Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

bài tiểu luận về dân tộc Tày ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (643.67 KB, 17 trang )

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN: CÁC DÂN TỘC Ở VIỆT NAM

Dân tộc Tày ở Việt Nam
SV THỰC HIỆN: Nguyễn Thị Kim Duyên
MSSV: K39.607.009
LỚP: VIỆT NAM HỌC 2A

TP.HCM 4/2015

MỤC LỤC


Mục lục
A.

Mở đầu

1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
B.

Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Lịch sử nghiên cứu vấn đề


Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nguồn tài liệu
Phương pháp nghiên cứu
Ý nghĩa khoa học của việc nghiên cứu
Bố cục nghiên cứu
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn.
1.
2.

Cơ sở lí luận
Cơ sở thực tiễn

Chương 2: Những nét cơ bản về giá trị vật chất và tinh thần của người
dân tộc Tày ở Việt Nam.
1.
a.
b.
c.
d.
2.
a.
b.
c.
d.
C.

Văn hóa vật chất
Nhà ở

Ẩm thực
Trang phục
Hoạt động sản xuất
Văn hóa tinh thần
Lễ hội
Tín ngưỡng
Hôn nhân gia đình
Lễ mừng thọ
KẾT LUẬN
• Tổng kết lại vấn đề
• Tài liệu tham khảo
• Phụ lục

A.

MỞ ĐẦU

1.

Lí do chọn đề tài


Đất nước Việt Nam, đất nước của năm mươi tư dân tộc anh em. Năm mươi
tư dân tộc anh em đều là con cháu của Lạc Long Quân và Âu Cơ, đều bước ra
từ trăm trứng và cùng nhau xây dựng đất nước Việt Nam thái bình yên vui ngày
nay. Mỗi dân tộc với bản sắc riêng của mình như một loài hoa quý, ghóp thêm
hương sắc cho rừng hoa lớn- dân tộc Việt Nam.
Và bài tiểu luận này tôi muốn nói tới một trong năm mươi tư dân tộc anh em
ở Việt Nam, sinh sống chủ yếu ở vùng rừng núi phía bắc, đó là dân tộc Tày.
Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về người Tày, tôi mong muốn được

hiểu hơn về con người cũng như về văn hóa của họ. Từ đó có cái nhìn mới hơn
và ghóp một phần nhỏ của mình vào việc giữ gìn và bảo tồn nét văn hóa truyền
thống của họ.
2.

Mục đích nghiên cứu.
Làm rõ nét tương đồng giữa người tày và các dân tộc khác.
Hiểu thêm về con người, cuộc sống, văn hóa người Tày.

3.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề.

Có rất nhiều cuốn sách, bài báo,công trình nghiên cứu đã nghiên cứu về dân
tộc Tày.
Tiêu biểu như cuốn sách “ Đến với người Tày và văn hóa Tày” của TS.La
Công Ý- một công trình chuyên khảo công phu, đề cập một cách hệ thống về
đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người Tày……..
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: dân tộc Tày ở Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu:những đặc sắc về cuộc sống,sinh hoạt, văn hóa của
người Tày từ trước cho tới nay.
5.

Nguồn tài liệu.

Thực tế: thu thập thông tin từ số người dân tộc Tày và một số người am hiểu

về dân tộc Tày.
Nguồn tài liệu công bố: trên sách, báo,mạng…


Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp so sánh.
Phương pháp đối chiếu.
Phương pháp lịch sử.
Phương pháp địa lí.
7. Ý nghĩa khoa học của việc nghiên cứu đề tài.
a. Ý nghĩa khoa học lí luận.
Về mặt lí luận, đề tài đã hệ thống hóa và làm sáng tỏ được một số khái niệm
cơ bản về dân tộc Việt Nam,dân tộc Tày ở Việt Nam, vai trò của dân tộc Tày ở
Việt Nam đối với phát triển kinh tế-xã hội, văn hóa du lịch…của nước Việt
Nam.
b. Ý nghĩa thực tiễn.
6.

