

3

Năng lực trí tuệ, tư duy

41

52

7

4


Phương pháp học tập của sinh viên

56

37

7

5

Phương pháp hướng dẫn của giảng viên

39

41

20

6

Chương trình trong giáo trình

30

46

24


Qua bảng 4 và biểu đồ 4, có 77% sinh viên đánh giá “Ý thức tự học và động cơ nhận

thức của bản thân” là có ảnh hưởng lớn đến quá trình tự học. Tính thụ động của sinh viên,
lười đọc sách, ôn bài ở nhà , chỉ đợi đến giờ lên lớp là vào học, không đầu tư kiến thức
chuyên môn mặc dù đã có trang bị giáo trình, bài giảng sẵn có trong tay. 56% sinh viên cho
rằng : “Phương pháp học tập của sinh viên” là yếu tố ảnh hưởng rất nhiều đến quá trình tự
học. Chưa nắm được phương pháp tự học và cách học ở bậc đại học, nhất là bước chuẩn bị
nội dung ở nhà cho lần lên lớp kế tiếp. Bạn L.P.A cho biết: “Em bị choáng ngợp bởi cách
dậy và học ở đại học khác với bậc phổ thông,em không biết bản thân mình phải học như thế
nào cho đúng cách”. “Vốn tri thức hiện có” cũng chính là yếu tố được 52% tỷ lệ sinh viên
cho rằng nó trực tiếp ảnh hưởng đến quá trình tự học. Có một thực tế là hầu hết khi trên
giảng đường,phần lớn sinh viên không tập trung theo dõi bài giảng của giảng viên dẫn đến
tình trạng sẽ bị hổng kiến thức,gây khó khăn cho việc tự học ở nhà.
Có thể thấy các yếu tố: Ý thức tự học và động cơ nhận thức của bản thân, Vốn tri thức hiện
có, Năng lực trí tuệ, tư duy và Phương pháp học tập của sinh viênlà những yếu tố mà sinh
viên cho rằng có ảnh hưởng nhiều tới quá trình tự học.Đây đều là những yếu tố chủ quan
xuất phát từ phía bản thân sinh viên.
Bên cạnh đó, các yếu tố: Phương pháp hướng dẫn của giảng viên và Chương trình
trong giáo trình là những yếu tố khách quan cũng có ảnh hưởng đến quá trình tự học của
sinh viên trong mô hình đào tạo tín chỉ. Trong lĩnh vực kinh tế xã hội, các khái niệm, phân
tích đánh giá sự kiện thường có sự co giãn lớn. Đó là khó khăn để đi đến một kết luận về
những ý tưởng, các quyết định và phương pháp tiếp cận vấn đề. Việc tập hợp các sự kiện, số
liệu, ý kiến,…để đề xuất một quan điểm riêng là không dễ dàng. Chính vì vậy, vai trò của
giáo viên là giúp người học vượt qua những khó khăn này.
Để tự học một cách hiệu quả, mỗi sinh viên lại có cho mình những phương pháp
riêng. Chúng tôi đã đưa ra một số phương pháp tự học để khảo sát 100 sinh viên và kết quả
được thể hiện ở bảng 5:

Bảng 5: Những phương pháp tự học hiệu quả


STT

1

Phương pháp
Đọc bài và chuẩn bị bài trước khi đến lớp

Số lượng Tỷ lệ %
44
44

2

Ôn bài sau khi lên lớp theo sự hướng dẫn của giáo viên,giáo
trình
Ghi chép bài cẩn thận
Học nhóm
Tìm kiếm tài liệu tham khảo
Trao đổi thêm với giảng viên và bạn bè
Vạch ra mục tiêu trước mỗi kỳ học

