Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tiểu luận phương án tăng vốn tự có nghiên cứu tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.87 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA NGÂN HÀNG

*********************

VẤN ĐỀ 3:

GVHD: PGS.TS. Trầm Thị Xuân Hương
Nhóm 3 – Lớp SCN - CHK24:
1.
2.
3.
4.
5.

Ngô Thị Kim Ngân
Trần Quang Vinh
Huỳnh Thị Ngọc Hồng
Nguyễn Thị Thơm
Nguyễn Ngọc Duy

Tp.HCM, tháng 04 năm 2016


MỤC LỤC
Câu 1. Những vấn đề cơ bản về vốn tự có của ngân hàng thương mại?..........................................3
Câu 2. Các yếu tố nào ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương pháp tăng vốn tự có?.......................7
Câu 3. Có những phương án tăng vốn tự có nào?..........................................................................10
Câu 4. Thực trạng vốn tự có tại Việt Nam hiện nay như thế nào?................................................14
Câu 5. Gợi ý giải pháp tăng vốn tự có cho các NHTM.................................................................22
Sau nghị quyết Trung ương 3 - Khóa XI, việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng được đặt ra và


có lộ trình cụ thể. Cuối năm 2011, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã đưa ra 4 mục tiêu của tái
cơ cấu hệ thống ngân hàng bao gồm: (i) lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng; (ii) nâng cao năng
lực cạnh tranh cho hệ thống ngân hàng; (iii) cấu trúc lại cơ cấu hoạt động của hệ thống ngân
hàng; (iv) hệ thống ngân hàng phải hòa nhập và có sức cạnh tranh với quốc tế.......................28
Ngày 01/03/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Ðề án cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín
dụng (TCTD) giai đoạn 2011-2015 kèm theo Quyết định 254/QÐ-TTg. Ðây được xem là một
nỗ lực về mặt pháp lý quan trọng nhất cho tới nay trong việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng.
Quyết định này tạo ra một hành lang rộng để xử lý các ngân hàng yếu kém và đề ra một lộ
trình cho đến năm 2015..............................................................................................................28
Sau 5 năm thực hiện để án thì hệ thống ngân hàng đã trở lên tốt hơn , kiểm soát được nợ xấu
dưới 3%, thanh khoản của toàn hệ thống được cải thiện.Qua đó có thể thấy thành công phần
nào của đề án tái cơ cấu hệ thống ngân hàng.............................................................................28

2


Câu 1.

Những vấn đề cơ bản về vốn tự có của ngân hàng thương mại?

1. Khái niệm về vốn tự có
Về khái niệm vốn tự có của ngân hàng thương mại, theo Luật các TCTD Việt Nam năm
2010 ban hành ngày 16/06/2010, vốn tự có của Ngân hàng thương mại bao gồm: giá trị
thực có của vốn điều lệ của tổ chức tín dụng hoặc vốn được cấp của chi nhánh ngân hàng
nước ngoài và các quỹ dự trữ , một số tài sản nợ khác theo quy định của ngân hàng nhà
nước Việt Nam.
Theo thông tư số: 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014, vốn tự có của ngân hàng thương
mại bao gồm:
− Vốn tự có cơ bản (Vốn cấp 1): Vốn điều lệ thực có (vốn đã được cấp, vốn đã góp), quỹ
dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận không chia lũy kế,

thặng dư vốn cổ phần, trừ đi các khoản giảm trừ như : lợi thế thương mại, lỗ lũy kế; cổ
phiếu quỹ; các khoản cấp tín dụng để góp vốn, mua cổ phần tại tổ chức tín dụng khác;
các khoản góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng khác; các khoản góp vốn, mua cổ
phần của công ty con; các khoản đầu tư dưới hình thức góp vốn mua cổ phần nhằm nắm
quyền kiểm soát của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán,
kiều hối, kinh doanh ngoại hối, vàng, bao thanh toán, phát hành thẻ tín dụng, tín dụng
tiêu dùng, dịch vụ trung gian thanh toán, thông tin tín dụng
− Vốn tự có bổ sung (vốn cấp 2): 50% phần chênh lệch tăng do đánh giá lại tài sản cố
định theo quy định của pháp luật, 40% phần chênh lệch tăng do đánh giá lại các khoản
góp vốn đầu tư dài hạn theo quy định của pháp luật, quỹ dự phòng tài chính, dự phòng
chung, trái phiếu chuyển đổi hoặc công cụ nợ khác do TCTD phát hành thỏa mãn 1 số
điều kiện theo thông tư 36.

3


2. Đặc điểm của vốn tự có
Trong thời gian đầu hoạt động, vốn tự có là cơ sở để tạo nên nguồn lực tài chính của ngân
hàng thương mại. Vốn tự có được sử dụng cho mục đích đầu tư vào tài sản cố định, đầu
tư dài hạn và ngắn hạn để sinh lời.
Là nguồn vốn ổn định và luôn tăng trưởng trong quá trình hoạt động, đồng thời vốn tự có
luôn vận động và tham gia vào quá trình kinh doanh của ngân hàng. Mọi quyết định tăng
thêm vốn luôn gắn liền với yêu cầu phát triển các sản phẩm, dịch vụ mới, mở rộng hoạt
động của ngân hàng. Mặc dù chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn (từ 10 – 15%)
nhưng vốn tự có đóng vai trò vô cùng quan trọng vì nó là cơ sở để hình thành nên các
nguồn vốn khác. Giá trị của vốn tự có gắn liền với uy tín, năng lực, vị thế của chủ sở hữu
vốn và quan hệ cung cầu vốn trên thị trường. Vốn tự có quyết định quy mô hoạt động của
ngân hàng như các giới hạn huy động vốn, giới hạn cho vay và bảo lãnh …vì hoạt động
của các ngân hàng thương mại phải chịu sự chi phối của các quy định pháp luật dựa trên
căn cứ là quy mô vốn tự có. Ngoài ra, vốn tự có được hình thành từ những nguồn vốn

hợp pháp được phép lưu chuyển trên thị trường tài chính. Trong điều kiện hội nhập của
nền kinh tế, vốn tự có của ngân hàng sẽ mang tính quốc tế gắn liền với môi trường cạnh
tranh cao khi mà các ngân hàng thương mại đang mở rộng việc thu hút đầu tư thông qua
thị trường tài chính bằng các công cụ tài chính đa dạng.
3. Các chức năng cơ bản của vốn tự có
3.1. Chức năng bảo vệ
Với chức năng bảo vệ, vốn tự có là lá chắn chống đỡ, bù đắp những tổn thất trong hoạt
động kinh doanh ngân hàng. Các ngân hàng phải có đủ vốn tự có để đảm bảo được khả
năng thanh toán trong mọi trường hợp đồng thời còn phải cung cấp được một khoản vốn
dự trữ đủ để duy trì được khả năng trả nợ tránh mọi sự đe dọa do thua lỗ. Đây cũng chính
là lý do khiến cho NHNN rất quan tâm trong việc đưa ra những quy định giám sát chặt
chẽ vốn tự có của các ngân hàng thương mại.
4


