Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

tiểu luận: VẤN ĐỀ ĐÀI LOAN TRONG MỐI QUAN HỆ TRUNGMỸ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (636.34 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
KHOA LỊCH SỬ

***
Bài tiểu luận
LỊCH SỬ QUAN HỆ QUỐC TẾ
SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI
ĐỀ TÀI:

VẤN ĐỀ ĐÀI LOAN TRONG
MỐI QUAN HỆ TRUNG-MỸ
Họ và tên: Nguyễn Vũ Minh Trâm
MSSV: k38.608.030
Lớp: QTH k38B


I.

Khái quát về đất nước Trung Quốc :

Tên nước: Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (The People’s Republic of China)
Thủ đô: Bắc Kinh
Ngày quốc khánh: 01-10-1949.
Vị trí địa lý: Trung Quốc nằm ở phần nửa phía bắc của Đông bán cầu, phía đông nam
của đại lục Á – Âu, phía đông và giữa châu Á, phía Tây của Thái Bình Dương; có
biên giới chung với Nga, Mông Cổ (phía bắc), với Kazakstan, Kirghistan, Taghikistan
(phía tây), với Afghanistan, Pakistan, Ấn Độ, Nê Pan, Bu Tan (phía tây nam), với
Myanma, Lào, Việt Nam (phía nam), với Triều Tiên (phía đông).
Diện tích: 9,6 triệu km2
Khí hậu: Trung Quốc thuộc khu vực gió mùa, khí hậu đa dạng từ ấm đến khô. Nhiệt


độ trung bình toàn quốc tháng 1 là -4,70C, tháng 7 là 260C. Ba khu vực được coi là
nóng nhất là Nam Kinh, Vũ Hán, Trùng Khánh. phức tạp , đa dạng, đa số nằm trong
khu vực bắc ôn đới, thuộc khí hậu gió mùa lục địa, đa số các vùng có bốn mùa rõ rệt,


mùa đông lạnh giá, mùa hè nóng nực. Do đất nước rộng lớn, địa hình phức tạp, độ cao
chênh lệch lớn nên khí hậu cũng đa dạng theo. Từ nam lên bắc lần lượt là các vùng
nhiệt đới, á nhiệt đới, trung ôn đới, hàn ôn đới,, Còn khí hậu vùng cao nguyện Thanh
Tạng là vùng khí hậu theo đường thẳng đứng. Đặc diểm khí hậu Trung Quốc là về
mùa đông đa sốcác vùng lạnh giá, khí hậu miền Nam Bắc chênh lệch rõ rệt. Về mùa
hè do ánh mặt trời chiếu thẳng xuống bắc bán cầu nên miền Bắc ngày dài hơn, về mùa
đông mặt trời chiếu tới 2 miền Nam Bắc nên ngày gần như nhau. Trừ vùng cao
nguyên Thanh Tạng có địa hình quá cao ra, cả nước đều nóng ấm, khí hậu chênh lệch
không nhiều.
Đa số các vùng do ảnh huởng dòng khí vùng biển ẩm, thổi vào lục địa nên mưa nhiều,
nhưng lượng mưa giữa các vùng và các mùa không đều nhau. Miền Đông mưa nhiều,
miền Tây ít. Từ ĐôngNamtới Tây Bắc lượng mưa giảm dần đồng thời mưa nhiều vào
mùa hạ. MiềnNammùa mưa kéo dài từ tháng 5 tới tháng 10. Miền Bắc múa mưa ngắn,
tập trung vào tháng 7, tháng 8.
Dân số: hơn 1,34 tỷ người (tính đến 4/2011).
Dân Tộc: Trung Quốc là quốc gia đa dân tộc với 56 dân tộc được chính thức công,
trong đó dân tộc Hán là chủ yếu (chiếm 93% dân số), ngoài ra còn có 55 dân tộc ít
người (chiếm 7% dân số cả nước và phân bổ trên 50-60% diện tích toàn quốc).
Hành chính: 31 tỉnh, thành phố gồm 22 tỉnh, 5 khu tự trị và 4 thành phố trực thuộc
trung ương. 4 cấp hành chính gồm tỉnh, địa khu, huyện, xã. Thủ đô: Bắc Kinh.
Tôn giáo: Có 4 tôn giáo chính là Phật giáo, Đạo giáo, Đạo Hồi, Thiên chúa giáo.
Ngôn ngữ: Tiếng Hán là tiếng phổ thông, lấy âm Bắc Kinh làm tiêu chuẩn.
Văn Hóa Trung Quốc:
Văn hoá Trung Quốc chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các tư tưởng đạo Phật – tôn giáo
chính thức ở đất nước này và từ nền sản xuất phụ thuộc vào nguồn nước. Có thể thấy

rõ hai điểm trên qua các ngày lễ hội. Trong văn hoá ứng xử, người Thái tỏ rõ sự sùng
đạo, tôn kính hoàng gia và trọng thứ bậc cũng như tuổi tác.
Kinh Tế Trung Quốc:
Đây là nền kinh tế lớn thứ 3 trên thế giới nếu tính theo Tổng sản phẩm quốc
nội(GDP) danh nghĩa. GDP Trung Quốc năm 2008 là 4,42 nghìn tỷ USD. GDP bình
quân đầu người danh nghĩa năm 2007 là 2.660 USD (5.300 USD nếu tính theo sức
mua tương đương (PPP), vẫn còn thấp so với rất nhiều nền kinh tế khác trên thế giới
(thứ 104 trên 183 quốc gia năm 2007). Trong những năm gần đây, GDP bình quân


đầu người Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tăng lên nhanh chóng nhờ tốc độ tăng
trưởng kinh tế ổn định ở mức cao. Năm 2005, 70% GDP của Trung Quốc là trong khu
vực tư nhân. Khu vực kinh tế quốc doanh chịu sự chi phối của khoảng 200 doanh
nghiệp quốc doanh lớn, phần nhiều ở trong các ngành dịch vụ tiện ích (điện, nước,
điện thoại…), công nghiệp nặng, và nguồn năng lượng.
Giao dịch thương mại giữa các nước Châu Á và Trung Quốc ngày phát triển, đóng vai
trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế ở khu vực. Trong xu hướng hội nhập quốc tế
hiện nay, văn hoá phương Đông lại càng được nghiên cứu nhiều hơn và việc học tiếng
Trung là công cụ tốt nhất để bắt đầu tìm hiểu về văn hoá phương Đông. Trung Quốc:
nơi bạn có thể du học bằng tiếng Trung với chất lượng giáo dục cao, ngành nghề đào
tạo rất đa dạng và phù hợp với nhiều trình độ, thủ tục du học rất đơn giản, chi phí
thấp.
Giáo dục
Trung Quốc từ lâu được biết đến là một trong những nước có nền văn hoá đồ sộ và
lâu đời nhất thế giới. Giờ đây, Trung Quốc lại được nhiều người biết đến như một nền
kinh tế và kỹ thuật trên đà phát triển mạnh mẽ và một nền giáo dục và đào tạo chất
lượng cao và thực sự thiết thực với tình hình phát triển kinh tế và xã hội của Việt
Nam. Do đó, ngày càng nhiều học sinh – sinh viên Việt Nam đến du học tại Trung
Quốc.
Giáo dục Trung Quốc được chia thành các cấp học như sau:

- Mẫu giáo: 3 năm
- Bậc tiểu học: 6 năm
- Bậc trung học cơ sở: 3 năm
- Bậc trung học phổ thông: 3 năm
- Cao đẳng và đại học: 4-5 năm
- Cao học: 2-3 năm
- Tiến sỹ: 3 năm
Ngôn ngữ: Tiếng Hán là tiếng phổ thông, lấy âm Bắc Kinh làm tiêu chuẩn


II.

Khái quát về nước Mỹ:

Tên nước: Hợp chúng quốc Hoa Kỳ (United States of America).
Ngày quốc khánh:04-07-1776.
Vị trí địa lý: Hoa Kỳ nằm ở Bắc Mỹ, phía đông là Bắc Đại tây dương, phía tây là Bắc
Thái bình dương, phía bắc tiếp giáp với Canada, và phía nam tiếp giáp với Mêhicô.
Tổng diện tích: 9.629.091 km2 chiếm 6,2% diện tích toàn cầu, trong đó diện tích đất
đai là 9.158.960 km2 và diện tích mặt nước là 470.131 km2. Diện tích Hoa Kỳ bằng
nửa Nga; bằng khoảng 3/10 Châu Phi; bằng khoảng nửa Nam Mỹ; rộng hơn Trung
Quốc không đáng kể; và lớn hơn Tây Âu khoảng 2,5 lần.
Dân số: hơn 311 triệu người (tính đến tháng 4/2011).
Sắc tộc: Người da trắng 77,1%, người da đen 12,9%, người Châu Á 4,2%, còn lại là
thổ dân và các dân tộc khác. Khoảng 30% dân số Hoa Kỳ là người nhập cư. Hiện nay,
hàng năm Hoa Kỳ có khoảng 1 triệu người nhập cư.
Hành chính: Mỹ gồm có 50 tiểu bang và một đặc khu liên bang.
Thủ đô: Thủ đô của Mỹ hiện nay là Washington D.C.



Tôn giáo: rất đa dạng như Kito giáo (chiếm 76%), Do Thái giáo, Hồi giáo, Phật giáo,
Ấn Độ giáo…
Ngôn ngữ: Tiếng Anh..
Lịch sử: Hoa Kỳ tách ra khỏi khối thuộc địa Anh năm 1776 và được công nhận là một
quốc gia độc lập sau khi Anh và Hoa Kỳ ký Hiệp ước Paris năm 1783. Khi mới thành
lập, Hoa Kỳ chỉ có 13 bang. Hiện nay, Hoa Kỳ có 50 bang và 5 khu hành chính trực
thuộc gồm thủ đô Washington D.C., Samoa, Guam, Virgin Islands và Puerto Rico.
Chính vì thế quốc kỳ của Hoa Kỳ hiện nay có 50 ngôi sao đại diện cho 50 Bang và 13
vạch trắng và đỏ tượng trưng cho 13 thuộc địa Anh đã tuyên bố độc lập và trở thành
13 Bang đầu tiên của nước này.
Hoa Kỳ là nước có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh nhất thế giới hiện nay. Những sự
kiện đáng ghi nhớ nhất trong lịch sử Hoa Kỳ là cuộc Nội chiến Bắc - Nam ( 1861 1865), Đại suy thóai kinh tế trong những năm 30, thất bại trong chiến tranh ở Việt
Nam, và vụ khủng bố 11/9 năm 2001.
Thủ đô: Thủ đô Hoa Kỳ hiện nay là Washington D.C (Washington là họ của Tổng
thống đầu tiên của Hoa Kỳ là George Washington, và DC là viết tắt của The District
of Columbia - tên trước đây của vùng đất này). WashingtonDC có diện tích 176 Km2
và khoảng gần 600 nghìn dân. Ngân sách Thủ đô do Quốc hội Liên bang phê chuẩn,
trong đó nguồn cấp từ ngân sách liên bang chiếm phần quan trọng.

