Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Tiểu luận môn chính sách thuế phạm vi ảnh hưởng của thuế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (988.74 KB, 25 trang )

MỤC LỤC

I.

NGUYÊN TẮC XÁC ĐỊNH ẢNH HƯỞNG CỦA THUẾ ..................................1
1. Nguyên tắc 1: Trách nhiệm pháp lý của thuế không phân định rõ ai là người
gánh chịu thuế thực sự ..............................................................................................1
2. Nguyên tắc 2: Khía cạnh thị trường mà thuế đánh vào không phản ánh thích
hợp sự phân phối gánh nặng thuế .............................................................................4
3. Nguyên tắc 3: Những đối tượng có cung hoặc cầu không co giãn thì gánh chịu
thuế hoàn toàn ...........................................................................................................5

II.

MỞ RỘNG PHẠM VI ẢNH HƯỞNG CỦA THUẾ ........................................8
1. Phạm vi ảnh hưởng của thuế trong thị trường các yếu tố sản xuất ....................8
2. Phạm vi ảnh hưởng của thuế trong thị trường cạnh tranh không hoàn hảo .....11
3. Phạm vi ảnh hưởng của thuế và vấn đề vốn hóa ..............................................15
4. Phạm vi ảnh hưởng của thuế đến sự cân bằng ngân sách ................................16

III.

CÂN BẰNG TỔNG THỂ .................................................................................17
1. Xác định tính tương đương của thuế trong mô hình cân bằng tổng thể ...........17
2. Mô hình cân bằng tổng thể của Harberger .......................................................18
3. Phân tích sự tác động các loại thuế khác nhau .................................................19
4. Một vài đặc tính khác cần xem xét ...................................................................23

IV.

KẾT LUẬN ........................................................................................................24




PHẠM VI ẢNH HƯỞNG CỦA THUẾ
I. NGUYÊN TẮC XÁC ĐỊNH ẢNH HƯỞNG CỦA THUẾ
1. Nguyên tắc 1: Trách nhiệm pháp lý của thuế không phân định rõ ai là
người gánh chịu thuế thực sự
Khi đưa một sắc thuế vào vận hành cần xác định rõ phạm vi ảnh hưởng của
thuế. Để xác định phạm vi tác động của thuế cần phân biệt các khái niệm: Phạm vi
ảnh hưởng do luật pháp quy định và phạm vi ảnh hưởng kinh tế.
1.1. Phạm vi ảnh hưởng do luật pháp quy định
Phạm vi ảnh hưởng của luật pháp là xác định chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý
về nghĩa vụ nộp thuế. Đặc biệt đối với thuế gián thu và thuế trực thu, chủ thể chịu
thuế và chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý có sự khác nhau.
 Thuế trực thu (direct tax): là loại thuế thu trực tiếp vào khoản thu nhập,
lợi ích thu được của các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân. Thuế trực thu là loại thuế
mà người, hoạt động, tài sản chịu thuế và nộp thuế là một. Các loại thuế trực
thu: Thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế sử dụng đất nông
nghiệp, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế
tài nguyên, thuế nhà đất.
VD: Doanh nghiệp A có lợi nhuận trước thuế năm 2014 là 1 tỷ đồng, giả sử
thuế TNDN hiện tại là 25% thì số tiền thuế TNDN phải nộp là: 1 tỷ đồng x 25%
= 250 triệu đồng.
 Thuế gián thu (indirect tax): là loại thuế được cộng vào giá, là một bộ
phận cấu thành giá cả của hàng hóa. Thuế gián thu là hình thức thuế gián tiếp
qua một đơn vị trung gian (thường là các doanh nghiệp) để đánh vào người tiêu
dùng. Thuế gián thu là thuế mà người chịu thuế và người nộp thuế không cùng
là một. Chẳng hạn, chính phủ đánh thuế vào công ty (công ty nộp thuế) và công
ty lại chuyển thuế này vào chi phí tính vào giá hàng hóa và dịch vụ, do vậy đối
tượng chịu thuế là người tiêu dùng cuối cùng. Các loại thuế gián thu: Thuế giá
trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu, thuế bảo vệ môi trường.


1


VD: Anh B mua quyển sách giá chưa thuế 50.000 đồng, thuế VAT 10%. Vậy
tổng số tiền anh B phải thanh toán là 55.000 đồng, trong đó anh B phải gánh
chịu 5.000 đồng tiền thuế VAT và số tiền này người bán có trách nhiệm đi nộp.
 Một số đặc điểm của thuế trực thu và thuế gián thu:
Loại thuế

Ưu điểm

Nhược điểm

- Có tính công bằng hơn - Hạn chế sự cố gắng tăng
thu nhập của các đối tượng
thuế gián thu (phần đóng
Thuế trực thu

góp về thuế phù hợp với - Có thể dẫn tới những phản
khả năng của từng đối

ứng từ chối hoặc trốn thuế

tượng), có tính phân loại - Việc quản lý thu thuế phức
đối tượng nộp
tạp và chi phí cao
- Dễ thu vì tránh quan hệ
Thuế gián thu


trực tiếp giữa người chịu
thuế với cơ quan thu
thuế, dễ điều chỉnh

- Không có tính công bằng
vì mọi đối tượng đều chịu
mức thuế như nhau

1.2. Phạm vi ảnh hưởng kinh tế
Phạm vi ảnh hưỡng kinh tế thể hiện mức thay đổi phân phối thu nhập thực của
các chủ thể do thuế gây ra. Sự khác nhau giữa phạm vi ảnh hưởng do luật định và
phạm vi ảnh hưởng kinh tế phản ánh cơ chế dịch chuyển thuế. Liên quan đến phạm
vi ảnh hưởng kinh tế, theo quan điểm của các nhà kinh tế học, cho dù phạm vi ảnh
hưởng của các loại thuế có khác nhau, suy cho cùng chỉ có con người mới thực sự
gánh chịu thuế. Xác định người gánh chịu thuế phục vụ cho mục đích phân tích sự
tác động của thuế, đặc biệt là phân tích sự tác động của thuế đến mức độ phân phối
thu nhập của xã hội.
Khi thuế đánh vào người sản xuất trong một thị trường cạnh tranh, thì họ sẽ gia
tăng giá cả ở chừng mực nhất định để bù đắp gánh nặng thuế và thu nhập của
người sản xuất sẽ không giảm xuống bằng đúng số tiền thuế.
Gánh nặng thuế NSX = (Giá trước thuế - giá sau thuế) + Thuế nộp bởi NSX
2


Khi thuế đánh vào người tiêu dùng trong thị trường cạnh tranh thì họ sẽ không
sẵn lòng mua nhiều hàng hóa bị đánh thuế vì thế giá cả sẽ giảm xuống.
Gánh nặng thuế NTD = (Giá sau thuế - giá trước thuế) + Thuế nộp bởi NTD
Ví dụ: Ta xét thuế đánh vào thị trường dầu lửa và người sản xuất phải nộp thuế
với phương trình đường cung và đường cầu lần lượt như sau:
Cung: QS = 50PS + 25;