Bên cạnh đó, vốn tự có còn làm chức năng chịu trách nhiệm về tài sản đối với người gửi
tiền. Thông qua vốn tự có, ngân hàng thương mại phải thể hiện được trách nhiệm về tài
sản của người kinh doanh đối với những khoản tiền gửi nhằm tạo ra sự tin cậy và an tâm
cho khách hàng. Điều này thể hiện ở chỗ, hệ số vốn tự có đối với các khoản mục trong
bảng tổng kết tài sản được ngụ ý như là mức độ mà ở đó khi ngân hàng bị thiệt hại, dưới
hình thức này hay hình thức khác, mà vẫn đủ vốn để đảm bảo sự an toàn vốn của người
ký thác. Bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền thực chất là bảo vệ sự an toàn cho chính
ngân hàng vì kinh doanh ngân hàng là lĩnh vực hoạt động có tính nhạy cảm cao, thường
xuyên gắn liền với các rủi ro. .
3.2. Chức năng hoạt động
Vốn tự có có không chỉ được dùng làm lá chắn và đệm an toàn mà còn được dùng để đầu
tư đáp ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Trước hết, vốn tự có tham gia vào việc hình thành nên tài sản cố định cho các ngân hàng
hoạt động. Tài sản cố định là điều kiện về vật chất và công nghệ có ý nghĩa quyết định
đến quy mô của một ngân hàng. Khả năng gia tăng và hiện đại hóa tài sản cố định tùy

thuộc vào quy mô của vốn tự có và chiến lược của các nhà quản trị ngân hàng. Tuy nhiên,
theo Luật các TCTD Việt Nam, các ngân hàng thương mại chỉ được phép đầu tư vào tài
sản cố định không quá 50% vốn tự có của ngân hàng.
Vốn cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển của các hình thức dịch
vụ mới, cho những chương trình và trang thiết bị mới. Khi một ngân hàng phát triển, nó
cần vốn bổ sung để thúc đẩy tăng trưởng và chấp nhận rủi ro gắn với sự ra đời những
dịch vụ mới và những trang thiết bị mới. Hầu hết các ngân hàng đều mở rộng và phát
triển cơ sở vật chất so với lúc đầu và sự bổ sung vốn sẽ cho phép ngân hàng mở rộng trụ
sở, xây dựng thêm những văn phòng chi nhánh để theo kịp với sự phát triển của thị
trường và tăng cường chất lượng phục vụ khách hàng. Ngoài ra, khi sử dụng vốn tự có
vào việc đầu tư các tài sản ngắn hạn và dài hạn như đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu công
ty, trái phiếu chính phủ,…là để đem lại lợi nhuận cho ngân hàng cũng đồng thời nhằm
5


duy trì mức vốn khả dụng cho ngân hàng. - 16 - ..
3.3 Chức năng điều chỉnh
Với chức năng điều chỉnh, vốn tự có xác lập các giới hạn cho hoạt động kinh doanh ngân
hàng. Cả các cơ quan quản lý ngân hàng và thị trường tài chính đều đòi hỏi rằng vốn
ngân hàng cần phải được phát triển tương ứng với sự tăng trưởng của danh mục cho vay
và của những tài sản rủi ro khác. Khi thành lập chi nhánh mới hoặc triển khai các hoạt
động kinh doanh mới, quyết định đầu tư, cho vay, mua sắm tài sản, hay khi quyết định
mua lại, sáp nhập,…để có đủ khả năng thực hiện các quyết định trên và có đủ cơ sở pháp
lý để được cấp giấy phép kinh doanh thì số vốn tự có của ngân hàng cũng phải được xác
định lại sao cho tương ứng với các yêu cầu thực tế có thể phát sinh. Các cơ quan quản lý,
giám sát ngân hàng sử dụng các quy định về tỷ lệ giới hạn vốn tự có như một công cụ vĩ
mô để điều tiết các hoạt động của các ngân hàng thương mại. Các giới hạn này được luật
hóa bằng các tiêu chuẩn pháp lý cụ thể với hàng loạt các quy định ràng buộc có liên quan,
dựa trên cơ sở phân loại mức độ rủi ro của các tài sản đầu tư, mức độ khó khăn, sự khác
biệt giữa các ngân hàng,…

4. Hiệp ước Basel về vốn tự có
4.1 Quá trình ra đời của Hiệp ước Basel
Vào những năm 1980, hệ thống NHTM trên thế giới phát triển mạnh và có những dấu
hiệu cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng. Đồng thời, quy định về vốn điều lệ
của các NHTM ở các nước khác nhau, nên dẫn đến cạnh tranh không công bằng trong
cùng một thị trường, đây là điều cấm kỵ trong cô chế hội nhập. Vì vậy lãnh đạo các nước
phát triển đã ngồi lại với nhau để tìm giải pháp thích hợp vừa khuyến khích cạnh tranh
nhưng đảm bảo công bằng và an toàn cho người gửi tiền, đó là một trong những lí do
quan trọng cho sự ra đời Hiệp ước Basel. Basel yêu cầu về an toàn vốn do các ngân hàng
thuộc các nước nhóm G10 khởi xướng và được Ủy ban Quản lí ngân hàng thuộc ngân
hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) ban hành lần đầu tiên vào năm 1988, xuất phát từ những
cuộc khủng hoảng về tiền tệ quốc tế và thị trường ngân hàng, mà đáng quan tâm nhất là
6


sự sụp đổ của ngân hàng Herstatt ở Tây Đức vào thời điểm đó. Ủy ban Basel bao gồm
Thống đốc Ngân hàng Trung ương của nhóm G10 và một số nước có hệ thồng ngân hàng
lớn mạnh hàng đầu thế giới bao gồm Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Itaia, Nhật, Luxembua, Hà
Lan, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ, Anh, Mỹ đã kí Hiệp ước Basel (Basel Accord), một cơ quan
gọi là Hội đồng Basel về giám sát ngân hàng quốc tế cũng đã được chính thức thành lập
để theo dõi và chỉ đạo việc thực thi Hiệp ước. Ngoài ra, hệ thống ngân hàng của nhiều
quốc gia khác trên thế giới cũng đã biểu thị đồng thuận tham gia tuân thủ Hiệp ước.
4.2 Thành phần vốn tự có theo quan điểm của Basel
Khái niệm vốn trong Basel đã chia các nhân tố của vốn thành 2 cấp: ™
+ Vốn cấp 1 bao gồm vốn cổ phần thường và các khoản dự trữ công khai. ™
+ Vốn cấp 2 bao gồm các khoản dự trữ không công khai, giá trị tăng thêm của việc đánh
giá lại tài sản, dự phòng chung và dự phòng tổn thất tín dụng, các công cụ nợ cho phép
chuyển đổi thành cổ phiếu và các khoản nợ thứ cấp.
Tổng vốn cấp 1 và cấp 2 chính là vốn tự có hay vốn cơ bản của tổ chức tín dụng.
Câu 2. Các yếu tố nào ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương pháp tăng vốn tự