III. Khái quát mối quan hệ Trung – Mỹ:
Đây là mội mối quan hệ đặc biệt quan trọng, không chỉ trong khu vực mà còn dần trở
thành mối quan hệ mang tính toàn cầu khác với quan hệ Nhật - Mỹ là quan hệ đồng
minh mang tính chuyên nghiệp và đã là truyền thống. Quan hệ Trung - Mỹ rất phức
tạp, được chuyển từ trạng thái đối đầu đối địch thời kì Chiến tranh lạnh sang trạng
thái vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vừa can dự vừa kiềm chế ở giai đoạn hiện nay.
Có thể thấy sức mạnh của Trung Quốc là nằm trong sức mạnh tổng hợp ngày càng
phát triển không ngừng, là thế của nước lớn nhất, nhì châu Á và là thành viên thường
trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Những thành công về kinh tế mà Trung
Quốc đã đạt được nhờ chính sách mở cửa và hiện đại hóa trong những thập niên gần
đây đã làm cho đất nước khổng lồ này ngày càng khẳng định vị thế của mình. GDP

của Trung Quốc năm 2004 đạt 651,5 tỉ nhân dân tệ (NDT), (tương đương 1,665 tỉ
USD). Hiện nay, GDP của Trung Quốc chiếm 13% GDP toàn cầu, (của Mỹ là 24%),


tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt được 9% (Mỹ là 4,5%)1. Trung Quốc
là nước thúc đẩy lớn nhất nền kinh tế Đông Á.
Quan hệ Trung – Mỹ luôn trải qua những thăng trầm, dzích dzắc. Đầu thế kỉ mới, khi
chính quyền Bush (cha) mới lên thì ý tưởng về quan hệ đối tác chiến lược với Trung
Quốc từng được bàn luận. Đến thời Tổng thống Bill Clintơn thì bị gạt ra ngoài. Chính
quyền Bush (con) chủ trương thực hiện một chính sách khắt khe với Trung Quốc, coi
Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh và là một đe dọa tiềm tàng đối với Mỹ ở khu vực
châu Á - Thái Bình Dương. Tuy nhiên, thái độ đó được thay đổi sau vụ đụng độ máy
bay giữa hai bên vào tháng 4 - 2001 và đặc biệt là sau sự kiện khủng bố ở Mỹ ngày 11
- 9 - 2001. Tổng thống Bush chủ trương xây dựng mối quan hệ mang tính xây dựng
và hợp tác với Trung Quốc. Quan hệ Trung – Mỹ do đó được cải thiện rất nhiều.
Có thể thấy rõ một điều là Mỹ và trung Quốc rất cần đến nhau. Trung Quốc cần từ Mỹ
nhiều thứ như vốn, công nghệ, kỹ thuật, đồng thời, Trung Quốc muốn hóa giải từng
bước sự phong tỏa của Mỹ. Còn Mỹ cần Trung Quốc hợp tác, ủng hộ chống chủ nghĩa
khủng bố trên phạm vi toàn thế giới, phối hợp với Mỹ trong các vấn đề quốc tế, đặc
biệt trong lĩnh vực kinh tế. Các quan hệ mua bán, kinh doanh đối với Trung Quốc là
những mối lợi khổng lồ đối với Mỹ.
Tuy cần đến nhau, song hai nước cũng có nhiều mâu thuẫn. Thế bao vây mà Mỹ tạo
ra là 3 vòng cung khép kín với trung Quốc (1. Đông Bắc Á - Đông Nam Á - Thái
Bình Dương, 2. Ngoài khơi – đảo Guam, 3. Hawai). Mâu thuẫn đặc biệt phức tạp là
trong vấn đề Đài Loan. Như đã nói, Trung Quốc là một nước lớn nên Trung Quốc
không thể cam lòng chịu cảnh đất nước chưa được thống nhất. Hơn nữa, Trung Quốc
có rất nhiều lợi ích đối với Đài Loan. Chiếm được nó là chiếm được lối ra vào, nơi
qua lại của nhiều loại tàu biển, kiểm soát được việc cung cấp dầu lửa cho Nhật Bản,
sở hữu được các phương tiện vũ khí hiện đại mà phương Tây cấp cho Đài Loan, mang
lại cho Trung Quốc sức nặng kinh tế và tiềm năng quân sự của khu vực đó. Chính vì

thế, không để mất Đài Loan là vấn đề sống còn đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc.
Trong khi đó, việc thống nhất đất nước của Trung Quốc sẽ rất khó khăn một khi đứng
sau Đài Loan vẫn còn có Mỹ và Nhật Bản.
Với cơ sở phân tích trên, có thể khẳng định rằng, mặc dù có lúc hòa dịu, song quan hệ
Trung – Mỹ vẫn luôn luôn chứa đựng các mâu thuẫn tiềm tàng. Giải quyết mâu thuẫn
đó như thế nào sẽ luôn tác động trực tiếp tới toàn bộ cục diện chính trị và an ninh của
khu vực Đông Bắc Á nói riêng cũng như toàn bộ châu Á - Thái Bình Dương.
1

Kinh tế thế giới, số 15/2005, ngày 10-4-2005, trang 6.


Nhìn lại gần ½ thế kỉ quan hệ Trung - Mỹ có thể thấy mối quan hệ này lên xuống thất
thường và đầy mâu thuẫn. Thời đại ngày nay, thương lượng hòa bình là con đường duy
nhất để giải quyết mâu thuẫn giữa các nước. Điều này lại càng đúng dối với quan hệ
Trung- Mỹ. Nhà báo Mỹ Walter Lippmann đã từng nói rằng “Mỹ là con cá voi còn Trung
Quốc là con voi”. Cá voi không làm gì được voi và ngược lại voi cũng không làm được gì
cá voi. Hơn nữa sau cuộc đụng độ ở Triều Tiên các nhà lãnh đạo Mỹ đã rút ra kết luận là
chớ nen lao vào một cuộc chiến tranh trên lục địa châu Á với Trung Quốc. Do vậy không
có con đường nào khác là cùng tồn tại hòa bình thông qua đàm phán hòa bình. Có hàng
trăm vấn đề mà hai bên cần đàm phán với nhau nhưng trước hết theo báo chí Mỹ thì hai
bên có thể tập trung vào mấy vấn đề lớn sau đây:
a. Trách nhiệm của Mỹ và Trung Quốc là hai hội viên thường trực của Hội đồng bảo an
Liên Hợp Quốc đối với việc duy trì một trật tự quốc tế ổn định.
b. Trách nhiệm của Mỹ và Trung Quốc là hai nền kinh tế lớn nhất thế giới trong thế kỷ
tới đối với sự phồn vinh và ổn định của nền kinh tế và thương mại thế giới.
c. Sự hợp tác giữa Mỹ và Trung Quốc để cải thiện môi trường thế giới do hậu quả quá
trình công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh của Trung Quốc gây ra.
d. Trung Quốc và Mỹ phải làm gì để duy trì sự ổn định về chiến lược ở châu Á cụ thể là
làm sao để Nhật không thấy an ninh của mình bị đe dọa, việc làm cho Nga trở thành một

nhân tố đóng góp vào nền an ninh và ổn định của khu vực và vai trò của Mỹ trong việc
giúp giải quyết hòa bình các tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc với các nước láng
giềng.
e. Sự phối hợp giữa Mỹ và Trung Quốc nhằm làm giảm căng thẳng và ngăn ngừa chiến
tranh ở các điểm nong như Triều Tiên, Vịnh Ba Tư, Nam Á…
f. Hai bên phải làm gì để ngăn chặn việc phổ biến vũ khí giết người hàng loạt và hạn chế
việc chuyển giao vũ khí cho các nước nằm trong khu vực nóng bỏng.
g. Vấn đề ngăn chặn việc buôn bán ma túy.
h. Vấn đề nhân quyền.
i. Vấn đề Đài Loan.
Em xin trình bày VẤN ĐỀ ĐÀI LOAN TRONG QUAN HỆ TRUNG – MỸ vì: sở dĩ em
chọn vấn đề này do đây là trở ngại hàng đầu trong gần 50 năm qua nó là nhân tố khiến
cho quan hệ Trung- Mỹ không bao giờ êm thấm. Năm 1972 sau khi gặp tổng thống
Nixon, chủ tịch Mao Trạch Đông nói: Vấn đề Đài Loan là vấn đề nhỏ, vấn đề thế giới


mới là vấn đề lớn. Vấn đề Đài Loan có thể hoãn sau 100 năm. Mao Trạch Đông nói như
vậy là vì lúc đó địa thế của Trung Quốc còn thấp, chính quyền thế giới do hai siêu cường
thao túng. Ngày nay tình hình đã thay đổi, Liên Xô đã tan rã. Trong 20,30 năm tới Trung
Quốc sẽ trở thành một cường quốc thế giới có nền kinh tế lớn nhất, và sau khi đã lấy lại
Hồng Kông và Ma Cao, liệu Trung Quốc có chịu để cho một bộ phận đất đai của mình
tiếp tục bị chia cắt do có sự can thiệp của nước ngoài hay không? Mặt khác trong 20-30
năm tới, thế hệ lãnh đạo mới ở Đài Loan hoặc gồm những người có gốc ở lục địa nhưng
sinh tại Đài Loan hoặc những người chính gốc Đài Loan. Việc mong muốn thống nhất
với lục địa sẽ không còn mặn mà như hiện nay. Nhưng cái khó trong vấn đề Đài Loan là
ở chỗ Mỹ đã biến nó thành vấn đề của Mỹ, phải xử lý theo luật của Mỹ, tức là “đạo luật
về quan hệ với Đài Loan” do quốc hội Mỹ thông qua năm 1979 khi Trung- Mỹ lập quan
hệ ngoại giao.
 Chính sách của Mỹ trong quan hệ với Trung Quốc:
Một mặt, Mỹ tìm cách hạn chế, mặt khác vẫn chú trọng tăng cường hợp tác.

