Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

BỘ MÁY NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THỜI PHÁP THUỘC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.58 KB, 21 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA LUẬT

BÀI THUYẾT TRÌNH

BỘ MÁY
NHÀ
NƯỚC VÀ

Năm học 2015-2016


Mục lục
Tình hình Việt Nam đứng trước nguy cơ xâm lược của thực
dân Pháp:
Thủ đoạn của Pháp chiếm các tỉnh của ta:
Bộ máy cai trị và pháp luật của Pháp lên chính quyền nước
ta chia:
1. Giai đoạn từ năm 1862-1887
2. Giai đoạn từ năm 1887-1945 (sau ngày thiết lập chế độ
toàn quyền Đông Dương 17/10/1887)
Đánh giá so sánh bộ máy Bắc kì – Trung kì – Nam kì:
Khái quát sơ lược về tình hình Đông Dương ảnh hưởng như
thế nào đên nước ta:
Tài liệu tham khảo

I.

II.
III.



IV.
V.

VI.
I.
1.

Việt Nam trước âm mưu xâm lược của thực dân Pháp:
Cuộc khủng hoảng suy vong của chế độ phong kiến triều
Nguyễn:
a) Về chính trị

-Ngay từ đầu, chế độ nhà Nguyễn đã bộc lộ yếu điểm về chính trị: khác
với các triều đại trước thường được thiết lập trên cơ sở thắng lợi của
những cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, hoặc sau khi hoàn thành
những nhiệm vụ chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập, củng cố quốc gia...
Còn triều Nguyễn, được dựng lên bằng một cuộc nội chiến mà kẻ thắng
đã dựa vào thế lực ngoại bang. Về mặt khách quan là đi ngược lại
nguyện vọng và quyền lợi của dân tộc.
b)

Tình hình kinh tế:


-Kinh tế nông nghiệp vẫn được coi là nền tảng.
-Với sự thắng thế của giai cấp địa chủ cường hào, ruộng tư ngày càng
lấn ruộng công làng xã, khiến cho số dân mất đất phải đi lưu tán ngày
càng đông và trở thành một hiện tượng xã hội trầm trọng. Để khắc phục
khó khăn nhà Nguyễn đã có những chính sách tích cực, tiêu biểu là

chính sách khẩn hoang. Nhà Nguyễn cũng lưu ý việc đào thêm kênh,
nhưng điều đó không bù đắp được việc chểnh mảng đê điều khiến cho
nạn vỡ đê liên tiếp xảy ra.
- Ruộng công bị đánh thuế rất nặng. Làm cho đời sống nhân dân càng
khó khăn.
c)

Công thương nghiệp:

-Chính sách bế quan tỏa cảng đã làm kìm hãm sự phát triển kinh tế.
-Vào thế kỉ 19 được coi là bản lề với xã hội châu Á. Trước áp lực của
chủ nghĩa thực dân phương Tây, việc mở cửa, khai phóng những nhân tố
kinh tế tư bản chủ nghĩa là con đường duy nhất để bảo vệ nền độc lập.
Nhưng ngay trên phương diện kinh tế nhà Nguyễn vẫn không làm được
điều đó.
d)

Chính trị - xã hội:

-“Quan lại khắc nghiệt lấy giấy tờ làm giông cùm, lấy dân đen làm cá
thịt… Thể chế ấy sinh ra sự lộng hành ghê gớm của bọn cường hào”
Vua Tự Đức thú nhận.
- Sự trả thù thái quá với nhà Tây Sơn, sự chia rẽ trong hoàng tộc vì việc
phế lập. => Những sự kiện đó chỉ làm cho tình hình đât nước them rối
ren.
-Xung đột xã hội ngày càng gay gắt => Phong trào nông dân khởi nghĩa,
tiêu biểu là khởi nghĩa của Phan Bá Vành.


e)


Quân sự:

- Ảnh hưởng tư tưởng quân sự phương Tây
-Quân đội tuy đông nhưng yếu kém về luyện tập, vũ khí thiếu, lạc hậu.
f)

Văn hóa – tư tưởng:

-Sự du nhập ngày càng mạnh của thiên chúa giáo từ thế kỉ 16, truyền
thống “Tam giáo đồng quy” bị đe dọa nghiêm trọng. Cuộc chiến tranh
xâm lược của thực dân Pháp nổ ra, ba vấn đề tư tưởng: Chính đạo hay tà
đạo, chiến hay hòa, duy tân hay thủ cựu đã chi phối từ cung đình xuống
dân chúng. Nhiều sĩ phu yêu nước quay lung lại với xu hướng cải cách
ủng hộ việc “cấm đạo” của triều đình, được thi hành ngày càng gay gắt
từ thời Minh Mạng, một chính sách tuy có hạt nhân hợp lý và có ý nghĩa
bảo vệ an ninh quốc gia.
-Triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam dù có những sự phát triển,
có những mặt phát triển, có những thành tựu mở mang kinh tế và văn
hóa theo sự lớn mạnh về tầm vóc lịch sử dân tộc đầu thế kỉ 19, nhưng nó
không thể giải quyết được xu thế khủng hoảng của chế độ phong kiến
Việt Nam thế kỉ 18, đặc biệt từ khi làn sóng thực dân phương Tây càng
đến gần.
2.

Âm mưu xâm lược của thực dân Pháp:

-Nhiều người viết sử nước ngoài cho rằng, sở dĩ nước Pháp nổ súng
đánh Việt Nam giữ thế kỉ XIX là vì vấn đề công giáo. Thực ra đó chỉ là
cái cớ trực tiếp.

-Gotxolanh, một võ quan Pháp đã nói: “Đồng bào Pháp do ít hiểu lịch sử
cho rằng, nước Pháp phải can thiệp vào An Nam chỉ là để bảo vệ các
nhà truyền giáo, để trả thù những hành động đối nghịch ngược đãi với
đạo Gia Tô. Sự thật thì các nhà truyền giáo chỉ là lí do của những hành
động của chúng ta chống lại An Nam mà thôi... Nước An Nam đã cho


chúng ta cơ hội ấy và chúng ta đã nắm ngay cơ hội ấy và giờ đâu việc
đánh chiếm đã hoàn thành...”
II.
Thủ đoạn của Pháp chiếm các tỉnh của ta
-Âm mưu của Pháp: Cho tên Đuy puy vào gây rối ở Hà Nội, lấy cớ đưa
quân ra Bắc để giải quyết vụ việc, nhưng thực chất là đánh chiếm thành
Hà Nội.
-Ngày 20/11/1873, quân Pháp do Gác-ni-ê chỉ huy nổ súng đánh thành
Hà Nội, rồi sau đó mở rộng đánh chiếm các tỉnh Bắc Kì.


Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ nhất năm 1873

-Pháp thiết lập bộ máy cai trị, biến nơi đây thành bàn đạp xâm chiếm
Bắc Kì.
-Viện cớ giúp triều đình nhà Nguyễn giải quyết vụ lái buôn Đuy puy gây
rối ở Hà Nội, Pháp đem quân xâm chiếm Bắc Kì.
-Tháng 11/1873, Gác-ni-ê đem quân tới Hà Nội. Ngày 19/11/1873, Gácni-ê gửi tối hậu thư cho Nguyễn Tri Phương-tổng đốc thành Hà Nội, yêu
cầu giải tán quân đội, nộp vũ khí và cho Pháp đóng quân trong nội
thành. Không đợi trả lời ngày 20/11/1873 Pháp chiếm thành, sau đó mở
rộng đánh chiếm Hưng Yên, Phủ Lí, Hải Dương,Ninh Bình, Nam Định





Biến cố Bắc Kì (1873): Sau khi đánh thành Hà Nội thất thủ, triều
đình Huế phản kháng mạnh mẽ việc đại úy Gác ni ê bất ngờ đánh
thành Hà Nội. Các quan lại và binh lính triều đình cũng nhận được
chuẩn bị đối phó với quân Pháp. Để đáp lại, Gác ni ê cho quân
đánh các tỉnh xung quanh Hà Nội để thực hiện việc bình định Bắc
Kì như một việc đã rồi.
Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ hai năm 1882-1883
• Nguyên nhân: Những năm 70 của thế kỉ XIX, nước Pháp
chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Yêu cầu về thị
trường, nguyên liệu công nhân và lợi nhuận dặt ra ngày càng
cấp thiết. Thực dân Pháp ráo riết xúc tiến âm mưu xâm lược
toàn bộ Việt Nam.
• Thủ đoạn


-Năm 1882, Pháp vu cáo triều đình vi phạm hiệp ước 1874 lấy cớ kéo
quân ra Bắc Kì.