có?
+ Các quy định của NHNN về quản lý vốn tự có (Nghị định 141)
Khi muốn thực hiện việc gia tăng vốn tự có, các ngân hàng thương mại phải
tuân thủ các quy định của nhà nước về quản lý vốn tự có như ngân hàng thương mại
chỉ được phép tăng vốn tự có từ các nguồn vốn theo qui định của pháp luật, việc thực
hiện tăng vốn tự có phải thực hiện theo lộ trình và phải trình lên NHNN hiệu quả của
phương án sử dụng vốn tăng lên đồng thời phải được sự đồng ý cho phép của NHNN.
Ngoài ra, việc huy động vốn điều lệ để tăng vốn tự có trên thị trường chứng khoán còn
phải tuân thủ các quy định về thủ tục, nguyên tắc trên thị trường chứng
7


khoán,v.v….Tuy nhiên, một vấn đề vô cùng quan trọng khác nữa là luôn phải đảm bảo
vốn điều lệ thực tế lớn hơn vốn pháp định.
Căn cứ theo Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 của Chính phủ, mức
vốn pháp định áp dụng cho các TCTD như sau:
Mức vốn pháp định áp dụng cho đến năm
STT

Loại hình TCTD

2008

2010

I

Ngân hàng

1


Ngân hàng thương mại

A

Ngân hàng thương mại Nhà nước

3.000 tỷ đồng

3.000 tỷ đồng

B

Ngân hàng thương mại cổ phần

1.000 tỷ đồng

3.000 tỷ đồng

C

Ngân hàng liên doanh

1.000 tỷ đồng

3.000 tỷ đồng

D

Ngân hàng 100% vốn nước ngoài


1.000 tỷ đồng

3.000 tỷ đồng

E

Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài

15 triệu USD

15 triệu USD

2

Ngân hàng chính sách

5.000 tỷ đồng

5.000 tỷ đồng

3

Ngân hàng đầu tư

3.000 tỷ đồng

3.000 tỷ đồng

4


Ngân hàng phát triển

5.000 tỷ đồng

5.000 tỷ đồng

5

Ngân hàng hợp tác

1.000 tỷ đồng

3.000 tỷ đồng

6

Quỹ tín dụng nhân dân

A

Quỹ tín dụng nhân dân TW

1.000 tỷ đồng

3.000 tỷ đồng

B

Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở


0,1 tỷ đồng

0,1 tỷ đồng

II
1

TCTD phi ngân hàng
Công ty tài chính

300 tỷ đồng

500 tỷ đồng

2

Công ty cho thuê tài chính

100 tỷ đồng

150 tỷ đồng

+ Các yếu tố chi phí
Lựa chọn giữa việc phát hành trái phiếu (có thời hạn dài theo quy định) hoặc
phát hành cổ phiếu, nếu xét đến yếu tố chi phí thì ta chọn cách phát hành trái phiếu vì
chi phí phát hành cổ phiếu lớn hơn (nhưng chi phí trả lãi thì ngược lại).
8



+ Yếu tố thời gian
Yếu tố thời gian liên quan đến thời điểm thuận lợi để phát hành chứng khoán. Ở
thời điểm khi lãi suất của trái phiếu tăng thì thị giá của cổ phiếu giảm xuống, và ngược
lại. Do đó, nên phát hành cổ phiếu ở thời điểm khi lãi suất của trái phiếu giảm và
ngược lại. Do giá cả tài sản tài chính thay đổi mạnh trong những năm gần đây, nên yếu
tố thời gian trở thành đối tượng quan trọng để xem xét.
+ Rủi ro thanh khoản
Phát hành chứng khoán nợ để tăng vốn làm cho nợ phải trả tăng, rủi ro phá sản sẽ
dễ xảy ra hơn so với phát hành cổ phiếu.
+ Quyền kiểm soát ngân hàng
Một cá nhân hoặc nhóm cá nhân có khả năng bị mất quyền kiểm soát mà họ đang
giữ trong ngân hàng vì một phương thức tài trợ được lựa chọn. Trong trường hợp ngân
hàng phát hành cổ phiếu sẽ làm phân tán quyền kiểm soát ngân hàng vì những người
mua cổ phiếu thường với số lượng lớn sẽ có khả năng nằm trong hội đồng quản trị của
ngân hàng và chi phối hoạt động của ngân hàng theo hướng có lợi cho họ.
+ Lợi tức trên mỗi cổ phiếu
Với một mức lợi tức không đổi, nếu ngân hàng tăng số lượng cổ phiếu phát
hành sẽ làm cho mức cổ tức tính trên mỗi cổ phiếu giảm xuống, ảnh hưởng đến quyền
lợi các cổ đông.
+ Yếu tố điều động hay tài trợ linh hoạt
Trong nền kinh tế đang phát triển, và đặc biệt trong môi trường lạm phát, ngân
hàng khó có thể chỉ trong một lần mà đáp ứng nhu cầu tăng vốn. Như vậy, khi quyết
định tăng vốn, ngân hàng cần phải ý thức rằng, cần phải có nhiều lần tài trợ được thực
9


hiện trong tương lai. Ngân hàng cần phải lưu ý rằng quyết định tăng vốn ngày hôm nay
của mình sẽ ảnh hưởng ra sao đối với khả năng tăng vốn trong tương lai của ngân
hàng: Việc phát hành cổ phiếu sẽ không ảnh hưởng đến khả năng vay nợ (phát hành
trái phiếu) sau này, ngược lại, việc phát hành trái phiếu hôm nay sẽ gây khó khăn cho

ngân hàng sau này khi vay vốn.

Câu 3.

Có những phương án tăng vốn tự có nào?

