Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa lê nin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.8 KB, 19 trang )

Lời mở đầu

Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại, người cha già kính yêu của dân tộc
Việt Nam. Ngày 5/6/1911, trên con tàu Amiran Latusơ Tơrêvin, Người rời
Sài Gòn đến Mác-xây, Pháp; bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước.
Sau gần 10 năm đến nhiều nước ở châu Âu, châu Mĩ, châu Phi để tìm hiểu và
học hỏi, cuối cùng Người cũng đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc sau
khi đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc
địa” của V.I.Lênin. Luận cương đã nêu ra những vấn đề quan trọng là quyền
bình đẳng, tự do thật sự giữa các dân tộc và tình đoàn kết chiến đấu của giai
cấp vô sản với nhân dân lao động các nước. Đặc biệt, Luận cương đã chỉ ra
con đường giải phóng của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc nhiệm vụ của
các đảng cộng sản trong việc giải quyết những vấn đề dân tộc và thuộc địa;
đó là lời giải đáp cho những trăn trở trong nhiều năm tìm đường cứu nước
của Người. Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin, Người đã
nghiên cứu chủ nghĩa Mác sâu hơn; tiếp thu có chọn lọc từ đó vận dụng chủ
nghĩa Mác-Lênin để giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt
Nam. Trong tác phẩm “Đường Cách mệnh”(xuất bản năm 1927) , Người đã
viết “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê nin. Luận
điểm này của Người đã khẳng định một vấn đề có tính nguyên tắc, đặt nền
móng lâu dài cho công tác xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận.

1


1.HỌC THUYẾT NHIỀU.
1.1 Nho giáo
Nho giáo là hệ tư tưởng phong kiến; một hệ thống đạo đức, triết lý và tôn
giáo do Đức Khổng Tử phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho giáo
rất phát triển ở các nước châu Á là Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên,Hàn


Quốc và Việt Nam.
-

Hệ thống của Nho giáo thì theo chủ nghĩa : “ Thiên Địa Vạn vật đồng nhất
thể” , nghĩa là : Trời Đất và muôn vật đều đồng một thể với nhau.
Phương pháp của Nho giáo là phương pháp chứng luận, lấy Thiên lý lưu
hành làm căn bản.
Như vậy, học thuyết của Nho giáo có 3 điều cốt yếu :
+ Về Tín ngưỡng : Luôn luôn tin rằng : Thiên Nhân tương dữ, nghĩa
là: Trời và Người tương quan với nhau.
+Về Thực hành : Lấy sự thực nghiệm chứng minh làm trọng.
+Về Trí thức : Lấy trực giác làm cái khiếu để soi rọi tìm hiểu sự vật.

- Vấn đề trung tâm của Nho giáo là con người, tư tưởng về con người: “con
người thiện hay ác”. Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết
chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng
nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu – người lý tưởng này
gọi là quân tử. Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải “tự
đào tạo”, phải “tu thân” với 3 tiêu chuẩn chính sau: Đạt đạo, đạt đức và biết
thi - lễ - nhạc. Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải
“hành đạo”.
Nho giáo đã đem lại một bước tiến khá căn bản trong lĩnh vực văn hoá tinh
thần của xã hội, trước hết nó làm cho nền giáo dục phát triển hết sức mạnh
mẽ. Nho giáo rất chú trọng dạy đạo làm người, hướng vào rèn luyện đạo đức
con người, đề cao giáo dục, giáo dục làm con người ác thành thiện. Đây thực
sự là quan điểm hết sức tiến bộ của Nho giáo.
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực Nho giáo cũng đem lại không ít tác
động tiêu cực, nó đã không giải đáp được vấn đề số phận và yêu cầu giải
2



phóng con người vì nó đã sớm bỏ con đường phát triển tư duy trừu tượng, nó
làm cho chủ nghĩa giáo điều và bệnh khuôn sáo phát triển mạnh trong lĩnh
vực tư tưởng và trong giáo dục khoa học, cho đến nay nó vẫn là một nhân tố
kìm hãm sự phát triển xã hội nhất là tại các vùng nông thôn Việt Nam.
1.2. Chủ nghĩa Tam dân.
Chủ nghĩa Tam dân hay Tam dân Chủ nghĩ là một cương lĩnh chính trị do
Tôn Trung Sơn đề xuất, với tinh thần biến Trung Quốc thành một quốc gia tự
do, phồn vinh và hùng mạnh. Việc kế thừa và hiện thực ngày nay thể hiện rõ
nhất trong tổ chức chính quyền của Cộng hòa Trung Hoa (Đài Loan).
Học thuyết chính trị này bao gồm:
-

-

Dân tộc độc lập: Phản đối chủ nghĩa đế quốc và quốc quân phiệt cấu kết
xâm lược, -mưu cầu bình đẳng dân tộc và quyền tự quyết dân tộc.
Dân quyền tự do: Thi hành chính sách dân chủ, ngăn cản sự lạm dụng
chế độ hiện hành của Âu-Mỹ, nhân dân có quyền bầu cử, kêu gọi bầu cử,
sáng tạo, trưng cầu dân ý để thông qua đó chọn ra các cơ quan lập
pháp, hành pháp, và tư pháp.
Dân sinh hạnh phúc: Quyền về đất đai của mỗi người dân và kiểm soát
vốn, tư nhân không thể thao túng sinh kế quốc dân.