Qúa trình xâm lược:

-3/4/1882, đại tá Rivie đổ bộ lên Hà Nội gửi tối hậu thư cho Hoàng
Diệu, yêu cầu giao thành trong 3 tiếng đồng hồ.
-25/4/1882 Pháp nồ súng đánh chiếm thành Hà Nội.
-3/1883, Pháp chiếm mỏ than Hồng Gai, Quảng Ninh, Nam Định


Kháng chiến Gia Định:


-Tháng 02/1859, Pháp chiếm Gia Định nhưng gặp nhiều khó khăn.
-Pháp đánh lại Gia Định chứ không đánh ra Bắc Kì do:
+ Gia Định xa Trung Quốc sẽ tránh được sự can thiệp của nhà thanh
+ Xa kinh đô Gia Định sẽ chiếm được kho gạo của triều đình Huế
+ Đánh xong Gia Định sẽ theo đường sông Cửu Long đánh Campuchia
và làm chủ sông Mê Kông.


Kháng chiến lan rộng ra miền Đông Nam Kì: 02/1861, Pháp tấn
công tại đồn Chí Hòa.



Thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây Nam kỳ:

-Lợi dụng sự bạc nhược của triều đình Huế, ngày 20/6/1867, Pháp ép
Phan Phanh Giản nộp thành Vĩnh Long không điều kiện.
-Từ 20 đến 24/6/1867, Pháp chiếm Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên
không tốn một viên đạn.
III.
1.

Bộ máy cai trị và pháp luật của Pháp lên chính quyền nước ta:
Giai đoạn (1862-1887)
• Bộ máy ở Bắc kì , Trung kì


Giai đoạn 1874 – 1883 : Pháp dần chiếm đóng Trung - Bắc Kì
-Tình hình chung

+ Về phía Pháp sau khi chiếm 3 tỉnh Tây Nam Kì ( 1867), Pháp dần
chiếm đóng Trung-Bắc Kì (1874- 1884)
+ Về phía triều đình Huế: không có động thái nào để chấn chỉnh kinh tế,
quốc phòng,…
+ Về phía người dân : ngày càng đói khổ phẩn uất
-Chế độ đại biện:
+ Pháp đặt quan chức đại biện ở triều đình Huế theo hiệp ước ngày
15/03/1974 đóng vai trò là phái viên ngoại giao của chính phủ Pháp tại
triều đình Huế. Với nhiệm vụ duy trì mối quan hệ giữa hai nước và giám
sát triều đình phong kiến thực hiện các cam kết ngày 15/03/1974 đã kí
với Pháp.
+ Năm 1883 Pháp tăng cường can thiệp sâu vào Trung kì và Bắc kì đặt
ra chế độ tổng uỷ viên. Tổng uỷ viên là người Pháp uỷ quyền đại diện
cho mình ở Bắc kì và Trung kì.
Giai đoạn 1884-1887 :
+ Sau khi chiếm xong Nam Kì thực dân pháp có thêm điều kiện để ráo
riết chuẩn bị cuộc tấn công chinh phục toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.


+ Trước âm mưu đó triều đình phong kiến Nhà Nguyễn vẫn hoàn toàn bị
động và bất lực, không cải tổ cách tân, chấn hưng, khai thông dân trí,
bảo vệ đất nước.


Tạo cơ hội cho thực dân Pháp chiếm đóng Bắc Kì (1873-1884)
với điều ước Pa tơ - nốt (6/6/1884) buộc triều đình Huế phải
thừa nhận quyền đô hộ của thực dân Pháp trên toàn lãnh thổ
Việt Nam.