39

39

33
40
31
35
33

33

40
31
35
33

3
4
5
6
7

Qua số liệu ở bảng 5 ta thấy, có 44% sinh viên cho rằng “Đọc bài và chuẩn bị bài
trước khi đến lớp” là một trong những phương pháp hiệu quả cho quá trình tự học.Bạn
N.T.H khi được phỏng vấn cho biết: “Khi em chuẩn bị bài thì khi đến lớp nghe bài giảng của
thầy cô cũng dễ hiểu và dễ tiếp thu hơn rất nhiều”.
Có 40% sinh viên cho rằng sẽ hiệu quả hơn trong tự học với phương pháp “Học
nhóm”. Học tập trong môi trường nhóm sẽ thúc đẩy sự tích cực học tập của cá nhân, tạo sự
gắn kết trong một cộng đồng. Trong khi làm việc nhóm, những mâu thuẫn sẽ nảy sinh đòi
hỏi sinh viên phải giải quyết “xung đột”. Từ đó, họ sẽ có khả năng giải quyết những mâu
thuẫn, thuyết phục người khác trong những hoàn cảnh có thể bắt gặp trong cuộc sống sau
này. Làm việc, thảo luận theo nhóm không chỉ đơn thuần là do yêu cầu của giảng viên đề ra
cho sinh viên mà quan trọng hơn nó còn là cách học tập, nghiên cứu của sinh viên. Học tập
nhóm sẽ tập hợp được những ý kiến sáng tạo của từng cá nhân, từ đó sản phẩm học tập sẽ
giàu tính sáng tạo. Những phương pháp tối ưu nhất sẽ được lựa chọn từ những ý kiến được
nêu ra. Sản phẩm học tập lúc này cũng sẽ là kết quả của tất cả các thành viên.
Phương pháp “Ôn bài sau khi lên lớp theo sự hướng dẫn của giáo viên,giáo trình” cũng
được sinh viên đánh giá khá cao với 39% tỷ lệ sinh viên lựa chọn. Bạn P.T.H cho biết: “Sau
khi được thầy cô hướng dẫn trên lớp mình cảm thấy học bài dễ dàng hơn và dễ hiểu hơn”.
Ngoài ra, còn có một số phương pháp mà được nhiều bạn sinh viên cho là tự học có hiệu
quả như: Vạch ra mục tiêu trước mỗi kỳ học; Trao đổi thêm với giảng viên và bạn bè; Tìm

kiếm tài liệu tham khảo và Ghi chép bài đầy đủ.
Trong quá trình tự học cũng đã gặp không ít khó khăn.Điều này được thống kê ở bảng 6:
Bảng 6: Những khó khăn gặp phải trong quá trình tự học


ST
T
1
2
3
4

Khó khăn
Chưa biết lựa chọn tài liệu tham khảo
Khối lượng kiến thức lớn
Cơ sở vật chất chưa đáp ứng đầy đủ(công cụ hiện đại,tài liệu
tham khảo,…)
Bị chi phối và ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh

Số lượng

Tỷ lệ %

38
53
16

38
53
16


36

36

Qua bảng 6 cho chúng ta thấy được yếu tố gây khó khăn nhiều nhất đến quá trình tự
học là: “Khối lượng kiến thức quá lớn” chiếm tỷ lệ 53%. Điểm khác biệt giữa đại học và phổ
thông đó là khối lượng kiến thức. Khối lượng kiến thức ở cấp độ đại học tăng lên một cách
đáng kể. Rõ ràng sự tăng lên đáng kể về khối lượng kiến thức sẽ khiến sinh viên gặp phải
những khó khăn và thậm chí có thể bị sốc và gây khó khăn cho quá trình tự học.
Có 38% sinh viên cho rằng “Chưa biết lựa chọn tài liệu tham khảo” gây khó khăn
cho tự học. Không thể phủ nhận rằng cùng với sự phát triển của công nghệ thì việc tiếp cận
thông tin cũng dễ dàng và thuận lợi hơn rất nhiều. Nhưng mặt trái của nó là dẫn đến việc các
thông tin được đưa ra tràn lan rất nhiều thậm chí không chính xác. Điều này gây không ít
khó khăn cho sinh viên. Bạn H.L.D cho biết : “Mỗi khi mình muốn tìm hiểu một vấn đề nào
đó liên quan đến bài học thì thật sự rất khó khăn bởi cùng một vấn đề mà có rất nhiều câu
trả lời khác nhau khiến mình rất bối rối”
“Bị chi phối và ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh” là yếu tố được sinh viên cho
rằng có ảnh hưởng nhiều đến quá trình tự học 36%. Bạn H.B.N cho biết : “Mình ở kí túc
xá,mỗi khi muốn yên tĩnh một chút để học bài mà các bạn trong phòng rất ồn nên rất khó
chịu”
Ngoài ra, “Cơ sở vật chất chưa đáp ứng đầy đủ(công cụ hiện đại,tài liệu tham khảo,
…)” cũng gây một chút khó khăn cho quá trình tự học của các bạn sinh viên.
2.5. Một số giải pháp nhằm phát huy tính tích cực tự học theo phương thức đào
tạo tín chỉ cho sinh viên khoa Kinh tế và Quản lý