Cầu: QD = -100/3PD + 150

Ban đầu thị trường dầu lửa cân bằng tại điểm A với giá P1 = 1,5 đôla tại mức
sản lượng Q1 = 100 tỷ gallon. Khi chính phủ đánh thuế 0,5 đôla vào người sản xuất
dầu lửa. Khi đó đường cung S1 dịch chuyển sang S2 với đường cung S2: QS = 50PS.
Giá cả tiếp tục gia tăng đến khi thị trường đạt được điểm cân bằng mới (điểm D)
với giá thị trường P2 = 1,8 đôla và số lượng là 90 tỷ gallon. Giá cả thị trường bây
giờ cao hơn 0,3 đôla so với trước khi đánh thuế.
Điều này gây ra hai ảnh hưởng đến những người tham gia thị trường dầu lửa:
 Thứ nhất: làm thay đổi giá cả thị trường tăng 0,3 đôla từ 1,5 đôla lên 1,8
đôla.
 Thứ hai: người sản xuất phải nộp thuế cho chính phủ 0,5 đôla/gallon được
bán trên thị trường.
Từ góc độ của người tiêu dùng, họ phải trả thêm 0,3 đôla/gallon mặc dù người
tiêu dùng không chịu trách nhiệm pháp lý nộp thuế cho chính phủ mà là người sản
xuất có trách nhiệm nộp thuế 0,5 đôla so với người sản xuất đến người tiêu dùng.

3


 Gánh nặng của người tiêu dùng = (1,8 – 1,5) + 0 = 0,3 đôla
 Gánh nặng của người sản xuất = (1,5 – 1,8) + 0,5 = 0,2 đôla
 Tổng số gánh nặng là 0,5 đô la, đây còn gọi là góc thuế: chênh lệch giữa số tiền
người tiêu dùng trả 1,8 đôla và người sản xuất nhận được 1,3 đôla.
2. Nguyên tắc 2: Khía cạnh thị trường mà thuế đánh vào không phản ánh
thích hợp sự phân phối gánh nặng thuế
Có nghĩa là gánh nặng thuế là giống nhau cho dù đánh thuế vào người sản xuất
hay người tiêu dùng. Bây giờ chúng ta xét trường hợp người tiêu dùng là người
chịu trách nhiệm pháp lý nộp thuế chứ không phải là người sản xuất như được trình

bày trong nguyên tắc 1.

Trước khi đánh thuế, người tiêu dùng sẵn lòng trả P1 = 1,5 đôla để có được Q1 =
100 tỷ gallon tại điểm cân bằng A. Với việc phải trả thêm 0,5 đôla tiền thuế cho
mỗi đơn vị sản phẩm tiêu dùng, đường cầu D1 dịch chuyển sang D2 dẫn đến mức
giá cân bằng mới trên thị trường đạt P2 = 1,3 đôla với Q2 = 90 tỷ gallon.
Điều này gây ra hai ảnh hưởng đến những người tham gia thị trường dầu lửa.
 Thứ nhất: làm thay đổi giá cả thị trường giảm từ 1,5 đôla xuống 1,3 đôla.
 Thứ hai: người tiêu dùng là người chịu trách nhiệm nộp thuế cho chính phủ.
Từ góc độ của người tiêu dùng, thuế 0,5 đôla được bù lại bởi sự giảm đi 0,2
đôla giá cả thị trường.
Từ góc độ của người sản xuất, với mức thuế 0,5 đôla, họ nhận ít hơn 0,2 đôla
trên mỗi đơn vị dầu lửa được bán.

4


Mặc dù người sản xuất không có trách nhiệm pháp lý nộp thuế nhưng cả người
tiêu dùng lẫn người sản xuất đều gánh chịu gánh nặng thuế vì giá cả giảm đã
chuyển gánh nặng thuế từ người tiêu dùng sang người sản xuất.
 Gánh nặng của người tiêu dùng = (1,3 – 1,5) +0,5 = 0,3 đôla
 Gánh nặng của người sản xuất = (1,5 – 1,3) + 0 = 0,2 đôla
 Ta thấy dù người sản xuất hay người tiêu dùng nộp thuế thì gánh nặng chịu thế
của hai đối tượng này không thay đổi.
Trước khi đánh thuế, chỉ có duy nhất một giá thị trường. Nhưng khi đánh thuế,
có 2 loại giá:
 Tổng giá cả: giá phải trả hoặc nhận được bởi chủ thể không phải nộp thuế
 Giá sau thuế: = tổng giá cả trừ (-) tiền thuế NSX nộp
hoặc = tổng giá cả cộng (+) tiền thuế NTD nộp
3. Nguyên tắc 3: Những đối tượng có cung hoặc cầu không co giãn thì gánh

chịu thuế hoàn toàn
Trong ví dụ trước, chúng ta miêu tả trường hợp mà trong đó người tiêu dùng
gánh chịu gánh nặng thuế cao hơn người sản xuất. Tuy nhiên, nó chỉ là một trong
nhiều kết quả có thể xảy ra. Phạm vi ảnh hưởng của đánh thuế đối với người sản
xuất và người tiêu dùng cùng được quyết định bởi độ co giãn của cung và cầu.
3.1. Cầu hoàn toàn không co giãn
Một lần nữa chúng ta xem xét trường hợp mà trong đó đánh thuế 0,5
đôla/gallon dầu lửa vào người sản xuất nhưng ở đây đường cầu dầu lửa không co
giãn hoàn toàn.
Ở điểm cân bằng ban đầu, ta có số lượng Q1 = 100 tỷ gallon ở mức giá P1 = 1,5
đôla. Khi thuế đánh vào người sản xuất, điều này làm gia tăng chi phí biên lên 0,5
đôla, khi đó đường cung dịch chuyển từ S1 sang S2, điểm cân bằng bây giờ tại P2 =
2 đôla cao hơn P1 = 1,5 đôla.

5


Lúc này, gánh nặng chịu thuế được xác định như sau:
 Người sản xuất: (1,5 – 2) + 0,5 = 0 đôla.
 Người tiêu dùng : (2 – 1,5) + 0 = 0,5 đôla.
 Như vậy, khi đường cầu không co giãn thì người sản xuất không chịu gánh
nặng thuế trong khi đó người tiêu dùng lại chịu hoàn toàn, đây là sự dịch
chuyển hoàn toàn thuế vào người tiêu dùng.
3.2. Cầu co giãn hoàn toàn
Ta cũng xét tương tự trong thị trường dầu lửa, nhưng trong trường hợp này cầu
co giãn hoàn toàn, ta có phương trình đường cung cầu trong trường hợp này như
sau:
QS = 50PS + 25;

PD = 1,5


Ban đầu thị trường cân bằng ở mức P1 = 1,5 đôla và Q1 = 100 tỷ đôla dầu lửa.
Khi đánh thuế 0,5 đôla/gallon, đường cung dịch chuyển từ S1 đến S2. Giá cả cân
bằng vẫn ở mức P1 = 1,5 đôla, nhưng số lượng giảm xuống Q2 = 90 tỷ gallon.