+ Dựa trên hiệp ước đã kí với triều đình nhà Nguyễn thực dân Pháp đã

từng bước tăng cường xây dựng hệ thống chính quyền của chúng ở
Trung kì.
-Bộ máy
+ Cấp trung ương : đứng đầu là viên Tổng trú sứ chung cho cả Bắc và
Trung kì thay mặt cho chính phủ Pháp chủ trì mọi việc đối ngoại của
Nam Triều và mọi quan hệ giữa chính phủ Pháp và Nam
+ Cấp kì: đứng đầu Bắc Kì là viên thống sứ Bắc kì, đứng đầu Trung Kì
là khâm sứ Trung Kì. Cả hai đều trực thuộc Tổng trú sứ Bắc-Trung Kì
khi chế độ Tổng trú sứ còn tồn tại (9/5/1889) ngoài ra ở Bắc Kì còn có
chức Kinh lược có toàn quyền thay mặt triều đình Huế cai trị Bắc Kì.


Đây là hành động tách Bắc Kì ra khỏi sự kiểm soát của
triều đình Huế. Chế độ Kinh lược tồn tại đến 13/8/1897

+ Cấp tỉnh đứng đầu tỉnh là viên Công sứ Pháp
-Ở Bắc Kì chức này được thiết lập theo hiệp ước 25/8/1883. Chức năng
của Công sứ Pháp ở Bắc Kì:
-Kiểm soát việc cai trị của quan lại hàng tỉnh người bản xứ mà không
trực tiếp cai trị
-Về tư pháp chịu trách nhiệm xét xử các án dân sự, thương mại và tiểu
hình xảy ra giữa người Âu và người Âu.


+Về tài chính kiểm soát việc thu thuế sử dụng tiền thu thuế với sự hổ trợ
của Bố Chánh người Việt.
-Ở Trung Kì, chức công sứ thiết lập theo quy ước ngày 30/7/1885. Chức
năng công sứ của các tỉnh Trung Kì chưa được quy định cụ thể như Bắc
Kì (qua điều 6 hiệp ước 25/8/1883 thì Công sứ Pháp là người nắm giữ
các vấn đề thương và công chính).

-Hàng tỉnh người Việt vẫn tiếp tục cai trị như trước mà không phải chịu
sự kiểm soát của người Pháp.
+Ngoài ra các tỉnh Bắc và Trung Kì còn tồn tại chính quyền bản sứ cấp
tỉnh do người Việt quản lí.


Bộ máy Nam kỳ:

-Nam kỳ (3 tỉnh miền Đồng:Gia Định ,Định Tường ,Biên Hòa )
-Sau khi chiếm được 3 tỉnh miền Đông ,thực dân Pháp đã đặt 3 tỉnh này
vào phạm trù “thuộc địa “
-6/1862 -7/1879 mở đầu cho thời kì “ chế độ võ quan” thực dân cai trị ở
Nam Kì. Tiếp đó là”chế độ văn quan”
Bộ máy:
+Ở trung ương
-Đứng đầu là Thống Đốc và các cơ quan phụ tá giúp việc cho Thống
Đốc




Bốn viên chức thực dân nêu trên hợp lại thành hội đồng Tư
Mật , dưới sự chủ trì của thống đốc.

-Ngoài ra còn có một số tổ chức cấp cao khác như Nha nội chính và hội
đồng Tư Mật.
+ Ở cấp khu:
-Ngày 5/1/1876 thống đốc Nam Kì ra nghị định phân chia toàn bộ địa
bàn Nam Kì thành 4 khu vực hành chính lớn.


