Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

SKKN tiếng anh vận dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ ở trên lớp trong dạy học tiếng anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.02 KB, 39 trang )

MỞ ĐẦU
I- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cùng với sự thay đổi lớn lao của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, nước ta
đang có sự “chuyển mình” trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Việt Nam
đang phấn đấu trở thành một quốc gia có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, dân
giầu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Đứng trước thực tế đó, ngành giáo
dục và đào tạo Việt nam đang đứng trước những thách thức và vận hội mới. Nó
đòi hỏi phải có những đổi mới trong hệ thống giáo dục mà nghị quyết Trung
ương (Khoá 8) đã nêu:
“Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo khắc phục lối truyền
thụ một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng
các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học. Đảm
bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh”


Mục 2, điều 4 trong luật giáo dục của nước ta nêu rõ “Phương pháp giáo dục
phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của
người học , bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”
Thực tế từ những năm 90, việc đổi mới về mục tiêu, nội dung chương trình,
sách giáo khoa tiếng Anh ở bậc trung học phổ thông theo những định hướng của
cải cách giáo dục đã được tiến hành và đã tạo ra những tiền đề quan trọng cho
việc đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh . Các nhà giáo dục tâm huyết đã ra
sức tìm tòi và thử nghiệm nhiều phương pháp dạy học mới:” Dạy học theo hướng
tích cực lấy học sinh làm trung tâm”, nhằm phát huy tích tích cực, tư duy sáng
tạo, chủ động của học sinh nâng cao hiệu quả và chất lượng quá trình dạy học.
Trong hoàn cảnh hiện tại của Việt nam đang ở chặng đầu của con đường đổi
mới, giáo dục còn nhiều khó khăn, điều kiện đầu tư cho cơ sở vật chất còn hạn

chế như: thiếu phòng học, dụng cụ tài liệu, lớp quá đông... Vậy làm thế nào để
áp dụng được các phương pháp dạy học tích cực nhằm nâng cao chất lượng
giảng dạy môn tiếng Anh – một môn học mà học sinh từ trước đến nay vẫn coi là

1


môn “phụ”, môn “học thuộc lòng”? Làm thế nào để học sinh khắc phục được tâm
lí này? Để học sinh trở nên yêu thích hứng thú với bộ môn, giờ học không cảm
thấy nhàm chán, tẻ nhạt và đồng thời cũng khắc phục những điểm hạn chế do
hoàn cảnh hiện tại của nước nhà. Với những điều kiện đòi hỏi trên, một trong
những phương pháp học tập có tính khả thi là dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ.

Bởi phương pháp này không đòi hỏi điều kiện học tập gì đặc biệt, lại không phụ
thuộc quá nặng nề vào “cá tính “hay “khả năng đặc biệt” của người dạy giống
như nhiều các phương pháp dạy học khác.
Đối với phương pháp dạy học hợp tác nhóm thì các nhiệm vụ học tập được
giải quyết không phải bởi từng cá nhân riêng rẽ mà là sự phối hợp, sự hợp tác
của các thành viên trong một nhóm. Việc phối hợp học tập theo cả chiều đứng
(thày –trò) và chiều ngang (trò –trò) tạo điều kiện cho học sinh nhận thức từ hai
phía thầy và bạn. Chính trong quá trình học tập chung đó các em được trao đổi
thảo luận học hỏi lẫn nhau, được khẳng định mình trong nhóm, tập thể tạo nên
bầu không khí dân chủ trong lớp học. Đồng thời học tập nhóm còn rèn luyện tính
độc lập, tự chủ, khả năng diễn đạt, lập luận vấn đề, sự hợp tác tương trợ lẫn nhau,
ý thức cộng đồng, tính kỷ luật,vv...Từ đó giúp cho học sinh có thể thích ứng

nhanh với những đòi hỏi ngày càng cao của đời sống xã hội và hướng học sinh
vào chuẩn bị cho cuộc sống chứ không phải chuẩn bị cho thi cử. Đây cũng chính
là mục đích cuối cùng của dạy học.
Hiện nay, trên thế giới phương pháp dạy học hợp tác nhóm đã được nghiên
cứu, vận dụng và thu được nhiều thành tựu. Song ở Việt nam phương pháp này
mới chỉ vận dụng ở một số ít môn học như: giáo dục thể chất, năng khiếu,
...Chính vì vậy cần phải nghiên cứu vận dụng phương pháp dạy học này trong
dạy học nói chung và môn tiếng Anh nói riêng ở nhà trường trung học phổ thông
Việt nam.
Xuất phát từ những tiền đề lí luận và thực tiễn trên tôi chọn đề tài:

2



“Vận dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ ở trên lớp trong dạy
học tiếng Anh – THPT”.
II- MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Đề tài xác định cơ sở lí luận và qui trình của việc vận dụng phương pháp
dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ vào dạy học tiếng Anh - Trung học phổ thông .
Việc thực hiện phương pháp này nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo
của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn tiếng Anh.
III- ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Đối tượng nghiên cứu: Phương pháp học tập hợp tác nhóm nhỏ trong dạy học
tiếng Anh ở nhà trường trung học phổ thông.

Học sinh phổ thông các khối lớp 10, 11, 12.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY
HỌC HỢP TÁC THEONHÓM NHỎ TRONG DẠY HỌC MON TIENG ANH
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC DẠY HỌC HỢP TÁC THEO NHÓM NHỎ
1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu:
Ở Việt Nam, phương pháp học tập hợp tác nhóm đã được tổ chức dạy học từ
lâu như: “Học thày không tày học bạn”. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, chúng
ta từng có phong trào học tập dân chủ “Bình dân học vụ” học tập tổ, nhóm.
Phong trào: “Đôi bạn cùng tiến” được Hội đồng đội Trung ương phát động trong
thời gian dài cả trong kháng chiến và đến tận bây giờ vẫn được duy trì. Trên thực
tế ở những vùng dân cư thưa thớt như vùng sâu vùng xa, vùng núi cao hẻo lánh,

chúng ta đã tổ chức dạy học theo các lớp ghép 2, 3 đến 4 trình độ trong một lớp.
Việc tổ chức dạy học lớp ghép như vậy cũng là dựa trên nền tảng của tổ chức dạy
học theo nhóm cùng trình độ.
Những năm cuối của thế kỷ XX, học tập nhóm ở Việt Nam luôn diễn ra dưới
nhiều hình thức khác nhau: như nhóm tự quản, nhóm học tập, ở một số môn học
như: thể dục, thủ công, âm nhạc, ngoại khoá, sinh hoạt câu lạc bộ vv.... Gần đây,