-Về phía sinh viên
Để nâng cao năng lực tự học, trước hết, sinh viên cần tin tưởng vào khả năng tự học
của mình; đồng thời phải phát huy tối đa nội lực và tận dụng triệt để các yếu tố khách quan,

nhất là sự hướng dẫn của giáo viên. Điều này sẽ giúp cho các bạn sinh viên có thể chủ động
một cách tốt nhất trong quá trình tự học và nâng cao hiệu quả học tập. Mỗi bạn sinh viên cần
xác định rõ được mục tiêu học tập đạt được trước mỗi kỳ học để cố gắng phấn đấu. Nếu có
thể bạn hãy xác định mục tiêu cụ thể của từng môn học như vậy việc xây dựng thời gian
biểu hợp lý giữa các môn học, địa điểm, hình thức học sẽ càng hiệu quả hơn.
Ví dụ như trong kỳ này bạn có môn Toán mà bản thân yêu thích và học tương đối tốt
bạn có thể xác định rồi phấn đấu để được điểm A; bên cạnh đó môn Tiếng Anh là môn bạn
học không được tốt lắm thì bạn chỉ phấn đấu để đạt điểm B... Trong quá trình học không
tránh khỏi những yếu tố tác động và gây ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực đến việc tự
học. Có thể có sự điều chỉnh thời khóa biểu trong quá trình tự học nhưng phải có ý chí hoàn
thành thời gian biểu đã đặt ra. Có phương pháp học tập khoa học trên lớp. Trước khi lên lớp
các bạn sinh viên nên giành thời gian tự học ở nhà, đọc giáo trình trước mỗi tiết học để có
thể nắm rõ bản thân sẽ học gì vào hôm nay để có sự chuẩn bị tốt nhất. Lên lớp, các bạn sinh
viên không nên chỉ chép bài mà còn cần lắng nghe sự giải thích từ giảng viên, nó sẽ giúp bạn
có cái nhìn từ nhiều khía cạnh khác nhau để nắm rõ bài hơn.
Trong đào tạo theo tín chỉ, đối với sinh viên tự học là vấn đề quan trọng nhất, sinh
viên phải tự học ngay trên lớp, lên lớp là làm việc thực sự (chứ không phải đi nghe giảng, dự
giờ). Muốn tự học trên lớp có hiệu quả sinh viên phải tự đọc tài liệu trước, không chỉ đọc
giáo trình mà phải đọc tài liệu có liên quan, không phải đọc cả quyển tài liệu mà chỉ đọc
những vấn đề trực tiếp liên quan đến bài giảng. Các vấn đề liên quan đều phải được đánh
dấu lại, ghi chép lại hoặc có chỉ dẫn rõ ràng để khi cần lập tức có thể tra cứu được ngay.
Trong quá trình tiếp thu kiến thức từ phía giảng viên bạn cần phối hợp chặt chẽ giữa
các giác quan: mắt nhìn, tai nghe, tay viết. Bên cạnh đó, bạn cũng cần mạnh dạn giơ tay phát
biểu, nêu ra quan điểm của bản thân, đưa ra những câu hỏi nảy sinh trong quá trình nghe
giảng không sợ sai, giấu dốt. Như vậy sẽ giúp bạn nắm chắc bài, ngoài ra giảng viên cũng