NAM KÌ


SÀI GÒN

MỸ THO

VĨNH LONG

BÁC XÁC

Tây Ninh

Mỹ Tho

Vĩnh Long

Châu Đốc

Gò Công

Bến Tre

Hà Tiên

Biên Hòa

Tân An

Trà Vinh


Long Xuyên

Bà Rịa Vũng Tàu

Chợ Lớn

Sa Đéc

Rạch Gíá

Thủ Dầu Một

Gia Định

Cần Thơ
Sóc Trăng

-Mỗi khu hành chính do 3 viên chức phối hợp thực hành.
Hạng 1: Tổng biện lí (phụ trách về Tư Pháp)
Hang 2: Giám đốc nội chính (phụ trách về hành chính)
Hạng 3: Chánh chủ trị( phụ trách về thuế, khóa)
+ Cấp tiểu khu:
-Từ ngày 1/10/1900 tiểu khu đổi tên thành tỉnh.
-Đứng đầu tiểu khu là tỉnh do người Pháp cai trị, chia thành các trung
tâm hành chính, do viên chức người Việt đảm nhận.
-Tuy nhiên bấy giờ Nam kì không chia cấp phủ, huyện nên chức Tri
Phủ, Tri Huyện ở đây chỉ là chức vị tương đương với chức Tri Phủ và
Tri huyện thời phong kiến, còn chức đốc phủ sứ tương đương với chức
tuần phủ thời trước.



+ Cấp tổng: Mỗi tiểu khi chia thành nhiều tổng. Đứng đầu là chánh tổng
và phó tổng người Việt.
+ Cấp xã: Dưới mỗi tổng chia thành nhiều xã. Đứng đầu là xã trưởng và
phó lí.
+ Cấp thành phố:
-Ngày 8/1/1877 tổng thống Pháp kí sắc lệnh thành lập ra thành phố Sài
Gòn, đứng đầu là Đốc Lí, phụ tá cho Đốc Lí là Phó Đốc Lí.
-Ngày 20/10/1879 theo nghị định của thống đốc Nam Kì đã thành lập
thành phố chợ lớn, đứng đầu là Đốc Lí, phụ tá cho Đốc Lí là Uỷ Ban
thành phố.
-Có 2 hội đồng
+ Hội đồng thuộc địa Nam Kì (tư vấn cho chính quyền các vấn đề liên
quan đến quyền lợi kinh tế và tài chính cho cả người Pháp và người
Việt.)
+ Hội đồng tiểu khu (tư vấn cho chính quyền các vấn đề liên quan đến
địa phương).
Nhưng cả 2 hội đồng này đều tuyệt đối không được bàn tới
chính trị
Giai đoạn 1887-1945: Sau khi thành lập Liên minh Đông
Dương:
• Bộ máy Bắc Kì:


2.

-Cấp trung ương:
+Quyền lực chính trị ở Bắc Kì tập trung vào tay Thống sứ người Pháp
do Bắc Kì là đất “nữa bảo hộ” nên chính quyền thực dân Pháp chỉ tổ

chức tới cấp tỉnh


-Đứng đầu cấp trung ương là Thống sứ. Thống sứ có quyền hạn và
nhiệm vụ:
+ Chịu trách nhiệm bảo đảm việc thi hành luật, sắc lệnh của chính quốc
áp dụng ở thuộc địa và những nghị định của toàn quyền đông dương
+ Quyền ra những nghị định có tính lập quy
+ Quyền đề xuất những biện pháp cai trị ở Bắc Kì
+ Điều hành sử dụng dân sự giữ gìn trật tự an ninh chung ở Bắc Kì
+ Thông qua công sứ tỉnh chỉ đạo mọi hoạt động từ cấp tỉnh trở xuống.
+ Có quyền xét và ban cấp phẩm hàm cho toàn bộ qua lại và viên chức ở
người Việt ở Bắc kì.
+Các cơ quan phụ tá của thống sứ Bắc kì: Phủ thống sứ Bắc kì (1886),
phòng thương mại ở Bắc kì(1886), phòng canh nông Bắc kì , hội đồng
bảo hộ Bắc kì (1898), hội đồng giáo dục Bắc kì (1923), viện dân biểu
Bắc kì( 1926) hội đồng lợi ích kinh tế ,tài chính của người Pháp ở Bắc kì
(1928), Bắc kì cố vấn hội đồng(1933), ủy ban khai thác thuộc địa Bắc kì
(1937)
-Cấp tỉnh:
+ Đến cuối năm 1919 ở Bắc Kì có 21 tỉnh và 2 thành phố Hà Nội và Hải
Phòng và 4 đạo. Đây là những cấp hành chính tương đương nhau
+ Đứng đầu mỗi cấp tỉnh là công sứ hoặc phó sứ người Pháp, tỉnh quan
trọng có cả hai
+ Phụ tá cho công sứ và phó sứ có hai cơ quan tòa công sứ và hội đồng
hàng tỉnh
-Cấp thành phố đứng đầu là viên Đốc Lí người Pháp do thống sứ đề cử
và toàn quyền đảm nhiệm. Đốc Lí có chức năng địa vị pháp lí quyền hạn
tương đương công sứ