Về mặt nghiên cứu thực tiễn, thông qua đề tài sẽ hiểu thêm về dân tộc Tày,
hiểu thêm về dân tộc Việt Nam. Ngoài ra, đề tài này còn có ý nghĩa cung cấp tài
liệu cho chính bản thân tôi và cung cấp nguồn tài liệu cho những công trình
nghiên cứu sau.
8.

Bố cục nghiên cứu.
Phần A: Mở đầu vấn đề.
Phần B: Nội dung nghiên cứu.
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn.
Chương 2: Những nét cơ bản văn hóa đặc trưng của dân tộc Tày.
Phần C: Kết luận.


B.

Nội dung nghiên cứu.

Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn.


1.1.

Cơ sở lí luận và thực tiễn.

Khái niệm về dân tộc : Dân tộc là cộng đồng những người cùng chung một
lịch sử, nói chung một một ngôn ngữ, sống chung trên một vùng lãnh thổ và có
chung một vùng văn hóa.
Khái niệm tộc người:
Theo nghĩa rộng thì tộc người là một loại hình cộng đồng người.
Theo nghĩa hẹp tộc người là tổng hợp những con người được hình thành về
mặt lịch sử trên một lãnh thổ nhất định, dưới một cái tên tự gọi (tộc danh), có
những đặc điểm chung tương đối bền vững về văn hóa và tâm lí (trong đó nổi
trội là ngôn ngữ); có ý thức về sự thống nhất của họ cũng như sự khác nhau
giữa họ với các tộc người khác (nói ngắn gọn là ý thức tộc người).
1.2.

Cơ sở thực tiễn.
Khái quát sơ lược về dân tộc Tày.

Người Tày là một trong 54 dân tộc ở Việt Nam, nhóm địa phương Pa
dí, Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao, thuộc hệ ngôn ngữ Thái-Kadai sinh sống chủ
yếu ở vùng miền núi thấp phía bắc Việt Nam. Người Tày trước đây hay được

gọi là người Thổ (tuy nhiên tên gọi này hiện nay được dùng để chỉ một dân tộc
khác, xem bài người Thổ). Người Tày có dân số đông thứ 2 ở Việt Nam sau dân
tộc Kinh, và có quan hệ gần gũi với người Nùng và với người Choang (Trung
Quốc).
Người Tày chủ yếu cư trú tại các tỉnh trung du và miền núi phía bắc (hơn
1,4 triệu người). Trong thời gian gần đây, người Tày bắt đầu di cư tới một số
tỉnh như Tây Nguyên, Đắk Lắk và Lâm Đồng.
Dân số: 1.626.392 người, là dân tộc có dân số đứng thứ 2 tại Việt Nam, có
mặt trên tất cả 63 tỉnh, thành phố (Tổng điều tra dân số và nhà ở 2009).
Lịch sử:Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên
niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên.
Văn hóa: Dân tộc Tày là một nhóm tộc người có nền văn hoá khá khép
kín, người Tày có một nền văn nghệ cổ truyền phong phú, đủ các thể loại thơ,
ca, múa nhạc... Tục ngữ, ca dao chiếm một khối lượng đáng kể. Các điệu dân ca


phổ biến nhất là hát lượn, hát đám cưới, ru con. Người Tày mến khách, cởi mở,
dễ làm quen và thích nói chuyện. Họ rất trọng người cùng tuổi, khi đã kết nghĩa
bạn bè thì coi nhau như anh em ruột thịt, bà con thân thích của mình. Văn hoá
chợ của người Tày chiếm một vai trò quan trọng trong giao lưu trao đổi hàng
hoá, thông tin và giao lưu văn hoá giữa các vùng dân tộc.
Kinh tế: Người Tày sống dựa chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp. Họ
trồng lúa, ngô, khoai lang, v.v.
Tổ chức cộng đồng: Bản của người Tày thường ở chân núi hay ven suối. Tên
bản thường gọi theo tên đồi núi, đồng ruộng, khúc sông. Mỗi bản có từ 15 đến
20 nóc nhà. Bản lớn chia ra nhiều xóm nhỏ.