6


Lúc này, gánh nặng thuế được xác định như sau:
 Người sản xuất : 1,5 – 1,5 + 0,5 = 0,5
 Người tiêu dùng : 1,5 – 1,5 + 0 = 0
 Như vậy, trong trường hợp này thì người sản xuất lại là đối tượng gánh chịu
thuế hoàn toàn.
Kết luận: Khi cầu càng ít co giãn thì gánh nặng thuế của người tiêu dùng càng cao,
gánh nặng thuế của nhà sản xuất càng thấp và ngược lại. Khi cầu không co giãn thì
người tiêu dùng gánh chịu thuế hoàn toàn.
3.3. Mức co giãn của cung
Mức co giãn của cung cũng ảnh hưởng đến mức độ phân phối của gánh nặng
thuế. Đường cung co giãn hơn khi người sản xuất có thể sử dụng các nguồn lực đầu
vào thay thế hơn.
Ví dụ: trong ngắn hạn, nhà máy thép có cung không co giãn, nhà máy không thể
dễ dàng chuyển công nghệ luyện thép sang công nghệ chế tạo nhựa hoặc chế biến
gỗ do chí phí bỏ ra rất cao. Ngược lại, đường cung của người bán dạo trên đường
phố lại rất co giãn bởi cá nhân người bán dạo có mức đầu tư thấp, nếu như chính
phủ đánh thuế họ dễ dàng chuyển sang đầu tư lĩnh vực khác.
So sánh phạm vi ảnh hưởng thuế đánh vào nhà máy thép và thuế đánh vào
người bán dạo biểu thị qua 2 biểu đồ sau:

7



Qua đó có thể nhận thấy khi cung ít co giãn hơn cầu thì người sản xuất gần như
gánh chịu phần thuế lớn hơn. Và khi cung co giãn hơn cầu (cầu ít co giãn hơn) thì
người tiêu dùng (người bán dạo) gánh chịu phần thuế lớn hơn. Do vậy, phạm vi
ảnh hưởng của thuế cũng được quyết định bởi độ co giãn của cung,
Kết luận: Khi cung càng ít co giãn thì gánh nặng thuế của nhà sản xuất càng cao,
gánh nặng thuế của người tiêu dùng càng thấp và ngược lại. Khi cung không co
giãn thì nhà sản xuất gánh chịu thuế hoàn toàn.
II. MỞ RỘNG PHẠM VI ẢNH HƯỞNG CỦA THUẾ
1. Phạm vi ảnh hưởng của thuế trong thị trường các yếu tố sản xuất
Sự phân tích phạm vi ảnh hưởng của thuế trong thị trường các yếu tố sản xuất
giống như trong thị trường hàng hóa tiêu dùng. Chỉ có điểm khác biệt đó là người
tiêu dùng các yếu tố sản xuất là các doanh nghiệp và người cung cấp các yếu tố sản
xuất là các cá nhân (lao động).
Để hiểu rõ hơn về phạm vi ảnh hưởng của thuế trong thị trường này, ta sẽ xem
xét các ví dụ cụ thể trong hai trường hợp:
 Không có trở ngại đối với điều chỉnh tiền lương (không có quy định mức
lương tối thiểu phải trả cho người lao động).
 Có trở ngại đối với điều chỉnh tiền lương (quy định mức lương tối thiểu phải
trả cho người lao động).
1.1. Không có trở ngại đối với điều chỉnh tiền lương
Giả sử có thị trường lao động với đường cung (S1) và đường cầu (D1). Thị
trường cân bằng ban đầu, trước thuế, với tiền lương W1 = 5,15 đôla/giờ lao động
tại điểm A.
1.1.1. Thuế đánh vào người lao động
Giả sử chính phủ đánh thuế tiền lương: 1 đôla/giờ trên tất cả người lao động.
Thuế làm giảm thấp thu nhập lao động 1 đôla. Kết quả là, người lao động yêu cầu
phải gia tăng thêm 1 đôla tiền lương bù vào tiền thuế để sẵn lòng làm việc.

8



Hình II.1.1.1
Hình II.1.1.1 cho thấy khi đó, cung lao động sẽ dịch chuyển từ S1 đến S2.
Đường cầu không dịch chuyển, dẫn đến tiền lương cân bằng tại điểm B: W2 = 5,65
đôla (cao hơn W1). Phạm vi ảnh hưởng của thuế được chia sẻ bởi người lao động
và công ty phù hợp với độ co giãn của đường cung và đường cầu. Trong ví dụ này,
độ co dãn của cung và cầu bằng nhau nên gánh nặng thuế được chia sẻ như nhau:
tiền lương gia tăng lên 5,65 đôla/1 giờ và những người lao động sẽ nhận được 4,65
đôla/1 giờ sau khi nộp thuế 1 đôla. Công ty và người lao động mỗi người gánh chịu
50 cent của 1 đôla thuế thể hiện trong như trong hình. Công ty trả tiền lương cao
hơn 50 cent (5,65 đôla), nhưng bởi vì phải nộp thuế 1 đôla, nên người lao động
nhận ít hơn 50 cent tiền lương sau thuế (4,65 đôla). Tổng tiền lương trong thị
trường gia tăng đến 5,65 đôla, nhưng tiền lương sau thuế giảm xuống còn 4,65
đôla.
1.1.2. Thuế đánh vào công ty
Tiếp theo ta xét ảnh hưởng đến thị trường lao động khi đánh thuế tiền lương,
công ty chịu trách nhiệm nộp thuế thay vì người lao động nộp thuế. Hình II.1.1.2
cho thấy trong trường hợp này, đường cung lao động S1 không dịch chuyển và bởi
vì thuế đánh vào người tiêu dùng (công ty), đường cầu lao động giảm xuống và
dịch chuyển từ D1 đến D2. Điểm cân bằng dịch chuyển xuống vị trí mới tại điểm C
với tiền lương cân bằng mới W3 = 4,65 đôla (thấp hơn tiền lương cân bằng ban
đầu) và gánh nặng thuế không thay đổi.
Công ty gánh chịu gánh nặng 50 cent như trước đó; tuy nhiên không phải trả
tiền lương cao hơn 50 cent, bây giờ họ trả tiền lương (4,65 đôla) thấp hơn 50 cent
9


tiền lương cân bằng ban đầu 5,15 đôla. Thêm vào đó, công ty phải nộp 1 đôla tiền
thuế cho chính phủ, vì thế thực tế họ phải trả tiền lương 5,65 đôla.

Những người lao động gánh chịu gánh nặng thuế 50 cent; tuy nhiên không phải
nhận tiền lương cao hơn 50 cent và nộp thuế cho chính phủ 1 đôla, người lao động
bây giờ nhận tiền lương thấp hơn 50 cent (4,65 đôla). Tổng tiền lương trong thị
trường giảm xuống đến 4,65 đôla, tiền lương sau thuế được công ty thanh toán là
5,65 đôla.