3


với xu hướng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động
của người học, các nhà nghiên cứu lý luận dạy học đưa ra bốn đặc trưng cơ bản:

- Dạy học thông qua tổ chức các hoạt động độc lập của học sinh.
- Chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
- Tăng cường học tập cá thể kết hợp học tập hợp tác.
- Kết hợp đánh giá của thầy và tự đánh giá của trò.
Trong số các nhà giáo dục đã nghiên cứu vấn đề học tập nhóm có bài viết:
“Dạy học lấy học sinh làm trung tâm” và “Phương pháp cùng tham gia” của tác
giả Trần Bá Hoành đã đề cập tới việc tổ chức học tập hợp tác theo nhóm với ý
nghĩa là một trong những phương pháp dạy học tích cực.Theo tác giả thì “học
sinh cần học bằng cách làm chứ không chỉ bằng cách nghe giáo viên giảng. Dạy
học theo nhóm tạo nên môi trường hợp tác trò- trò; thầy trò giúp đỡ lẫn nhau,
trong đó học sinh là trung tâm, giáo viên không còn độc chiếm diễn đàn”. Tiến sĩ
Vũ Hào Quang cũng đã đề cập nhiều đến việc phân nhóm và quản lí nhóm trong

cuốn “Xã hội học quản lí”. Hiện tượng phân nhóm được ông thể hiện theo phép
đồ hoạ bằng hình vẽ
A
c’

b’

B

C
a’


Theo cách nắm bắt nhóm bằng hình vẽ chúng ta có thể nói rằng trong một tập
thể nào đó, cá nhân A nằm trong quan hệ với cá nhân B và C. Quyền thành viên
chỉ ra sự gia nhập của một cá nhân vào nhóm đã được xác định (a’, b’, c’).
Việc vận dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ không đơn giản
là chỉ áp dụng một cách máy móc phương pháp này vào quá trình dạy học. Nó

4


tuỳ thuộc vào môn học, điều kiện học tập, đối tượng học sinh, tính chất bài học
và năng lực sư phạm của người thày tổ chức hình thức này như thế nào có hiệu
quả.

Bởi vậy việc nghiên cứu và vận dụng tổ chức cho học sinh học tập hợp tác theo
nhóm trong quá trình dạy học môn tiếng Anh ở trường trung học phổ thông vẫn
luôn là vấn đề mới mẻ và thú vị. Đây là một vấn đề cần sớm được tiến hành
trong dạy học nhằm đáp ứng các yêu cầu của quá trình đổi mới đặt ra đối với
môn tiếng Anh ở các trường trung học phổ thông hiện nay.
2. Một số đăc điểm về nhóm:
Ưu điểm: Trong nhóm nhỏ, mỗi cá nhân đều phải nỗ lực, bởi mỗi cá nhân
được phân công thực hiện một công việc và toàn nhóm phải phối hợp với nhau
để hoàn thành công việc chung. Thông qua sự hợp tác, tìm tòi, nghiên cứu, thảo
luận trong nhóm, ý kiến của mỗi cá nhân được bộc lộ, được điều chỉnh, khẳng
định hay bác bỏ. Qua đó học sinh sẽ hứng thú và tự tin hơn trong học tập .Hình
thức này còn tạo điều kiện rèn luyện cho các em năng lực làm việc hợp tác.

Nhược điểm: Trong quá trình làm việc giữa các nhóm nhỏ dễ bị gây mất trật
tự và cũng không ngoại trừ khả năng một số thành viên trong nhóm dễ ỷ lại.
a) Phân loại nhóm
Bước 1: Tất cả các nhóm trong lớp thực hiện nhiệm vụ.
Bước 2: Sau đó các nhóm làm việc.
Bước 3: Đại diện các nhóm báo cáo kết quả.
Bước 4: Các nhóm khác bổ sung. Giáo viên tổng kết.
Nói tóm lại, nhóm học tập có những đặc trưng sau:
- Nhóm học tập là một đơn vị, một bộ phận của tập thể lớp học.
- Hoạt động của nhóm được thống nhất với nhau bởi các thành viên cùng thực
hiện nhiệm vụ học tập. Đây vừa là nguyên nhân vừa là điều kiện của một
nhóm học tập.

- Các thành viên trong nhóm không chỉ liên kết với nhau về mặt trách nhiệm
mà còn có mối liên hệ về tình cảm, đạo đức, lối sống.

5


b) Động cơ và quá trình hình thành động cơ thông qua học tập hợp tác nhóm:
Mô hình động cơ học tập được thể hiện:

Động cơ

Hứng thú


Tự giác

Sáng tạo

Tích cực

Độc lập

Tri thức, kĩ năng đánh giá hành động hoặc tình huống đóng một trong những
vai trò quyết định trong sự xuất hiện động cơ. Do đó sự phát triển trí tuệ, giáo
dục là một trong những điều kiện quan trọng nhất của sự hình thành động cơ.

Trong quá trình hoạt động học tập hợp tác, nhóm động cơ của người học được
hình thành và phát triển một cách tự giác. Nhóm là môi trường học tập, môi
trường giao lưu; từ đó tương tác trò- trò, trò- thầy, trò- tri thức được hình thành.
Người học có động cơ học để chiếm lĩnh tri thức mà quá trình ấy lại diễn ra tích
cực bởi tính tự giác, chủ động của người học khi khai thác những kiến thức hay
những vấn đề học tập.
c) Hứng thú nhận thức qua học tập hợp tác nhóm.

6


Hứng thú nhận thức là một trường hợp riêng của hứng thú. Đó là hứng thú học

tập, hứng thú đối với sự tìm hiểu khoa học. Hứng thú nhận thức cũng phải có đủ
ba yếu tố đặc trưng của hứng thú đó là:
- Có cảm xúc đúng đắn đối với hành động.
- Có khía cạnh nhận thức xúc cảm.
- Có động cơ trực tiếp xuất phát từ bản thân.
Phương pháp dạy học hợp tác nhóm là phương pháp dạy học, nó hàm chứa
quá trình hoạt động để người học tích cực, tự giác chiếm lĩnh nội dung khoa học.
Bằng học tập nhóm, các thành viên có dịp liên hệ với nhau để phân tích, mổ xẻ
vấn đề; từ đó có thể nắm được bản chất bên trong của đối tượng nhận thức.
Chính quá trình ấy làm cho hứng thú nhận thức nảy sinh ở người học.
Phương pháp dạy học hợp tác nhóm có khả năng tạo nên hứng thú cho học
sinh. Song, để học sinh có hứng thú học tập và nhận thức qua nhóm của mình,