Chương 2: Những nét cơ bản về giá tri vật chất và tinh thần của người dân tộc
Tày ở Việt Nam.
1.


Giá trị văn hóa vật chất.
a. Nhà ở.

Những nhà truyền thống thường là nhà sàn, nhà đất mái lợp cỏ gianh và một
số vùng giáp biên giới có loại nhà phòng thủ. Trong nhà phân biệt phòng nam ở
ngoài, nữ ở trong buồng. Phổ biến là loại nhà đất 3 gian, 2 mái (không có chái),
tường trình đất hoặc thưng phên nứa, gỗ xung quanh, mái lợp cỏ tranh, ngói âm
dương hoặc tấm Prôximăng. Bố trí mặt bằng sinh hoạt được quy định thống
nhất qua từng vị trí trong ngôi nhà. Người Tày sống định cư, quây quần thành
từng bản chừng 15 đến 20 hộ.
b.

Ẩm thực.

Ẩm thực của người Tày rất đa dạng và đặc sắc, nó thể hiện nét văn hóa của
họ.Có rất nhiều món ăn đặc biệt, và tôi chọn 3 món tiểu biểu : xôi ngũ sắc,rêu
nướng, nem măng đắng để tìm hiểu.
Xôi ngũ sắc: Điểm đặc biệt của món xôi này là màu sắc độc đáo. Những hạt
xôi thơm dẻo được đồ bằng gạo nếp cái hoa vàng nổi tiếng. Màu xôi đẹp tự
nhiên và hấp dẫn, 5 màu chính của xôi là trắng, đỏ, xanh, tím, vàng. Trắng là
màu nguyên của gạo, các màu còn lại được tạo nên bằng cách ngâm gạo với
nước của các loại lá và củ cây rừng. Những loại lá và củ cây này đều dễ tìm
trong rừng, hoặc trong vườn nhà. Xôi ngũ sắc được các mẹ, các chị bày thành
đĩa xôi năm màu: trắng, xanh, vàng, đỏ, tím cẩm trông tựa như bông hoa năm


cánh đang khoe sắc. Nó một mùi thơm đặc trưng của cây cỏ, không thể lẫn với
bất cứ loại xôi nào khác. Hạt xôi bóng đẹp nhưng không ướt, khi nguội hạt xôi
se lại nhưng vẫn mềm, dẻo và thơm. Người xưa quan niệm, xôi ngũ sắc tượng