Hình II.1.1.2
Như vậy, khi không có trở ngại đối với sự điều chỉnh tiền lương tối thiểu phạm
vi ảnh hưởng của thuế đánh vào tiền lương cho thấy không có sự khác biệt: thuế
tiền lương (để tài trợ cho an sinh xã hội) đánh vào cả người lao động và vào công
ty, không đánh 100% vào người lao động hoặc công ty. Nguyên tắc thứ hai của
phạm vi ảnh hưởng thuế nói lên rằng dù quyết định gánh nặng của thuế tiền lương
là tổng quy mô thuế (tổng góc thuế), nhưng không nói lên thuế được phân phối như
thế nào giữa người lao động (cung) và công ty (cầu).
1.2. Có trở ngại đối với điều chỉnh tiền lương
Giả sử mức tiền lương tối thiểu bắt buộc mà tất cả người lao động được thanh
toán cho mỗi giờ lao động là 5,15 đôla.
Xét trường hợp tiền lương đánh vào người lao động. Trong trường hợp này, tiền
lương tối thiểu không có ảnh hưởng đến phân tích phạm vi ảnh hưởng do khi đánh
thuế, tiền lương mà công ty phải trả là 5,65 đô la (giống như trường hợp 1.1.1),
mức lương này cao hơn mức lương tối thiểu bắt buộc.
10


Xét trường hợp thuế tiền lương đánh vào công ty (Hình II.1.2). Trong trường
hợp này, đường cung S1 không dịch chuyển và đường cầu dịch chuyển từ D1 đến
D2. Tuy nhiên, công ty không thể hạ thấp tiền lương đến mức 4,65 đôla (điểm C),
bởi vì thấp hơn mức tiền lương pháp lý. Tiền lương phải duy trì ở mức 5,15 đôla;
công ty phải gánh chịu toàn gánh nặng thuế và nộp thuế cho chính phủ. Mức tiền
lương công ty phải trả là 6,15 đôla. Đường cầu mới D2 cắt đường tiền lương tối

thiểu (điểm C’)

Hình II.1.2
Như vậy, khi có trở ngại đối với sự điều chỉnh tiền lương tối thiểu phạm vi ảnh
hưởng của thuế đánh vào tiền lương cho thấy có sự khác biệt khi đánh thuế vào
người lao động hay công ty.
2. Phạm vi ảnh hưởng của thuế trong thị trường cạnh tranh không hoàn hảo
Trong phần này chúng ta nghiên cứu thị trường độc quyền - một thị trường chỉ
có một người cung cấp hàng hóa.
2.1. Cân bằng thị trường độc quyền
Những nhà độc quyền tối đa hóa lợi nhuận như các công ty cạnh tranh đã làm:
họ sản xuất hàng hóa mãi đến khi chi phí biên bằng thu nhập biên kiếm được.
Trong thị trường cạnh tranh, thu nhập biên là giá cả thị trường, vì vậy các công ty
cạnh tranh thiết lập chi phí biên bằng giá. Tuy nhiên, bởi vì nhà độc quyền là người
“làm giá cả” (price makers) chứ không phải là người “chấp nhận giá cả” (price
takers) nên thu nhập biên không phải là giá cả được quyết trong thị trường mà là
11


giá cả được chọn lựa bởi nhà độc quyền (nhà độc quyền áp đặt giá cả lên tất cả
người tiêu dùng).

Hình trên cho thấy sự quyết định cân bằng trong thị trường độc quyền. Nhà độc
quyền có đường chi phí biên dốc đi lên và đường cầu dốc đi xuống. Với đường cầu
đi xuống, nhà độc quyền phải hạ thấp giá cả. Nói khác đi, người tiêu dùng chỉ mua
thêm một đơn vị sản phẩm nếu như giá cả thị trường thấp hơn mức giá của đơn vị
trước đó.
Như vậy, nhà độc quyền phải đánh đổi: doanh thu tăng thêm ở một mức giá
nhất định sẽ làm gia tăng thu nhập, nhưng buộc phải hạ thấp mức giá đối với các
đơn vị sản phẩm để đạt được cân bằng mới với mức sản lượng cao hơn được sản

xuất; điều này làm giảm thấp thu nhập.
Thu nhập biên của nhà độc quyền là đường MR1, nằm dưới đường cầu D1. Thu
nhập biên mà nhà độc quyền nhận được từ bán sản phẩm thêm là nằm dưới tính sẵn
lòng thanh toán của người tiêu dùng để mua một đơn vị sản phẩm. Ở hình vẽ trên,
nhà độc quyền chọn sản xuất ở số lượng Q1, ở đó thu nhập biên bằng chi phí biên
(điểm A). Trên đường cầu D1, người tiêu dùng sẵn lòng thanh toán ở mức giá P1 để
lấy Q1. Chú ý rằng, mặc dù nhà độc quyền có quyền lực giá cả, nhưng vẫn cần
quan tâm đến đường cầu. Nhà độc quyền không thể sản xuất số lượng Q1 và tính
giá bán ở mức P2 bởi vì ở mức giá đó người tiêu dùng lại có nhu cầu ở mức Q2 lớn
hơn Q1.
2.2. Thị trường nhóm độc quyền
Cấu trúc thị trường nhóm độc quyền ở giữa hai thái cực độc quyền và cạnh
tranh hoàn hảo, trong đó chỉ có vài nhà cung cấp. Hiện tại vẫn chưa có một lý
12


thuyết nào khẳng định rõ ràng về phạm vi ảnh hưởng của thuế trong trường hợp có
nhóm độc quyền. Đối với các nhóm độc quyền, họ thường có những mưu lược liên
kết lại với nhau để sản xuất sản lượng sao cho đạt được tối đa hóa lợi nhuận của
ngành (chẳng hạn, nhóm cácten dầu mỏ). Các nhóm độc quyền thường yêu cầu các
hãng trong nhóm cắt giảm sản lượng để gây sức ép tăng giá, thế nhưng giải pháp
đó khó mà đạt được. Bởi vì, sau khi đạt được thỏa thuận về giới hạn sản lượng mà
mỗi một hãng được phép sản xuất, thì các hãng lại có động cơ không cam kết thực
hiện thỏa thuận đó. Lợi dụng giá cao, họ sản xuất mức sản lượng cao hơn hạn
ngạch cho phép nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Kết quả là, sản lượng trên thị trường có
nhóm độc quyền thường cao hơn so với mức giới hạn mà cácten đã thiết lập. Khi
có thuế, các hãng sẽ bị thiệt, vì họ phải nộp thuế. Tuy nhiên, khi ký hợp đồng về
sản lượng, họ sẽ tiến sát gần hơn các giải pháp của cácten, vì thế lợi nhuận trước
thuế của họ gia tăng. Về mặt lý thuyết, có thể lợi nhuận trước thuế tăng lên nhiều
hơn so với mức sau khi nộp thuế, nên các hãng không bị thiệt.