đòi hỏi năng lực tổ chức, điều khiển quá trình dạy học của giáo viên. Hay nói
cách khác, học tập hợp tác nhóm chỉ tạo được hứng thú cho học sinh khi giáo
viên biết biên soạn tài liệu cho nhóm dưới dạng vấn đề, tình huống phù hợp với
nhu cầu nhận thức của học sinh. Đồng thời có được qui trình dạy học khoa học,
có nghiệp vụ điều khiển mang tính nghệ thuật.
3. Cơ sở về mặt giáo dục:
Với nhóm học tập ở nhà trường, điều đầu tiên cần được xét tới là sự thành lập
nhóm: Nhóm đó được thành lập như thế nào? Trong lĩnh vực giáo dục, cần phải
phân biệt rõ “nhóm” và “đám đông”; Với sự làm việc chung của các học sinh
trong nhà trường, người thầy đã khơi dậy những lợi ích chung về một vấn đề nào
đó, để khi sự ham thích hành động của cá nhân giao nhau tới một mức độ có thể
cho những nhóm nhỏ tự nhiên được hình thành. Những nhóm mà sự hiện hữu đặt

trên căn bản mà cá nhân chỉ có thể xác nhận là vì một hoạt động hoàn toàn có
tính cách cá nhân, và như thế mỗi người sẽ nhận một phần, để đóng góp tích cực
vào cuộc thảo luận trong khuôn khổ hạn hẹp của nhóm đó.

7


Khi quan niệm về nhóm như vậy, trong nhà trường vấn đề sẽ phải đặt ra để
xét về sự thành lập nhóm là: Nhóm được thành lập nhất thời, bất ngờ, hay có
hướng dẫn? Nhóm lớn hay nhỏ? Và hệ thống sắp xếp để phân chia công việc
trong nhóm ra sao? Đó chính là cơ sở về mặt giáo dục của nhóm học tập.
4. Cách chia nhóm:

Tuỳ thuộc vào nội dung học tập, tính chất của nội dung học tập, mức độ khó,
dễ của các nhiệm vụ học tập và trình độ của đối tượng học sinh mà có các cách
chia nhóm nhỏ khác nhau. Thông thường có một số cách chia nhóm, đó là:
Chia ngẫu nhiên:
Chia thành nhóm cùng trình độ:
Chia thành nhóm gồm đủ trình độ:
Chia nhóm theo sở trường:
Chia nhóm nhỏ trong các buổi Xêmina
II. Cơ sở thực tiễn của việc sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo
nhóm nhỏ.
1. Đặc điểm tâm lí và nhận thức của học sinh trung học phổ thông.
Đề tài nghiên cứu việc sử dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ,

thông qua chương trình môn tiếng Anh trường trung học phổ thông. Vì vậy đối
tượng thực nghiệm là học sinh ở độ tuổi 15-18.
1.1. Về đặc điểm tâm lí:
Theo một số nhà nghiên cứu, tâm sinh lí và trình độ nhận thức học sinh THPT
đang đạt tới sự hoàn thiện về mặt thể chất. Do được tiếp cận với các phương tiện
thông tin hiện đại và thu nhận một khối lượng thông tin lớn về cuộc sống xã hội,
nên sự phát triển về tâm lí và nhận thức bộc lộ rõ nét. Các em có những dấu hiệu
của sự trưởng thành: Thường tỏ ra quan tâm đến nhau hơn, tự tin hơn, quan tâm
nhiều hơn đến các vấn đề cấp bách của cuộc sống hàng ngày. Chính vì thế nhu
cầu được giao tiếp, được tranh luận về những vấn đề lí thuyết và thực tiễn cũng
tăng lên. Các em luôn muốn giáo viên đánh giá đúng khả năng của mình trong


8


học tập và lao động. Hầu hết các em có tính tự trọng cao trong học tập, luôn có
xu hướng bảo vệ những ý kiến, những suy nghĩ độc lập của mình. Các em luôn
có tính tích cực cao, thích hoạt động tập thể, sẵn sàng tham gia công việc chung.
Ở lứa tuổi này hoạt động cảm giác, tri giác đã đạt được mức độ phát triển cao
hơn lứa tuổi THCS. Tính chủ định được phát triển mạnh ở tất cả quá trình nhận
thức. Tri giác có mục đích đã đạt được tới mức khá cao. Quá trình quan sát trở
nên có mục đích, có hệ thống và toàn diện hơn.
1.2. Về đặc điểm trí tuệ:
Năng lực quan sát trở nên sâu sắc và nhạy bén, các em không chỉ ghi nhớ các

sự vật, hiện tượng một cách máy móc mà còn biết tổng hợp, so sánh, phân tích tư
duy. Ở độ tuổi này, ghi nhớ có chủ định trong hoạt động trí tuệ đồng thời vai trò
ghi nhớ logic trừu tượng và ghi nhớ ý nghĩa ngày càng tăng lên rõ rệt.
1.3. Về đặc điểm nhân cách:
Các em đã dần biết ý thức những đặc điểm nhân cách của mình. Các em
không chỉ nhận thức cái tôi của mình trong hiện tại mà còn nhận thức về vị trí
tương lai của mình trong xã hội và dần hình thành nhu cầu đánh giá về các phẩm
chất năng lực của nhân cách. Song các em có xu hướng tự đánh giá cao nhân
cách của bản thân nên cần hướng dẫn giúp đỡ các em tự đánh giá một cách khách
quan.
Trong các mối quan hệ giao tiếp thì mối quan hệ giao tiếp bạn bè luôn chiếm
vị trí quan trọng. Trong quá trình học tập không phải mọi tri thức, kỹ năng thái

độ, hành vi hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi
trường giao tiếp thầy – trò, trò- trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa cá nhân
trên con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Chính vì vậy, thông qua việc học
trong nhóm, trong tập thể, các em được bộc lộ mình, được nâng mình lên một
trình độ mới. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải
quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa cá nhân
để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động học tập theo nhóm nhỏ sẽ

9


không có hiện tượng ỷ lại, tính cách năng lực của mỗi cá thành viên được bộc lộ,

uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ. Mô hình hợp tác
trong xã hội đưa vào nhà trường sẽ làm cho học sinh quen dần với sự phân công
hợp tác trong lao động xã hội.
Với những đặc điểm về tâm sinh lí và trình độ nhận thức của học sinh nêu
trên thì việc tổ chức hoạt động học tập hợp tác nhóm là rất thuận lợi. Điều này có
thể thực hiện được dễ dàng và mang lại hiệu quả cao trong quá trình dạy học ở
trường phổ thông cho dù ở mọi hoàn cảnh điều kiện khác nhau (thành thị hay
nông thôn, vùng sâu, vùng xa...)