Khi tiếp nhận chức Tổng thống Mỹ, Bush đã thực hiện một chính sách cứng rắn hơn so
với các Tổng thống tiền nhiệm. Tuy vậy, sau sự kiện 11-9-2001, Mỹ đã có những điều
chỉnh, chính quyền Mỹ nhận thấy khả năng hợp tác song phương với Trung Quốc trong
vấn đề chống khủng bố toàn cầu. Chính vì vậy, trong chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ
sau sự kiện 11-9 đã xác định quan hệ Trung - Mỹ là một phần quan trọng trong chiến
lược của Mỹ nhằm thúc đẩy một châu Á hướng tới thịnh vượng, hòa bình, ổn định. Mỹ
hoan nghênh sự phát triển của Trung Quốc và mong muốn có một mối quan hệ mang tính
xây dựng với Trung Quốc. Trong hoạt động thực tế, hai quốc gia đã có sự phối hợp giải
quyết các vấn đề khi lợi ích song trùng như chống khủng bố, vấn đề Afganishtan, vấn đề
dịch bệnh và môi trường,...
Tuy nhiên, giữa Mỹ và Trung Quốc vẫn còn không ít mâu thuẫn, như cam kết của Mỹ về
khả năng tự vệ của Đài Loan theo đạo luật quan hệ với Đài Loan, vấn đề nhân
quyền,...Hơn nữa, do sự gia tăng tiềm lực của Trung Quốc và Trung Quốc trên thực tế
ngày càng thâm nhập sâu hơn vào các khu vực và các lĩnh vực trước đây vốn thuộc ảnh
hưởng của Mỹ, cũng như do chính sách ngoại giao, tìm kiếm thị trường và nguồn cung
cấp tài nguyên, năng lượng không chỉ triển khai ở châu Á mà ở khắp nơi trên thế giới
càng làm cho Mỹ phải tính toán và dè chừng.
Song cũng thấy rằng những điều đó làm Mỹ cảnh giác hơn chứ không tác động mạnh đến
chiều hướng chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc. Mỹ vẫn rất cứng rắn về vần đề Đài
Loan song cũng đủ mềm mại để không phá vỡ hiện trạng quan hệ chính trị Mỹ - Trung.


Chính sách này không chỉ được quyết định bởi lợi ích của Mỹ hay bản thân của Mỹ và
Trung Quốc mà còn chịu sự tác động qui định của bối cảnh tương quan sức lực hiện tại
giữa các trung tâm quyền lực. Chính vì vậy, Mỹ cũng xác định không nên đối kháng với
Trung Quốc và trong chính sách đối ngoại đã xem Trung Quốc là người tham gia có trách
nhiệm “trong các công việc quốc tế”. Điều này chắc chắn tạo điều kiện cho các quan hệ
hợp tác khu vực phát triển mạnh hơn.

IV.


Vấn đề Đài Loan

1. Ngọn nguồn của vấn đề Đài Loan:
Đài Loan là một hòn đảo ở khu vực Đông Á, ngoài khơi đông nam Đại Lục Trung Quốc,
phía nam Nhật Bản, phía bắc Philippine. Từ “Đài Loan” cũng được dùng để chỉ lãnh thổ
do nhà nước Trung Hoa Dân Quốc quản lí, bao gồm các đảo Đài Loan (Lan Tự và Lục
Đảo), quân đảo Bành Hồ tại eo biển Đài Loan, Kim Môn và Mã Tổ ở ngoài khơi Phúc
Kiến.
Sau cuô ̣c chiế n tranh thế giới lầ n thứ 2, về mă ̣t pháp luâ ̣t lẫn sự thâ ̣t lich
̣ sử , Đài Loan đã
đươ ̣c trả la ̣i cho Trung Quố c . Sở di ̃ la ̣i xuấ t hiê ̣n vấ n đề Đà i Loan là do Quố c dân đảng
Trung Quố c mở cuô ̣c nô ̣i chiế n , nhưng quan tro ̣ng hơn là do sự can thiê ̣p của thế lực
nước ngoài.
Trong thời kỳ Trung Quố c chố ng la ̣i quân xâm lươ ̣c Nhâ ̣t , Quố c dân đảng Trung Quố c và
Đảng cô ̣ng sản Trung Quố c đã xây dựng mă ̣t trâ ̣n thố ng nhấ t dân tô ̣c chố ng Nhâ ̣t để
chố ng la ̣i cuô ̣c xâm lươ ̣c của chủ nghiã đế quố c Nhâ ̣t . Sau khi cuô ̣c chiế n tranh chố ng
Nhâ ̣t giành đươ ̣c thắ ng lơ ̣i, tâ ̣p đoàn Quố c dân đảng do Tưởng Giới Tha ̣ch cầ m đầ u dựa
vào ủng hộ của Mỹ, mở cuô ̣c nô ̣i chiế n trong pha ̣m vi toàn quố c . Đảng cô ̣ng sản Trung
Quố c lañ h đa ̣o nhân dân Trung Quố c tiế n hành cuô ̣c chiế n tranh giải phóng trong hơn 3
năm. Do đi ngươ ̣c la ̣i lơ ̣i ích dân tô ̣c, tâ ̣p đoàn Quố c dân đảng lúc đó đã bi ̣nhân dân các
dân tô ̣c Trung Quố c phỉ nhổ , cuố i cùng chin
́ h phủ “Trung Hoa dân quố c” của Quố c dân
đảng bi ̣lâ ̣t đổ . Ngày 1 tháng 10 năm 1949, Nước cô ̣ng hoà nhân dân Trung Hoa thành
lâ ̣p, trở thành chính phủ hơ ̣p pháp duy nhấ t của Trung Quố c . Mô ̣t bô ̣ phâ ̣n nhân viên quân
chính của tập đoàn Quốc dân đảng rút lui sang Đài Loan . Dưới sự ủng hô ̣ của chin
́ h phủ
Mỹ lúc đó, chúng duy trì sự thống trị ở Đài Loan, nên hin
̀ h thành tra ̣ng thái đất liền và
Đài Loan bi ̣chia cắ t ở hai bờ eo biể n .

Sau cuô ̣c chiế n tranh thế giới lầ n thứ 2, trong cu ̣c diê ̣n hai mă ̣t trâ ̣n ở phương Đông và
phương Tây chố ng cho ̣i nhau, xét từ cái gọi là chiến lược toàn cầu và lợi ích nước mình,
chính phủ Mỹ đã cho tiền, cho vũ khí và cho người mô ̣t cách không thương tiế c để ủng


hô ̣ tâ ̣p đoàn Quố c dân đảng mở cuô ̣c nô ̣i chiế n , hòng tiêu diệt Đảng cộng sản Trung
Quố c. Nhưng, cuố i cùng chính phủ Mỹ không đa ̣t đươ ̣c mu ̣c đích mong muố n của mình.
Sau khi Nước Cô ̣ng hòa nhân dân Trung Hoa thành lâ ̣p, chính phủ Mỹ áp dụng chính
sách cô lập và ngăn chặn, hơn nữa sau khi cuô ̣c chiế n tranh Triề u Tiên bùng nổ , chính
phủ Mỹ ngang nhiên dùng vũ lực can thiê ̣p vào quan hê ̣ giữa hai bờ eo biể n thuô ̣c công
viê ̣c nô ̣i bô ̣ Trung Quố c. Năm 1950, hàm đội 7 của Mỹ xâm phạm eo biển Đài Loan , và
đô ̣i hàng không 13 của Mỹ đóng tại Đài Loan. Tháng 12 năm 1954, Mỹ và nhà đương
cục Đài Loan la ̣i ký cái go ̣i là “Hiê ̣p ước phòng ngự chung”, đă ̣t tin
̉ h Đài Loan Trung
Quố c vào sự bảo hô ̣ của Mỹ . Chính sách sai lầm tiếp tục can thiệp vào công việc nội bộ
Trung Quố c của Mỹ đã gây nên cu ̣c diê ̣n chố ng cho ̣i căng t hẳ ng ở vùng eo biể n Đài Loan
trong thời gian dài. Từ đó vấ n đề Đài Loan cũng trở thành tranh chấ p quan tro ̣ng giữa hai
nước Trung - Mỹ.
Song song với sự phát triể n và thay đổ i của tin
̀ h hin
̀ h quố c tế cũng như sự phát triể n l ớn
lên của Trung Hoa mới, Mỹ bắt đầu điều chỉnh chính sách đối với Trung Quốc , nên quan
hê ̣ hai nước từng bước xuấ t hiê ̣n xu thế tan băng. Tháng 10 năm 1971, Đa ̣i hô ̣i đồ ng Liên
hơ ̣p quố c khóa 26 thông qua nghi ̣quyế t số 2758, trả lại mọi quyền lợi hợp pháp của
Nước Cô ̣ng hoà nhân dân Trung Hoa ở Liên Hợp Quố c, đồ ng thời tru ̣c xuấ t “đa ̣i biể u”
của nhà đương cục Đài Loan. Tháng 2 năm 1972, tổ ng thố ng Mỹ Ních-xơn sang thăm
Trung Quố c, sau đó hai nước Trung Quố c và Mỹ ra thông cáo chung ở Thươ ̣ng Hải .
Thông cáo chung nhấ n ma ̣nh: “Phiá Mỹ tuyên bố : Mỹ nhận thức rằng, mọi người Trung
Quố c ở hai bờ eo biể n Đài Loan đề u cho rằ ng chỉ có mô ̣t nước Trung Quố c , Đài Loan là
mô ̣t phầ n của Trung Quố c. Chính phủ Mỹ không có ý kiến khác về lập trường này .”

Tháng 12 năm 1978, chính phủ Mỹ chấp nhận ba nguyên tắc về đặt quan hệ ngoại giao
do chính phủ Trung Quố c nêu ra, tức là: Mỹ cắt đứt quan hệ ngoại giao với nhà đương
cục Đài Loan, phế bỏ “Hiê ̣p ước phòng ngự chung”, và rút quân khỏi Đài Loan. Ngày 1
tháng 1 năm 1979, hai nước Trung Mỹ chin
́ h thức đă ̣t quan hê ̣ ngoa ̣i giao . Thông cáo
chung về Trung Mỹ đă ̣t quan hê ̣ ngoa ̣i giao tuyên bố r ằng: “Hơ ̣p chủng quố c Hoa Kỳ thừa
nhâ ̣n chin
́ h phủ Nước Cô ̣ng hoà nhân dân Trung Hoa là chin
́ h phủ hơ ̣p pháp duy nhấ t của
Trung Quố c. Trong khuôn khổ này , nhân dân Mỹ sẽ chỉ duy trì quan hê ̣ văn hóa , thương
mại và các liên hệ phi chính phủ với nhân dân Đài Loan”; “ Chính phủ Hơ ̣p chủng quố c
Hoa Kỳ thừa nhâ ̣n lâ ̣p trường của Trung Quố c , tức là chỉ có mô ̣t nước Trung Quố c , Đài
Loan là mô ̣t phầ n của Trung Quố c”.
Nhưng điề u đáng tiế c là, chỉ sau 3 tháng Trung Quố c và Mỹ đă ̣t quan hê ̣ ngoa ̣i giao , Quố c
hô ̣i Mỹ la ̣i thông qua cái go ̣i là “Luâ ̣t về quan hê ̣ với Đài Loan” , và được tổng thống Mỹ
ký và bắt đầu có hiệu lực. Bằ ng hình thức lâ ̣p pháp trong nước Mỹ , “Luâ ̣t về quan hê ̣ với