trưng cho ngũ hành: Trắng là màu của kim, xanh là màu của mộc, đen là màu
của thuỷ, đỏ là màu của hỏa, màu vàng là màu của thổ. Người ta quan niệm
rằng sự tồn tại của 5 chất này làm nên sự tươi tốt của Thiên - Địa - Nhân. Với
người Tày, những ai ăn xôi ngũ sắc trong các ngày lễ, tết thì họ sẽ gặp
nhiều điều may mắn, tốt lành.
Rêu nướng: Rêu nướng không chỉ là món ăn được nhiều đồng bào dân tộc
Tày ưa thích mà còn có khả năng chữa nhiều bệnh, giúp lưu thông khí huyết,
giải độc, giải nhiệt, ổn định huyết áp và tăng cường sức đề kháng…Rêu sông,
suối là một món ăn từ xa xưa được nhiều dân tộc: Nùng, Thái, Mông, Mường…
ưa thích. Nhưng đối với người dân tộc Tày ở xã Xuân Giang (Hà Giang) thì rêu
được coi là đặc sản trong ẩm thực của họ……. Rêu còn có thể được chế biến
thành nhiều món khác như rêu rán, rêu khô nhưng độc đáo nhất vẫn là món trộn
với các loại gia vị rồi đem nướng. Các món ăn được chế biến từ rêu đá còn
được gọi là quẹ. Đây là một món ăn vừa ngon, vừa bổ, lại có hương vị rất riêng.
Rêu nướng là món ăn hấp dẫn và hợp khẩu vị với hầu hết mọi người.
Nem măng đắng: Về Lào Cai, bạn sẽ được thưởng thức một món đặc sản
của đồng bào dân tộc Tày địa phương. Đó là nem măng đắng. Người miền xuôi
coi nem là món rất thông dụng, dễ làm mà lại ngon, bổ dưỡng. Nhưng nem
măng đắng của người Tày lại kì công và độc đáo hơn ở chỗ họ không dùng
bánh đa nem để gói mà dùng những lá măng, nhân không phải thịt lợn, tôm…
mà dùng thịt gà tơ. Nem măng đắng có thể dùng để nhắm rượu, ăn với cơm đều
được. Khi ăn, thực khách sẽ cảm nhận vị đăng đắng của măng, vị ngọt của thịt
gà tơ. Độ dẻo của vỏ nem cộng với cảm giác sậm sựt của nhân nem trong
miệng thật thú vị.
c.

Trang phục.

Nhìn chung nười Tày thường mặc quần áo vải bông nhuộm chàm nên trang
phục của họ màu chủ đạo là màu chàm, phụ nữ thường chít khăn mỏ quạ, mặc

áo năm thân có thắt lưng, đeo vòng cổ, tay, chân bằng bạc. Trang phục cổ
truyền của người Tày được làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm đồng nhất
trên trang phục nam và nữ, hầu như không có hoa văn trang trí.


Trang phục nam giới người Tày có quần chân què, đũng rộng, cạp lá tọa, áo
ngắn cũng may năm thân, cổ đứng. Nam cũng có áo dài như cái áo ngắn kéo
dài vạt xuống quá đầu gối. Ngoài ra, họ còn có thêm áo 4 thân, đây là loại áo xẻ
ngực, cổ tròn cao, không cầu vai, xẻ tà, cài cúc vải và có hai túi nhỏ ở phía
trước. Ngoài ra, đàn ông Tày còn mặc thêm loại áo dài 5 thân xẻ nách phải,
đơm cúc vải hay cúc đồng. Quần (khóa) cũng làm bằng vải sợi bông nhuộm
chàm như áo, cắt theo kiễu quần đũng chéo, độ choãng vừa phải dài tới mắt cá
chân. Quần có cạp rộng không luồn rút, khi mặc có dây buộc ngoài. Khăn đội
đầu màu chàm (30cm x 200cm) Quấn trên đầu theo lối chữ nhân.
Về trang phục nữ giới, đó là mặc áo cánh, áo dài năm thân, quần váy, thắt
lưng, khăn đội đầu, hài vải. Phụ nữ Tày còn thắt lưng bằng những tấm vải chàm
hay đũi dài khoảng hai sải tay làm tăng thêm vẻ duyên dáng nhất là với thanh
nữ. Trong những ngày lễ tết, họ mặc thêm chiếc áo trắng ở bên trong. Trước
đây phụ nữ mặc váy, nhưng gần đây phổ biến mặc quần; đó là loại quần về
nguyên tắc cắt may giống nam giới kích thước có phần hẹp hơn. Khăn phụ nữ
Tày cũng là loại khăn vuông màu chàm khi đội gập chéo giống kiểu mỏ quạ
của người Kinh. Nón của phụ nữ Tày khá độc đáo. Nón bằng nan tre lợp lá có
mái nón bàng và rộng. Trang sức phụ nữ Tày đơn giản song có đủ các chủng
loại cơ bản như vòng cổ, vòng tay, vòng chân, xà tích... Có nơi còn đeo túi vải.
Nói tới trang phục của người Tày, ta không thể không nói tới hoa văn trên
trang phục của họ. Cái độc đáo nhất là lối dùng màu chàm phổ biến, đồng nhất
trên trang phục nam và nữ cũng như lối mặc áo lót trắng bên trong áo ngoài
màu chàm. Cái lưu ý không phải là lối tạo dáng mà là phong cách mỹ thuật như
đã nói trên.
d.