CHƯƠNG II
VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC HỢP TÁC THEO NHÓM NHỎ
VÀO DẠY HỌC MON TIENG ANH ở THPT

I.

KHẢ NĂNG VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP TỔ CHỨC HOẠT
ĐỘNG THEO NHÓM NHỎ Ở MON TIENG ANH ở THPT

Hiện nay, quan niệm hiện đại về dạy học coi dạy học là quá trình phát triển
của bản thân học sinh. Quá trình học tập không chỉ là quá trình lĩnh hội các
kiến thức có sẵn mà còn là quá trình học sinh tự khám phá, tự phát hiện tự tìm
đến đến với kiến thức mới nhờ sự hướng dẫn, giúp đỡ, tổ chức của giáo viên.
Nếu như trước đây SGK chỉ là tài liệu trình bày các kiến thức có sẵn để học
sinh dựa vào đó mà trả lời các câu hỏi giáo viên nêu ra trước lớp, để ghi nhớ
kiến thức và kiểm tra, thi cử thì hiện nay SGK được biên soạn theo hướng

đổi mới nhằm tạo điều kiện cho giáo viên tổ chức cho học sinh học tập một
cách tự giác, tích cực, độc lập. Bên cạnh việc cung cấp kiến thức, SGK mới
còn chú trọng quá trình dẫn đến kiến thức, cách thức làm việc, các hình thức
hoạt động để tự khám phá, lĩnh hội các kiến thức đó.

10


- II. QUI TRÌNH TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP THEO NHÓM CỦA
HỌC SINH.
1. Qui trình các bước trong dạy học hợp tác nhóm:
Bước 1: Chia nhóm

Có thể chia nhóm ngẫu nhiên hay chia nhóm chủ định, phụ thuộc vào mục
đích của việc hoạt động nhóm.
Khi chia nhóm cần lưu ý:
Số lượng thành viên trong mỗi nhóm phụ thuộc vào:
+ Nhiệm vụ bài học cũng như các thiết bị phục vụ cho hoạt động nhóm.
+ Thời gian hoạt động nhóm nhỏ: Thời gian ít nhóm nhỏ sẽ có hiệu quả hơn
nhóm lớn vì trong nhóm nhỏ trách nhiệm cá nhân cao hơn, mất ít thời gian
khi di chuyển.(Theo kinh nghiệm của các chuyên gia phương pháp dạy học
thì nhóm nhỏ có từ 2 đến 6 học sinh là hiệu quả nhất).
Học sinh phải chủ động hình thành nhóm học tập khẩn trương theo sự phân
chia của giáo viên.
Bước 2: Giao nhiệm vụ

Nhiệm vụ của từng nhóm cần được giao cụ thể. Xác định rõ mục tiêu về kiến
thức và kỹ năng mà các nhóm cần đạt được. Tốt nhất giáo viên nên giao việc
bằng phiếu học tập. Phiếu giao việc phải rõ ràng, có thể sử dụng cả 2 dạng câu
hỏi: Câu hỏi đóng và câu hỏi mở. Nếu không có phiếu sẵn giáo viên cần viết rõ
ràng yêu cầu làm việc trên bảng.
Qui định thời gian làm việc nhóm.
Giáo viên dự tính thời gian hoạt động nhóm cho thích hợp, đủ để học sinh di
chuyển và thảo luận.
Yêu cầu về cách thức làm việc theo nhóm.
Yêu cầu về cách thể hiện kết quả: Viết, vẽ, sắm vai...
Giáo viên có thể hỏi xem học sinh đã hiểu rõ nhiệm vụ của nhóm mình chưa.
Về phía học sinh:


11


+ Sau khi nhận nhiệm vụ, các nhóm học sinh cần tích cực chủ động nghiên
cứu, tìm tòi để lập dàn ý trả lời.
+ Phải xác định nội dung trả lời, dựa vào thông tin nào trong SGK hay các
phương tiện khác: tranh ảnh, tài liệu bổ sung...
Bước 3: Làm việc trong nhóm
Giáo viên phân công công việc cho từng thành viên, nhóm đầy đủ thường có
các vai:
Người giữ thời gian có nhiệm vụ báo cáo cho cả nhóm biết bao nhiêu thời

gian đã trôi qua, để điều chỉnh thời gian cho hợp lý với nhiệm vụ được giao.
Thư kí có nhiệm vụ ghi chép lại những câu trả lời hoặc ghi vắn tắt ý chính
của cuộc thảo luận. Trước khi ghi thư kí phải đảm bảo rằng tất cả các thành
viên trong nhóm đều đã đồng ý.
Người động viên có nhiệm vụ khuyến khích và nhắc nhở tất cả các thành viên
trong nhóm tham gia đóng góp ý kiến cho buổi thảo luận, có thể hỏi họ đang
nghĩ gì, thậm chí nhắc nhở một cách khéo léo “Chúng tôi chưa được nghe ý kiến
của bạn”
Người kiểm tra
Phải đảm bảo rằng tất cả các thành viên đã hiểu và đồng ý với những vấn đề
mà cả nhóm đang bàn bạc. Phải lưu ý là không được phép bỏ qua những dấu
hiệu, ngôn ngữ mà mọi người dễ bị nhầm lẫn hoặc có thắc mắc, có thể yêu cầu

ai đó giải thích rõ ý kiến của họ.
Người tóm tắt có nhiệm vụ tóm lược những gì đang được thảo luận, phải đảm
bảo rằng các thành viên đều đồng ý với các ý kiến đã nhất trí.
Người báo cáo có nhiệm vụ thông báo hay truyền đạt lại cho toàn lớp kết quả
làm việc của nhóm. Họ có thể thay mặt nhóm giải thích, làm rõ những câu hỏi
của mọi người về công việc mà nhóm đã làm.
Người đảm bảo những công việc về động não