Chủ nghĩa Tam dân đã kế thừa có phê phán những nội dung tích cực của
chiến tranh nông dân và phong trào Duy tân, vay mượn thêm chất liệu của
chủ nghĩa dân chủ ở phương Tây, làm thành một cương lĩnh cách mạng dân
chủ trong xã hội cận đại Trung Quốc, có ý nghĩa tương đối trọn vẹn và đã có
tác dụng tích cực trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, lý luận triết học của Tôn Trung Sơn cũng còn những mặt hạn chế

do tư tưởng của ông là sản phẩm của một thời đại nhất định, do ông là đại
biểu của giai cấp tư sản Trung Quốc mặc dù lúc đó có vai trò tiến bộ. Những
mặt hạn chế là:
-

3

Nhìn thấy mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và tư bản ở phương
Tây, ông tán thành cuộc cách mạng XHCN và tán thành dùng vũ lực để
tiến hành cách mạng. Song ông lại phản đối quan điểm của Mác. Ông
cho rằng học thuyết của Mác coi đấu tranh giai cấp là động lực của sự
phát triển xã hội là đảo ngược mối quan hệ nhân qủa. Ông nói "chiến
tranh giai cấp” không phải là nguyên nhân của sự tiến hóa xã hội mà là


-

-

-

những trạng thái bệnh tật phát sinh trong quá trình tiến hoá của xã
hội. Ông cho nguyên tắc giúp đỡ lẫn nhau mới là cơ sở của sự tiến hoá
xã hội, loài vật thì cạnh tranh với nhau còn loài người thì giúp đỡ lẫn
nhau. Ông phủ nhận đấu tranh giai cấp và chủ trương không thực hiện
chuyên chính vô sản. Ông nói: "có thể học tư tưởng của C. Mác, còn
không thể vận dụng phương pháp của C. Mác". Đó là điều hạn chế thứ
nhất của ông.
Tôn Trung Sơn có quan điểm duy tâm về sự phát triển của lịch sử, cho
rằng: nguyện vọng mưu cầu sự sống của loài người quyết định sự phát

triển kinh tế của xã hội, từ đó cũng quyết định cả chính trị nữa.
Về quan điểm đối với quần chúng nhân dân, Tôn Trung Sơn cũng
mang rõ thiên kiến của giai cấp tư sản. Ông chia làm 3 loại người: biết
trước, hiểu trước, biết sau, hiểu sau, và không biết, không hiểu. Biết
trước, hiểu trước là những người tư sản, tiểu tư sản và tầng lớp trí
thức cửa họ. Không biết, không hiểu là quảng đại quần chúng công
nông. Biết sau, hiểu sau là những người ở giữa hai loại người trên.
Tôn Trung Sơn coi chủ nghĩa dân sinh cũng là CNXH, chủ trương làm
cách mạng dân chủ tư sản cùng với cách mạng XHCN. Chủ trương ấy
của ông thể hiện rõ sự hiểu biết có tính chất chủ quan và ảo tưởng về
CNXH.

1.3. Học thuyết Tam quyền phân lập.
Tư tưởng phân quyền được các nhà triết học đặt ra từ thời La Mã cổ đại,
với đại diện tiêu biểu là nhà bác học vĩ đại Aristote (384 - 322 tr.CN).Tư
tưởng về phân quyền trở thành một lý thuyết toàn diện và độc lập trong thời
kỳ Khai sáng. Người khai sinh ra học thuyết này là triết gia người Anh, John
Loke (1632-1704) và người có đóng góp lớn nhất trong việc phát triển nó
một cách hoàn chỉnh là nhà luật học người Pháp S. Montesquieu (16891755).
Nội dung cốt lõi của học thuyết này cho rằng, quyền lực nhà nước luôn có
xu hướng tự mở rộng, tự tăng cường vai trò của mình. Bất cứ ở đâu có quyền
lực sẽ xuất hiện xu thế lạm quyền và chuyên quyền, cho dù quyền lực ấy thuộc
về ai. Do vậy, để đảm bảo các quyền tự do cơ bản của công dân, ngăn ngừa
hành vi lạm quyền của các chủ thể nắm giữ quyền lực nhà nước phải thiết lập
pháp chế nhằm giới hạn quyền lực. Cách tốt nhất để chống lạm quyền là giới
hạn quyền lực bằng công cụ pháp lý và cách thực hiện không phải là tập
4


trung quyền lực mà phân chia nó ra. Muốn hạn chế quyền lực nhà nước thì

trước hết phải phân quyền và sau đó phải làm cho các nhánh quyền lực đã
được phân chỉ được phép hoạt động trong phạm vi quy định của pháp luật.
Theo học thuyết tam quyền phân lập, quyền lực nhà nước phân chia thành
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, không chỉ để chuyên môn hoá các
quyền mà quan trọng hơn là để giữa các quyền có sự giám sát, chế ước lẫn
nhau, tạo nên sự cân bằng về quyền lực giữa các cơ quan công quyền. Mỗi cơ
quan được quyền hoạt động trong lĩnh vực của mình, không có quyền trong
lĩnh vực khác, nhưng có quyền ngăn chặn cơ quan khác. Quyền lực ngăn chặn
quyền lực chính là điểm cốt yếu trong chủ trương phân chia quyền lực.
Ưu điểm quan trọng nhất của học thuyết tam quyền phân lập là tránh
được sự chuyên quyền, độc tài trong thực hiện quyền lực nhà nước. Đánh dấu
sự chuyển biến từ việc sử dụng “quyền lực dã man” trong các xã hội chuyên
chế sang việc thực thi quyền lực văn minh trong xã hội dân chủ. Loại bỏ chế
độ quân chủ chuyên chế, độc tài - mảnh đất tốt cho sự lộng quyền, bức rào
cản của dân chủ và phát triển xã hội. Sự hình thành và phát triển của lý
thuyết này gắn liền với quá trình đấu tranh cho bình đẳng, tự do và tiến bộ xã
hội. Lấy pháp luât làm tối thượng, lấy bảo đảm các quyền tự do công dân làm
mục đích cuối cùng. Không chỉ vậy, với cơ chế kiềm chế và đối trọng, kiểm tra
và chế ước lẫn nhau giữa ba nhánh quyền lực đã loại trừ được nguy cơ tập
trung tất cả quyền lực nhà nước vào tay một cá nhân, nhóm người hay một
cơ quan quyền lực duy nhất nào đó - nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự tha hoá
trong quá trình thực thi quyền lực.
Nhược điểm: bản thân học thuyết phân quyền vẫn chứa nhiều yếu tố bất
hợp lý, do việc đề cao sự phân quyền một cách tuyệt đối nên chưa thấy rõ
được những phương thức kiểm soát quyền lực ngoài nhà nước, mất đi vai trò
giám sát thường xuyên của nhân dân. Nếu thiếu sự giám sát này, việc phân
lập các quyền cũng không giải quyết được vấn đề khi mà trên thực tế, ba
quyền đều thuộc về liên minh của các nhóm chính trị. Việc phân quyền tuyệt
đối ở các nước tư bản dẫn đến nạn tranh giành quyền lực thường xuyên giữa
các đảng chính trị, các nhóm xã hội khác nhau để nắm một quyền hay toàn bộ