Hoạt động sản xuất.

Người Tày có một nền nông nghiệp cổ truyền khá phát triển với đủ loại cây
trồng như lúa, ngô, khoai... và rau quả mùa nào thức đó. Người Tày có truyền
thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các
biện pháp thuỷ lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới
ruộng. Ngoài lúa nước, người Tày còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả...
Chăn nuôi phát triển với nhiều loại gia súc, gia cầm nhưng cách nuôi thả rông
cho đến nay vẫn còn khá phổ biến. Các nghề thủ công gia đình được chú ý.
Người Tày có nghề thủ công khá phong phú, họ đan các đồ dùng bằng cót,
bồ, sọt, rổ… nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với nhiều loại hoa văn đẹp và


độc đáo. Nhiều vùng tự nuôi tằm, kéo tơ, dệt lụa nên họ tự túc được các loại vải
để may váy áo, khăn… Một số nghề phụ như làm gạch, nghề rèn hay nghề
chưng cất dầu hồi để ăn và thắp đã có truyền thống từ lâu đời.
2. Văn hóa tinh thần.
a. Lễ hội.
Có rất nhiều lễ hội đặc sắc của người Tày như là: lễ hội Cầu Trăng,lễ hôi
Lồng Tồng,lễ hội Nàng Hai, lễ hội rước Đất, rước Nước… Nhưng đặc sắc nhất
có thể nói đến đó là lễ hội Cầu Trăng, lễ hội Nàng Hai.
a.1. Lễ hội Cầu Trăng.
Lễ hội Cầu Trăng là ngày vui nhất của bà con dân tộc Tày (Hà Giang). Bà
con dân bản từ già, trẻ, gái, trai đều đến tham gia đông đủ, họ dâng các sản vật,
khấn mời mẹ Trăng xuống hạ giới nghe những tâm tư, tình cảm của người dân
sau một năm siêng năng làm lụng...Lễ hội cầu trăng được tổ chức đúng ngày
rằm tháng tám. Lễ hội gồm hai phần là phần lễ và phần hội.
Mở đầu phần hội là các màn múa vòng quanh bàn lễ đặt ngoài trời. Tiếp đến
dân bản thi nhau nấu các món ăn truyền thống (xôi ngũ sắc,nem mang đắng…),