Đài Loan” này đã làm trái ngươ ̣c quy đinh
̣ trong Thông cáo chung về Trung Mỹ đă ̣t quan
hê ̣ ngoa ̣i giao và nguyên tắ c Luâ ̣t quố c tế . Theo Luâ ̣t về quan hê ̣ này , chính phủ Mỹ tiếp
tục bán vũ khí cho Đài Loan và can thiệp vào công v iê ̣c nô ̣i bô ̣ của Trung Quố c , ngăn
chă ̣n Trung Quố c thực hiê ̣n sự nghiê ̣p thố ng nhấ t đấ t nước.
Để giải quyế t vấ n đề Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan , chính phủ hai nước Trung Quốc và
Mỹ thông qua đàm phán, đi đế n hiê ̣p đinh
̣ vào ngà y 17 tháng 8 năm 1982, ra Thông cáo
chung thứ 3 về quan hê ̣ Trung-Mỹ, gọi tắt là “Thông cáo ngày 17 tháng 8”. Trong thông
cáo, chính phủ Mỹ tuyên bố, Mỹ không tìm kiếm chính sách bán vũ khí cho Đài Loan
trong thời gian dài; về tính năng và số lượng vũ khí bán cho Đài Loan sẽ không vượt quá
mức đô ̣ cung ứng trong mấ y năm gầ n đây sau khi Trung Quố c và Mỹ đă ̣t quan hê ̣ ngoa ̣i

giao, đồ ng thời chuẩ n bi ̣giảm dầ n số lươ ̣ng vũ khí bán cho Đài Loan, và giải quyế t cuố i
cùng vấn đề này sau một thời gian. Thế nhưng, trong thời gian khá lâu, chính phủ Mỹ
không những không thực hiê ̣n nghiêm chỉnh quy đinh
̣ trong Thông cáo , mà còn không
ngừng có những hành đô ̣ng trái với Thông cáo chung. Tháng 9 năm 1992, chính phủ Mỹ
thâ ̣m chí quyế t đinh
̣ bán 150 chiế c máy bay chiế n đấ u F -16 với tin
́ h năng cao cho Đài
Loan. Hành động này của chính phủ Mỹ đã tăng chướng ngại và sức cản mới cho việc
phát triển quan hệ Trung-Mỹ và giải quyết vấn đề Đài Loan .
Xét từ những điều nói trên, chính phủ Mỹ phải chịu trách nhiệm trước việc vấn đề Đài
Loan cho đế n bây giờ vẫn chưa đươ ̣c giải quyế t .
2. Vấn đề Đài Loan trong quan hệ Trung – Mỹ:
Sau thất bại của Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đầu hàng đồng
minh, quân đội Trung Hoa Dân Quốc chấp nhận sự đầu hàng của quân đồn trú Nhật tai
đây. Đài Loan được tuyên bố nhượng lại cho Trung Hoa Dân Quốc ngày 25-10-1945,
Trung Quốc gọi đây là “Ngày trao lại Đài Loan”, dù những đề xuất về Đài Loan độc lập
đặt vấn đề về tính pháp lý của tuyên bố đó, cho rằng tuyên bố được đưa ra mà không có
một hiệp ước hòa bình chính thức chuyển giao chủ quyền. Trung Hoa dân quốc bắt đầu
cai quản Đài Loan với một bộ máy quản lý dân sự tham nhũng, dẫn tới tình trạng bất ổn
khắp nơi và căng thẳng gia tăng giữa người Đài Loan và người từ Đại Lục đến. Vụ bắt
giữ một người bán thuốc là và bắn vào một người gần đó ngày 28-2-1947 đã châm ngòi
cho một cuộc bạo loạn trên toàn bộ hòn đảo, cuộc bạo loạn bị dập tắt bằng bạo lực và
được gọi là vụ 282. Điều này lên đến cực điểm trong một chuỗi các xung đột ác liệt giữa
quân Trung Hoa Dân Quốc và người Đài Loan, gồm 282 vụ việc với ước tính khoảng
10.000 – 30.000 người dân thường đã bị quân đội Trung Hoa Dân Quốc hành quyết trong
“Bạch sắc khủng bố”. Năm 1948, chính quyền Đài Loan tuyên bố “thiết quân luật”.


Sau khi Quốc Dân Đảng bị đánh bại năm 1949, Tưởng Giới Thạch dời chính phủ Trung

Hoa Dân Quốc tới Đài Loan và tuyên bố Đài Bắc là Thủ đô lâm thời của Trung Quốc.
Theo cùng cuộc rút lui của ông là hai triệu người tị nạn từ lục địa Trung Quốc, thêm vào
với dân số khoảng sáu triệu người đã sống ở hòn đảo trước đó.
Ban đầu, Hoa Kỳ bỏ rơi Quốc Dân Đảng và chờ đợi việc Đài Loan rơi vào tay những
người Cộng sản. Tuy nhiên, năm 1950 cuộc xung đột giữa Bắc và Nam Triều Tiên đã bắt
đầu xảy ra từ khi quân Nhật rút đi năm 1945, leo thang thành một cuộc chiến tranh toàn
diện, và trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Trumanmột lần
nữa can thiệp và phái Hạm đội 7tới Eo biểnĐài Loan ngăn cách đảo Đài Loan và Hoa
Lục, nhằm đề phòng một cuộc xung đột có thể xảy ra giữa Đài Loan và Trung Quốc.
Chính sách này gọi là "trung lập hóa Đài Loan". Không đầy hai tháng sau, Truman chấp
thuận lập quan hệ quân sự với Đài Loan và chuyển cho chính phủ Quốc dân đảng 14 triệu
USD viện trợ quân sự và 98 triệu viện trợ kinh tế. Tháng 4-1951, một phái bộ quân sự
thường trực được đưa đến đây. Những diễn biến này cho thấy Đài Loan dần dần trở thành
một khâu không thể thiếu được trong hệ thống phòng thủ chiến lược của Mỹ ở Tây Thái
Bình Dương. Theo Hiệp ước Hòa bình San Francisco, bắt đầu có hiệu lực ngày 28 tháng
4năm 1952, và Hiệp ước Đài Bắc, bắt đầu có hiệu lực ngày 5 tháng 8 năm 1952, Nhật
Bản chính thức rút bỏ mọi quyền, yêu sách và danh nghĩa với Formosa (Đài Loan) và
Pescadores (Bành Hồ), và rút bỏ mọi hiệp ước đã ký với Trung Quốc trước năm 1942. Cả
hai hiệp ước đều không đề cập tới việc ai sẽ là người nắm quyền kiểm soát hòn đảo, một
phần để tránh liên can vào cuộc Nội chiến Trung Quốc. Những người ủng hộ Đài Loan
độc lập đã sử dụng sự thiếu sót này để đặt nghi vấn về tuyên bố của cả Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa và Trung Hoa Dân Quốc về Đài Loan, cho rằng tương lai của Đài Loan
phải do người dân tại đây tự quyết.
Đài Loan, theo quan điểm của Robert Gray, phụ tá đặc biệt của Tổng thống D.
Esisenhower là “khâu then chốt trong hệ thống các hiệp ước của Hoa kì ở châu Á”.
Dulles còn nhấn mạnh thêm: “Tưởng Giới Thạch vẫn là lãnh tụ chống cộng xuất sắc duy
nhất ở Trung Quốc, và ngày nay không có nhân vật kế thừa hay phụ tá nào sáng suốt hơn
ông”.
Năm 1947, Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân đã xếp Trung Quốc vào vị trí thứ 13
trong danh sách các nước mà việc phòng thủ là quan trọng đối với Hoa Kì. Năm 1948,

Ủy ban Hải và không quân hạ thấp Trung Quốc xuống hàng thứ 17. Tháng 11 – 1949, họ
cho rằng do những vấn đề tiếp vận, Trung Quốc không có ý nghĩa quân sự ngay lập tức
đối với Liên Xô, trong lúc “vị thế của chúng ta không bị đe dọa trực tiếp với việc mất
Trung Quốc, chừng nào an ninh của các quần đảo (ở Tây Thái Bình Dương, đặc biệt là
Okinawa và Philippines) vẫn tiếp tực được giữ vững.


Lời tuyên bố mà Nhà Trắng đưa ra ngày 5-1-1950 về Đài Loan đã làm rõ chính sách mà
Hoa Kì sẽ theo đuổi trong tương lai đối với Quốc Dân Đảng: không dính líu vào cuộc nội
chiến ở Trung Quốc, không cung cấp viện trợ hay cố vấn quân sự cho lực lượng Quốc
Dân đảng. Thậm chí giới lãnh đạo Hoa Kì cũng không gộp Đài Loan vào tuyến phòng thủ
của họ ở Tây Thái Bình Dương. Còn đối với chính quyền mới ở Hoa Lục, Washington
xác lập một lập trường mang tính trung dung: không “thù địch thẳng thừng” mà cũng
không “có thái độ hòa giải”. Truman tán đồng việc kết nạp Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa vào Liên Hiệp Quốc là một vấn đề thủ tục, không phải là một vấn đề chính sách,
nghĩa là nó không lệ thuộc vào quyền phủ quyết của Hoa Kì.
Trong bài diễn văn đầu tiên gửi toàn dân ngày 2-2-1953, trong vai trò Tổng thống Hoa
Kì, Eisenhower đã công bố sự thay đổi đầu tiên trong chính sách đối với Trung Quốc: từ
bỏ chính sách “trung lập hóa” đối với Đài Loan trong lúc lí do khiến tổng thống Truman
đưa hạm đội 7 đến tuần phòng dọc theo eo biển Đài Loan là nhằm trung lập hóa Đài Loan
và ngăn ngừa một cuộc xung đột giữa Hoa Lục của Đảng Cộng sản và Quốc dân đảng
của Đài Loan, thì Eisenhower lại nói rõ rằng: “...không còn một lí do nào nữa, cũng như
không có một lôgic nào của tình hình buộc tàu chiến Mỹ đảm nhận bảo vệ những người
cộng sản Trung Quốc, cho phép họ hoàn toàn yên tâm giết hại binh sĩ chúng ta và của cả
nước đồng minh liên Hiệp Quốc của chúng ta ở Triều Tiên. Do vậy, tôi đã lệnh cho
không được dùng Hạm đội 7 bảo vệ Trung Cộng”.
Ngay sau hội nghị Gieneva về Đông Dương 1954, Hoa Kì đã tích cực xúc tiến, đẩy mạnh
việc thành lập tổ chức Hiệp Ước Đông Nam Á (SEATO) và tăng cường sự hiện diện của
họ ở Nam Việt Nam nhằm mục đích gọi là “ chặn đứng sự bành trướng ảnh hưởng của
chủ nghĩa cộng sản Trung Quốc xuống Đông Nam Á”.