quyền lực nhà nước. Trong điều kiện thiếu đạo đức chính trị và hệ thống pháp
luật chưa hoàn thiện thì sự tranh giành quyền lực này sẽ gây ra mất ổn định
chính trị - xã hội, ảnh hưởng đến cuộc sống nhân dân.
2. CHÂN CHÍNH NHẤT
5


2.1 Cơ sở lý luận.
2.1.1 Chủ nghĩa Mác.
Chủ nghĩa Marx (còn viết là chủ nghĩa Mác hay là Mác-xít) là hệ thống học
thuyết về triết học, lịch sử và kinh tế chính trị dựa trên các tác phẩm của Karl
Marx (1818–1883) và Friedrich Engels (1820–1895). Từ khi tập ba của tác
phẩm "Tư Bản" (Das Kapital) được xuất bản năm 1895, những người Marxist
đã cố gắng tích hợp các ý tưởng trong đó vào trong một phương án chuẩn
xác chung phục vụ cho việc xây dựng một trật tự xã hội xã hội chủ nghĩa hay
cộng sản chủ nghĩa.
Mác kết luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và đặt nền móng cho
chủ nghĩa xã hội khoa học xuất phát từ lý thuyết hình thái kinh tế- xã hội, khi
áp dụng trong điều kiện hiện tại, kết hợp với học thuyết giá trị thặng dư cho
phép.
Tác phẩm chính của ông là "Phê bình chủ nghĩa kinh tế chính trị"
trong ba tập của "Tư Bản". Các quy luật của sự bóc lột trong chủ
nghĩa tư bản đang thống trị, sự hình thành xã hội có giai cấp hiện
đại và quá trình tập trung tư bản được phân tích suy luận cả về mặt
kinh tế vi mô và vĩ mô. Học thuyết về sự sụp đổ tất yếu của chủ nghĩa
tư bản là các phần quan trọng trong phân tích này.
Cùng với việc phân tích nêu trên là sự phê bình chống lại sự thống trị về
chính trị nhằm bảo hộ quyền lợi của các nhà tư bản và phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa thông qua "luật pháp và trật tự", cái chỉ có thể tiến hành với
sự trả giá của giai cấp vô sản.

Chuyển từ chủ nghĩa tư bản sang xã hội không có giai cấp trong chủ nghĩa
cộng sản – thông qua giai đoạn quá độ của chủ nghĩa xã hội – là chủ đề của
học thuyết cách mạng của Mác.
2.1.2 Chủ nghĩa Lênin .
Chủ nghĩa Lênin là học thuyết chính trị do Lênin phát triển từ Chủ nghĩa
Marx, được coi là ý thức hệ chính thức của Liên Xô từ giữa thập niên 1920.
Học thuyết chính trị này được Vladimir Ilyich Lenin phát triển trong mối
quan hệ đấu tranh giai cấp giữa thời đại Chủ nghĩa đế quốc và các cuộc cách
mạng của giai cấp vô sản; chủ trương giải phóng dân tộc bị áp bức.
6


Chủ nghĩa Lênin đã góp phần lớn lao vào lý luận về chuyên chính vô sản, đã
phát triển nguyên lý mác xít về khối liên minh công nông, về vấn đề dân tộc và
thuộc địa, về chủ nghĩa quốc tế vô sản, về việc xây dựng và củng cố đảng vô
sản kiểu mới là tổ chức duy nhất đủ sức lãnh đạo cuộc đấu tranh muôn hình
muôn vẻ của giai cấp công nhân và của các dân tộc bị nô dịch. Lênin đã xây
dựng lý luận mới, hoàn chỉnh về cách mạng xã hội chủ nghĩa, đã chứng minh
khả nǎng chủ nghĩa xã hội có thể thắng lợi ở một nước riêng lẻ.
Chủ nghĩa Lênin đã giúp nhân dân lao động đang rên xiết dưới ách áp bức
của chủ nghĩa đế quốc hiểu một cách sâu sắc hơn những quy luật phát triển
của xã hội, những đòi hỏi và những điều kiện khách quan của cuộc đấu tranh
chính trị trong từng giai đoạn của cách mạng vô sản, của toàn bộ phong trào
giải phóng. Lênin đã dạy cho quần chúng bị áp bức hiểu rõ những sự kiện
hiện đại rắc rối phức tạp; cho họ vũ khí tuyệt diệu trong cuộc đấu tranh để tự
giải phóng: lý luận và sách lược của chủ nghĩa Bônsêvích.
Chủ nghĩa Lênin đã tổng hợp từ chủ nghĩa Mác, thống nhất biện chứng giữa
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội (trong đó có giải phóng giai cấp ) và
giải phóng con người.
2.2 Cơ sở thực tiễn.