chơi các trò chơi dân gian..sau đó cùng nhau thưởng thức món ăn vừa nấu,uống
rượu và cùng nhau hát múa các điệu múa truyền thống...Đêm hôm sau, đúng
vào ngày rằm tháng tám,khi mẹ trăng lên khỏi đỉnh núi và tỏa sáng xuống bản
làng, tất cả bà con tập trung ở sân.Lúc này, thầy cúng tiến hành cúng thổ địa và
thần linh, các nghệ nhân cúng múa vòng quanh dãn cúng khi khai hội đón
trăng. Và những ngày tiếp theo họ thực hiện nhiều nghi lễ đặc biệt khác.
Lễ hội cầu trăng là phần nghi lễ rất độc đáo, có tính hướng thiện và tính giáo
dục rất cao trong cộng đồng người Tày. Khi đến với lễ hội cầu trăng, không chỉ
được nghe hát những làn điệu dân ca, các trò chơi dân gian, mỗi du khách còn
được thưởng thức các món ẩm thực truyền thống của bà con dân tộc Tày như
cơm lam, các món rau rừng, xôi ngũ sắc, măng chua…
a.2. Lễ hội Nàng Hai.
Lễ hội Nàng Hai: là một lễ hội của người đồng bào dân tộc Tày, Việt Bắc, là
một nét sinh hoạt văn hóa dân gian độc đáo. Theo đúng tên gọi là: "Mời Nàng
Hai (mời Nàng Trăng) xuống hạ giới để giao lưu cùng với con người.
Với nhiều hình thức khác nhau, đó là: Lễ mời "Nàng Hai" được gắn với các
lễ Then như: Lẩu Then, Cống Sử, Kỳ Em... và tổ chức vào các đêm trăng mùa
thu với các trò chơi phong phú như: Hát lượn Hai, bói việc sản xuất, tình
duyên... Lễ thường do một nhóm trai gái tụ tập trên nhà sàn, thắp hương mời
Nàng Hai về nhập vào một cô gái nào đó để hát đối đáp, hoặc là dân bản đứng
ở một sân bãi, trong đó có một người chủ chốt làm lễ mời Nàng Hai về. Một
hình thức nữa được tổ chức vào tháng 3 âm lịch diễn ra trong nhiều ngày, theo
quy mô bản và xã. Trong các ngày lễ hội sẽ diễn ra các bài tung lên mường trời
cầu mùa, kèm theo các nghi lễ múa quạt. Đặc biệt là hình thức trình diễn trên
sân khấu. Lễ diễn ra có một bà Then làm chủ, dâng lễ lên trời mời Nàng Hai


nhập vào hai cô gái để hát đối đáp chúc phúc cho dân bản có một mùa màng
bội thu và chia sẻ với những người không gặp may mắn. Cho dù không cố định,
không đúng thời gian, nhưng nhìn chung lễ hội Nàng Hai đều được tổ chức

theo các trình tự khá bài bản.
b. Tín ngưỡng.
Người dân tộc Tày rất coi trọng việc thờ cúng Tổ tiên, đây là việc thờ chính
trong nhà, nhằm giáo dục, nhắc nhở con, cháu luôn hướng về tổ tiên, cội nguồn,
giữ gìn truyền thống gia tộc, dòng họ. Bàn thờ tổ tiên được đặt ở gian chính
giữa nhà là nơi trang trọng nhất, cao ngang xà, được trang hoàng đẹp.
Ngày mồng một, ngày rằm âm lịch hàng tháng, gia đình thắp hương kèm
theo hoa quả, rượu. Do tính chất thiêng liêng, trang trọng như vậy, nên người
Tày thường nghiêm cấm phụ nữ nhất là con dâu, cháu dâu, những người lạ
không được tới gần bàn thờ. Mỗi khi gia đình có việc đại sự như: Làm nhà mới,
cưới vợ, sinh con, tang lễ đều phải cúng bái mời tổ tiên về chứng giám, ở gia
đình người Tày, mỗi người con dâu đều có một buồng riêng, đều có một bà mụ
riêng cho con của mình. Có bao nhiêu con dâu có trẻ con thì có bấy nhiêu bàn
thờ mụ. Người Tày có quan niệm về ông Công, ông Táo rất gần với người
Kinh, họ coi ông Táo không chỉ là thần Bếp mà còn là vị thần bảo vệ người và
gia súc trong gia đình. Nơi thờ Táo quân rất đơn giản, chỉ là một ống tre được
dán giấy đỏ làm ống hương. Nếu gia đình có việc đại sự, hoặc xảy ra những vụ
việc như có người đau, ốm, gia súc bị bệnh dịch, mất trộm thì cúng thần bếp để
xin phù hộ. Hàng năm cứ đến ngày 30 tháng chạp âm lịch là làm lễ tiễn đưa
Táo quân về trời. Do đặc điểm cư trú ở vùng rừng núi, khí hậu lạnh, sẵn củi
rừng nên bếp của người Tày quanh năm không bao giờ tắt lửa. Người Tày quan
niệm bếp không có lửa thì không gặp được điều lành…
c. Hôn nhân, gia đình.
Về hôn nhân, gia đình, trong gia đình người Tày thường quí trọng người con
trai hơn và các qui định rõ ràng giữa các thành viên trong gia đình. Vợ chồng
người Tày yêu thương nhau, ít li hôn, đã từ lâu không còn tục ở rể. Nam nữ
được tự do yêu đương, tìm hiểu nhưng có thành vợ thành chồng hay không thì
tùy thuộc vào bố mẹ hai bên và “ số mệnh” của họ có hợp nhau hay không. Vì
thế trong quá trình tiến tới hôn nhân phải có nhà trai xin lá số của cô gái về so
lá số của con trai mình. Sau khi cưới người con gái ở nhà bố mẹ đẻ cho tới khi