3.1 Tăng vốn từ nguồn bên trong
Vốn tự có của ngân hàng chủ yếu hình thành từ lợi nhuận giữ lại. Đây là lợi nhuận ngân
hàng đạt được trong năm nhưng không chia cho các cổ đông mà giữ lại để tăng vốn, hoặc
là nguồn thặng dư vốn.
• Ưu điểm: Phương pháp này giúp ngân hàng tăng vốn tự có mà không mà không
phụ thuộc vào thị trường vốn nên tránh được các chi phí huy động vốn thả nổi, không tốn
kém chi phí, không phải hoàn trả. Đồng thời lợi nhuận giữ lại không đe dọa đến việc mất
quyền kiểm soát của các cổ đông hiện thời, tránh được tình trạng làm loãng quyền sở hữu
ngân hàng và chia sẻ lợi nhuận từ mỗi cổ phiếu đang nắm giữ của họ trong những năm
sau. Trong trường hợp nếu ngân hàng phát hành thêm chứng khoán, một số cổ phần có
thể rơi vào tay các cổ đông mới, họ sẽ được dự phần chia lợi nhuận trong tương lai và có
quyền tham gia biểu quyết đối với các chính sách của ngân hàng.
• Nhược điểm: Chỉ áp dụng với các ngân hàng lớn, làm ăn có lãi liên tục và đều đặn.
Hình thức này không thể áp dụng thường xuyên vì có ảnh hưởng đến quyền lợi của cổ
đông. Tăng vốn từ bên trong có nhiều bất lợi về thuế và chịu ảnh hưởng nặng nề bởi sự
thay đổi lãi suất và những điều kiện kinh tế mà ngân hàng không thể kiểm soát trực tiếp.
Phương pháp này phụ thuộc vào chính sách phân phối cổ tức của ngân hàng. Dựa vào
mức tăng trưởng của lợi nhuận ròng để đáp ứng nhu cầu vốn, tức là ngân hàng phải đưa
ra một quyết định liên quan đến mức lợi nhuận hiện thời cần phải giữ lại để kinh doanh
và mức lợi nhuận chi trả cho các cổ đông dưới hình thức cổ tức. Như vậy, Hội đồng quản
trị và Ban giám đốc ngân hàng phải thống nhất một tỷ lệ duy trì và thanh toán thích hợp
10



từ thu nhập ròng của ngân hàng.
Tỷ lệ thu nhập giữ lại có ý nghĩa rất quan trọng đối với ngân hàng. Tỷ lệ thu nhập giữ lại
quá thấp sẽ làm cho mức tăng trưởng vốn ngân hàng chậm lại, làm giảm khả năng mở
rộng tài sản sinh lời, tăng rủi ro phá sản. Ngược lại nếu tỷ lệ này quá lớn sẽ làm giảm thu
nhập của cổ đông dẫn đến thị giá cổ phiếu của ngân hàng sẽ giảm. Chính sách cổ tức tối
ưu đối với một ngân hàng là tối đa hóa giá trị đầu tư của cổ đông. Đó là khi thu nhập tính
trên mỗi cổ phần ít nhất phải bằng thu nhập tạo ra từ những hoạt động đầu tư có mức độ
rủi ro tương đương. Thanh toán cổ tức ổn định cũng là điều đặc biệt quan trọng đối với
ngân hàng khi muốn thu hút các nhà đầu tư.
Để duy trì sự ổn định trong việc thanh toán cổ tức cho cổ đông, ta xác định tốc độ tăng
vốn từ nguồn nội bộ:
Một tỷ lệ tăng trưởng vốn từ nguồn nội bộ lý tưởng phải đáp ứng cả hai yêu cầu: Một là,
ngân hàng gia tăng tài sản có (đặc biệt là các khoản cho vay); Hai là, không làm suy giảm
quá mức tỷ số vốn/tài sản của ngân hàng. Ta có:
Tỷ lệ tăng vốn từ nguồn nội bộ (ICGR) = ROE × Tỷ lệ lợi nhuận giữ lại
Công thức trên cho thấy muốn tăng qui mô vốn từ nguồn nội bộ thì phải tăng thu nhập
ròng hoặc tăng tỷ lệ thu nhập giữ lại, hoặc tiến hành đồng thời cả hai.
Giả sử một ngân hàng dự kiến tăng qui mô tài sản trong năm là 10%. Theo như công thức
trên, các nhà quản trị ngân hàng sẽ có nhiều lựa chọn giữa ROE và tỷ lệ giữ lại mà vẫn
duy trì tỷ lệ vốn/tài sản:
ICGR = ROE × Tỷ lệ lợi nhuận giữ lại
10% = 0,2 × 0,5
10% = 0,5 × 0,2
10% = 0,1 × 1,0
Ta thấy nếu các nhà quản trị dự đoán được ROE năm nay đạt 20% thì sẽ giữ lại được
11


50% lợi nhuận mà vẫn duy trì tỷ lệ vốn/tài sản. Nếu ROE có thể đạt đến 50% thì lợi
nhuận giữ lại chỉ cần 20%, nghĩa là cổ đông được chia cổ tức đến 80% lợi nhuận ròng sau

thuế. Ngược lại, nếu ROE thấp hơn 10% thì tỷ lệ vốn/tài sản sẽ bị giảm ngay cả khi ngân
hàng giữ lại toàn bộ lợi nhuận. Khi đó sẽ phát sinh áp lực lên việc phải tăng vốn từ các
nguồn bên ngoài để bù đắp kết quả kinh doanh yếu kém của ngân hàng.
Như vậy, muốn tăng vốn từ nguồn lợi nhuận giữ lại, các ngân hàng phải đảm bảo hoạt
động kinh doanh có lời. Nhưng phương pháp này cũng không nên sử dụng lâu dài vì có
ảnh hưởng đến quyền lợi của cổ đông.
Bên cạnh lợi nhuận giữ lại, các ngân hàng cũng có thể tìm đến các nguồn vốn nội bộ khác
như thặng dư vốn, dự trữ bổ sung vốn điều lệ…
3.2 Tăng vốn từ bên ngoài
Khi ngân hàng tìm đến các nguồn vốn từ bên ngoài, việc lựa chọn phương án nào phụ
thuộc vào nhiều yếu tố:
+
+
+
+
+

Phí tổn liên quan đến từng loại nguồn vốn (phí tổn lãi suất, phí phát hành…)
Tác động đến thu nhập của cổ đông (EPS)
Quyền sở hữu và kiểm soát của các cổ đông hiện tại và tương lai.
Các rủi ro tiềm ẩn.
Thị trường, vấn đề pháp lý…

3.2.1 Phát hành cổ phiếu mới
Phát hành thêm vốn cổ phần thường hay vốn cổ phần ưu đãi là một hình thức huy động
vốn phổ thông của các ngân hàng thương mại cổ phần.
Đối với phát hành cổ phiếu thường:
• Ưu điểm: không phải hoàn trả cho người mua cổ phiếu, cổ tức của cổ phiếu
thường không phải là gánh nặng về tài chính cho ngân hàng trong những năm làm ăn thua
lỗ. Phương pháp này làm tăng qui mô vốn nên cũng làm tăng khả năng vay nợ của ngân