Từ những năm 30 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã được xác lập ở các
nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Lực lượng sản xuất TBCN phát triển ngày càng mạnh
và đạt đến một trình độ khá cao. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm
cho tình hình xã hội biến đổi sâu sắc: ở những nước đã làm cách mạng tư sản
như Anh, Pháp; chủ nghĩa tư bản thâm nhập vào mọi mặt của đời sống xã
hội; nông dân sản xuất nhỏ bị phá sản, thợ thủ công bị đe dọa. Khi chủ nghĩa
tư bản càng phát triển thì sự tương phản giữa cái giàu và cái nghèo rõ rệt: sự
bóc lột của giai cấp tư sản đã đưa tình cảnh của giai cấp công nhân ở các
nước đến chỗ thật là bi đát.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã gây ra cho giai cấp vô sản những nỗi
đau khổ ghê gớm và giai cấp công nhân đã dũng cảm đứng lên để tự giải
phóng. Những cuộc đấu tranh ở Lyon 1831-1834, ở Anh từ 1836-1848, ở Ðức
1848 đã phản ánh tình hình trên; nó đánh dấu thời kỳ đấu tranh độc lập của
giai cấp công nhân. Tuy nhiên, cuối cùng, các phong trào đều thất baị, qua đó
bộc lộ những nhược điểm: chưa có một đường lối đấu tranh khoa học và
chính xác, chưa có một tổ chức lãnh đạo của giai cấp công nhân.
7




Trong bối cảnh lịch sử đó, Marx-Engels đã sáng lập ra học thuyết cách
mạng sáng tạo một học thuyết đúng đắn đặt ra phương pháp đưa phong
trào đi đến thắng lợi cho giai cấp vô sản. Mác đã đề ra nhiệm vụ tự giải
phóng mình của giai cấp công nhân: Sự nghiệp giải phóng của giai cấp
công nhân phải do giai cấp công nhân đảm đương, và việc giành chính
quyền trở thành một nghĩa vụ vĩ đại của giai cấp công nhân.

Vào cuối thế kỷ thứ XIX, đầu thế kỷ thứ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển
thành chủ nghĩa đế quốc; độc quyền đã thay thế tự do cạnh tranh. Để thu

được lợi nhuận tối đa, bọn tư bản độc quyền không những tăng cường bóc lột
công nhân và nhân dân lao động trong nước mà còn tiến hành xâm lược
thuộc địa, xuất cảng tư bản, biến các nước nhỏ yếu và lạc hậu thành nguồn
cung cấp nguyên liệu rẻ mạt và thị trường tiêu thụ hàng hóa thừa của chúng.
Sau khi hoàn thành việc phân chia thế giới, các công ty độc quyền của các
nước đế quốc không ngừng giành giật thuộc địa và khu vực ảnh hưởng của
nhau, cho nên cứ từng thời gian một, chúng lại gây ra chiến tranh đế quốc,
đẩy nhân loại vào con đường chết chóc khủng khiếp.
Chủ nghĩa đế quốc đặt nhân dân thế giới trước hai con đường: hoặc là cam
chịu sự thống trị và bóc lột của chủ nghĩa đế quốc, do đó, sẽ bị đẩy vào hố diệt
vong; hoặc là phải vùng lên lật đổ chủ nghĩa đế quốc và đưa xã hội loài người
tiến lên một chế độ mới, xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.


Bối cảnh lịch sử đó đòi hỏi phải phát triển chủ nghĩa Mác lên một bước
mới để hướng dẫn cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới thoát khỏi ách
thống trị của chủ nghĩa đế quốc và đi vào con đường xã hội chủ nghĩa.
Lênin đã tiếp thu và phát triển chủ nghĩa Mác; chỉ ra con đường đấu tranh
thoát khỏi đế quốc của các nước thuộc địa; khẳng định cách mạng thuộc
địa là “con đường cách mạng vô sản”: Cách mạng giải phóng dân tộc trong
thời đại mới phải do một chính đảng cách mạng kiểu mới của giai cấp
công nhân lãnh đạo; coi sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng.

Tóm lại:
Chủ nghĩa Mác – Lênin là học thuyết duy nhất từ trước tới nay đặt ra mục
tiêu, chỉ rõ con đường giải phóng triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới thoát khỏi tình trạng bị nô dịch và
8



bóc lột, thoát khỏi nghèo đói và tha hóa về nhiều mặt. Đồng thời học thuyết
đó chỉ ra lực lượng cách mạng thực hiện sự nghiệp giải phóng và phát triển
xã hội là giai cấp công nhân và nhân dân lao động bởi lẽ:
-

-

Về phương thức sản xuất: giai cấp công nhân là lao động trực tiếp hay
gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất chủ nghĩa ngày
càng hiện đại và xã hội hóa cao.
Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: họ là người lao động
không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản bị bóc
lột giá trị thặng dư.

Học thuyết cũng đã chỉ ra quy luật của sự giải phóng và phát triển xã hội. Đó
là quy luật về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; về sự
chuyển biến từ hình thái kinh tế xã hội này sang hình thái kinh tế xã hội khác
không phải diễn ra một cách tự phát mà phải thông qua cuộc đấu tranh giai
cấp gay go quyết liệt.
3. CHẮC CHẮN NHẤT.
3.1 Cơ sở lý luận.
3.1.1 Chủ nghĩa Mác.


Chủ nghĩa duy vật biện chứng:
Chủ nghĩa Mác ra đời dựa trên sự kế thừa tinh hoa di sản lý luận của
nhân loại trong đó trực tiếp là Triết học cổ điển Đức, Kinh tế chính trị học
cổ điển Anh và Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.