Để bày tỏ sự bất mãn của mình, từ ngày 3-9, Trung Quốc đã tổ chức những đợt pháo kích
mạnh mẽ lên các đảo Kim Môn và Mã Tổ.
Kim Môn là quần đảo gồm 14 đảo với tổng diện tích khoảng từ 160 đến 180 km2 nằm
cách cảng Áo Môn thuộc tỉnh Phúc Kiến khoảng 10km. Mã Tổ là quần đảo gồm 6 đảo
với tổng diện tích không quá 30 km2, nằm cách cảng Phúc Châu thuộc tỉnh Phúc Kiến
hơn 10km. Kim Môn và Mã Tổ thuộc quyền kiểm soát của chính quyền Quốc Dân Đảng,
sau khi Quốc Dân Đảng bị đánh bại trong cuộc nội chiến Quốc – Cộng (1946 – 1949) và
rút chạy ra đảo Đài Loan.
Nằm cách nhau 150 hải lí ở hai đầu cực bắc và cực nam của eo biển Đài Loan, Kim Môn
và Mã Tổ cùng với quần đảo Bành Hồ tạo thành nhân tố có ý nghĩa chiến lược trong hệ


thống phòng thủ của chính quyền Đài Loan. Do vậy, chúng được bảo vệ bằng một đạo
quân rất hùng hậu, dao động trong khoảng 65.000 đến trên 100.000.
Ngay trong tháng 10-1949, Chính phủ Bắc Kinh đã tổ chức cuộc hành quân lên Kim
Môn, nhưng không thành công. Từ đó, các đảo Kim môn và Mã Tổ bị quân đội Trung
Quốc pháo kích hầu như mỗi ngày: từ vài quả đến vài nghìn quả.
Đó là dấu hiệu cho thấy Trung Quốc dự tính đưa quân đổ bộ lên các đảo này. Còn ở trong
nước diễn ra vô số các cuộc mít tinh quần chúng lên án đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai
Tưởng Giới Thạch; 13 phi công Mỹ bị bắt trong cuộc chiến tranh Triều Tiên bị mang ra
xử 11 năm tù.
Diễn biến trên đã đặt Hoa Kì trước một quyết định khó khăn: có nên vì những hòn đảo
không có giá trị quân sự mà gây ra một cuộc chiến tranh với Trung Quốc, mà, theo lời
Eisenhower, tất sẽ đưa đến một cuộc chiến tranh toàn diện với Liên Xô. Nhưng nếu Đài
Loan để mất chúng, chế độ của Tưởng sẽ lại rơi vào tình trạng rối ren và có thể Bắc Kinh
sẽ coi đây là cơ hội tốt để giải quyết nốt vấn đề Đài Loan. Hiệp ước phòng thủ chung
được kí kết ngày 2-12-1954 giữa Hoa Kì và Đài Loan đã thể hiện rõ cách xử trí linh hoạt
của Hoa Kì trong quan hệ tam giác Hoa Kì – Trung Quốc – Đài Loan. Theo hiệp ước,
Hoa Kì và Đài Loan “sẽ ủng hộ và phát triển các khả năng riêng lẽ và tập thể của mình
trong nỗ lực chống lại cuộc tiến công vũ trang và hoạt động phá hoại của cộng sản được

điều khiển từ bên ngoài và nhằm vào sự toàn vẹn lãnh thổ và ổn định chính trị của hai
nước”. Để thực thi hiệp ước, Hoa Kì được phép đóng quân trên đảo Đài Loan và quần
đảo Bành Hồ; bên cạnh đó, Hoa Kì còn cam kết sẽ viện trợ quân sự và góp phần vào “tiến
bộ kinh tế và phồn vinh xã hội” của Đài Loan. Nhưng giống như trong trường hợp của
các nước đồng minh châu Á khác, những cam kết của Hoa Kì đối với Đài Loan không hề
có nghĩa là Hoa Kì đương nhiên lấn chiếm một khi bùng nổ xung đột vì Đài Loan. Trong
trường hợp có xung đột, các bên kí kết “sẽ hành động phù hợp với qui định của hiến pháp
nước mình để chặn đứng mối hiểm họa chung”. Công hàm trao đổi ngày 10-12 giữa bộ
ngoại giao hai bên còn nhấn mạnh rằng không bên nào được tiến hành các hoạt động từ
phần lãnh thổ của chính quyền Tưởng Giới Thạch (từ đảo Đài Loan và quần đảo Bành
Hồ), mà không có sự đồng thuận chung, trừ trường hợp khẩn cấp. Điều kiện ràng buộc
này đã khiến chính quyền Đài Loan phải cân nhắc thật kĩ lưỡng trước khi thực hiện ước
muốn bấy lâu nay là đưa quân đổ bộ lên Hoa Lục. Nó đồng thời cho phép Hoa Kì có
quyền diễn giải một cách linh hoạt các nghĩa vụ của mình đối với hiệp ước phòng thủ
chung. Cũng cần lưu ý rằng, hiệp ước buộc hai bên “không giảm số quân của mình, mà
không có sự đồng thuận, đang đóng ở Đài Loan và quần đảo Bành Hồ đến mức có thể
làm suy yếu khả năng phòng thủ của các lãnh thỗ này”


Việc kí kết hiệp ước trên đã bị Bắc Kinh tiếp đón bằng những lời phản kháng dữ dội và
cảnh cáo rằng sẽ xảy ra những hậu quả nghiêm trọng, nếu Hoa Kì chống lại những nổ lực
chính đáng của Trung Quốc nhằm giải phóng Đài Loan và những đảo phụ cận. Ngày 181-1955, một lực lượng đặc nhiệm Trung Quốc đổ bộ lên một trong các đảo đại trấn nằm
cách Đài Loan 350 km vầ phía Bắc. Ngay trong ngày hôm đó, Eisenhower tuyên bố rằng
quần đảo này vừa khó phòng thủ, vừa cách xa Đài Loan và rất ít dân, nên “không có ý
nghĩa sống còn cho việc bảo vệ Đài Loan và Bành Hồ”. Ông đã gây sức ép để Tưởng rút
khỏi đây. Nhưng ông lại cho rằng, nếu để mất Kim Môn và Mã Tổ, Đài Loan sẽ cùng
chung số phận. Diễn biến này sẽ đe dọa nghiêm trọng hàng rào chống cộng bao gồm
vùng Tây Thái Bình Dương, tức Nhật, Hàn Quốc, Cộng Hòa Nhân Cân trung Hoa, cộng
Hòa Philippines, Thái Lan và Việt Nam”. Còn Indonesia, Malaysia, Campuchia, Lào,
Miến Điện “có lẽ cũng hoàn toàn chịu ảnh hưởng của cộng sản”.

Ngày 29-1-1955, Quốc hội Hoa Kì đã thông qua nghị quyết về Đài Loan trao cho tổng
thống những quyền hành cần thiết để sử dụng lực lượng vũ trang của đất nước nhằm
“đàm bảo an ninh và bảo vệ Đài Loan, Bành Hồ và những vùng lãnh thỗ gắn liền với
vùng đất này khỏi cuộc tiến công quân sự”.
Tình trạng căng thẳng ngày càng tăng cao ở eo biển Đài Loan đã gây lo ngại không chỉ
cho các đồng minh của Mỹ trong khối NATO, mà cho cả các nhà lãnh đạo Liên Xô, vốn
đang tìm cách cải thiện quan hệ với Hoa Kì. Tất cả đều không muốn Đài Loan trở thành
ngòi nổ của một cuộc chiến tranh thế giới. Về phần mình, Trung Quốc đang chuẩn bị
tham dự hội nghị Bandung sẽ nhóm họp vào tháng 4-1955, do đó sẽ không thực sự có lợi
cho Bắc Kinh nếu gây căng thẳng với Hoa Kì chỉ vì vấn đề Đài Loan. Ngày 23-4 tại
Bandung, Chu Ân Lai đã công khai tuyên bố rằng nhân dân Trung Quốc “không muốn
gây chiến với Hoa Kì” và rằng chính phủ ông “sẵn sàng đàm phán với Hoa Kì về vấn đề
hòa dịu ở Viễn Đông và đặc biệt là trong vùng Đài Loan”. Ngày 22-5, chính phủ Trung
Quốc chính thức đình chỉ các vấn đề ở eo biển Đài Loan.
Trong bầu không khí chớm hòa dịu trong quan hệ Đông – Tây, mà hội nghị thượng đỉnh
Gieneva tháng 7-1955 mở đầu, Hoa Kì và Trung Quốc đã đồng ý mở các cuộc đàm phán
tay đôi cấp đạ sứ từ ngày 1-8-1955 ở Gieneva và từ ngày 15-9-1958 chuyển về Varsava
để giải quyết những vấn đề liên quan đến hai nước, mà trước hết là chuyện thả tự do cho
khoảng 30-40 công dân Hoa Kì còn đang bị giam giữ ở Trung Quốc vì nhiều lí do khác
nhau; còn chính phủ Bắc Kinh mong muốn Hoa Kì không gây trở ngại cho việc trở về
Hoa Lục của các sinh viên Trung Quốc đang theo học ở Hoa Kì (gần 5.000 người). Kéo
dài đến đầu thập niên 70, các cuộc đàm phán thoạt trông có vẻ như không giúp gì nhiều
vào việc cải thiện quan hệ giữa hai nước, vì sau ngần ấy năm đàm phán, hai bên chỉ kí
được thảo thuận về việc hồi hương của công dân hai nước, chỉ một tháng sau buổi họp


đầu tiên. Nhưng thực ra chúng vẫn rất cân thiết vì cho phép cả hai biết rõ hậu ý của đối
phương và do đó tránh những hiểu lầm tai hại, nhất là vào những thời điểm căng thẳng.
Cuộc khủng hoảng tháng 8-1958 ở eo biền Đài Loan là một trong những thời điểm như
vậy.