biết được mức độ hiểu bài của sinh viên để có cách điều chỉnh việc giảng dạy cho phù hợp
hơn.
Ví dụ: Ghi lại kiến thức bằng sơ đồ tư duy để thấy được mối liên hệ giữa các kiến thức; giữa

kiến thức mới tìm được và kiến thức đã biết; biết cách tổng kết như cho ví dụ minh họa và
phản ví dụ giúp ghi nhớ và tái hiện. Biết cách tự thắc mắc và đặt câu hỏi thắc mắc với bạn
bè, thầy cô và những người am hiểu. Sau đó vận dụng kiến thức tự học vào trả lời câu hỏi đã
đặt ra. Nên tạo nhóm tự học: là điều kiện cho các thành viên trong nhóm thảo luận, trao đổi,
chia sẻ kiến thức kinh nghiệm tự học cùng nhau. Người xưa có câu:" Học thầy không tày
học bạn" không sai chút nào. Bạn học là những người đồng trang lứa nên quá trình trao đổi,
học tập trở nên dễ hiểu hơn rất nhiều. Nên trao đổi thường xuyên tài liệu tham khảo, sách,
báo, băng hình... Đây đều là những loại tài liệu tham khảo gần gũi nhưng rất hữu ích cho
việc học. Các bạn sinh viên có thể đến các hiệu sách để mua hoặc mượn tại thư viện trường.
Thư viện trường Đại học Thuỷ lợi có rất nhiều loại sách tham khảo từ trong nước đến nước
ngoài. Ngoài ra tại thư viện trường cũng có rất nhiều chỗ để các bạn sinh viên có thể đọc tại
chỗ. Bản thân tự học là yếu tố quan trọng nhưng không thể xem nhẹ vai trò của giảng viên.
Để có thể có phương pháp học tập hiệu quả cũng như có định hướng tốt nhất cho quá trình
học thì những ý kiến của giảng viên là không thể thiếu. Bên cạnh đó trong quá trình học nếu
gặp phải vấn đề không hiểu hay còn thắc mắc thì giảng viên luôn là địa chỉ tin cậy để sinh
viên tìm đến. Có thể trao đổi trực tiếp với giảng viên hoặc Thông qua gmail, điện thoại,...
Biết tiếp cận và tận dụng các công nghệ mới để học tập.Không nên lãng phí thời gian vì đây
là một trong những nguyên nhân làm sinh viên xao nhãng việc học và kết quả học tập không
như mong muốn.

Hiện nay, khoa học công nghệ đang ngày càng phát triển thì việc học không chỉ dừng
trên sách vở như trước nữa. Mỗi sinh viên hiện nay đều có cho riêng mình smartphone, iPad,
máy tính... đây đều là những thiết bị điện tử có thể giúp ích rất nhiều cho việc học. Mạng
Internet phủ sóng toàn cầu có thể giúp ta kết bạn, trao đổi kiến thức không chỉ ở phạm vi
trong nước mà còn ở phạm vi quốc tế. Đây là một cơ hội giúp sinh viên mở rộng vốn kiến


thức ra tầm quốc tế. Ngoài ra hiện nay mạng xã hội như Facebook, Zalo,... cũng là điều kiện
để sinh viên trao đổi kiến thức, tạo nhóm học tập trên mạng. Học tập căng thẳng sẽ làm cho
đầu óc bị mệt mỏi và không tiếp thu được kiến thức mới.Vì vậy, phải biết kết hợp học tập