12


Họ có nhiệm vụ nhắc nhở các thành viên không được thảo luận trong khi

động não.
Người quan sát nhận xét hoạt động nhóm có trách nhiệm quan sát mọi hành
vi của các thành viên trong nhóm.
Đối với thực tế Việt Nam, trong điều kiện cơ sở vật chất(bàn ghế cố định, lớp
học đông...) thường chia nhóm 4-6 người, trong đó có nhóm trưởng điều khiển
cuộc thảo luận. Thư kí ghi chép ý kiến các thành viên trong nhóm. Có thể một
thành viên kiêm nhiệm từ 1-3 nhiệm vụ.
Các nhóm triển khai công việc
Mục tiêu thứ 1: Động não
Tiền hành làm việc chung cả lớp: Trong bước này giáo viên cần:
- Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức cho học sinh.
- Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ và định lượng thời gian cho mỗi công

việc.
- Hướng dẫn cách làm việc cho mỗi nhóm.
Mục tiêu thứ 2: Làm việc theo nhóm
- Trao đổi thảo luận trong nhóm hoặc phân công từng cá nhân trong nhóm
làm việc độc lập rồi trao đổi.
- Trình bày kết quả làm việc của nhóm: Có thể cử đại diện hoặc luân phiên
nhau để phát huy hiệu quả đối với mỗi thành viên của nhóm. Trong khi các nhóm
làm việc, giáo viên theo dõi điều chỉnh, đi lại giữa các nhóm để nắm bắt tình
hình, động viên khuyến khích. Giáo viên cũng đóng vai trò hướng dẫn cách khai
thác, xử lý thông tin.
Mục tiêu 3: Tiến hành thảo luận và đi đến thống nhất, tổng kết trước lớp.
- Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả.

- Thảo luận chung: giáo viên hướng dẫn học sinh phát hiện, nhận xét, bổ
sung đánh giá hoặc sửa chữa những thiếu sót của nhóm bạn để rút kinh nghiệm
và hoàn thiện kiến thức.

13


- Giáo viên tổng kết và nêu vấn đề mới.
Tổ chức nhóm và đặc điểm mỗi nhóm:
- Làm việc theo cặp 2 học sinh: Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh. Hai
học sinh ngồi cạnh nhau cùng thảo luận, trao đổi thông tin để giải quyết tình
huống giáo viên đưa ra. Trong quá trình đó , học sinh sẽ thu nhận kiến thức một

cách tích cực.
- Làm việc theo nhóm 4-6 học sinh:
+ Chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ (Từ 4-6 học sinh song nên tổ chức nhóm 4
sẽ thuận lợi hơn về khoảng cách không gian, tiện trao đổi, thảo luận, tăng
cường độ làm việc của học sinh)
+ Để các nhóm trao đổi, thảo luận các bài tập mà giáo viên giao.
- Ghép nhóm: Tổ chức các nhóm có tính luân chuyển:
Thứ nhất:
+ Chia lớp thành các nhóm nhỏ 4-6 học sinh (Đặt tên cho mỗi nhóm)
+ Mỗi nhóm thảo luận và giải quyết vấn đề của bài học.
Thứ hai:
+ Tổ chức các nhóm mới. Mỗi nhóm mới chỉ chứa một thành viên của mỗi

nhóm ban đầu (các thành viên nhóm mới mang một tên mới).
+ Mỗi cá nhân trong nhóm mới sẽ đem kiến thức của mình vừa khám phá
lắp ghép với nhau để thành thông tin hoàn chỉnh.
Phương pháp này rất hiệu quả đối với các bài dài, có nhiều nội dung kiến
thức, nhiều tình huống cần giải quyết. Nó còn giúp cho mọi học sinh tham gia
hoạt động học tập, làm tăng sự tự tin, khả năng tự học chủ động, sáng tạo, năng
lực tư duy cho học sinh.
Bước 4: Báo cáo kết quả
Đại diện các nhóm trình bày kết quả. Cách trình bày phổ biến nhất là các
nhóm viết hoặc minh hoạ bằng hình vẽ kết quả của nhóm trên giấy khổ rộng
hoặc trên giấy trong và dùng máy chiếu hắt (Over head)


14


Các nhóm có thể lựa chọn các cách trình bày sau đây thay cho thuyết trình:
+ Phương pháp thị trường
Các nhóm trình bày trên giấy khổ rộng, bảng ghim và trưng bày trong phòng
học. Lớp học giống như một thị trường thông tin, các học viên sẽ đi xem xét kết
quả của từng nhóm, nghe họ giải thích và có thể đặt câu hỏi để họ trả lời, làm
rõ. Giáo viên có thể đóng góp ý kiến của mình vào kết quả làm việc của từng
nhóm.
+ Phương pháp hội chợ
Các nhóm không lần lượt trình bày mà chỉ trưng bày kết quả của mình tại

một ví trí đã lựa chọn trong phòng. Một đến hai người ở lại nơi trưng bày kết
quả của nhóm, còn những người khác đi lại giới thiệu về nhóm mình hoặc có thể
trao đổi với bất cứ ai, bất cứ nhóm nào giống như một hội chợ.
+ Phương pháp triển lãm
Các nhóm vẫn lần lượt trình bày kết quả nhưng tiếp sau đó các học sinh tự do
đi lại, quan sát kết quả của nhóm khác và có thể thảo luận với các thành viên
của nhóm giống như cac nghệ sĩ trong buổi triển lãm.
Học sinh có thể minh hoạ kết quả thảo luận bằng hình vẽ hoặc đóng vai
Bước 5: Tổng kết
Học sinh có thể tự tổng kết hoặc giáo viên tổng kết và đưa ra thông tin phản
hồi để rút ra kiến thức.
2. Vai trò của giáo viên khi tổ chức hoạt động nhóm

a) Thu thập thông tin về người học
Tìm hiểu khả năng và nhu cầu của người học: Dự đoán xem người học đã có
những kiến thức và kỹ năng gì liên quan đến bài học. Họ có mong muốn gì khi
học nội dung này?
b) Lựa chọn mục tiêu kiến thức, kỹ năng cần đạt được khi hoạt động nhóm
c) Quyết định
- Số lượng học sinh mỗi nhóm, thành lập nhóm ngẫu nhiên hay chủ định