Triết học cổ điển Đức với các đại biểu xuất sắc là L.Phơbách và
G.W.Ph.Hêghen đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành thế giới
quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác.
+ Trên cơ sở phê phán quan điểm duy tâm thần bí trong triết học
của G.W.Ph.Hêghen, C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa phép biện
chứng của ông để xây dựng phép biện chứng duy vật.
+ Chủ nghĩa duy vật, vô thần của L.Phơbách đã tạo tiền đề cho sự
chuyển biến của C.Mác, Ph.Ăngghen từ thếgiới quan duy tâm
sang duy vật, từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường
chủ nghĩa cộng sản.

9


Mác hiểu các mâu thuẫn tinh thần trong chủ nghĩa duy tâm như là hình ảnh
và biểu hiện của những mâu thuẫn vật chất tức là các mâu thuẫn trong tồn
tại xã hội: Chúng cũng lệ thuộc lẫn nhau và liên tục ở trong trạng thái biến
chuyển có tác động qua lại. Biến chuyển này về toàn thể là tăng lên tức là đi
từ đơn giản đến phức tạp và thông qua những bình diện nhất định tương ứng
với những thay đổi về chất lượng nhất định để thúc đẩy sự phát triển. Theo
Mác, việc giải quyết các mâu thuẫn cũng tác động đến tiến độ đi đến những
hình thái xã hội ngày ngày cao hơn: Chúng tương tự như các tổng thể của
Hegel nhưng xuất phát từ những mâu thuẫn cơ bản ngày càng trầm trọng
hơn và không bãi bỏ một cách tổng thể (Mâu thuẫn đối kháng quyền lợi và
đấu tranh giai cấp).


Chủ nghĩa duy vật lịch sử.

Với học thuyết này Mác đã miêu tả tiến trình lịch sử là một chuỗi vận động

mà các sự kiện cơ bản xác địch chuỗi vận động này lại được quyết định và
thúc đẩy bởi những nguyên tắc kinh tế.
-

Kinh tế chính trị cổ điển Anh với các đại biểu tiêu biểu như A.Smít,
D.Ricácđô đã góp phần tích cực vào sự hình thành quan niệm duy vật về
lịch sử của chủ nghĩa Mác. C.Mác đã kế thừa những yếu tố hợp lý trong
học thuyết giá trị và những tư tưởng tiến bộ của các nhà cổ điển, giải
quyết được những bế tắc mà các nhà cổ điển không thể vượt qua để
xây dựng lý luận giá trị thặng dư, luận chứng khoa học về bản chất bóc
lột của chủ nghĩa tư bản và nguồn gốc kinh tế của sự diệt vong tất yếu
của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời khách quan của chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội không tưởng không tưởng đã có quá trình phát triển
lâu dài và đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ XIX.

Một trong những nhận thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử là "lịch sử
của tất cả các xã hội từ trước đến nay là lịch sử của đấu tranh giai cấp, một
lịch sử chấm dứt với sự cải tạo cách mạng của toàn thể xã hội hay với sự suy
tàn cùng một lúc của các giai cấp đang đấu tranh." Các biến đổi xã hội được
lý luận dựa trên những học thuyết kinh tế. Theo quan điểm của Mác, cá nhân
con người trong một xã hội có những mối quan hệ quyền lực và phụ thuộc về
mặt tinh thần, chính trị và kinh tế đa dạng. Trong đó các quan hệ sản xuất,
yếu tố vật chất, sẽ quyết định phương thức sản xuất, yếu tố ý thức, là phương
thức cơ bản trong sản xuất và sở hữu hàng hóa tư liệu và quyết định tất cả
các quan hệ khác trong xã hội và sản xuất.
10


3.1.2 Chủ nghĩa Lênin .
Lênin đã nghiên cứu sâu sắc, toàn diện các đặc điểm và quy luật của chủ

nghĩa đế quốc để đề ra lý luận và sách lược bảo đảm cho cách mạng vô sản đi
đến thắng lợi.


Những lý luận quan trọng trong chủ nghĩa Lênin:
- Lý luận về chủ nghĩa đế quốc và cách mạng vô sản trong thời đại đế
quốc chủ nghĩa: Trong giai đoạn này, các mâu thuẫn của xã hội tư bản
chủ nghĩa đã sâu sắc đến tột bậc. Kết quả của sự phát triển các mâu
thuẫn sâu sắc ấy là phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động trong các nước đế quốc cũng như phong trào giải phóng ở
các nước thuộc địa và phụ thuộc bùng lên rầm rộ chưa từng thấy; cả hai
hợp thành một làn sóng cách mạng mạnh mẽ làm lung lay chủ nghĩa đế
quốc đến tận gốc. Từ đó,Lênin đã nêu ra lý luận mới về cách mạng xã hội
chủ nghĩa: "cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ không phải chỉ là và chủ yếu là
một cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản cách mạng ở từng nước chống lại
giai cấp tư sản ở nước mình; đó sẽ là cuộc đấu tranh của tất cả các thuộc
địa và tất cả những nước bị chủ nghĩa đế quốc áp bức, của tất cả các
nước phụ thuộc chống lại chủ nghĩa đế quốc.
- Lý luận về chuyên chính vô sản, lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội:
Lênin đã khẳng định rằng thắng lợi của cách mạng vô sản nhất định sẽ
dẫn đến chuyên chính vô sản và bắt đầu thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, phải xây dựng nền kinh tế mới, xã hội
chủ nghĩa trên cơ sở kỹ thuật hiện đại để làm nền tảng vật chất cho xã
hội mới.
- Lý luận hoàn chỉnh về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân: Trong
thời đại đế quốc chủ nghĩa, khi nhiệm vụ chiến đấu cách mạng chống ách
thống trị của giai cấp tư sản và các thế lực phản động khác đã đặt ra một
cách trực tiếp, Lênin đã đề ra nhiệm vụ cấp thiết là phải xây dựng một
chính đảng cách mạng kiểu mới của giai cấp công nhân. Một đảng như
thế là bộ tham mưu, là đội tiên phong, là đội quân có tổ chức, là hình

thức tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân.