có mang sắp tới ngày sinh đẻ mới về ở hẳn bên nhà chồng. về việc sinh đẻ,
người phụ nữ phải kiêng cữ nhiều thứ khác nhau với ước muốn mẹ tròn, con
vuông, đứa trẻ khỏe mạnh, chóng lớn…. Khi đầy tháng tổ chức lễ ăn mừng và
đặt tên cho trẻ..
d. Lễ mừng thọ.
Người Tày có khá nhiều phong tục tập quán khác biệt với người Kinh, tuy
nhiên đôi lúc chính những sự khác biệt đó lại tạo được nét đặc sắc riêng hấp


dẫn khách du lịch tới tham quan và tìm hiểu, trong đó có lễ mừng thọ của người
Tày.
Cũng thể hiện ý nghĩa giống nhau, người Tày cũng làm lễ mừng thọ nhằm
thể hiện lòng hiếu thảo, sự kính trọng của mình và cầu cho bố mẹ, ông bà luôn
khỏe mạnh. Với nền văn hóa mang bản sắc đặc trưng của mình thì nền văn hóa
người tày vẫn được bảo tồn đến ngày nay.
Theo phong tục của người Tày thì khi bố mẹ, ông bà tới 70 tuổi trở lễn sẽ
được con cái tổ chức lễ mừng thọ để thể hiện lòng hiếu thảo, mong bố mẹ khỏe
mạnh.
Theo như văn hóa của người Tày thì lễ mừng thọ được tổ chức rất lớn,
thường là diễn ra từ đêm hôm trước tới sáng hôm sau với nhiều nghi lễ khác
nhau, người trong gia đình khi chuẩn bị nghi lễ phải có 3 mâm cúng ở chân bàn
thờ,trong đó có một mâm mặn cúng tổ tiên , một mâm chay dành cho bà mụ
sinh, và một mâm dành cho hành kiến ,hành binh. Cùng với đó, một bàn thờ
thánh sẽ được đặt ngay cạnh nơi bà then làm lễ cúng.
Ngoài việc cúng lễ thì người Tày cũng phải làm nhiều loại bánh để cúng,
đặc biệt là bánh truyền thống của người Tày được làm bằng gạo nếp có phẩm
màu hoặc những loại cây lọc lấy nước có màu đỏ hoặc hồng.
Trong nghi lễ mừng thọ còn có một điều quan trọng nữa chính là người con rể
của người được mừng thọ cần phải tự tay quay một con lợn mang xuống làm lễ
mừng thọ cho bố mẹ vợ của mình, phải cúng lễ và mang chuối đi trồng sau buổi

cúng lễ, việc chăm sóc cây chuối đó về sau sẽ là nhiệm vụ của người con trai
cả. điều này còn mang ý nghĩa rất lớn chính là con gái con rể chỉ có tới thăm bố
mẹ thôi, còn trực tiếp chăm sóc phụng dưỡng bố mẹ là nhiệm vụ của con trai.
Bên cạnh đó thì họ hàng và con cháu cũng cần tự chuẩn bị một nắm gạo nhỏ để
đổ vào chiếc thúng sau khi hành lễ xong , theo tập tục của người Tày thì cần
trải một tấm vải đen lên thúng gạo này để làm cầu nối giữa hạ giới và thiên
đình, vì thế nên cần đặt đũa hình tứ chi cùng với vàng mã để cầu điềm lành .
sau khi hành lễ xong thì mọi người mới ăn uống vui vẻ, con rể sẽ có nhiệm vũ
tượng trưng cho tín sứ trên thiên đình xuống nhận lễ.
C.