hàng trong tương lai.
12


• Nhược điểm: Chi phí phát hành cao và có thể làm loãng quyền sở hữu ngân hàng,
giảm mức cổ tức trên mỗi cổ phiếu (EPS), làm giảm khả năng tận dụng tỷ lệ đòn bẩy tài
chính ngân hàng đã có.
Đọi với phát hành cổ phiếu ưu đãi:
• Ưu điểm: Không phải hoàn trả vốn và không làm phân tán quyền kiểm soát ngân
hàng, tăng khả năng vay nợ của ngân hàng trong tương lai.
• Nhược điểm: cổ tức phải trả cho các cổ đông là gánh nặng tài chính trong những
năm ngân hàng bị thua lỗ, chi phí phát hành cao, giảm mức cổ tức trên mỗi cổ phiếu.
3.2.2 Phát hành trái phiếu chuyển đổi
Trái phiếu chuyển đổi là hình thức tăng vốn lai giữa cổ phần thường và nợ. Trái phiếu
chuyển đổi ấn định một khoảng thời gian nợ với lãi suất cố định được chuyển sang cổ
phần. Nó trả lãi suất rẻ hơn so với vốn huy động vì cho phép trái chủ trở thành cổ đông
trong tương lai, nhưng lại hấp dẫn về lãi suất hơn cổ đông vì mang rủi ro chuyển đổi.
• Ưu điểm: chi phí thấp và không làm phân tán quyền kiểm soát của ngân hàng, lãi
suất thanh toán cho trái phiếu chuyển đổi được tính vào chi phí trước thuế. Đây là
phương pháp hiệu quả vì trái phiếu này được các nhà đầu tư ưa chuộng trên thị trường.
• Nhược điểm: Phải hoàn trả cho người mua trái phiếu khi hết hạn, lãi trả cho trái
phiếu là gánh nặng cho ngân hàng về tài chính tăng chi phí hoạt động, làm giảm khả năng
đi vay về sau của ngân hàng.
Ngoài ra, ngân hàng còn có thể thực hiện các biện pháp tăng vốn từ bên ngoài khác như
bán tài sản và thuê lại, chuyển đổi chứng khoán nợ thành cổ phiếu…

3.3 Một số phương thức khác
Bán tài sản và các tiện ích cho thuê: Các ngân hàng thương mại còn có thể tăng vốn tự có
13



bằng cách bán tất cả hoặc một phần phương tiện văn phòng của mình và thuê lại từ người
chủ mới để phục vụ cho các hoạt động kinh doanh. Với những giao dịch như vậy, ngân
hàng thường thu về những dòng tiền mặt lớn (có thể tái đầu tư với lãi suất hiện tại) và
củng cố sức mạnh về vốn. Thành công lớn nhất của những giao dịch bán-thuê lại này xảy
ra khi lạm phát và tăng trưởng kinh tế đạt mức cao vì nó làm tăng giá trị thị trường của tài
sản so với giá trị sổ sách được ghi nhận trong các báo tài chính.
Mua bán và sáp nhập: M&A là giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh, tái cấu trúc các
định chế tài chính yếu kém. Đây là một phương án không những tăng vốn mà còn tăng
quy mô hoạt động, mạng lưới, cơ sở khách hàng, kết hợp các lợi thế kinh doanh của các
tổ chức tham gia M&A nhằm tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn cho cổ đông, ngân hàng,
khách hàng và nền kinh tế.
Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể chuyển đổi chứng khoán nợ thành cổ phiếu giúp ngân
hàng củng cố vị trí vốn cổ phần và tránh khỏi những chi phí trả lãi phát sinh từ những
chứng khoán nợ trong tương lai.

Câu 4.

Thực trạng vốn tự có tại Việt Nam hiện nay như thế nào?

Theo Đề án tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam theo Quyết định số
254/2012/QĐ-CP. Những giải pháp mà NHNN thực hiện có hiệu quả trong giai đoạn
2011-2015 vừa qua chính là giải pháp sắp xếp lại hệ thống ngân hàng, cụ thể là: tự tái cơ
cấu; mua bán, sáp nhập; mua lại ngân hàng 0 đồng.
4.1. Thực trạng sắp xếp lại hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2011-2015:
Giải pháp sắp xếp lại hệ thống ngân hàng được NHNN Việt Nam sử dụng rất hiệu
quả trong giai đoạn 2011-2015. Thông qua các hình thức như NHNN cho phép các ngân
hàng tự tái cơ cấu; tham gia M&A (giữa ngân hàng với ngân hàng, ngân hàng với doanh
nghiệp trong hoặc ngoài nước, ngân hàng với công ty tài chính); xử lý sở hữu chéo;
NHNN mua lại NHTM với giá 0 đồng, đồng thời chấm dứt quyền cổ đông đối với các cổ

đông hiện hữu của ngân hàng bị mua lại. Để tạo điều kiện cho việc thực hiện các
14


giải pháp sắp xếp lại hệ thống ngân hàng theo các hình thức như trên, NHNN đã ban
hành nhiều văn bản pháp lý kịp thời. (Bảng 1)

Trong số các hình thức sắp xếp lại hệ thống ngân hàng này, giải pháp để cho các
ngân hàng tự tái cơ cấu trên các nội dung khuyến nghị trong Đề án 254. Theo đó, NHNN
đã khuyến khích các ngân hàng tái cơ cấu một cách tự nguyện, chỉ khi các ngân hàng quá
yếu kém và có thể gây ảnh hưởng tiêu cực tới hệ thống thì NHNN mới thực hiện các biện
pháp can thiệp bắt buộc.
Đối với vấn đề xử lý sở hữu chéo, biện pháp giải quyết tập trung vào việc thắt chặt
các quy định liên quan tới sở hữu, bên cạnh đó, yêu cầu các doanh nghiệp, tổng công ty,
tập đoàn nhà nước phải thoái vốn khỏi các NHTM. Để khắc phục tình trạng sở hữu chéo
giữa các ngân hàng, hoạt động M&A đã được khuyến khích nhằm giúp ngân hàng sau
15


hợp nhất/sáp nhập đảm bảo quy định về cấu trúc sở hữu. (Bảng 2, 3)

16


4.2. Đánh giá về các giải pháp sắp xếp lại hệ thống ngân hàng:
Thứ nhất, NHNN đã thực hiện các giải pháp sắp xếp lại hệ thống ngân hàng một
cách thận trọng nhằm tránh ảnh hưởng tới tâm lý công chúng.
Bước đi đầu tiên của NHNN Việt Nam là thực hiện khoanh vùng các ngân hàng
yếu kém và có ảnh hưởng xấu tới hệ thống. Sau đó, NHNN đã tiến hành các biện pháp
kiểm soát đặc biệt, theo dõi và tìm đối tác mua/bán quyền sở hữu cho các ngân hàng này

nhằm tránh lan truyền rủi ro từ ngân hàng yếu kém sang các ngân hàng khác trong hệ
thống. Dựa vào các tiêu chí như cấu trúc sở hữu, năng lực tài chính, chất lượng tài sản,
vấn đề thanh khoản, hiệu quả hoạt động, mức đủ vốn và các tiêu chí đánh giá khác liên
quan đến năng lực quản trị doanh nghiệp, kinh nghiệm và năng lực quản trị rủi ro cùng
với thông tin trên thị trường, NHNN tiến hành phân loại các ngân hàng thành bốn nhóm:
NHTM Nhà nước; nhóm NHTM cổ phần có tình hình tài chính lành mạnh, có năng lực,
17