15


- Chuẩn bị tài liệu, đồ dùng

- Sắp xếp phòng học, bố trí chỗ học cho từng nhóm
- Chí định vai trò từng nhóm, từng thành viên trong nhóm
d) Giám sát can thiệp
Hỗ trợ để hoàn thành công việc
Giám sát hành vi của học sinh
Can thiệp: Đôi khi phải tạm dừng hoạt động của nhóm để hướng dẫn lại hoặc
hỏi học sinh nên làm thế nào?
e) Đánh giá hoạt động nhóm
Đánh giá ý thức làm việc của các nhóm
Đánh giá kết quả làm việc
3. Một số lưu ý khi tổ chức hoạt động nhóm.
Không phải cứ chia lớp thành các nhóm nhỏ là dạy học theo phương pháp

hợp tác nhóm.
Dạy học bằng phương pháp hợp tác nhóm không phải giáo viên yêu cầu học
sinh làm việc còn họ được rảnh rang. Hiệu quả của hoạt động nhóm phụ thuộc
rất nhiều vào khâu chuẩn bị của giáo viên. Giáo viên không chỉ phải chuẩn bị về
cơ sở vật chất mà cần phải có một kiến thức rộng và liên quan đến vấn đề tổ
chức thảo luận, có vậy mới hướng dẫn học sinh hoạt động tốt.
Cần tạo cho người học có tâm thế khi thảo luận nhóm. Để làm tốt điều này
giáo viên cần phải cân nhắc kĩ lưỡng trước khi chọn chủ đề, luôn tự đặt câu hỏi:
Nếu lựa chọn phương pháp hợp tác nhóm, để giải quyết vấn đề này thì có lợi gì
so với phương pháp khác? Chỉ tiến hành hoạt động nhóm khi vấn đề giáo viên
đặt ra cần có sự hợp tác của học sinh mới giải quyết được.
Không nên thất vọng nếu một vài lần đầu giáo viên áp dụng phương pháp này

mà cảm thấy chưa thoả đáng, hãy tự rút ra kinh nghiệm và làm lại nhiều lần vì
hoạt động nhóm chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi các học sinh đã hình thành được
các kỹ năng hợp tác nhóm.

16


Nếu lớp học quá đông và chật, giáo viên nên sử dụng các nhóm nhỏ (rì rầm)
giữa các em cùng bàn hoặc các em ở hai bàn kế tiếp nhau nhưng chú ý nên cố
định các thành viên trong cùng nhóm.
Trong điều kiện nhà trường Việt Nam hiện nay, lớp học có số lượng học sinh
đông, bàn ghế tương đối cố định... Có thể vận dụng phương pháp dạy học hợp

tác theo nhóm nhỏ như sau:
- Nhóm rì rầm: 2-3 học sinh ngồi cùng bàn thảo luận, để giải quyết câu hỏi,
bài tập do giáo viên nêu ra.
- Nhóm nhỏ 4-6 học sinh giải quyết câu hỏi, bài tập do giáo viên nêu ra bằng
việc quay hai bàn lại với nhau.
Giáo viên có thể chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ theo hai cách:
Cách 1: Tất cả các nhóm trong lớp cùng làm một nội dung. Sau khi các nhóm
báo cáo kết quả, cả lớp thảo luận. Cách này có ưu điểm huy động hoạt động của
các nhóm nhưng chỉ phù hợp với những bài có nội dung kiến thức ngắn gọn, vì
tốn thời gian.
Cách 2: Giáo viên chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ, mỗi nhóm (hoặc một số
nhóm) nghiên cứu giải quyết một vấn đề. Các nhóm khác và giáo viên bổ sung

để đưa ra kết luận cuối cùng. Cách này phù hợp với những bài nội dung dài, nọi
dung của các vấn đề trong bài thường tương tác độc lập.
4. Các điều kiện để hoạt động nhóm có hiệu quả.
4.1. Điều kiện đối với giáo viên.
a) Thay đổi căn bản trong nhận thức của giáo viên:
Một động lực cực kì quan trọng đối với việc đổi mới phương pháp dạy học
tiếng Anh là hiện nay đại đa số giáo viên đã nhận thức được tầm quan trọng và ý
nghĩa sống còn của việc đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh. Hầu như
không còn giáo viên nào còn hoài nghi về sự cần thiết của việc áp dụng các
phương pháp dạy học tích cực (trong đó có phương pháp dạy học hợp tác nhóm)
trong dạy học tiếng Anh. Họ hiểu rằng sau khi đổi mới mục tiêu nội dung


17


chương trình và SGK thì đổi mới phương pháp dạy học là nhân tố quan trọng
nhất, quyết định đến việc thành bại của quá trình đổi mới, bởi vì có mục tiêu, có
chương trình và SGK mới, nhưng việc dạy và học vẫn tiến hành theo kiểu cũ thì
không thể nói đến nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học tiếng Anh và tất nhiên
cũng không thể nói đến nâng cao vai trò và vị thế của môn tiếng Anh ở trường
trung học phổ thông.
Trong số những nhân tố đã góp phần quan trọng tạo nên những thay đổi
trong nhận thức của giáo viên trước hết phải kể đến hiệu quả của chương trình
bồi dưỡng, huấn luyện giáo viên phục vụ cho cải cách giáo dục tiếng Anh do Bộ

giáo dục và Đào tạo và các Sở giáo dục tiến hành trong nhiều năm qua. Chương
trình này chẳng những đã góp phần đáng kể nâng cao nhận thức và trình độ lí
luận dạy học cho giáo viên mà còn có tác dụng tăng cường năng lực thực thi các
phương pháp dạy học hiện đại (trong đó có phương pháp dạy học hợp tác nhóm)
của giáo viên trong dạy học tiếng Anh ở các trường THPT.
b) Giáo viên phải khẳng định vai trò, chức năng mới của người thầy trong
quá trình dạy học.
Cụ thể là:
- Người thầy phải là người tổ chức, chỉ đạo, điều khiển các hoạt động học
tập tự giác, chủ động và sáng tạo của học sinh. Người thầy sẽ không còn
là người phát thông tin duy nhất, không phải là người hoạt động chủ yếu ở
trên lớp như trước đây mà sẽ là người tổ chức và điều khiển quá trình học

tập của học sinh.
- Với tư cách là người tổ chức, chỉ đạo điều khiển quá trình học tập của học
sinh, người thầy cần phải đảm nhiệm và thực hiện tốt các chức năng sau
đây:
+ Thiết kế tức là lập kế hoặch cho quá trình dạy học về cả mục đích, nội
dung, phương pháp, phương tiện và hình thức dạy học. Người giáo viên cần
xuất phát từ mục đích và nội dung của bài học mà thiết kế ra những tình

18


huống thích hợp để học sinh chiếm lĩnh nó thông qua hoạt động học tập tích

cực, tự giác sáng tạo theo hướng độc lập hoặc hợp tác, giao lưu.
+ Uỷ thác tức là thông qua đặt vấn đề nhận thức, tạo động cơ hứng thú người
thầy biến ý đồ dạy của mình thành nhiệm vụ học tập tự nguyện, tự giác của
trò và chuyển giao cho trò những tình huống để trò hoạt động và thích nghi.
+ Điều khiển quá trình hoạt động học tập của học sinh trên cơ sở thực hiện
mội hệ thống mệnh lệnh, chỉ dẫn, trợ giúp, đánh giá (Bao gồm cả sự động
viên).
+ Thể chế hoá tức là xác nhận, định vị kiến thức mới trong hệ thống tri thức
đã có, đồng nhất hoá kiến thức riêng lẻ của học sinh thành tri thức khoa học
xã hội, hướng dẫn vận dụng và ghi nhớ.
Mô hình về dạy học theo quan điểm đổi mới được thể hiện như sau:


Chất
Chất lượng
lượng vvà
àhi
hiệu
ệu quả
quả dạy
dạy
học
học
-Thiết
-Thiết kế

kế
THÀY
THÀY

-Uỷ
-Uỷ thác
thác
Tổ
Tổ
chức,
chức,
chỉ

chỉ đạo
đạo
quá
quá
trình
trình
nhận
nhận
thức
thức

-Điều

-Điều khiển
khiển
-Thể
-Thể chế
chế
hoá
hoá

-Động
-Động cơ,
cơ,
hứng

hứng thú,
thú,
lạc
lạc quan
quan
-Tích
-Tích cực,
cực,
tự
tự giác,
giác,
sáng

sáng tạo,
tạo,
hoạt
hoạt động
động
-Tự
-Tự đánh
đánh
giá,
giá, tự
tự điều
điều

chỉnh
chỉnh

Chủ
Chủ
thể
thể
nhậ
nhậ
nn
thức
thức


TR
TR
ÒÒ

19


C) Vai trò giáo viên khi tổ chức hoạt động nhóm
*Thu thập thông tin về người học
Giáo viên tìm hiểu khả năng và nhu cầu của người học: Dự đoán người học
đã có những kiến thức và kỹ năng gì liên quan tới bài học. Họ có mong muốn gì

khi học nội dung này.
* Lựa chọn mục tiêu kiến thức, kỹ năng cần đạt được khi hoạt động nhóm
- Giáo viên phải nắm được những hiểu biết, những vấn đề cốt lõi của bài
học thông qua nghiên cứu của mình, giáo viên cần chọn nội dung thích
hợp cho học sinh học nhóm. Từ đó giáo viên sẽ giúp học sinh có tâm thế
sẵn sàng bước vào học nhóm.
- Giáo viên phải nắm rõ kiến thức, kỹ năng và đặc biệt phải có năng lực sư
phạm, có khả năng chuẩn bị chu đáo cho kế hoạch cụ thể.
* Quyết định
- Số lượng học sinh mỗi nhóm, thành lập nhóm ngẫu nhiên hay chủ định.
- Chuẩn bị tài liệu, đồ dùng.
- Sắp xếp phòng học, bố trí chỗ học cho từng nhóm .

- Chỉ định vai trò từng nhóm, từng thành viên trong nhóm .
* Giám sát can thiệp
- Hỗ trợ để hoàn thành công việc.
- Giám sát hành vi của học sinh.
Nguời giáo viên, khéo léo trong vai trò trọng tài của mình giúp học sinh suy
nghĩ chủ động hơn chứ không phải để họ chấp nhận ý kiến của mình một cách
thụ động khi học sinh coi mọi lời nói của giáo viên đều đúng.
Hoạt động dạy học hợp tác nhóm chỉ đạt hiệu quả cao nếu như giáo viên:

20



+ Giúp học sinh hiểu được tầm quan trọng của hoạt động nhóm trong học
tập.
+ Giúp học sinh mong muốn được nói về suy nghĩ của mình, lắng nghe và
hưởng ứng ý kiến của bạn cùng nhóm.
+ Nắm chắc quy trình và kế hoạch hoạt động.
+ Biết dựa vào ý kiến của người khác để tăng cường động cơ học tập.
+ Có khả năng đánh giá, điều chỉnh.
+ Có khả năng nhạy cảm với ý kiến của các thành viên khác và nhóm khác.
- Can thiệp: Đôi khi giáo viên phải tạm dừng hoạt động của nhóm để hướng
dẫn lại hoặc hỏi học sinh nên làm như thế nào?
Muốn nhóm hoạt động có hiệu quả thì giáo viên cần:
+ Đảm bảo cho mọi người đều đóng góp vào nhiệm vụ được giao.

+ Không nên vội đi đến kết luận, cần cân nhắc cả những ý kiến nhỏ.
+ Nên thận trọng trước sự nhất trí của mọi thành viên.
+ Đặt mục tiêu trước mắt, tạm thời và lâu dài, nếu cần nên thay đổi.
+ Phân công rõ ràng nhiệm vụ sao cho mọi thành viên trong nhóm đều hiểu
nhiệm vụ của mình là gì và biết thời hạn hoàn thành.
+ Trước khi kết thúc hoạt động cần đánh giá ý thức làm việc của các nhóm
và định hình công việc tiếp theo.
* Đánh giá hoạt động nhóm
Đánh giá ý thức làm việc của các nhóm.
Đánh giá kết quả làm việc.
5.Yêu cầu đối với học sinh :
So với học sinh trung học cơ sở, các đặc điểm tâm sinh lý của học sinh ở bậc

trung học phổ thông đã có những thay đổi về chất. Trên cơ sở năng lực quan sát
sâu sắc, nhạy bén hơn và khả năng tư duy trừu tượng cao hơn, đặc biệt là khả
năng phân tích, tổng hợp so sánh, trừu tượng hoá, khái quát hoá, các em ở lứa
tuổi này không thích chấp nhận một cách đơn giản những áp đặt của giáo viên.

21


Các em thích tranh luận, thích bày tỏ những ý kiến riêng biệt của cá nhân mình
về những vấn đề lý thuyết và thực tiễn. Đây là một thuận lợi cơ bản mà giáo viên
cần khai thác triệt để khi tiến hành đổi mới phương pháp dạy học tiếng Anh,
trong đó có thực hiện phương pháp dạy học hợp tác nhóm nhỏ. Trong quá tổ

chức dạy học hãy tạo cho học sinh một vị thế mới và những tiền đề, những điều
kiện thuận lợi để hoạt động. Cụ thể là:
- Người học phải trở thành chủ thể hành động, tích cực, tự giác, chủ động và
sáng tạo trong hoạt động để kiến tạo kiến thức. Người học cần phải thực sự hoạt
động để đạt được không chỉ những tri thức và kỹ năng của bộ môn mà quan
trọng hơn là tiếp thu được cách học, cách tự học.
- Tạo ra và duy trì ở học sinh những động lực học tập mạnh mẽ. Đó là động
cơ, hứng thú, niềm lạc quan của học sinh trong quá trình học tập. Những nhân
tố này chính là động lực thúc đẩy mạnh mẽ học sinh tích cực, tự giác, chủ động
và sáng tạo trong hoạt động hợp tác nhóm.
- Phát triển ở học sinh khả năng tự đánh giá kết quả hoạt động của mình để
trên cơ sở đó bản thân học sinh có thể điều chỉnh các hoạt động của mình theo