với hoạt động giải trí để giảm bớt áp lực trong quá trình tự học. Bạn có thể nghe nhạc, chơi
game, chơi thể thao, tham gia hoạt động tập thể,...
-Về phía giảng viên
Giảng viên là người trực tiếp truyền thụ kiến thức cho sinh viên nên có tác động rất
lớn đến quá trình học tập cũng như kết quả của sinh viên. Để giúp sinh viên đạt được kết quả
cao nhất người dạy cần hướng dẫn, tổ chức để người học sinh xác định được động cơ học tập
một cách đúng đắn. Mỗi môn học lại có cách học cũng như phương pháp học tập khác nhau.
Vì vậy để sinh viên có thể nắm bắt kiến thức một cách tốt nhất khi bắt đầu dạy môn học nào
đó, giảng viên nên dành khoảng thời gian thích hợp hướng dẫn sinh viên phương pháp tự
học một cách khoa học: cách đọc hiểu tài liệu, cách phát hiện bản chất của vấn đề, cách ghi
chép, cách tổng hợp thông tin thu được, cách ghi nhớ,...
Như vậy sẽ giúp sinh viên có phương pháp học hiệu quả nhất (nhất là ở giai đoạn đầu
khi sinh viên còn chưa biết về môn học), nhưng tránh làm cho sinh viên có tư tưởng ỷ lại,
dựa dẫm vào người khác.Khi xây dựng đề cương chi tiết của môn học nên nêu rõ nội dung
nào sinh viên phải tự nghiên cứu, mục đích kiến thức cần đạt được, các tiêu chí và hình thức
đánh giá vấn đề tự nghiên cứu, giới thiệu giáo trình chính và tài liệu tham khảo cho nội dung
tự nghiên cứu. Tăng cường các hình thức dạy học nhóm, trao đổi thảo luận, nêu lên chính
kiến của mình... Điều này sẽ buộc người học phải nghiên cứu tài liệu, phân tích, mổ xẻ các
vấn đề trên nhiều khía cạnh khác nhau để có thể tham gia đóng góp hoặc tranh luận để bảo
vệ ý kiến của mình.
Qua đó kích thích quá trình tư duy, tự học của mỗi sinh viên. Trên cơ sở những nhận
xét của giảng viên, sinh viên có thể rút kinh nghiệm cho lần thảo luận sau, biết tự điều chỉnh
kiến thức của mình. Giảng viên nên có phương pháp kích thích nhu cầu, khơi gợi hứng thú
học tập cho người học thông qua tất cả các giai đoạn của tiết lên lớp.Việc kích thích nhu cầu,
khơi gợi hứng thú khám phá tri thức cho người học cần phải được thực hiện duy trì trong tất


cả các giai đoạn của tiết lên lớp. Đặt vấn đề vào bài, tổ chức lĩnh hội tri thức mới, củng cố
hướng dẫn hoạt động nối tiếp… Thay đổi phương pháp giảng dạy, cách thức tổ chức lớp học
khoa học giúp người học dễ tiếp thu bài giảng, tích cực trong giờ học. Giảng viên hướng dẫn