2.3. Đánh thuế vào thị trường độc quyền
Giả sử chính phủ đánh thuế vào người tiêu dùng trong thị trường độc quyền
như miêu tả trong hình. Ta có phương trình đường cầu trong thị trường: P1 = 40 –
Q1
Và đường chi phí sản xuất là: C = 50 + Q2
Từ đó ta xác định được: MR1 = 40 – 2Q và MC1 = 2Q
Để tối đa hóa lợi nhuận, nhà độc quyền sẽ sản xuất sản lượng tại điều kiện MR1
= MC1, ta có giá và sản lượng cân bằng là : P1 = 30 và Q1 = 10.
Khi chính phủ đánh thuế t = 10 làm cho người tiêu dùng mua ít sản phẩm của
nhà độc quyền, làm dịch chuyển đường cầu đến D2: P2 = 30 – Q2. Sự giảm này kéo
theo đường thu nhập biên dịch chuyển đến MR2 = 30 – 2Q2. Cân bằng mới ở mức
P2 = 22,5 và Q2 = 7,5.
 Số thuế mà người tiêu dùng gánh chịu là: (22,5-30)+10 = 2,5
 Số thuế mà nhà độc quyền gánh chịu là: 10 – 2,5 = 7,5
 Nhà độc quyền gánh chịu một phần thuế như trong trường hợp thị trường cạnh
tranh.
13


Tiếp theo ta xét khi chính phủ đánh thuế vào nhà độc quyền, với mức thuế t =
10, nó làm đường MC1 dịch chuyển MC2 với đường MC2 = 2Q + 10. Tương tự
trường hợp trên, ta tính được giá và sản lượng cân bằng là P2 = 32,5 và Q = 7,5.
 Số thuế nhà độc quyền chịu: (30-32,5)+10 = 7,5
 Số thuế người tiêu dùng chịu: 10-7,5 = 2,5.
 Như vậy, ba nguyên tắc ảnh hưởng thuế vẫn có giá trị trong thị độc quyền.
Tuy nhiên, tác động của thuế đánh vào sản lượng đối với độc quyền khác với
cạnh tranh. Trong khi ta đánh thuế ứng với ngành cạnh tranh, thì giá thị trường
tăng lên 1 lượng ít hơn thuế, và cả nhà sản xuất lẫn người tiêu dùng đều phải chịu
thuế. Với độc quyền giá có thể tăng lên một lượng lớn hơn mức thuế.
Ta xét thị trường độc quyền có đường cầu

Từ đó ta có đường doanh thu biên

và chi phí biên MC = 40.
. Thị trường cân bằng tại Q = 6,25

và P = 80.
Giả sử với mức thuế cụ thể là t = 10 đôla trên 1 đơn vị sản phẩm, nhà độc quyền
phải nộp lại t đôla cho Chính phủ với mỗi đơn vị sản phẩm được bán ra. Do đó chi
phí biên của hãng tăng lên một lượng bằng mức thuế t. Quyết định sản xuất tối ưu
bây giờ là đẳng thức: MR = MC + t. Ta xác định được giá và sản lượng cân bằng
mới P = 100 và Q = 4.
Dịch chuyển đường chi phí biên lên trên dẫn đến giá cao hơn và sản lượng thấp
hơn. Đôi khi giá tăng lên ít hơn thuế, nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Trong
trường hợp đang xét giá tăng lên nhiều hơn thuế.
Ta có thể thấy, giá tăng lên cao hơn thuế ∆P = 100 – 80 = 20 lớn hơn t = 10.

14


Điều này không thể xảy ra trong thị trường cạnh tranh, nhưng có thể xảy ra
trong trường hợp độc quyền bởi vì mối quan hệ giữa giá cả và chi phí biên phụ
thuộc vào độ co giãn của cầu. Ví dụ, giả sử một nhà độc quyền có đường cầu với
độ co giãn không đổi bằng -2. Phương trình định giá tối ưu của hãng độc quyền:

Khi đó chỉ ra rằng giá cả sẽ bằng hai lần chi phí biên. Với mức thuế t, chi phí
biên tăng lên MC + t. Do đó giá cả tăng lên 2(MC + t) = 2MC + 2t. Tức là, nó tăng
hai lần so với sự gia tăng của thuế.
3. Phạm vi ảnh hưởng của thuế và vấn đề vốn hóa
Trong phần này, chúng ta phân tích sự tác động của thuế đánh vào đất đai. Đặc
tính nổi bật của đất là cung cố định và loại hàng hóa có tính bền lâu. Giả sử tiền

cho thuê đất năm đầu tiên là R0, các năm kế tiếp là R1, R2 …, thì người thuê đất sẽ
phải trả tiền thuê là bao nhiêu. Nếu như thị trường bất động sản là cạnh tranh, thì
giá cả của đất bằng với giá trị chiết khấu hiện tại của dòng thời gian thuê (T). Gọi
tỷ suất sinh lợi là r, thì giá cả của đất (PR) sẽ là:
PR = R0 +
Số thuế thu vào năm đầu tiên là u0 và các năm tiếp theo lần lượt là u1, u2 … Bởi
vì đất đai là hàng hóa có mức cung cố định, nên số tiền cho thuê đất hàng năm mà
người sở hữu nhận được giảm xuống đúng bằng toàn bộ số tiền thuế. Điều này
cũng có nghĩa là thu nhập của chủ đất đầu tiên giảm (R0 – u0) đô la, (R1 – u1) đôla
vào năm tiếp theo và (R2 – u2) đôla vào năm tiếp sau đó … Những người mua đất
về sau chỉ quan tâm đến thực tế: nếu như đất, họ sẽ mua dòng tương lai của khoản
15


nợ thuế cũng như dòng tương lai của thu nhập. Vậy thì, mức tối đa mà người sẵn
lòng chi trả tiền đất sau thuế là (P’R):
P’R = (R0 – u0) +
Trừ hai phương trình trên (PR – P’R), ta thấy do thuế mà giá đất giảm xuống
bằng:
u0 +
Như vậy, tại thời gian đầu tiên mà chính phủ đánh thuế đất, giá cả của đất giảm
xuống bằng giá trị hiện tại của tất cả tiền thuế thanh toán trong tương lai. Tiến trình
mà chuỗi tiền thuế được hợp nhất vào trong giá cả tài sản còn gọi là vốn hóa. Do
vốn hóa, nên người chủ đất tại thời gian thuế được đánh phải gánh chịu gánh nặng
của thuế mãi mãi. Còn người chủ đất về sau, khi mua họ phải thanh toán giá đất
trong đó có tiền thuế, nhưng tiền thuế này không tạo ra “gánh nặng”, bởi vì nó chỉ
làm cân bằng mức giá thấp hơn khi mua. Vốn hóa làm phức tạp nỗ lực đánh giá
phạm vi ảnh hưởng của thuế đối với hàng hóa có mức cung cố định. Bởi vì chúng
ta không đủ thông tin để nhận biết ai là người chủ đất đầu tiên tại thời gian thuế
được đánh.