+Phụ tá cho Đốc Lí là tòa Đốc Lí và hội đồng thành phố với chức năng,
quyền hạn như những cơ quan phụ tá công sứ
+ Ngoài ra Pháp còn chuyển một số thị xã quan trọng lên thành Phố cấp
3 như Nam Định và Hải Dương... Đứng đầu thành phố cấp 3 là Đốc Lí
do công sứ tỉnh kiêm nhiệm, giúp việc cho công sứ và Đốc Lí là ủy ban
thành phố
-Cấp hành chính (đạo quan binh) mang tính chất quân sự đặc biệt chỉ có
ở Bắc Kì và tương đương với cấp tỉnh.
+ Năm 1891 ở Bắc kì có bốn đạo quan binh: Đạo quan binh Phả Lại,
Lạng Sơn, Yên Bái, Sơn La.
+ Đến năm 1916 thực dân Pháp đặt thêm đạo quan binh 5 là đạo quan
binh Lai Châu, gồm tỉnh Lai Châu và Thượng Lào. Đứng đầu mỗi đạo
quan binh là một sĩ quan cấp tá làm Tư Lệnh có quyền hành chính và tư
pháp ngang công sứ tỉnh dân sự và đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của
thống sứ Bắc kì.
+ Về quân sự Tư Lệnh Đạo quan binh chịu sự chỉ đạo trực tiếp của tổng
chỉ huy lực lượng chiếm đống Bắc kì. Cơ quan phụ tá của Tư Lệnh đạo
quan binh cũng được gọi là hội đồng thành tỉnh có chức năng và quyền
hạn như ở tỉnh dân sự.


Bộ máy Trung kì:

-Với sự thiết lập chế độ toàn quyền Đông Dương thì bộ máy thống trị
Trung kì hình thành hai hệ thống chính quyền song song tồn tại hay còn
gọi là chế độ “lưỡng thể” chính trị. Bên cạnh chính quyền của triều đình
nhà Nguyễn còn có hệ thống chính quyền của thực dân Pháp.
-Trung kì là chế độ bảo hộ Pháp vẫn duy trì chế độ bảo hộ triều đình nhà
Nguyễn nhưng không có thực quyền. Đứng đầu triều đình là vua, vua

chịu sự khống chế của khâm sứ Pháp.
-Năm 1894 để khống chế chặt chẽ hơn chính quyền nhà Nguyễn, ngân
sách Nam triều bị sáp nhập vào ngân sách chính quyền bảo hộ.


->Tất cả vua quan triều Nguyễn đều biến thành công chức lĩnh lương
của Pháp.
+ Các bộ: gồm 6 bộ: bộ lại, bộ hộ, bộ lễ, bộ binh, bộ hình, bộ công.
Năm 1908 lập thêm bộ học. Đến năm 1932 đổi tên thành bộ giáo dục.
-Chính quyền địa phương:
+ Các cấp tỉnh Trung kì gồm 14 Tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh,
Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi,Bình Định, Phú Yên,
Khánh Hoà, Phan Rang, Bình Thuận, Đắc Lắc.
+ Đứng đầu là Tổng Đốc, bố chánh đặc cách về thuế khoá, án sát đặc
cách về tư pháp, đề đốc phụ trách việc binh.
-> Quan lại triều đình Huế ở cấp tỉnh trong quá trình thi hành phải chịu
sự giám sát của chánh sứ người Pháp.
+Phủ- Huyện- Đạo- Châu: đứng đầu là các viên quan tương ứng. Tri
Phủ, tri huyện, quản đạo, tri châu
-Còn cấp tổng và cấp xã cơ bản cách thức tổ chức và chức năng giống
như ở Bắc Kì.
-Hệ thống chính quyền Thực Dân Pháp ở Trung Kì:
+Trung Kì duy trì chế độ nửa bảo hộ nên chính quyền thực dân Pháp chỉ
tổ chức tới cấp Tỉnh và cấp Thành Phố. Còn các cấp hành chính dưới
cấp này vẫn do triều đình Huế quản lý.
+ Cấp kỳ : Đứng đầu là toà khâm sứ Trung kì.
+ Phòng tư vấn liên hợp thương mại canh nông Trung kì.
+ Hội đồng bảo hộ Trung kì.
+ Hội đồng học chính Trung kì.
+ Viện dân biểu Trung kì.