người học vận dụng, ứng dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống bản thân.Mục đích
của việc dạy học không chỉ dừng lại ở chỗ truyền đạt tri thức, kỹ xảo mà còn phải giúp
người học biết cách vận dụng những tri thức, kỹ năng kỹ xảo đã học được vào việc giải
quyết những vấn đề trong công việc, trong cuộc sống.Qua đó giúp người học thấy được ý
nghĩa thực tiễn và sự cần thiết của môn học.
- Về phía nhà trường
Để quá trình học tập được diễn ra một cách hiệu quả nhất nhà trường nên thường xuyên
bổ sung tài liệu tham khảo giành cho sinh viên và giảng viên. Bên cạnh đó thư viện cũng cần
bổ sung thêm các phương tiện hỗ trợ cho việc học tập. Thư viện và ký túc xá tạo môi trường
học tập lành mạnh sẽ giúp cho sinh viên không bị phân tâm bởi các yếu tố ngoại cảnh làm
tăng năng suất và hiệu quả học tập.
Cố vấn học tập là những người gần gũi với sinh viên của lớp mình nhất. Vì vậy cần tăng
cường hoạt động của đội ngũ cố vấn học tập giúp sinh viên giải đáp những thắc mắc trong
quá trình học tập, kiểm tra,... Sinh viên năm nhất là những học sinh cấp III vừa lên vẫn còn
cảm thấy mới mẻ với mô hình đào tạo tín chỉ. Để giúp các bạn sinh viên làm quen với hình
thức học tập mới nhà trường cần có những buổi hội thảo, các buổi hướng dẫn. Mặt khác, hội
sinh viên cần tổ chức các câu lạc bộ, các diễn đàn chia sẻ kinh nghiệm tự học của sinh viên.
Sinh viên khoá trên là những người đã có thời gian làm quen và có hình thức học tập hiệu
quả, đây sẽ là cơ hội để sinh viên khóa trên có thể trao đổi kinh nghiệm cho các sinh viên
khoá dưới. Sinh viên cùng nhau chia sẻ, cùng nhau tìm được phương pháp học tập cho riêng
mình để học tập tốt hơn.
Nhà trường nên tổ chức Hội thảo khoa học trong đó nội dung bàn về mối quan hệ giảng
dạy của giảng viên theo phương thức đào tạo theo học tín chỉ với sự hình thành các kĩ năng
tự học của sinh viên.


PHẦN 3: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
3.1. Kết luận
Trước sự phát triển của khoa học công nghệ và nền tri thức hiện nay không chỉ làm đảo
lộn quá trình sản xuất của xã hội mà còn chuyển cả nội dung, phương pháp và quá trìnhđào

tạo ở mọi cấp học trong nền giáo dục các nước, trong đó có Việt Nam. Vì thế mô hình, nội
dung và phương pháp giáo dục truyền thống “Học một lần để có kiến thức sử dụng suốt đời”
bị phá vỡ và không còn phù hợp nữa, cho nên các trường đại học phải chuyển đối sang hình
thức đào tạo mới theo hệ thống tín chỉ là một điều tất yếu.
Trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ, việc tự học, tự nghiên cứu của sinh viên có tầm
quan trọng đặc biệt, nó không chỉ góp phần hoàn thiện kiến thức bài học, chương trình đào
tạo mà còn quyết định chất lương đầu ra cho sinh viên, tạo lập thương hiệu của trường để
đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của xã hội. GS Cao Xuân Hạo đã nói: “…dù có học trường gì, thầy
nào nổi tiếng đến đâu chăng nữa thì nhân tố quan trọng nhất, quyết định kết quả mỹ mãn của
quá trình đào tạo vẫn là cái công tự học của học trò. Tự học ở đây chỉ là cái phần tích cực
chủ động, quyết đoán của người học, tuy vai trò của người dạy không phải là không quan
trọng.
Nhưng qua cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và điều tra khảo sát trình bày trong các
phần trên chúng tôi đưa ra một số kết luận như sau :
Đối với sinh viên nói chung, sinh viên khoa Kinh tế và Quản lý trường Đại học Thủy
Lợi nói riêng thì tự học đóng vai trò rất quan trọng trong việc lĩnh hội và cũng cố kiến thức,
góp phần nâng cao kết quả học tập của sinh viên.
Hiện nay , đa số các sinh viên đại học Thủy lợi đều nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng
của việc tự học đối với sinh viên.Tuy nhiên trên cơ sở thực tế thì mới chỉ dừng lại ở việc
nhận thức, sinh viên chưa có kĩ năng tự học, chưa dành nhiều thời gian cho việc tự học. Sinh
viên còn thiếu chủ động trong việc xây dựng bài, sợ sai, hay giấu dốt khi trao đổi với giảng
viên, bạn bè về những kiến thức, vấn đề về học tập. Sinh viên còn chưa biết lựa chọn tài liệu


×