các mục tiêu đã định.
6. Yêu cầu đối với cơ sở vật chất
Để việc dạy và học tiếng Anh nói chung cũng như áp dụng thành công có
hiệu quả phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ, thì việc tăng cường về cơ
sở vật chất kỹ thuật cho dạy và học tiếng Anh là một vấn đề cấp thiết. So với
thập kỷ trước đây điều kiện vật chất cho việc dạy học tiếng Anh ở các trường
THPT đã được cải thiện một cách đáng kể. Trong các giờ học học tiếng Anh hầu
hết học sinh trong một lớp đều có SGK. . Tại một số trường ở các thành phố lớn
như: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh... nhiều giáo viên đã sử dụng các băng
hình trong các giờ học ở trên lớp và thiết kế bài học, trình diễn bài giảng trên
lớp với sự trợ giúp của POWER-POINT.


22


Ngoài yêu cầu chính cho một giờ dạy học tiếng Anh nói chung kể trên còn có các
yêu cầu quan trọng khác cho hoạt động dạy học hợp tác nhóm trên lớp như sau:
- Về kích thước phòng học: Không quá chật, cũng không quá rộng, phòng học
phải có diện tích hợp lý sao cho giáo viên có thể quan sát được sự làm việc tất
cả các nhóm. Nếu phòng học quá chật sẽ rất khó khăn cho việc chia nhóm, các
nhóm có thể mất trật tự, hiệu quả làm việc không cao.
- Bàn ghế trong lớp cơ động, có thể kê được các bàn liền kề với nhau hoặc
hai bàn quay mặt vào nhau.
- Phiếu học tập (do giáo viên chuẩn bị)

- Máy chiếu và bản trong hoặc máy chiếu đa năng PROJECTER (Nếu có
III. Thiết kế một số bài giảng tiếng Anh có vận dụng phương pháp dạy học hợp
tác theo nhóm nhỏ ở lớp 10, 11, 12
LESSON PLAN
ENGLISH 10
UNIT 7: THE MASS MEDIA
LESSON 4: WRITING
I. Objectives:
1. Education Aims: - Students can write a paragraph about advantages and
disadvantages of television and other types of mass media.
2. Knowledge:
a. General knowledge: - Advantages and disadvantages of different types

of mass media.
b. Language:
- Language concerning mass media.
- The present simple tense.
3. Skills: - Reading: read about the advantages and disadvantages of
television.
- Speaking: work in pairs to discuss the advantages and
disadvantages of the mass media.
- Writing: write a paragraph about the advantages and disadvantages
of the mass media.
II. Anticipated problems:
- Students may have difficulty in finding ideas about advantages and

disadvantages for writing.

23


III. Teaching Aids: - board, textbook, chalk.
IV. Procedures:
Teacher's activities
1. Warm-up(4mins) : Game: Jumbled
words.
- Asks sts to rearrange the letters to make
right/good words.

- Eg: vitelseion, the iteration, oardi,
ewsnperpa
- Calls on one to give answer.
- Asks others to give the comments.
- Checks and give remarks.
2. Before you write:( 20 mins)
- Aims: to get sts to read about the
advantages and disadvantages of television
and to help sts to prepare vocabulary and
information before they write.
+ Task 1:
- Gives the hand out 1.

- Ask sts to read passage to find out the
advantages and disadvantages of television.
- Calls on one representative to give answer.
- Asks others to give the comments.
- Checks and give remarks.
- Explain some new words:
+ 'memorable (adj) : easy to remember
+ en'joyable (adj) : pleasant
+ popu'larity (n) : the noun of " popular"
+ be a'ware of (v) : realize
+ brain (n) : part of the body inside the head
+ 'violent (adj) : fighting, killing, etc.

+ inter'fere with (v) : get in the way of
something
- Ask sts listen to the teacher and repeat,
then write these words into their notebooks.
- Ask sts to work in pairs to read about the
advantages and disadvantages of television
again to find the topic sentences and the
connectors used in the passage.
- Ask sts to pay attention to the basic
structures used in the table.

Students' activities


- Work individually to do it.
- Answer: television, the Internet,
radio, newspaper.
- Listen to the teacher.

- Listen to the teacher carefully.
- Work in group of 4 to do it.

- Copy these words into your
notebooks.


- Listen to the teacher and then read
these words in chorus and
individually.
- Read the table in pairs.
- The topic sentences:
+ Television brings us a lot of
advantages.
+ There are, however, some

24



- Move round to help if necessary.
- Calls on one representative to give answer.
- Asks others to give the comments.
- Checks and give remarks.

- Make sure that sts know what "advantage"
and "disadvantage" are.
* Gives the hand out 2.
- Asks sts to work individually.
- Calls on one to give answer.
- Asks others to give the comments.
- Checks and give remarks.

+ Task 2:
- Gives the hand-out3.
- Asks sts to work in groups of 4 to discuss,
then choose the advantages and
disadvantages of each type of mass media,
and write them down in columns.
- Ask sts to work in 7 minutes.
- Move round to help if necessary and then
ask them to share their ideas with other
pairs.
- Ask three sts to present their ideas.
- Ask other sts to give remarks.


- Listen and give remarks.
3. While you write:( 13 mins)
- Aims: Sts practise writing a paragraph
about the advantages and disadvantages of
one of the mass media.
- Ask sts to write a paragraph about the
advantages and disadvantages of one of the
mass media they have discussed in task 2.
- Let sts write in 8 minutes.

disadvantages of television.

- The connectors: First, second, third,
fourth, fifth, lastly.
- Structures:
+ help/encourage someone to do
something: help us to learn,
encourage us to buy...
+ make someone/ something +
adjective: make things memorable,
make us aware of, make us passive,
make people violent...
S: Television helps us to learn
more .............

- Read the ideas on the mass media
and write (A) if it is advantage and
(B) if it is disadvantage.
+ Answers: 1D, 2A, 3A, 4D, 5A, 6A,
7D, 8D, 9A, 10D.

- Work in groups of 4 to discuss.
- Some sts stand up to give their
ideas.
* Radio:
+ Advantages:
- It helps us to get updated news and

information.
- It helps us to listen to music,
dramas, etc.
- It is not harmful to people's eyes.
+ Disadvantages:
- It is rather boring because we can't
see anything.
- The programmes are not very vivid,
there are no games and films, etc.
- Listen to the teacher and take notes.

25



×