3.2 Cơ sở thực tiễn.

11

Tiền đề khoa học tự nhiên


Chủ nghĩa duy vật biện chứng của C.Mác là kết quả của sự tổng kết những
thành tựu khoa học của nhân loại, nhất là ba phát minh trong khoa học tự
nhiên: Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng; thuyết tế bòa và thuyết
tiến hóa của Đác-uyn. Đây là cơ sở khoa học để khẳng định rằng vật chất và
vận động của vật chất không do ai sáng tạo ra và không thể bị tiêu diệt.
Chúng chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác, từ hình thức này sang
hình thức khác.
-

-

Thuyết tiến hóa của Đácuyn (Charles Robert Darwin, 1809 – 1882)
đã đem lại cơ sở khoa học về sự phát sinh, phát triển của các giống
loài, mối liên hệ hữu cơ giữa các loài thực vật, động vật trong quá
trình chọn lọc tự nhiên.
Thuyết tế bào Học thuyết tế bào do GS. M.Slaiđen (trường Đại học
Gana,ở Đức) xây dựng năm 1838 đã mở rộng học thuyết tế bào từ
giới thực vật sang giới động vật, khiến loài người nhận thức được
rằng, tế bào là đơn nguyên kết cấu chung của mọi cơ thể sinh vật.

Những phát hiện nêu trên đã vạch ra quá trình biện chứng của sự vận

động,phát triển, chuyển hoá không ngừng của bản thân giới sinh vật.


Như vậy, sự ra đời của chủ nghĩa Mác là hiện tượng hợp quy luật, nó
vừa là sản phẩm của tình hình kinh tế xã hội đương thời, của tri thức
nhân loại trong các lĩnh vực khoa học, vừa là sản phẩm năng lực tư
duy và tinh thần nhân văn của những người sáng lập ra nó.

4.CÁCH MỆNH NHẤT.
4.1 Cơ sở lý luận.
Chủ nghĩa Mác- Lênin là học thuyết về sự phát triển, bao hàm cả sự phát
triển của cả chính học thuyết đó với tinh thần phê phán và tự phê phán. Bởi
lẽ, có nhiều vấn đề mà các ông chưa có điều kiện, thời gian nghiên cứu, làm
sang tỏ hoặc do hạn chế của lịch sử nên những luận điểm của các ông cần
phải điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Các ông đòi hỏi những người cách
mạng thời sau bổ sung và phát triển học thuyết đoc hoàn chỉnh.
Chủ nghĩa Mác – Lê nin ra đời là sự kế thừa và phát triển đến đỉnh cao của
hệ thống tư tưởng trước đó, tạo ra một bước ngoặt mới cho sự phát triển
loài người, đánh thẳng vào các hệ tư tưởng cũ của chế độ phong kiến cũng
như chủ nghĩa tư bản. Đồng thời đập tan sự bế tắc về phương hướng của các
12


nhà tư tưởng yêu nước, mở ra một con đường mới giải quyết được những
hậu quả và chế độ phong kiến tư bản chủ nghĩa để lại. Nó cũng chỉ ra phương
thức đấu trang để giành lấy thắng lợi của giai cấp vô sản.
Không chỉ được vận dụng trong các cuộc đấu tranh giành chính quyền, chủ
nghĩa Mác- Lê nin còn là nền tảng cho sự tiến bộ của các nước xã hội chủ
nghiã khi mang lại những phương thức phát triển kinh tế xã hội mới với
nhiều điểm tiến bộ. Điều đó được chứng minh bằng thành công của cách

mạng tháng Mười Nga (1917).
Chủ nghĩa Mác – Lê nin là đỉnh cao của tư duy nhân loại; là thế giới quan,
phương pháp luận khoa học và cách mạng, hệ tư tưởng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, các đảng cộng sản và công nhân trong đấu tranh
xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
4.2 Cơ sở thực tiễn.


Bối cảnh thế giới.
Chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do chuyển sang giai đoạn độc
quyền đã xác lập quyền thống trị của chúng trên phạm vi toàn thế giới.
Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa.

Từ cuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân các nước tư bản chủ nghĩa cuối thế
kỉ XIX đầu thế kỉ XX đã dẫn đến một cao trào mới của cách mạng thế giới với
đỉnh cao là Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Cuộc cách mạng vĩ đại
này đã làm thức tỉnh tinh thần dân tộc châu Á.


Cách mạng tháng 10 Nga (1917)

Dựa vào sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, cùng với việc tận dụng thời
cơ khi đế quốc đang tham chiến, cuộc khởi nghĩa vũ trang do Đảng Bôn sê
vích và Lê nin lãnh đạo đã nhanh chóng giành thắng lợi. Thành công của cách
mạng tháng Mười Nga đã chấm dứt tồn tại song song hai chính quyền gồm
giai cấp tư sản và vô sản, hình thành nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên
trên thế giới, đưa nước Nga đi theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Với những người Cộng sản và các phong trào Giải phóng dân tộc, Cách mạng
Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, do giai cấp vô sản tiến

hành, thắng lợi của cuộc cách mạng đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh
của giai cấp công nhân quốc tế và ở các nước thuộc địa, mở ra con đường
13


giải phóng các dân tộc bị áp bức; mở ra thời đại mới: Thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Tháng 3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản ra đời.


Bối cảnh Việt Nam.