có quy mô đủ lớn để tiếp tục phát triển thành những ngân hàng trụ cột trong hệ thống;
(iii) nhóm NHTM cổ phần thiếu thanh khoản tạm thời; (iv) nhóm các NHTM cổ phần có
tình hình tài chính yếu kém, đòi hỏi sự hỗ trợ, can thiệp bằng nhiều hình thức từ bên
ngoài để tái cơ cấu. Nhờ sự phân loại này, NHNN Việt Nam đã dễ dàng kiểm soát được
rủi ro trong hệ thống. Điều này đã tạo tiền đề tốt để tiếp tục áp dụng các giải pháp tái cơ
cấu đối với các nhóm ngân hàng.
Thứ hai, thực hiện hoạt động mua bán, sáp nhập và mua lại 0 đồng các ngân hàng
yếu kém.
Bước đi thứ hai của NHNN Việt Nam chính là việc thực hiện quá trình M&A
trong hệ thống ngân hàng. Đứng trước yêu cầu của quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân
hàng, hoạt động M&A các ngân hàng trở nên thực sự mạnh mẽ trong thời gian vừa qua.
M&A được lựa chọn là biện pháp mũi nhọn, xuyên suốt trong các giải pháp xử lý đối với
tất cả các nhóm ngân hàng trong số các giải pháp để sắp xếp lại hệ thống ngân hàng. Về
kinh nghiệm thực tiễn, các cuộc tái cấu trúc ngân hàng trên thế giới cho thấy không phải
thương vụ M&A nào cũng thành công nhưng M&A là con đường ngắn nhất để ổn định
tình hình tài chính, tránh gây ra đổ vỡ hệ thống. Đối với thực tiễn tại Việt Nam, có thể
nói M&A là giải pháp phù hợp với tình hình thực tế trong bối cảnh: (i) ngân sách nhà
nước hạn hẹp để có thể cứu trợ các ngân hàng hay chuyển đổi nợ thành vốn cổ phần, mua
lại ngân hàng; (ii) bảo hiểm tiền gửi chưa phát huy hết tác dụng; (iii) việc mở room cho
các nhà đầu tư nước ngoài gặp nhiều vướng mắc; và (iv) các giải pháp cải thiện về môi
trường kinh doanh, quản trị doanh nghiệp và quản lý rủi ro, tái cơ cấu hệ thống doanh

nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp Nhà nước để hỗ trợ hệ thống ngân hàng đòi hỏi nỗ lực
trong thời gian lâu dài và đồng bộ.
Mặc dù chưa đánh giá được hết các hiệu quả của các thương vụ M&A nhưng
những thương vụ ban đầu đã hoàn thành nhiệm vụ ổn định hệ thống, làm nền tảng cho
những thương vụ tiếp theo nhằm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Trong giai đoạn tiếp theo
của quá trình tái cơ cấu, M&A không chỉ diễn ra với các NHTM yếu kém mà cũng là giải
18


pháp tái cơ cấu của nhiều ngân hàng lành mạnh khác để củng cố và nâng cao vị thế trên
thị trường với những lợi ích không thể phủ nhận từ sự cộng hưởng của M&A có thể
mang lại cho các ngân hàng. Các thương vụ M&A đã góp phần giải quyết một số vấn đề
trong hệ thống ngân hàng, cụ thể:
Một là, M&A góp phần xử lý sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng. Điển hình
đầu tiên chính là vụ hợp nhất 3 ngân hàng SCB, Việt Nam Tín Nghĩa và Đệ Nhất. Các
thương vụ khác có liên quan đến sở hữu chéo đã được NHNN chấp thuận bao gồm việc
sáp nhập NHTMCP Phương Nam và NHTM Sài Gòn Thương Tín, NHTMCP Phát triển
Mê Kông vào NHTMCP Hàng Hải. Với việc định hướng hoạt động mua bán, sáp nhập,
hợp nhất, NHNN không những giúp tránh đổ vỡ hệ thống mà còn giải quyết tình trạng sở
hữu chồng chéo giữa các ngân hàng, đặc biệt là dạng sở hữu chéo trực tiếp giữa hai ngân
hàng với nhau đã không còn.
Hai là, M&A góp phần giảm số lượng ngân hàng. Định hướng tái cơ cấu của
NHNN là cho đến năm 2016 - 2017 sẽ giảm số lượng xuống còn 20 - 25 ngân hàng.
Trong bối cảnh không để các ngân hàng phá sản, việc giảm số lượng các ngân hàng chỉ
có thể thực hiện theo phương thức duy nhất là M&A. Thông qua M&A, hệ thống NHTM
Việt Nam đến nay, đã giảm được 06 ngân hàng và số lượng ngân hàng sẽ còn tiếp tục
giảm khi M&A vẫn đang tiếp tục diễn ra trong thời gian tới. Việc giảm số lượng ngân
hàng trong hệ thống, đặc biệt là các NHTM nhỏ, yếu kém có thể làm giảm bớt các hành
vi cạnh tranh không lành mạnh trong hệ thống thường bắt nguồn từ các NHTM nhỏ, giúp
giảm nguy cơ rủi ro hệ thống.

Ba là, M&A giúp cho các NHTMCP có công ty con hoạt động chuyên ngành theo
quy định của Luật Các TCTD 2010. Việc M&A giữa các NHTM và công ty tài chính đã
giúp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của NHTM và công ty tài chính trên cơ sở
tăng cường liên kết tài chính và gia tăng giá trị dịch vụ mà các ngân hàng cung cấp.
Bốn là, M&A tạo điều kiện cho các DNNN thoái vốn đầu tư ngoài ngành tại các
19


NHTM và công ty tài chính. Các thương vụ M&A là hướng đi hợp lý để các DNNN có
thể thoái vốn đầu tư khỏi lĩnh vực ngân hàng nhanh chóng hơn, góp phần đẩy nhanh quá
trình tái cơ cấu DNNN cũng như tái cơ cấu hệ thống ngân hàng khi mà việc thoái vốn qua
thị trường chứng khoán gặp nhiều khó khăn do DNNN phải đảm bảo bảo toàn vốn đầu tư
trong bối cảnh thị trường chứng khoán ảm đạm trong giai đoạn vừa qua. Các thương vụ
thoái vốn DNNN khỏi NHTM hay công ty tài chính trong thời gian vừa qua bằng hình
thức M&A đều được thực hiện trên cơ sở tự nguyện mà không có sự can thiệp hành
chính. Ngoài ra, trong thời gian tới, nếu các DNNN không thể tự thoái vốn, vai trò của
các NHTMNN có thể sẽ trở nên rõ ràng hơn khi tiếp nhận các phần vốn đầu tư tại các
ngân hàng từ các DNNN.
Thứ ba, thực hiện sắp xếp lại hệ thống ngân hàng thông qua hình thức mua lại 0
đồng bên cạnh tiếp tục tiến hành hoạt động mua bán, sáp nhập.
Bước đi thứ ba của NHNN Việt Nam là việc thực hiện hình thức mua lại 0 đồng
với một số ngân hàng: Ngân hàng Xây dựng, Ngân hàng Đại dương và Ngân hàng Dầu
khí toàn cầu. Việc NHNN Việt Nam mua lại 0 đồng ở các ngân hàng này đã chấm dứt
quyền sở hữu của các cổ đông hiện hữu tại các ngân hàng này. Việc ban hành các quyết
định mua lại ba ngân hàng trên với giá 0 đồng là bước đi quyết liệt của NHNN nhằm bảo
đảm an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng. Qua đó, quyền lợi của người gửi tiền
được tiếp tục đảm bảo, đồng thời NHNN có thể trực tiếp sở hữu, can thiệp vào quá trình
tái cơ cấu của các ngân hàng này. Cụ thể, NHNN đã giao cho Ngân hàng Ngoại thương
cử cán bộ tiếp quản và thực hiện tái cơ cấu Ngân hàng Xây dựng và Ngân hàng Đại
Dương, trong khi đó, Ngân hàng Công thương được giao tiếp quản Ngân hàng Dầu khí