4. Phạm vi ảnh hưởng của thuế đến sự cân bằng ngân sách
Thu thuế là để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính phủ. Vì thế, phạm vi ảnh
hưởng của thuế không chỉ xem xét ai gánh chịu thuế mà còn quan tâm ai nhận lợi
ích từ các khoản chi tiêu được tài trợ bởi nguồn thu thuế.
Giả sử chính phủ đánh thuế vào nhà hàng bán thức ăn nhanh, có đường cầu co
giãn. Sau đó, chính phủ tài trợ nguồn thu thuế trở lại cho các nhà hàng bán thức ăn
nhanh. Trong trường hợp, thật là sai để cho rằng nhà hàng gánh chịu hoàn toàn
gánh nặng thuế: họ nộp thuế, nhưng rồi họ lại nhận được tiền đầu tư từ chính phủ.
Quan tâm cả gánh nặng của thuế và lợi ích mà thuế mang lại gọi là phạm vi ảnh
hưởng cân bằng ngân sách.
Thật rất khó để truy nguồn gốc chi tiêu liên quan đến nguồn thu thuế. Vì thế,
chúng ta thường bỏ qua khía cạnh chi tiêu trong khi phân tích phạm vi ảnh hưởng

16


thuế. Tuy nhiên, trong thực tế gánh nặng thuế tùy thuộc vào sự phân phối cả thuế
và chi tiêu được tài trợ từ nguồn thu thuế.
III. CÂN BẰNG TỔNG THỂ
Mô hình cân bằng tổng thể nghiên cứu ảnh hưởng của đánh thuế vào một thị
trường đến các thị trường khác có liên quan.
1. Xác định tính tương đương của thuế trong mô hình cân bằng tổng thể
chúng ta có thể xét mô hình thị trường đơn giản chỉ có 2 loại hàng hóa: F
(lương thực) và M (chế biến) với 2 yếu tố sản xuất: K (vốn) và L (lao động). Có thể
liệt kê 9 loại thuế tỷ lệ như: (1) tKF: thuế đánh vào số vốn dùng để sản xuất hàng
lương thực; (2) tKM: thuế đánh vào số vốn dùng để sản xuất hàng chế biến; (3) tLF:
thuế đánh vào lao động tham gia sản xuất hàng lương thực; (4) tKM: thuế đánh vào
lao động tham gia sản xuất hàng chế biến; (5) tF: thuế đánh vào tiêu dùng hàng
lương thực; (6) tM: thuế đánh vào vốn dùng hàng chế biến; (7) tK: thuế đánh vào
vốn dùng cho cả hai khu vực; (8) tL: thuế đánh vào lao động dùng cho cả hai khu

vực; (9) t: thuế đánh vào tổng thu nhập.
Bốn loại thuế đầu tiên đánh vào các nhân tố sản xuất mà chỉ có một vài doanh
nghiệp sử dụng, nên có thể gọi đây là thuế đánh vào yếu tố sản xuất có tính cục bộ.
Các loại thuế này kết hợp chặt chẽ với nhau sẽ tương đương với các loại thuế khác.
Tính tương đương này trước hết xuất phát từ lý thuyết người tiêu dùng. Thuế đánh
vào hàng lương thực (tF) và hàng chế biến (tM) với thuế suất giống nhau là tương
đương đối với thuế đánh vào thu nhập (t). Giải thích chi tiết hơn, thuế có cùng tỷ lệ
đánh vào tất cả các loại hàng hóa đều có ảnh hưởng như nhau đến giới hạn ngân
sách của người tiêu dùng và tính chất này cũng giống như thuế thu nhập tỷ lệ. Cả
hai loại thuế này tạo ra sự tịnh tiến song song hướng vào nhau. Tương tự, xem xét
thuế đánh vào các yếu tố sản xuất, bằng sự tính toán số học, có thể thấy đánh thuế
vào các yếu tố vốn (tK) và lao động (tL) với thuế suất giống nhau tương đương như
thuế đánh vào thu nhập (t).
Nói một cách tổng quát, bất kỳ hai loại thuế nào mà tạo ra những thay đổi giống
nhau về giá cả đều có phạm vi ảnh hưởng tương đương. Tất cả những quan hệ
tương đương có thể tóm tắt ở bảng dưới đây:

17


tKF







tKM
Tương



đương

Tương đương với
đương

tM
Tương

với


tF


tLM
Tương

với
tK

Tương đương với

tLF

đương

với
Tương đương với


tL

T

Các mối quan hệ tương đương của thuế
2. Mô hình cân bằng tổng thể của Harberger
Harberger sinh năm 1924, nhà kinh tế học người Mỹ là người tiên phong nghiên
cứu áp dụng mô hình cân bằng. Sau đây liệt kê các giả định có tính nguyên tắc
trong mô hình phân tích của Harberger:
-

Về yếu tố kỹ thuật:
Để tiến hành sản xuất sản phẩm các hãng trong mỗi ngành đều sử dụng vốn và

lao động. Theo mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa các yếu tố đầu vào và sản lượng, trong
mỗi ngành, nếu gấp đôi đồng thời hai yếu tố đầu vào thì đầu ra cũng gấp đôi,
nhưng mức sinh lời không đổi so với quy mô. Yếu tố kỹ thuật sản xuất có thể khác
nhau giữa các ngành và tác động đến sự thay thế giữa vốn và lao động (độ co giãn
thay thế) cũng như tỷ lệ giữa vốn với lao động. Những ngành có tỷ lệ vốn – lao
động cao gọi là ngành cần nhiều vốn và ngược lại, gọi là ngành cần nhiều lao động.
-

Hành vi của các nhà cung cấp các yếu tố sản xuất:
Các nhà cung cấp vốn và lao động đều nhằm vào mục đích tối đa hóa tỷ suất lợi

nhuận. Trong điều kiện thị trường cạnh tranh, họ có thể di chuyển tiền vốn và lao
động vào các ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Kết quả là lợi nhuận biên ròng trên
vốn (hay lao động) có khuynh hướng bình quân hóa giữa các ngành.
-


Cấu trúc thị trường:
Trong môi trường cạnh tranh, giá cả các loại hàng hóa (bao gồm các yếu tố sản

xuất: tiền lương, vốn) đều có thể di chuyển hoàn hảo và các hãng tăng cường cạnh
18


tranh nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Vì vậy, các yếu tố sản xuất đều được khai thác
toàn dụng và số tiền chi trả cho mỗi yếu tố sản xuất là giá trị sản xuất biên của nó,
giá trị đầu ra được sản xuất bằng đơn vị đầu vào cuối cùng.
-

Tính chất cố định của tổng các yếu tố sản xuất:
Trong một nền kinh tế, tổng số vốn và lao động sẵn có là cố định và chúng có

thể tự do di chuyển giữa các ngành.
-

Sở thích của người tiêu dùng:
Nếu tất cả người tiêu dùng đều có cùng sở thích, thì thuế không thể gây ra bất

kỳ ảnh hưởng phân phối nào thông qua tác động đến việc sử dụng thu nhập của
công chúng. Giả thuyết này cho phép chúng ta chú trọng đến sự tác động của thuế
đến thu nhập.
-

Khuôn khổ phạm vi ảnh hưởng của thuế:
Khuôn khổ phân tích tập trung nghiên cứu phạm vi ảnh hưởng khác nhau của


thuế bằng việc xem xét sự thay thế một loại thuế này bằng một loại thuế khác. Vì
thế số lượng thu nhập hiện hữu trước và sau thuế xấp xỉ như nhau, nên không cần
thiết phải xem xét những thay đổi trong tổng thu nhập làm thay đổi nhu cầu và giá
cả ra sao.
Ở một chừng mực nào đó, có thể nói các giả thiết trên làm đơn giản hóa vấn đề
phân tích một cách đáng kể.
3. Phân tích sự tác động các loại thuế khác nhau
-