+ Ủy ban kinh tế thuộc địa Trung kì.
=>Như vậy Trung Kì thành lập hội đồng cố vấn, còn các cơ quan khác ở
Trung Kì được thành lập theo các quy định của các cấp trên tương ứng.
-Cấp tỉnh:
+ Đứng đầu cấp tỉnh là viên công sứ Pháp ,dưới quyền công sứ Pháp còn
có cơ quan giúp việc như :toà công sứ,hội đồng hàng tỉnh.
-Cấp thành phố:
+ Thành phố Đà Nẵng được thành lập theo nghị định (24/5/1889)của
toàn quyền Đông Dương.Sau khi vua Đồng Khánh kí đạo dụ
(01/10/1888) nhường cho thực dân Pháp sở hữu hoàn toàn khu vực Đà
Nẵng . Đà Nẵng là thành phố cấp 2(đứng đầu là Đốc Lý người Pháp.
-Cấp xã:
+ Thực dân Pháp không trực tiếp can thiệp, nhưng thông qua chỉ đạo đối
với chính quyền Nam Triều để duy trì tổ chức chính quyền.
Bộ máy ở Nam kì:
-Sau khi thiết lập chế độ toàn quyền Đông Dương (17/10/1887), Nam Kì
là đất “thuộc địa”, vì vậy viên quan người Pháp đứng đầu ở đây gọi là
Thống đốc và quan trọng hơn là chính quyền của thực dân Pháp được tổ
chức tới tất cả các cấp. Khác với Bắc và Trung Kì chỉ tổ chức tới cấp
tỉnh.
-Thống đốc Nam kì có các cơ quan phụ
+ Tòa Thống đốc Nam Kì được thành lập (1868).



như

sau:


+ Hội đồng tư mật Nam kì (1869) tương dương với hội đồng bảo hộ ở
Bắc kì và trung kì.
+ Hội đồng thuộc địa Nam kì (1880) tương đương với cả 2 hội đồng lítài của người Pháp và viện dân biểu ở Bắc Kì và Trung Kì.


+ Phòng thương mại Nam kì (1888)
+ Phòng canh nông Nam kì (1897)
+ Hội đồng học chánh Nam kì (1923)
+Ủy ban khai thác thuộc địa Nam kì (1937)
-Đến cuối năm 1919, Nam kì có 20 tỉnh, 1 thành phố cấp I là Sài Gòn và
1 thành phố cấp 2 là Chợ lớn.


-Nam kì cũng có một số thành phố cấp 3. Tương đương với thành phố
cấp 3 ở ngoài Bắc như là Bạc Liêu, Cần Thơ, Rạch Giá, Long Xuyên,
Mỹ Tho.
-Ở cấp tỉnh, tổng, xã thì tương đối giống so với lúc trước (giai đoạn năm
1862 đến nắm 1886)
IV.