Rạng sáng ngày 24-8, quân đội Trung Quốc đã pháo kích ồ ạt hai đảo Kim Môn và Mã
Tổ, nơi chính quyền Đài Loan tập trung khoảng 75.000 quân. Washington liền mau
chóng tthi hành mọi biện pháp quân sự cần thiết, y như thể sắp xảy ra đại chiến. Hạm đội
7 được tăng cường bởi một số tàu chiến của Hạm đội 6. Đã xảy ra một số trận hải chiến
và không chiến giữa quân đội Trung Quốc và lực lượng vũ trang Đà Loan. Đây là cuộc
xung đột vũ trang đầu tiên giữa hai bên kể từ năm 1949. Ngày 6-9, Chu Ân Lai đưa tín
hiệu sẳn sàng giảm cường độ căng thẳng ở eo biển Đài Loan bằng đề nghị nối lại đàm
phán Trung – Mỹ ở cấp đại sứ, vốn đã bị đình chỉ từ tháng 12-1957. Ngày 23-10, Tưởng
Giới Thạch tuyên bố từ bỏ việc thu hồi Hoa Lục bằng quân sự. Hai ngày sau, Bắc Kinh
tuyên bố chỉ pháo kích Kim Môn và Mã Tổ vào những ngày lẻ trong tháng. Cuộc xung
đột giảm dần cường độ.
Thực khó giải thích động cơ và mục đích thực sự của những người lãnh đạo Trung Quốc
khi gây ra cuộc khủng hoảng trên. Có thể đậy là thái độ mà Bắc Kinh biểu lộ sự bất mãn
của họ trước điều mà họ cho rằng Khrushchev đang sẵn sàng nhân nhượng Hoa Kì trên
đầu họ. Hoặc giả Trung Quốc đang gây khó khăn chó tiến trình hòa hoãn Xô – Mỹ hầu
khẳng định vị thế cường quốc thế giới ngang hàng Hoa Kì và Liên Xô. Hoặc Mao muốn
ra tay trước hầu tránh việc chính quyền Quốc Dân đảng tìm cách khai thác những chấn
động mà đường lối “Ba ngọn cờ hồng” chắc chắn sẽ tạo ra.
Mặc dù tiến trình xích lại gần giữa hai nước còn phải vượt qua rất nhiều trở ngại như tính
tế nhị của bản thân tiến trình này và hoạt động mở rộng chiến tranh Đông Dương sang
Campuchia và Lào của Nixon, hai bên vẫn tìm ra được lối thoát cho vấn đề.
Sau cuộc “ngoại giao bóng bàn”, giới lãnh đạo Bắc Kinh và Washington đã diễn ra một
cuộc trao đổi thư từ rất khẩn trương, kết quả là ngày 8-7-1971, Kissinger bí mật bay từ
Pakistan sang Trung Quốc. Từ ngày 9 đến ngày 11-7, Kissinger và Chu Ân Lai đã tiến
hành nhiều cuộc thương thảo trên cơ sở nhân nhượng lẫn nhau trong những vấn đề từng
khiến mối quan hệ giữa hai bên căng thẳng. Hai bên đã xác định được ba nguyên tắc làm
nền tảng cho cuộc viếng thăm Trung Quốc của Nixon.
-

Đài Loan phải được coi như là một bộ phận của Trung Quốc và tương lai chính trị

của nó phải do chính người Trung Quốc tự giải quyết lấy.


-

Tương lai của Việt Nam sẽ được giải quyết bởi các bên đang chiến đấu ở Việt
Nam sau khi đã thực hiện ngừng bắn, trao trả tù binh và triệt thoái hoàn toàn quân
đội Mỹ. Nguyên tắc này được phản ánh trong đề nghị gần nhất mà Nixon gửi cho
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thông qua Kissinger.

-

Tất cả các cuộc xung đột ở châu Á phải được giải quyết bằng biện pháp hòa bình.

Ngày 6-7, Nixon đã đọc một bài diễn văn tại Kansas City, trong đó ông miêu tả: “một
tương lai do năm đại siêu cường chi phối: Hoa Kì, Tây Âu, Trung Hoa lục địa và dĩ nhiên
cả Nhật Bàn nữa”. Và ý tưởng này không lâu sau đó được thực hiện ngay trong thực tế;
ngày 24-10, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua nghị quyết chấp nhận sự gia nhập
của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa và xóa bỏ tư cách là thành viên của Đài Loan. Hơn
thế nữa, Trung Quốc còn hưởng cả chiếc ghế thường trực của Đài Loan vừa bỏ trống ở
Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc.
Ngày 30-10-1971, Nixon tuyên bố rằng theo lập trường của Washington “quan hệ cuối
cùng của Đài Loan với Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa phải được giải quyết bằng những
cuộc đàm phán trực tiếp giữa Đài loan và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa”.
Từ ngày 21 đến ngày 28-2-1972, tổng thống Nixon, cố vấn an ninh Henry Kissinger và
bộ trưởng Ngoại giao William Rogers sang thăm Trung Quốc. Cuối cuộc viếng thăm,
ngày 28-2 tại thành phố Thượng Hải, hai bên đã công bố bản Thông cáo chung. Bản
Thông cáo chung trình bày các quan niệm khác nhau của hai bên về những vấn đề lớn chi
phối quan hệ hai nước: Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản và Đài Loan.
Trong bản Thông cáo chung về vấn đề Đài Loan, chính phủ Trung Quốc tuyên bố rằng

“vấn đề Đài Loan là vấn đề quan trọng nhất cản trở sự bình thường hóa quan hệ giữa
Trung Quốc và Hoa Kì”, rằng chính phủ Bắc Kinh là chính phủ hợp pháp của Trung
quốc, còn Đài Loan là một tỉnh của Trung Quốc. Việc giải phóng Đài Loan là công việc
nội bộ của Trung Quốc: không một nước nào có quyền can thiệp và người Mỹ được yêu
cầu rút toàn bộ lực lượng và căn cứ quân sự khỏi đây. Họ kết luận bằng lời tuyên bố rằng:
“Chính phủ Trung Quốc kiên quyết chống lại mọi hành động nào nhằm thành lập “một
Trung Quốc và một Đài Loan”, “một Trung Quốc hai chính phủ”, “hai Trung Quốc”,
“một Đài loan độc lập” hay bất cứ lập trường nào cho rằng quy chế Đài Loan vẫn chưa rõ
ràng”. Lập trường của Hoa Kì về vấn đề này như sau: “Hoa Kì nhìn nhận rằng mọi người
Trung Hoa, ở cả hai bên eo biển Đài Loan, đều đã khẳng định rằng chỉ có một Trung
Quốc và Đài Loan là một bộ phận của Trung Quốc. Chính phủ Mỹ không phủ nhận lập
trường này. Chính phủ Hoa Kì xác nhận lại mối quan tâm của mình đối với việc người
Trung Hoa giải quyết hòa bình vấn đề Đài Loan”. Mỹ khẳng định rằng mục tiêu cuố cùng


của họ là rút quân khỏi Đài Loan, nhưng không nói rõ thời hạn. Bên cạnh đó, Mỹ tuyên
bố đồng ý “giảm dần quân số và căn cứ ở Đài Loan” theo đà giàm bớt căng thẳng trong
vùng. Đáng chú ý ở đây là trong cuộc họp báo tổ chức cuối cuộc công du, Kissinger có
tuyên bố rằng Hiệp ước Phòng thủ chung Hoa Kì – Đài Loan không thay đổi sau chuyến
đi của Nixon ở Trung Quốc.
Không lâu sau chuyến viếng thăm của Nixon, bằng con đường bán chính thức, các viên
chứa cấp cao của Trung Quốc khi tiếp các nghị sĩ H.Boggs và G.Ford đã kín đáo để lộ
rằng họ “không muốn người Mỹ rút toàn bộ khỏi vùng Thái Bình Dương hay bất cứ vùng
nào trên thế giới”.
Từ đó, Trung Quốc thường xuyên lên tiếng về mối hiểm họa nảy sinh từ âm mưu bành
trướng và sự hiện diện của Hạm đội Liên Xô ở Thái Bình Dương. Sự thay đổi trong lập
trường của Trung Quốc đối với Liên Xô được thể hiện đầy đủ trong thuyết “Ba thế giới”
mà phó thủ tướng Đặng Tiểu Bình đã thay mặt Mao Trạch Đông công bố ngày 10-4-1974
tại trụ sở Liên Hiệp Quốc. Theo Đặng “trên thế giới này tồn tại ba thế giới, vừa liên hệ
vừa mâu thuẫn với nhau. Mỹ và Liên Xô là thế giới thứ nhất, các nước đang phát triển ở

Á, Phi, Mỹ Latinh và các khu vực khác là thế giới thừ ba, các nước phát triển xen giữa
hai thế giới là thế giới thứ hai....Hai siêu cường quốc là những kẻ bóc lột và áp bức lớn
nhất thế giới ngày nay...Siêu cường giương là cờ xã hội chủ nghĩa còn tỏ ra xấu xa hơn về
mặt này so với các nước khác”. “Trung Quốc là một nước xã hội chủ nghĩa, đồng thời
cũng là một nước đang phát triển. Trung Quốc thuộc thế giới thứ ba”.
Trong thời gian đó, Hoa Kì tiếp tục tăng mức tín dụng quân sự cho Đài Loan: 45.2 triệu
USD (1973), 60 triệu (1974), 80 triệu (1975). Tổng số vũ khí mà họ chuyển giao cho Đài
Loan tăng từ 196 triệu USD (1974) lên 215 triệu (1975) và 293 triệu (1976). Quan hệ
mậu dịch giữa Đài Loan và Hoa Kì tiếp tục tăng mạnh.
Hoa Kì cũng phớt lờ mọi phản đối dù rất quyết liệt của Bắc Kinh, mỗi khi Washington có
những động thái khiến vị thế quốc tế của Đài Loan tăng lên. Hoa Kì luôn nhấn mạnh
rằng việc giải quyết vấn đề Đài Loan cần có một điều kiện chính là thời gian. Lập trường
của Hoa Kì đối với Trung Quốc được thể hiện rõ qua việc Bắc Kinh và Washington chỉ
thỏa thuận xây dựng nhóm liên lạc giữa hai nước sau chuyến viếng thăm của Nixon,
trong lúc quan hệ giữa Hoa Kì và Đài Loan vẫn được giữ nguyên ở cấp Đại sứ. Hoa Kì
vẫn tiếp tục duy trì sự hiện diện quân sự, dù chỉ còn là hình thức ở eo biển Đài Loan. Rõ
ràng, Hoa Kì mưu toan thực hiện chính sách “hai Trung Quốc”. Có nhiều nguyên nhân
khiến Hoa Kì muốn theo đuổi chính sách này:


-

Bắc Kinh không thể hiện rõ ý đồ muốn giải quyết vấn đề Đài Loan bằng con
đường hòa bình.

-

Trung Quốc đã đứng trên lập trường bài Xô khi thiết lập quan hệ với Hoa Kì. Do
vậy, Mỹ xét thấy không cần phải tiếp tục nhân nhượng trong vấn đề Đài Loan.


-

Sự thất bại của Mỹ ở Việt Nam đã làm tăng thêm ý nghĩa chiến lược của Đài Loan
đối với việc thực hiện chính sách của Mỹ trong vùng châu Á – Thái Bình Dương.

-

Đồng minh chính và vững chắc nhất của Mỹ ở vùng châu Á – Thái Bình Dương
chính là Nhật Bản. Trong nỗ lực duy trì và củng cố mối quan hệ này, Đài Loan
đóng một vai trò không nhỏ, nếu không nói là ngày càng lớn.