Thuế gián thu (tF):
Khi thuế đánh vào nhà hàng lương thực, giá cả của hàng hóa này sẽ gia tăng,

nhưng không nhất thiết tăng đúng bằng số thuế. Giá cả tăng khiến cho người tiêu
dùng có khuynh hướng thay thế hàng lương thực bằng hàng chế biến. Kết quả là,
thị trường sản xuất hàng lương thực càng ít đi, nhưng hàng chế biến càng nhiều
hơn. Một khi sản xuất hàng lương thực giảm, thì lượng vốn và lao động trước đây
sử dụng cho ngành lương thực buộc phải chuyển sang ngành chế biến. Do tỷ lệ vốn
– lao động có khác nhau giữa hai ngành nên giá cả của các yếu tố sản xuất phải
thay đổi nhất định để sao cho khu vực chế biến sẵn sàng hấp thụ các yếu tố vốn và
lao động mà vốn dĩ không được sử dụng ở ngành lương thực. Giả sử lương thực là
19


ngành thâm dụng vốn. Vì thế, một số lượng vốn phải được hấp thụ trong ngành chế
biến. Vốn chuyển sang ngành chế biến làm cho giá cả của vốn giảm xuống, bao
gồm lượng vốn đang được sử dụng trong ngành chế biến. Như vậy, ở mức cân
bằng mới, toàn bộ vốn của xã hội đều bị thiệt hại tương đối, chứ không chỉ riêng số
vốn trong ngành lương thực. Nói tổng quát hơn, thuế đánh vào đầu ra của một
ngành nào đó làm sút giảm giá cả đầu vào được tập trung sử dụng cho ngành đó.
Có thể rút ra một số kết luận như sau: Độ co giãn của cầu lương thực càng lớn,

thì sự thay đổi tiêu thụ từ hàng lương thực sang hàng chế biến càng lớn, và cuối
cùng kéo theo một sự tụt giảm lớn mức tỷ suất sinh lợi trên vốn. Sự chênh lêch về
tỷ suất các yếu tố sản xuất giữa ngành lương thực và ngành chế biến càng lớn, thì
giá cả của vốn càng giảm mạnh vì nó được hấp thụ vào ngành chế biến. Cuối cùng,
sự thay thế vốn cho yếu tố lao động trong ngành chế biến càng khó, thì sự sụt giảm
càng lớn tỷ suất lợi nhuận trên vốn cần thiết để hấp thu vốn tăng thêm. Vì thế, xét ở
khía cạnh ngân sách, thuế đánh vào hàng lương thực có xu hướng làm tổn hại cho
những người có nguồn thu nhập chủ yếu từ vốn. Các cá nhân có sở thích giống
nhau (giả định 5) thì không có những tác động đáng kể trên phương diện sử dụng
thu nhập. Tuy nhiên, nếu bỏ qua giả định này, thì rõ ràng những người tiêu dùng
nhiều lương thực sẽ phải gánh chịu gánh nặng thuế lớn hơn. Như vậy, tác động của
thuế đánh vào nhà hàng lương thực phụ thuộc vào hai phương diện: (1) nguồn thu
nhập và (2) sử dụng thu nhập. Một nhà tư bản sử dụng nhiều hàng lương thực sẽ bị
thiệt hại trên cả hai phương diện. Nói khác đi, một người lao động dùng nhiều hàng
lương thực có lợi hơn xét trên phương diện nguồn thu nhập, nhưng trở nên bị thiệt
trên phương diện sử dụng thu nhập.
-

Thuế thu nhập (t):
Thuế thu nhập tương đương với nhóm thuế đánh vào vốn và lao động với mức

thuế suất như nhau. Theo giả thiết 4, vì mức cung các yếu tố sản xuất hoàn toàn cố
định nên thuế thu nhập không thể dịch chuyển. Thuế này chiếm một tỷ lệ trong
phần thu nhập đầu tiên của người lao động. Hàm ý rút ra đằng sau kết quả này
tương tự như trong mô hình cân bằng cục bộ. Khi tham gia vào quá trình sản xuất,
các yếu tố sản xuất phải gánh chịu toàn bộ gánh nặng thuế.

20



-

Thuế chung đánh vào lao động (tL):
Thuế chung đánh vào lao động là loại thuế đánh vào toàn bộ lao động được sử

dụng trong ngành lương thực và ngành hàng chế biến. Dưới sự tác động của thuế,
các nhà đầu tư không có động cơ để dịch chuyển sử dụng lao động giữa các ngành.
Hơn nữa, với giả thiết mức cung các yếu tố sản xuất cố định, thì yếu tố lao động
phải gánh chịu toàn bộ gánh nặng thuế.
-

Thuế đánh vào các yếu tố sản xuất cục bộ (tKM):
Khi thuế chỉ đánh vào vốn được sử dụng trong ngành chế biến, có thể nhận ra

hai tác động đầu tiên:
 Hiệu ứng đầu ra: Thể hiện giá cả hàng chế biến có khuynh hướng gia tăng,
kéo theo sự giảm sút lượng cầu của người tiêu dùng.
 Hiệu ứng thay thế các yếu tố sản xuất: Trong ngành chế biến, do vốn trở nên
đắt đỏ nên các nhà sản xuất hàng chế biến có khuynh hướng sử dụng vốn ít
hơn và nhiều lao động hơn.
Xét phía bên trái sơ đồ ảnh hưởng của thuế trong mô hình cân bằng tổng thể, có
thể nhận thấy hiệu ứng đầu ra bắt nguồn từ sự thu hẹp sản xuất các hàng chế biến.
Khi giá cả hàng chế biến gia tăng kéo theo sự giảm sút nhu cầu, thì vốn và lao động
dần dần di chuyển từ ngành chế biến sang ngành lương thực. Nếu như ngành chế
biến sử dụng nhiều lao động, khi đó một số lượng lớn lao động được dịch chuyển
vào ngành lương thực và giá cả của vốn gia tăng. Nói cách khác, nếu như ngành
chế biến sử dụng nhiều vốn, thì giá cả của vốn giảm xuống. Như vậy, có thể thấy
hiệu ứng đầu ra tác động không rõ nét đến hiệu ứng cuối cùng đối với sự thay đổi
giá cả tương đối của vốn và lao động. Phía bên phải của sơ đồ … cho thấy hiệu ứng
thay thế các yếu tố sản xuất diễn ra cũng không rõ nét. Chừng nào sự thay thế giữa

vốn và lao động còn diễn ra, thì sự gia tăng giá cả của vốn sẽ khiến cho nhà sản
xuất hàng chế biến sử dụng ít vốn hơn nhưng nhiều lao động hơn.
Gắn kết hai hiệu ứng này cùng với nhau, ta thấy nếu ngành chế biến sử dụng
nhiều vốn, thì cả hai hiệu ứng diễn ra cùng chiều và giá cả tương đối của vốn đều
giảm. Tuy vậy, nếu ngành này sử dụng nhiều lao động thì kết quả cuối cùng về lý
thuyết là khá mơ hồ. Thuế đánh vào vốn, nhưng cuối cùng cũng làm cho người lao
21