Toàn cầu. Như vậy, NHNN đã sử dụng 3 trong 4 biện pháp sắp xếp lại hệ thống ngân
hàng (mua bán, sáp nhập, mua lại 0 đồng và phá sản). Trong 4 năm thực hiện tái cơ cấu
hệ thống ngân hàng vừa qua. NHNN đã không sử dụng biện pháp phá sản là hợp lý bởi
phá sản ngân hàng dễ dẫn tới hệ lụy niềm tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng
giảm sút và dễ châm ngòi cho rủi ro thanh khoản toàn hệ thống trong khi hệ thống bảo
hiểm tiền gửi tại Việt Nam chưa thực sự vững mạnh. Ngoài ra, việc cho phá sản ngân
20


hàng là một quá trình tốn kém thời gian và chi phí hơn là các biện pháp sắp xếp lại. Tiến
hành mua lại 0 đồng các ngân hàng mà trước đó NHNN đã tiến hành kiểm soát đặc biệt
đã cho thấy NHNN đã thực hiện bước đi thận trọng, phù hợp trong bối cảnh hiện tại,
đồng thời cũng cảnh báo các cổ đông ngân hàng trong tương lai cần chịu trách nhiệm về
hành động “đầu tư vào ngân hàng” đó.
Thứ tư, hỗ trợ các ngân hàng sau khi thực hiện biện pháp sắp xếp lại thông qua tái
cấp vốn, tăng cường năng lực quản trị rủi ro và đặc biệt là dự trữ bắt buộc.
Để đảm bảo thanh khoản cho toàn hệ thống ngân hàng, bên cạnh việc NHNN tiếp
tục sử dụng công cụ tái cấp vốn nhằm hỗ trợ thanh khoản kịp thời cho các ngân hàng (đặc
biệt là 3 ngân hàng bị mua lại 0 đồng) và tiếp tục chỉ đạo 10 ngân hàng thí điểm đẩy
mạnh quá trình chuẩn bị thực hiện áp dụng chuẩn mực Basel II theo Công văn số
1601/2014, NHNN còn ban hành Thông tư mới về dự trữ bắt buộc trong năm 2015.
Thông tư 23/2015/TT-NHNN nhằm sửa đổi bổ sung một số điều của Quy chế dự trữ bắt
buộc đối với TCTD ban hành kèm Quyết định 581 ngày 09/06/2003 của Thống đốc
NHNN. Theo đó, NHNN xem xét điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với một số
ngân hàng. Cụ thể, đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt, Thống đốc NHNN sẽ xem xét
quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho đến mức tối thiểu 0%. Đối với TCTD đang
thực hiện phương án cơ cấu lại đã được phê duyệt, tổ chức tín dụng tham gia cơ cấu lại
ngân hàng yếu kém theo chỉ định, Thống đốc xem xét quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt
buộc cụ thể cho từng tổ chức tín dụng. Nhìn tổng quan, Thông tư này là hợp lý và cần
thiết khi nó được đưa ra để góp phần hỗ trợ cho công cuộc tái cơ cấu, củng cố hệ thống

ngân hàng Việt Nam, tuy nhiên, trong tương lai, NHNN nên sớm gỡ bỏ quy định này bởi
không những sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các ngân hàng có thể gây ra vấn đề
“chạy đua lãi suất” mà còn tạo ra dư luận không tốt khi Việt Nam đã gia nhập TPP.

21


Câu 5.

Gợi ý giải pháp tăng vốn tự có cho các NHTM

5.1. Giải pháp từ phía các NHTMCP
5.1.1. Cân nhắc việc phát hành thêm cổ phiếu
Thị trường chứng khoán là một kênh hữu hiệu giúp cho rất nhiều doanh nghiệp
huy động thêm vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, đó là lợi ích rất lớn mà doanh
nghiệp được hưởng. Hiệu quả sử dụng vốn bổ sung để mở rộng mạng lưới dịch vụ
nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin, phát triển năng lực đội ngũ chắc còn phải chờ một
thời gian nữa mới biết. Trong lúc thị trường chứng khoán đang nhộn nhịp, thặng dư vốn
cổ phần có được thông qua phát hành cổ phiếu ngân hàng tăng vốn điều lệ là lợi ích rõ
ràng. Đứng từ góc độ đầu tư, khi giá cổ phiếu đang tăng thì cổ đông (ở đây không kể
đến dân “lướt sóng”) rất dễ dàng chấp nhận việc tăng vốn của doanh nghiệp mà không
quan tâm mấy đến hiệu quả sử dụng vốn tăng thêm đó. Đứng từ góc độ chủ doanh
nghiệp, đây là cơ hội quá lớn để thu hút thêm tiền vốn mà không phải trả lãi vay. Vậy
rủi ro là gì? Đó là rủi ro “loãng giá cổ phiếu” do doanh nghiệp phát hành quá mức, cũng
như rủi ro cho chính doanh nghiệp do sau này phải dành thêm rất nhiều tiền để trả cổ tức
do số cổ phiếu tăng lên quá nhanh và quá nhiều.
Tăng vốn từ phát hành thêm cổ phiếu chỉ thuận lợi khi thị trường cổ phiếu tăng
trưởng tốt, song thị trường chứng khoán hiện đang khó khăn và chưa sớm khởi sắc, do
thanh khoản còn yếu.Để việc phát hành thêm cổ phiếu thành công thì các NHTMCP
cũng cần minh bạch và công khai nhiều thông tin hơn cho các cổ đông để họ tin tưởng

vào tương lai của ngân hàng cũng như giá trị cổ phiếu và việc sử dụng hiệu quả nguồn
vốn tăng thêm đó.
Ngoài ra ngân hàng có thể phát hành cổ phiếu huy động vốn trong cán bộ, nhân
viên của chính các NHTM. Đây là cách mà nhiều ngân hàng lớn trên thế giới đa làm, họ
thưởng cổ phiếu ưu đãi cho chính những nhân viên, hàng năm nhận được cổ tức, làm
cho họ gắn bó với ngân hàng.
Việc tăng vốn từ cổ đông hiện hữu chỉ thuận lợi khi cổ đông hiện hữu có sức
22