Quan hệ giữa hai nước trong năm 1974-1975 bị tác động trực tiếp bởi các biến cố lớn liên
tiếp xảy ra trong đối nội và đối ngoại của Hoa Kì như vụ Watergate, sự từ chức của
Nixon, thất bại của Mỹ trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Còn nội tình Trung Quốc
trong khoảng thời gian này cũng trải qua những biến cố không có lợi cho việc đẩy mạnh
quan hệ giữa hai nước: Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông bệnh nặng, vị thế của Đặng Tiểu
Bình trở nên suy yếu trong lúc phe “tả khuynh” chủ trương đẩy mạnh cách mạng văn hóa
đang thắng thế.
Từ ngày 1 đến ngày 5-12-1972, tổng thống Hoa Kì G.Ford sang thăm Trung Quốc nhằm
duy trì quan hệ vốn đã trở nên trì trệ với nước này. G.Ford xem đây là phương tiện gây
sức ép lên Liên Xô. Nhưng Hoa Kì không muốn làm tổn thương mối quan hệ đối với
Liên Xô, nhất là hiệp ước Helsiki kí trước đó chưa đầy nửa năm. Do vậy, trong tiến trình
đàm phán, tuy Bắc Kinh cố gây sức ép lôi cuốn Mỹ hướng đến một quan hệ chặt chẽ hơn
trên nền tảng chống Liên Xô, G.Ford vẫn kiên quyết từ chối và hơn thế nữa còn tìm cách
duy trì bầu không khí hòa hoãn đã tạo được trong quan hệ với Liên Xô. G.Ford nhấn
mạnh rằng: “Chúng ta phải thừa nhận rằng có những bất đồng sâu sắc về tư tưởng giữa
Hoa Kì và Liên Xô. Chúng ta phải hiểu rằng giống như chúng ta, Liên Xô cũng là cường
quốc vĩ đại trong lĩnh vực hạt nhân và công nghiệp. Một khi phát sinh sự việc liên quan
đến hai cường quốc vĩ đại có ảnh hưởng to lớn như vậy, thì tốt nhất là hai nước cần làm
việc chung với nhau nhằm giảm căng thẳng trên cơ sở quan hệ toàn cầu. Từ chối quan hệ

cộng tác này và quay về thời “Chiến tranh Lạnh”, theo tôi là một bước đi hoàn toàn
không khôn ngoan đối với cả người Mỹ chúng ta, cũng như đối với cả thế giới”.
Về vấn đề Đài Loan, Mỹ lập lại chủ trương giải quyết bằng con đường hòa binh và vào
thời điểm thích hợp đối với Hoa Kì, trong lúc Bắc Kinh gợi ý nên đi theo giải pháp của
Tokyo nghĩa là cắt đứt quan hệ ngoại giao, nhưng vẫn giữ các liên lạc thương mại – kinh
tế, khoa học và văn học.


Năm 1976, Jimmy Carter, ứng viên Đảng Dân chủ, đã đắc cử Tổng thống Hoa Kì.
Trong quan hệ với Bắc kinh, chính phủ Carter đã tiếp tục đường lối của Đảng cộng hòa là
cải thiện quan hệ với Trung Quốc. Trong năm 1977, Washington đã soạn thảo nhiều kế
hoạch phục vụ cho đường lối này. Có thể quy thành năm phương án sau:
-

Theo cách làm của Nhật Bản ( đặt đại sứ quán ở Bắc Kinh, “nhóm liên lạc” ở Đài
Bắc.

-

Thay hiệp ước an ninh hỗ tương bằng lời tuyên bố đơn phương của Washington về
việc ủng hộ chế độ Đài Bắc.

-

Chính phủ Mỹ hay các hãng tư nhân vẫn được tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan,
sau khi đảo này trở thành một tỉnh của Trung Quốc.

-

Biến Đài Loan thành một thứ Hồng Kông.


-

Bắc Kinh công khai tuyên bố từ bỏ việc dùng vũ lực chống Đài Loan.

Trong năm 1978, đã diễn ra hai biến cố đẩy Trung Quốc và Hoa Kì nhích lại gần nhau
hơn trên cơ sở chống Liên Xô. Phương Tây phát hiện Liên Xô bí mật triển khai từ năm
1976 tên lửa SS-20 mang 3 đầu đạn có thể bắn tới bất kì trung tâm chiến lược nào của
Tây Âu. Chính quyền Carter quyết định tăng cường quan hệ với Trung Quốc vì “tầm
quan trọng tối cao của nó”. Cố vấn an ninh quốc gia Z.Brzezinski bắt đầu đề cập đến sự
cần thiết sử dụng “con bài Trung Quốc” nhằm gây sức ép lên Liên Xô. Tháng 5-1978,
Z.Brzezinski được phái sang Trung Quốc. Hai bên đã đưa ra những lời kêu gọi ồn ào về
một chính sách chống Liên Xô, không phát triển quan hệ với Việt Nam và tỏ thái độ thù
địch với Cuba.
Giữa lúc quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam ngày càng xấu đi nhanh chóng. Nhưng
quan hệ giữa Việt Nam và Liên Xô lại được nâng cao thêm bằng việc kí Hiệp ước Hòa
bình, Hữu nghị và Hợp tác giữa hai nước ngày 3-11-1978, kèm với một lời cảnh cáo của
Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô L.L.Brezhnev, dành cho “những ai tìm cách làm cho
tình hình thêm căng thẳng, chia rẽ các nước xã hội chủ nghĩa” , rằng “Hiệp ước đã trở
thành một thực tế chính trị. Và dù muốn hay không, người ta cũng phải tính đến Hiệp ước
này”.
Tác dụng của lời cảnh cáo trên được nhận thấy thật nhanh. Ngày 16-1978, Hoa Kì và
Trung Quốc ra thông cáo chung về việc thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ từ ngày 1-11979. Washington thừa nhận Chính phủ Kắc kinh là chính phủ hợp pháp duy nhất của
Trung Quốc, hủy bỏ hiệp ước phòng thủ chung Hoa Kì – Đài Loan từ ngày 1-1-1980 và


rút toàn bộ quân lính đóng ở Đài Loan về nước, nhưng giữ lại cho mình quyền có những
mối quan hệ văn hóa, thương mại, khoa học và những mối quan hệ không chính thức
khác với nhân dân Đài Loan. Về phần mình, Trung Quốc đưa ra những dấu hiệu cho thấy
sẽ không dùng vũ lực cưỡng chiếm Đài Loan, dù không thuận coi đây là cam kết chính

thức. Thông cáo chung còn nói rõ rằng “ hai bên đã phân tích tình hình thế giới và nhận
thấy rõ rằng trong nhiều lĩnh vực, hai bên có những quyền lợi chung và có những quan
điểm giống nhau”.
Nội dung cốt lõi của Thông cáo chung nằm ở lập trường thống nhất của cả hai bên về sự
cần thiết chống trả “bá quyền thế giới” (chỉ Liên Xô) và “bá quyền khu vực” (chỉ Việt
Nam).
Vậy là trong bầu không khí căng thẳng trở lại của quan hệ Đông – Tây, Hoa Kì quyết
định bắt tay với Trung Quốc chống Liên Xô. Và dưới tác động của tình trạng căng thẳng
trong quan hệ Đông – Tây, Hoa Kì không ngần ngại mở rộng quan hệ cộng tác với Trung
Quốc trong lĩnh vực quân sự. Trong cuộc đàm phán vào tháng 1-1980 ở Bắc Kinh, nghĩa
là sau khi quân đội Liên Xô tấn công vào Afghanistan, Bộ trưởng Quốc phòng của Mỹ
Harold Brown thông báo cho phía Trung Quốc rằng Hoa Kì sẵn sàng chuyển “những
hình thức cộng tác từ thụ động sang tích cực trong lĩnh vực an ninh”, gồm cả “các hoạt
động bổ sung lẫn nhau” và “song hành” cả trong lĩnh vực quốc phòng lẫn trong lĩnh vực
ngoại giao. Trung Quốc sẽ được Hoa Kì bán cho những trang thiết vị hiện đại dùng được
cả cho mục đích quân sự lẫn dân sự.
Năm 1981, Ronald Reagan trở thành Tổng thống của Hoa Kì. Là một nhà chính trị trưởng
thành trong làn sóng chống cộng McCarthy, Reagan nhìn nhận “nhân tố Trung Quốc”
trong chính sách đối ngoại của Hoa Kì có phần dè dặt hơn người tiền nhiệm. Thái độ này
được phản ánh thông quan chính sách của Washington đối với Đài Loan. Chính quyền
Reagan khẳng định lại quyết tâm cung cấp trang thiết bị quân sự cho quân đội Đài Loan,
bất chấp những phản đối mạnh mẽ từ phía Bắc Kinh. Sau một thời gian đàm phán, ngày
17-8-1982, Hoa Kì và Trung Quốc đã kí Thông cáo chung, theo đó Hoa Kì hứa hẹn
ngừng cung cấp vũ khí cho Đài Loan, sau khi đảo này được thống nhất với Trung Quốc
một cách hòa bình trên cơ sở thỏa thuận giữa Chính phủ Bắc Kinh và Chính phủ Đài Bắc.
Lời hứa này có nghĩa là trong lúc chờ đợi viễn cảnh vừa đề cập trở thành hiện thực, vẫn
sẽ duy trì các quan hệ quân sự với Đài Loan.
Ngay sau Thông cáo chung, Hoa Kì vẫn tiếp tục bán vũ khí quân sự cho Đài Loan trị giá
60 triệu USD, cung cấp 60 chiến đấu cơ F-104 “Starfighter”, kéo dài việc chuyển giao
cộng nghệ sản xuất chiến đấu cơ F-105E, vào năm 1983 viện trợ quân sự cho Đài Loan

97 triệu USD.