động trở nên bị thiệt đi. Đến đây có thể kết luận, chừng nào các yếu tố sản xuất có
thể di chuyển giữa các ngành, thuế đánh vào một ngành nào đó, thì hiệu ứng cuối
cùng cũng gây ảnh hưởng đến mức sinh lợi đối với các yếu tố sản xuất của cả hai
ngành. Trong khi, điều này lại không thể diễn ra trong mô hình cân bằng cục bộ.
Có nhiều nghiên cứu về phạm vi ảnh hưởng của thuế trong mô hình cân bằng
tổng quát đã tập trung phân tích sự tác động của thuế thu nhập công ty. Các công
trình đó giả định nền kinh tế có hai khu vực: (i) công ty và (ii) các tổ chức còn lại;
thuế thu nhập công ty là loại thuế tỷ lệ tính trên vốn chỉ sử dụng trong khu vực
công ty. Về mặt lý thuyết, do sự tác động không rõ nét của thuế đánh vào vốn, nên
cần thiết phải có các công trình thực nghiệm để tìm ra câu trả lời về hiệu ứng của
thuế. Mặc dù đưa ra các kết luận khác nhau, nhưng điểm chung của các công trình
nghiên cứu đều cho rằng sự tác động của thuế có khuynh hướng dịch chuyển đến
những người sở hữu.
Thuế làm gia tăng chi phí vốn trong ngành chế biến

Hiệu ứng đầu ra

Hiệu ứng thay thế các yếu tố sản xuất

Giá cả của hàng chế biến gia tăng


Nếu như ngành chế
biến là khu vực thâm
dụng lao động, thì giá
cả của vốn gia tăng

Nếu như ngành chế
biến là khu vực thâm
dụng vốn, thì giá cả
của vốn giảm xuống

Nếu như sự thay thế
có khả năng xảy ra,
thì giá cả của vốn
giảm xuống

Giá cả của vốn
giảm xuống

Sự thay thế về giá cả của
vốn về lý thuyết là khá
mơ hồ

Ảnh hưởng của thuế trong mô hình cân bằng tổng thể

22


4. Một vài đặc tính khác cần xem xét
Những thay đổi về các giả định cơ bản trong mô hình cân bằng tổng quát có thể
bổ sung thêm một vài khía cạnh về phạm vi ảnh hưởng của thuế theo các cách thức

dưới đây:
-

Sự khác biệt về sở thích của người tiêu dùng:
Giả thiết 5, đặt điều kiện tất cả người tiêu dùng có cùng chung sở thích về hai

loại hàng hóa. Tuy nhiên, khi người tiêu dùng không có cùng chung sở thích thì
những thay đổi do thuế gây ra trong phân phối thu nhập sẽ làm thay đổi quyết định
tổng mức chi tiêu, và kéo theo làm thay đổi giá cả cũng như thu nhập. Có thể xem
xét thuế vốn đánh vào khu vực công ty. Hầu hết các công trình nghiên cứu đều cho
rằng, thực thi một chính sách thuế như vậy thì cuối cùng gánh nặng của thuế cũng
dịch chuyển đến tất cả người sở hữu vốn. Vả lại, do vốn có khuynh hướng là một
nguồn thu nhập quan trọng đối với các cá nhân có thu nhập cao, nên dường như
thuế có tính lũy tiến.
-

Khả năng không di chuyển các yếu tố sản xuất:
Theo giả thiết 2, các nguồn lực tự do dịch chuyển giữa các ngành với mục địch

tìm kiếm tỷ suất lợi nhuận cao nhất có thể được. Nhưng do thuộc về định chế và kỹ
thuật, nên có một vài nguồn lực không thể dịch chuyển được. Đất đai quy hoạch
làm khu vực dân cư thì không thể sử dụng để xây dựng các nhà máy chế biến cho
dù hoạt động này có tỷ suất lợi nhuận cao. Sự không di chuyển hoàn hảo của các
yếu tố sản xuất có tác động đáng kể đến phạm vi ảnh hưởng của thuế. Yếu tố nào bị
đánh thuế thì phải gánh chịu gánh nặng thuế hoàn toàn. Các nhà sản xuất không thể
trốn thuế bằng cách di chuyển yếu tổ sản xuất từ ngành này sang ngành khác. Do tỷ
suất lợi nhuận đối với các yếu tố sản xuất có thể di chuyển bị đánh thuế giảm
xuống đúng bằng số thuế, nên giá cả vốn và lao động trong những ngành không bị
đánh thuế không thay đổi. Tương tự đối với giá cả của hang hóa trong khu vực bị
đánh thuế cũng vậy.

-

Khả năng thay đổi mức cung các yếu tố sản xuất:
Giả thiết 4 cho rằng, tổng mức cung hai yếu tố sản xuất là cố định. Tuy nhiên,

mức cung vốn và lao động trong nền kinh tế vẫn có thể thay đổi trong dài hạn. Khi
23


thuế đánh vào yếu tố vốn, với một khối lượng vốn cố định thì người sở hữu vốn
phải gánh chịu gánh nặng thuế hoàn toàn, nhưng xét trong dài hạn, do tác động của
thuế nên số vốn cung ứng có thể bị giảm đi. Trong chừng mực nhất định, điều này
xảy ra kéo theo tỷ lệ vốn – lao động trong nền kinh tế sẽ giảm và tỷ suất lợi nhuận
đối với lao động cũng giảm theo. Trong khi các yếu tố khác không đổi, tiền lương
giảm do nó ít vốn đầu tư, vì thế năng suất lao động cũng thấp. Như vậy, do thuế
đánh trên vốn mà người lao động trở nên bị thiệt đi.
IV. KẾT LUẬN
Tóm lại, với một sắc thuế được đưa ra, nó bị ảnh hưởng và cũng ảnh hưởng bởi
rất nhiều yếu tố. Thứ nhất, với một sắc thuế phạm vi ảnh hưởng của nó được xác
định bởi 3 nguyên tắc:
-

Trách nhiệm pháp lý của thuế không phân định rõ ai là người gánh chịu thuế
thực sự.

-

Khía cạnh thị trường mà thuế đánh vào không phản ảnh thích hợp sự phân phối
gánh nặng chịu thuế.


-

Các đối tượng có cung hoặc cầu không co giãn thì gánh chịu thuế hoàn toàn.
Thứ hai, thuế đánh vào các đối tượng khác nhau thì hiệu ứng cũng khác nhau,

như ta đã xét các trường hợp, thuế đánh vào hàng hóa trong thị trường cạnh tranh,
hàng hóa trong thị trường độc quyền, loại thuế trực thu và loại thuế gián thu, các
trường hợp cung cầu co giãn và không co giãn.
Thứ ba, việc đánh thuế không chỉ ảnh hưởng đến mỗi loại hang hóa đó. Nó còn
có tác động đến các thị trường khác có liên quan. Đó được gọi là mô hình cân bằng
tổng thể.

24


×