mạnh tài chính và không muốn giảm tỷ lệ sở hữu; sẽ bất lợi nếu cổ đông hiện hữu
không đủ sức mạnh tài chính. Đặc biệt, nếu cổ đông hiện hữu bị yêu cầu phải rút vốn
đầu tư ngoài ngành và thanh khoản thị trường gặp khó khăn, việc tăng vốn từ cổ đông
hiện hữu sẽ rất khó.
5.1.2. Chọn cổ đông chiến lược là các tập đoàn ngân hàng nước ngoài
Việc các NHTMCP chọn cổ đông chiến lược là các tập đoàn ngân hàng nước
ngoài được xem như một nước cờ đôi, với một mũi tên trúng nhiều đích.Nước cờ chọn cổ
đông chiến lược là một tập đoàn ngân hàng hàng đầu của nước ngoài được đánh giá cao.
Bởi không chỉ cho phép bản thân NHTMCP đó tăng thêm tiềm lực về tài chính, quản trị
điều hành và công nghệ, mà còn cho phép NHTMCP có thể học hỏi, được hỗ trợ thêm
kinh nghiệm về ứng dụng công nghệ và quản trị ngân hàng cũng như cách thức đáp ứng
tốt hơn các nhu cầu dịch vụ, đặc biệt là thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ, chuyển tiền,
kiều hối, đầu tư,... cho các khách hàng vì các tập đoàn ngân hàng nước ngoài luôn là
những ngân hàng có kinh nghiệm lâu năm và hiệu quả hoạt động cao. Ngoài ra chúng ta
thường thấy tại các ngân hàng nội có vốn đầu tư nước ngoài là các cổ đông nước ngoài
thường muốn ngân hàng tăng trưởng nhanh, lợi nhuận càng cao càng tốt. Đây là điều gây
bất đồng với các cổ đông chiến lược, vì nó dễ tạo rủi ro hoạt động. Vì vậy, nếu ngân hàng
nội quyết định bán cổ phần cho đối tác nước ngoài, họ nên lựa chọn các nhà đầu tư thực
sự có ý định làm ăn lâu dài tại Việt Nam và thành công trên thị trường tài chính quốc tế.
Ngân hàng nội cũng nên xác định chấp nhận cái mới, cải tổ phương thức kinh doanh,

quản rị rủi ro… Chỉ khi đó, ngân hàng nội mới tận dụng được kinh nghiệm của nhà đầu
tư chiến lược nước ngoài, bên cạnh tận dụng nguồn lực tài chính mạnh. Tuy nhiên theo
Nghị định 60/2015/NĐ-CP của Chính phủ chính thức có hiệu lực từ ngày 1/9/2015, nhiều
doanh nghiệp sẽ được nới room cho vốn ngoại lên 100%.Trong khi đó, tỷ lệ sở hữu nhà
đầu tư nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam vẫn ở mức 30%, trong đó một tổ chức
không được sở hữu quá 20%.

23


Bảng 1: Điển hình là các giao dịch được liệt kê ”2015”
NH tiếp nhận cổ đông

Cổ đông chiến lược nước ngoài

chiến lược nước ngoài
Vietcombank
Mizuho(15%)
VIETINBANK
The Bank of Tokyo-Mitsubishi UFJ (19,73%), Quỹ Đầu tư Cấp
Techcombank
ACB

vốn IFC L.P (IFC) (8,02%)
HSBC (19,41%)
Standard Chartered APR Limited(8,77%), Connaught Investors
Limited(7,26%), Dragon Financial Holdings Limited(6,81%),

VIBank
OCB

Eximbank

Standard Chartered Bank (Hong Kong) Limited(6,23%)
Commonwealth Bank of Australia(20%)
PNP PARIPAS (18,68%)
Sumitomo Mitsui Banking Corporation(15%), VOF Investment

ABBANK

Limited (4,97%)
MAYBANK(20%),IFC(10%)
“Nguồn: cafef.vn”

-

Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) dự kiến chào bán riêng

lẻ 10% cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài. Đối tác chiến lược của Vietcombank là Ngân
hàng Nhật Bản Mizuho hiện giữ cổ phần ở mức 15% và đang xem xét khả năng nâng lên
20%. Hiện tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại Vietcombank ở mức xấp xỉ
21%.Qua đây có thể thấy tầm quan trọng của các cổ đông chiến lược nước ngoài.
5.1.3. Phát hành trái phiếu quốc tế tăng vốn cấp 2
Phương án tiếp theo là phát hành trái phiếu tăng vốn cấp 2 trên thị trường quốc tế.
Ngân hàng có tên tuổi trên thị trường và có tiềm lực tài chính phù hợp với cách này, bởi
chi phí phát hành lớn hơn nhiều so với phát hành cổ phiếu.
Ví dụ : năm 2012 Ngân hàng Vietinbank đã huy động thành công 250 triệu USD
thông qua phát hành trái phiếu quốc tế. Trái phiếu trên thị trường chứng khoán
Singapore. Trái phiếu phát hành là loại hình không có tài sản bảo đảm, kỳ hạn 5 năm,
định giá bằng USD và hình thức thanh toán định kỳ 6 tháng 1 lần vào cuối kỳ.Với mức
24



lãi suất cuống phiếu (coupon rate) là 8,0%/năm, kỳ hạn 5 năm, và việc bán chiết khấu
dưới lãi suất cố định, lợi suất của đợt chào bán lên tới 8,25%/năm, nhìn trong tổng thể, có
thể nói ngắn gọn: Thương vụ của VietinBank đã đạt tới thành công.
5.1.4. Tăng cường M&A trong ngân hàng
Nếu một ngân hàng nội mạnh sáp nhập với một ngân hàng nội yếu hơn sẽ thuận
lợi nhất về mặt văn hóa, cách thức kinh doanh, sự hiểu biết thị trường trong nước.Thực tế
cho thấy rằng sau khi các ngân hàng sáp nhập lại với nhau thì tình hình hoạt động kinh
doanh sẽ dần đi vào ổn định mặc dù có những khó khăn ban đầu như lợi nhuận giảm sút,
nợ xấu tăng mạnh … nhưng qui mô về vốn và tài sản cũng tăng mạnh. Tuy nhiên, bất lợi
là các ngân hàng mạnh cũng đang phải tập trung lành mạnh hóa hoạt động của mình,
không muốn gánh thêm ngân hàng yếu kém. Hơn nữa, sự sáp nhập giữa hai ngân hàng
nội với nhau cũng khó mang lại sự thay đổi căn bản về mặt quản trị.Do đó để tiến hành
sáp nhập thì các ngân hàng cần nghiên cứu kỹ về đối tượng mà minh muốn sáp nhập để
việc sáp nhập là hiệu quả nhất.

25


×