Hiểu rằng Hoa Kì chưa thể cũng như chưa muốn bỏ rơi hẳn Đài Loan, Trung Quốc bắt
đầu tìm cách xa lánh dần kế hoạch thiết lập trục Bắc Kinh – Washington – Tokyo chống
Liên Xô. Diễn ra trong tháng 9-1982, Đại hội XII Đảng Cộng sản Trung Quốc không còn
đánh giá Liên Xô là “mối nguy hiểm chính”. Đặng Tiểu Bình sau đó xác định rõ Đài
Loan là “trở ngại lớn” trên bước đường bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa Trung
Quốc với Hoa Kì. Chuyến viếng thăm của bộ trưởng ngoại giao G.Schulz kéo dài từ ngày
2 đến ngày 5-2-1983 không làm thay đổi quan điểm của Bắc Kinh, dù Hoa Kì có tăng
cường bán các mặt hàng kĩ thuật cao và một số vũ khí cho Trung Quốc.
3. Hòa dịu giữa Bắc Kinh và Đài Bắc:
Song song đó, giới lãnh đạo Bắc Kinh cố làm yên lòng nhân dân Đài Loan nhằm giảm
bớt ảnh hưởng của Mỹ ở đây. Tháng 10-1984, giữa lúc đang diễn ra các cuộc đàm phán
về việc Anh trao trả Hồng Kông cho Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình tuyên bố: “Có hai
phương pháp giải quyết vấn đề Đài Loan và Hồng Kông: hòa bình và không hòa bình.
Phương pháp giải quyết vấn đề bằng bạo lực không phải là tốt nhất. Vậy có thể giải quyết
vấn đề bằng con đường hòa bình không? Để làm được việc này, cần xem xét một cách
toàn diện lịch sử và tình hình thực tại ở Hồng Kông và Đài Loan. Không thể thay đổi chế
độ xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Trung Quốc và trong tương lai cũng vậy. Nhưng nếu
không đảm bảo sự tồn tại của chế độ tư bản chủ nghĩa ở Hồng Kông và Đài Loan, thì
cũng không thể duy trì sự ổn định và cảnh thịnh vượng ở đó, và việc giải quyết hòa bình
vấn đề cũng không làm được nốt”. Đó là công thức “một quốc gia – hai chế độ”, theo đó
Đài Loan có thể duy trì chế độ tư bản của mình và cả lực lượng vũ trang nữa trong một
thời hạn khá dài: “Mười lăm năm là quá ít. Năm mươi năm đi!”2.
Tuy những hứa hẹn trên không hấp dẫn được tổng thống Đài Loan Tưởng Kinh Quốc,
ban lãnh đạo Bắc Kinh vẫn cảm thấy yên lòng vì Tưởng Kinh Quốc “đã chống lại nền
độc lập của Đài Loan và ủng hộ việc tái thống nhất đất nước”3.
Năm 1989, Đảng Dân chủ tiến bộ (DPP) được thành lập năm 1986 giành được 22 ghế ở
Quốc hội Đài Loan. Một số đại biểu của Đảng này ra lời kêu gọi Đài Loan tuyên bố thành

lập một nước riêng, tách hẳn khỏi Trung Quốc. Diễn biến này gây lo ngại cho chính
quyền Bắc Kinh, nhưng cũng không làm cho chính quyền Đài Bắc thích thú, vì đường lối
này hẳn sẽ dọn đường cho một hành động của Bắc Kinh. Nhưng thật khó đặt trọn vẹn vào
công thức “ một quốc gia – hai chế độ”. Trong lúc chờ đợi xem Trung Quốc sẽ xử sự
như thế nào với hồng kong, sau tháng 7-1997, chính quyền Đài Loan theo đuổi chính
sách giảm dần những giới hạn trong quan hệ với Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Trung
2

Lời của Đặng Tiểu Bình công bố trên tờ Nhân dân Nhật báo số ra ngày 29-10-1984.
Điện phân ưu gởi Đài Bắc năm 1988 nhân cái chết của Tưởng Kinh Quốc

3


Hoa. Từ năm 1987-1988, dân Đài Loan được phép viếng thăm Hoa Lục. Quan hệ buôn
bán không chính thức qua ngã Hồng Kông tăng lên, còn vốn đầu tư của tư nhân Đài Loan
vào Hoa Lục đến cuối năm 1990 đã đạt con số 4 tỉ USD. Năm 1991, tổng thống Lý Đăng
Huy bãi bỏ “thời kì động viên tiêu diệt cuộc nổi loạn của cộng sản”. Hành động này mặc
nhiên công nhận quyền kiểm soát của Bắc Kinh ở Hoa Lục. Về phần mình, Cộng Hòa
Dân Chủ Nhân Dân Trung Hoa cũng có nhiều cử chỉ thiện chí, như ngừng công việc
tuyên truyền qua eo biển, tiếp đón Hội trao đổi qua eo biển Đài Loan tháng 4-1991;
nhưng vẫn cự tuyệt thống nhất trên cơ sở dân chủ đa nguyên và kinh tế thị trường tự do,
và tiến hành đàm phán với Đài Loan theo thủ tục của hai chính phủ độc lập.
Mặc dù vậy, giữa hai bên vẫn diễn ra các cuộc đàm phán không chính thức. Có điều là do
Bắc Kinh vẫn chưa từ bỏ con đường thống nhất bằng bạo lực, Đài Loan vẫn tiếp tục tăng
cường khả năng phòng thủ bằng cách mua thêm vũ khí, chủ yếu là của Mỹ. Đây là
nguyên nhân thỉnh thoảng gây ra quan hệ sóng gió giữa hai bên.

V.


KẾT LUẬN:

Vùng eo biển Đài Loan vẫn là nơi được đặt lên hàng đầu trong khu vực châu Á – Thái
Bình Dương bởi tính chất nguy hiểm của nó. Nếu thực tế muốn Đài loan độc lập và phát
triển lên với sự trợ giúp của nước ngoài, đặc biệt là Mỹ và Nhật Bản thì sẽ dẫn đến đụng
độ giữa ba nước lớn Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc bởi Trung Quốc coi vấn đề Đài Loan là
công việc nội bộ của mình.
Yếu tố dễ gây thương tổn nhất đến quan hệ Mỹ - Trug cũng chính là vấn đề Đài Loan. Có
những lí do vô cùng quan trọng trong cuộc tranh chấp Đài Loan mà các nhà chính trị
quốc tế đã đưa ra: về phía Mỹ, nếu họ từ bỏ Đài Loan thì các nước trong khu vực, kể cả
Nhật Bản, vẫn quen đi theo kẻ mạnh nhất, sẽ đứng về phía Bắc Kinh và đó sẽ là sự bắt
đầu thời kì suy tàn của Mỹ. Về phía Bắc Kinh, nếu để Đài Loan với đa số là người Trung
Hoa tuyên bố độc lập thì sẽ không giữ chân được các tỉnh tự trị Tây Tạng và Tân Cương
dân số đông đúc mà không phải là người Trung Hoa. Bên cạnh đó, hòn đảo này còn có vị
thế chiến lược rất lớn: chiếm được nó là kiểm soát được lối ra vào biển Trung Hoa, nơi
qua lại của hàng nghìn tàu biển, kiểm soát được việc cung cấp dầu lửa của Nhật Bản,
chiếm được những vũ khí tinh xảo của phương Tây cung cấp cho Đài Loan, mang lại cho
lục địa sức nặng kinh tế và tiềm năng kỹ thuật của hòn đảo này. Do vậy, không để mất
Đài Loan là một vấn đề sống còn đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc.
Trên thực tế, vấn đề Đài Loan không chỉ là mối quan hệ giữa Đài Loan và Đại Lục mà
chính là quan hệ giữa Mỹ với Đại Lục Trung Hoa. Trong những năm qua, hai bên đã có
những cố gắng lớn làm cho vấn đề Đài Loan được xem như là một quả bom nổ chậm đã


được giảm đi ở mức độ nhất định. Bản thân Mỹ cũng bận rộn với các vấn đề ở
Afganishtan, I-Rắc, Pakixtan, nên Mỹ cũng muốn có quan hệ cải thiện với Trung Quốc
để không phải kéo căng quá sức lực. Chính vì vậy, thời gian qua là điều kiện để Trung
Quốc phát huy ảnh hưởng của mình ở khu vực. Trong tình hình này, không ít các phân
tích cho rằng Trung Quốc sẽ gia tăng áp lực đối với Đài Loan. Điều này làm cho Đài
Loan chủ động gia tăng lực lượng. Trên thực tế, khi Mỹ tấn công I-Rắc năm 2003, báo

chí Đài Loan đưa tin, Trung Quốc đã bố trí: ít nhất 400 tên lửa đạn đạo dọc phía đông
nam Trung Quốc nhằm vào Đài Loan, có khả năng làm tê liệt các trung tâm kinh tế, chính
trị, quân sự của Đài Loan. Chính vì vậy, vấn đề Đài Loan có lúc đã sôi lên, đe dọa sự ổn
định, an ninh khu vực. Song điều chúng ta cần thấy rằng, dù Mỹ có can dự hay không can
dư thì một cuộc khủng hoảng ở eo biển Đài Loan là một kịch bản mà không một quốc gia
nào trong khu vực mong muốn.
Thực ra, vần đề Đài Loan theo Trung Quốc là vấn đề nội bộ của Trung Quốc nhưng trên
thực tế đó lại là vấn đề quốc tế. Cho dù Trung Quốc không muốn quốc tế hóa vấn đề này,
song thực tế, việc giải quyết vấn đề Đài Loan không chỉ phụ thuộc vào Trung Quốc. Mỹ
luôn lấy vấn đề Đài Loan làm con bài mặc cả và gây sức ép với Trung Quốc. Trong bối
cảnh hiện nay, với tiềm lực của mình, Trung Quốc xác định không gây xung đột với Mỹ
nhằm tạo môi trường thuận lợi phát triển kinh tế.
Những năm gần đây, do thay đổi tình hình chính trị trong nước ở những mức độ nhất
định, Mỹ đã nâng cấp quan hệ với Đài Loan, nhưng trước sau vẫn mang sắc thái tự kiềm
chế để đảm bảo những chính sách của Mỹ đối với Đài Loan không làm thay đổi các quan
hệ khu vực. Mỹ đồng ý chính sách “một nước Trung Quốc phản đối hoặc ít nhất không
ủng hộ Đài loan độc lập, duy trì ổn định và cân bằng xu thế hòa bình lạnh ở eo biển Đài
Loan, thúc đẩy chính sách nước đôi, trong đó Đại Lục là chính, Đài Loan là phụ, sao cho
lợi ích quốc gia của Mỹ ở khu vực được đảm bảo”.
Trung Quốc cũng hi vọng phối hợp với Mỹ ngăn chặn các thế lực đòi độc lập ở Đài Loan,
vừa có được khuôn khổ chính trị một nước Trung Quốc, đảm bảo hòa bình ổn định, nắm
được thời cơ hòa bình cải thiện quan hệ kinh tế với Mỹ để tập trung gia tăng tiềm lực
quốc gia, tạo cơ sở vật chất cho tiến trình thống nhất sau này.
Để ngăn chặn Đài Loan độc lập và tạo tính hợp pháp cho việc thống nhất đất nước, Trung
Quốc đã thông qua cái luật gọi là “Luật chống li khai”. Điều này không chỉ gây phản ứng
từ Đài Loan mà ngay cả Mỹ cũng không tán đồng. Không ít nhà bình luận cho rằng, việc
Trung Quốc thông qua “Luật chống li khai” cho thấy một cách không đầy đủ tính không
xác định rất lớn đối với triển vọng tương lai của Đài Loan.



×