Đánh giá so sánh bộ máy Bắc kì – Trung kì – Nam kì:
So với Bắc kì thì khâm sứ Trung kì còn bị hạn chế quyền lực hơn
và không can thiệp vào chức năng toà án. Mà toà án từ cấp tỉnh trở

xuống hoàn toàn vẫn do quan lại người Việt điều hành.
Phương thức tổ chức trên của chính quyền thuộc địa ở Bắc kì và
Trung kì đã thực sự biến triều đình phong kiến Nam triều thành bù
nhìn, phục vụ đắc lực cho quyền lực chính trị và lợi ích kinh tế tư
bản và mại bản Pháp.
Bắc kì và Trung kì tồn tại song song hai chính quyền. Còn Nam kì
là đất “thuộc địa” của Pháp.
Ở Nam kì để nắm thật chặt cấp tỉnh, thực dân Pháp không chia
thành phủ, huyện như ở Bắc và Trung kì mà thiết lập trên địa bàn
tỉnh một số trung tâm hành chính và sở địa lí.


V.

Khái quát sợ lược về tình hình Đông Dương ảnh hưởng như
thế nào đến nước ta.

-Từ sau những thế kỷ XIX, các nước tư bản Phương Tây tiến dần lên, trở
thành những nước đế quốc chủ nghĩa càng ráo riết chạy đua tìm kiếm thị
trường ở các nước Phương Đông. Những vùng đất chưa bị thôn tính,
trong đó có VN, đều bị đe dọa nghiêm trọng. Sau khi ký với Trung Quốc
Hiệp ước Thiên Tân, ngày 27/6/1858, chính phủ thực dân pháp đã tiến
hành điều động hàm đội từ chiến trường Trung Quốc đi về phía nam để
chuẩn bị đánh chiếm Việt Nam.
-Quá trình xâm lược Đông Dương thực dân Pháp từng bước thiết lập
chính quyền ở từng nước Việt Nam, Campuchia, Lào và tiến tới thành
lập chính quyền chung cho toàn Đông Dương.
-Hiệp ước năm 1887, Pháp nắm quyền hành ở Campuchia và đặt ra sứ
Cao Miên “bảo hộ”. Để thống nhất quyền quản lí ở Đông Dương, sắc
lệnh ngày 17/10/1887 của tổng thống Pháp cho thành lập liên bang Đông

Dương bao gồm Việt Nam, Campuchia.
-Ngày 3/10/1893 Pháp buộc vua Xiêm, thừa nhận quyên thống trị của
Pháp tại Lào, và biến Lào thành “Ai lao bảo hộ”, đến 4/1899 thì buộc cả
Lào vào Đông Dương thuộc Pháp. Như vậy toàn bộ Đông Dương bị đặt
dưới sự cai trị của thực dân pháp. Thể thực chính tự quốc gia Việt Nam,
Campuchia, Lào bị xóa bỏ và biến thành 5 sứ là Nam kì, Trung kì, Bắc
kì, Cao Miên, Ai Lao dưới cái gọi là thể thức chính tự liên bang Đông
Dương do Pháp cai trị.
-Việc thành lập liên bang Đông Dương đã thật sự chấm dứt quyền ảnh
hưởng của Trung Quốc, Thái Lan ở khu vực này, nhằm giúp Pháp đặt
ách thống trị một các thống nhất tập trung bộ máy thuộc đia ở toàn Đông
Dương. Với chính sách chia để trị với mức độ phụ thuộc vào chính phủ
Pháp khác nhau như thuộc địa hoàn toàn bảo hộ, nữa bảo hộ của các sứ


nhằm chia sẽ khối đoàn kết thống nhất đân tộc Việt Nam. Dùng mọi thủ
đoạn nhằm phá hoại liên minh chiến đấu giữa 3 dân tộc (VN, Lào, CPC).
-Pháp cũng tăng cường tổ chức chính quyền ở Việt Nam một cách chặt
chẻ mang tính hệ thống hơn để đàn áp và bốc lột một cách có hiệu quả.
Trong đó, với mục đích tối thượng là biến gấp Đông Dương thành một
thuộc địa, khai khẩn bậc 1, đảm bảo siêu lợi nhuận cao nhất cho đế quốc
Pháp.
VI.

Tài liệu tham khảo:
1. Việt Nam sơ lược (Trần Trọng Kim) NXB văn học.
2. Tiến Trình Lịch sử Việt Nam (Nguyễn Quang Ngọc chủ
biên) NXB giáo dục.
3. Lịch sử Việt Nam (Ts.Nguyễn Văn Hiệp)
4. Một số hình ảnh trên mạng





×