Trong nước, chính quyền triều Nguyễn đã từng bước khuất phục trước cuộc
xâm lược của tư bản Pháp, lần lượt ký kết các hiệp ước đầu hang, thừa nhận
nền bảo hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Cho đến cuối thế kỉ
XIX, các cuộc khởi nghĩa vũ trang dưới khẩu hiệu “Cần Vương” do các sĩ phu,
văn thân lãnh đạo cuối cùng đã thất bại. Hệ tư tưởng phong kiến tỏ ra lỗi
thời trước các nhiệm vụ lịch sử.
Đầu thế kỉ XX, ảnh hưởng các trào lưu cải cách ở Nhật Bản, Trung Quốc,
phong trào yêu nước của nhân dân ta chuyển sang xu hướng dân chủ tư
sản; các sĩ phu Nho học có tư tưởng tiến bộ, thức thời , tiêu biểu như: Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh đã cố gắng tổ chức và vận động cuộc đấu tranh
chống Pháp theo mục tiêu và phương pháp mới song chủ trương cầu ngoại
viện, dung bạo lực để khôi phục độc lập của Phan Bội Châu đã thất bại; chủ
trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ” khai thông dân trí, nâng cao dân trí trên cơ sở
đó mà lần tính chuyện giải phóng của Phan Châu Trinh không thành công,…


Phong trào cứu nước của nhân dân ta muốn giành được thắng lợi phải
đi theo một con đường mới.


Trên hành trình đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nhận ra bản chất của
chủ nghĩa đế quốc là “ăn cướp” và “giết người”. Vì vậy, chủ nghĩa thực dân là
kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và lao động
trên toàn thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi
theo con đường cách mạng vô sản và là bộ phận của cách mạng vô sản thế
giới. Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động, giải
phóng giai cấp công nhân.


14

Nghiên cứu tình hình cụ thể các nước phương Đông, Hồ Chí Minh cho
rằng với những lý do lịch sử cho phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập dễ
dàng vào Châu Á, dễ dàng hơn là ở Châu Âu. Điều này hoàn toàn có căn
cứ, có cơ sở khoa học.


Điểm khác biệt giữa Á với Âu, Đông và Tây là ở chỗ ảnh hưởng của cái gọi là
phương thức sản xuất Châu Á lâu dài, dai dẳng, đã tạo nên một đặc điểm đặc
trưng của phương Đông là việc không có sở hữu tư nhân về ruộng đất, cái mà
C.Mác gọi là cơ sở, còn Ph.Ăngghen gọi là chiếc chìa khoá để hiểu toàn bộ
phương Đông. Trên cơ sở phân tích tình hình xã hội phương Đông nói chung
và Việt Nam nói riêng, Người cho rằng cuộc đấu tranh giai cấp ở đây không
diễn ra giống như ở phương Tây. Người cho rằng về phía Việt Nam người lao
động, đó là sự không giác ngộ, sự nhẫn nhục và vô tổ chức, còn về phía bọn
chủ thì không có máy móc, ruộng đồng thuộc sở hữu của những địa chủ hạng
trung, hạng nhỏ và những kẻ ở đó được coi là đại địa chủ thì chỉ là những tên
lùn tịt bên cạnh những người trùng tên với họ ở Châu Âu và Châu Mỹ, không
có tỷ phú người An Nam. Những tên trọc phú ở đó thì ở đây chỉ là những kẻ

thực lợi khá giả thôi. Cho nên, nếu nông dân chỉ sống bằng cái tối thiểu cần
thiết thì đời sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa, nếu thợ thuyền
không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ lại không hề biết công cụ để bóc
lột của họ là máy mócl. Người thì nhẫn nhịn chịu số phận của mình, kẻ thì vừa
phải trong sự tham lam của mình, sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm
thiểu. Điều đó không thể chối cãi được. Vì vậy, Người còn cho rằng đấu tranh
giai cấp ở các nước phương Đông không quyết liệt như ở phương Tây, còn ở
Việt Nam, chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của lịch sử.
Đến thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển đạy đến đỉnh điểm là chủ
nghĩa đế quốc. Các nước đế quốc châu Âu tang cường xâm chiếm, tranh giành
thuộc địa. Hầu hết các nước ở châu Á, châu Phi, châu Mĩ Latinh trở thành
thuộc địa hay nửa thuộc địa. Sự bóc lột, áp bức của đế quốc với thuộc địa
ngày càng gia tăng làm cho mâu thuẫn giữa đế quốc và dân tộc ngày càng
sâu sắc. Trong hoàn cảnh mất nước thì quyền lợi dân tộc được đặt lên trên
quyền lợi giai cấp, vì có giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp, giải
phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp, tạo tiền đề, điều
kiện thuận lợi để giải phóng giai cấp. Các nước châu Á hơn bao giờ hết cần
con đường để đánh đổ đế quốc, giành độc lập dân tộc. Chủ nghĩa cộng sản có
thể đáp ứng được các yêu cầu đó của các nước thuộc địa, vậy nên nó dễ dàng
thâm nhập vào châu Á.
5. TÍNH ĐÚNG ĐẮN CỦA CHỦ NGHĨA LÊNIN.
5.1 Cơ sở lý luận.

15


Một trong những cống hiến xuất sắc nhất của Lê-nin đối với sự phát triển
của học thuyết Mác là lý luận về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Những quan điểm cơ bản về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của chính đảng
cách mạng được Lê-nin vạch ra, cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị lý luận,

thực tiễn và nóng hổi tính thời sự cấp bách trong công tác xây dựng đảng của
các đảng cộng sản cầm quyền, trong đó có Đảng ta.
Một số điểm nổi bật:
- Chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của
Đảng Cộng sản
- Đảng Cộng sản là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là đội ngũ có tổ chức
chặt chẽ nhất, cách mạng nhất và giác ngộ nhất của giai cấp công nhân. Vai
trò tiên phong của Đảng thể hiện trên lĩnh vực lý luận, về mặt tổ chức và hành
động gương mẫu của đảng viên trong thực tiễn.
- Khi có chính quyền, Đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị của chủ
nghĩa xã hội và là một bộ phận của hệ thống đó.
- Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ chức, sinh hoạt
và hoạt động của Đảng. Tập trung dân chủ là thuộc tính cơ bản của đảng, thể
hiện bản chất và sự sống còn của Đảng; là tiêu chí để phân biệt chính đảng
kiểu mới của giai cấp công nhân - Đảng cách mạng chân chính với các đảng
phái khác.
- Đảng là một khối thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là nguồn
gốc sức mạnh chủ yếu, vô địch và vô tận của đảng, là điều kiện để đoàn kết
giai cấp.
- Đảng gắn bó chặt chẽ với nhân dân, kiên quyết đấu tranh để ngăn ngừa và
khắc phục bệnh quan liêu, xa rời nhân dân.
- Đảng phải tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động vào Đảng, kịp thời đưa những người không đủ tiêu chuẩn
và những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng.
- Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là bản chất của Đảng Cộng sản.
Cống hiến về lý luận và thực tiễn của Lê-nin trong công tác xây dựng Đảng
như đã nêu là những chỉ dẫn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với Đảng ta về
16



xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là trong bối cảnh toàn Đảng đang tích cực
nghiên cứu, quán triệt và từng bước đưa Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần
thứ tư, khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" vào thực
tiễn cuộc sống.
5.2. Cơ sở thực tiễn.
Trải qua 84 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng
bước thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình.
-

-

-

17

15 năm sau khi thành lập, Đảng đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám năm
1945 thành công, đánh đuổi đế quốc, thực dân, lật đổ chế độ phong kiến,
lập ra nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á; mở ra một kỷ
nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và
chủ nghĩa xã hội. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, cả dân tộc
Việt Nam đã nghe theo lời kêu gọi của Đảng, của Bác Hồ, lên đường kháng
chiến và cuối cùng đã giành được thắng lợi to lớn, đánh thắng đế quốc
xâm lược và lập lại hòa bình ở miền Bắc Việt Nam.
Trong hoàn cảnh đất nước tạm bị chia làm hai miền, Đảng đã lãnh đạo
nhân dân cả nước tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng: cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền
Nam. Khi Mỹ đưa quân vào xâm lược ở miền Nam (năm 1965), tiến hành
chiến tranh cục bộ đánh phá các căn cứ cách mạng ở miền Nam và mở
rộng chiến tranh xâm lược ra miền Bắc (năm 1964), Đảng đã lãnh đạo
nhân dân hai miền đánh cho Mỹ cút (năm 1973), đánh cho ngụy nhào, giải

phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc (năm 1975), đưa cả nước
đi lên chủ nghĩa xã hội. Với thắng lợi vĩ đại của các cuộc cách mạng: Tháng
Tám năm 1945, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946 1954) và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975) do Đảng
Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh lãnh đạo, dân tộc
Việt Nam trở thành một trong những dân tộc đầu tiên làm cách mạng giải
phóng dân tộc thành công ở một nước thuộc địa và lệ thuộc; một trong
những dân tộc đầu tiên đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực
dân mới, mở đầu phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi, châu
Mỹ - La-tinh.
Sau thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân năm 1975, đất nước
Việt Nam thống nhất, Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trước tình hình đất nước


gặp nhiều khó khăn về kinh tế, đời sống nhân dân còn thiếu thốn, Đảng đã
chủ động khởi xướng và lãnh đạo thành công công cuộc đổi mới đất nước
(năm 1986). Những thành tựu to lớn trong gần 30 năm đổi mới trên các
lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, quan hệ
quốc tế... đã khẳng định tính đúng đắn và sáng tạo trong đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ một đất nước bị tàn phá nặng nề bởi nhiều
cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, bị các thế lực thù địch
điên cuồng đánh phá, bị bao vây, cấm vận kinh tế, lại phải chịu nhiều tổn
thất do thiên tai khắc nghiệt gây ra, Việt Nam đã nhanh chóng khôi phục
và phát triển kinh tế - xã hội; đời sống của các tầng lớp nhân dân lao động
không ngừng được cải thiện; chính trị ổn định; lòng tin của quần chúng
nhân dân đối với Đảng được củng cố; vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế được nâng cao. Với những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới
đất nước, Việt Nam trở thành một trong những nước xã hội chủ nghĩa đầu
tiên tiến hành đổi mới thắng lợi theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhân
dân, dân tộc Việt Nam có quyền tự hào về Đảng Cộng sản Việt Nam - người

lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân. Từ thắng lợi của công
cuộc đổi mới đất nước, chúng ta có thể khẳng định một cách có cơ sở rằng,
được trang bị bằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, được
các tầng lớp nhân dân ủng hộ, tin và đi theo, Đảng Cộng sản Việt Nam có
đủ bản lĩnh, trí tuệ, khả năng lãnh đạo nhân dân Việt Nam không chỉ
thắng lợi trong đấu tranh giành và giữ chính quyền trong chiến tranh giải
phóng và chiến tranh giữ nước, mà cả trong xây dựng phát triển kinh tế,
xây dựng đất nước theo mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
6. TỔNG KẾT.
Chủ nghĩa Mác- Lê nin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận, nguồn gốc
tư tưởng, lý luận trực tiếp quyết định bản chất cách mạng, khoa học của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Nhờ vậy, Hồ Chí Minh đã có bước phát triển về chất từ
một người yêu nước trở thành chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, tìm ra con đường cứu
nước đúng đắn. Hồ Chí Minh luôn là người xuất phát từ thực tiễn Việt Nam,
vận dụng sang tạo chr nghĩa Mác – Lê nin vào thực tiễn đất nước, đề ra
đường lối cách mạng đúng đắn, lãnh đạo nhân dân ta vượt qua muôn vàn
khó khăn thử thách để đạt được thắng lợi vẻ vang.

18


19



×