Kết luận

Tổng kết lại vấn đề.
Việt Nam là một trong những quốc gia có nhiều dân tộc. Trải qua hàng
nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, các dân tộc luôn kề vai sát cánh, gắn
bó máu thịt bên nhau trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chống thiên tai
địch họa và dựng xây đất nước. Các dân tộc trên đất nước ta là một cộng đồng
thống nhất trong đa dạng, cư trú phân tán và đan xen nhau trên mọi vùng miền
của đất nước với cơ cấu dân số và trình độ phát triển không đồng đều. Bản sắc
văn hoá từng dân tộc góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú của nền văn hoá
Việt Nam. Đoàn kết các dân tộc luôn là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài của
sự nghiệp cách mạng nước ta.


Dân tộc Tày là một dân tộc ít người trong tổng số năm mươi tư dân tộc anh
em của Việt Nam. Có nền văn hóa đặc sắc cả về tinh thần lẫn vật chất.Người
Tày mến khách và cởi mở.Nghiên cứu về dân tộc Tày, cũng giúp tôi hiểu thêm
hơn về con người cũng như cuộc sống của họ.Và đây cũng là tài liệu nhỏ để
giúp tôi có thể nghiên cứu những công trình lớn hơn về người Tày.

Dân tộc tày có rất nhiều đóng ghóp cho nền văn hóa Việt Nam như là chữ
Nôm Tày một di sản văn hóa quý giá của nước ta, cùng với các loại văn tự khác
đã lưu trữ nguồn tư liệu to lớn có giá trị về mọi mặt trong lịch sử dựng nước và
giữ nước. Cùng với các dân tộc khác, người Tày, Nùng đã sáng tạo và hoàn
thiện dần chữ Nôm Tày hàng nghìn năm nay để làm văn tự dùng trong giao lưu
và lưu trữ tư liệu. Đó là một thành tựu lớn của giới trí thức Tày, Nùng và cộng
đồng trí sĩ Việt Nam góp phần làm giàu cho kho tàng văn hóa nước nhà. Hay là
Hát Then là một di sản văn hóa – nghệ thuật truyền thống độc đáo của các dân
tộc Tày, Nùng, Thái ở các tỉnh miền núi phía bắc như Cao Bằng, Bắc Kạn, Yên
Bái, Lạng Sơn…hát then được lưu giữ, phát triển thành một không gian văn
hóa hát then – đàn tính hết sức đồ sộ về khối lượng, phong phú về thể loại, đa
dạng về hình thức biểu diễn.

Phụ lục
Hình ảnh về người Tày


Nhà sàn của người Tày

Món xôi ngũ sắc của người Tày


Hát then


Chữ nôm tày- Bắc Cạn


TÀI LIỆU THAM KHẢO
/> />sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=6&cad=rja&uact=8&ved=0CCwQFjAF&

url=http%3A%2F%2Fvi.wikipedia.org%2Fwiki%2FNg%25C6%25B0%25E1%25BB
%259Di_T%25C3%25A0y&ei=EMc3VZ_cLHLmwW9s4GICQ&usg=AFQjCNE122WBLvu_uS28Fa_xz_uq5wCsQ&bvm=bv.91071109,d.dGY
/>sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=1&cad=rja&uact=8&ved=0CB0QFjAA&
url=http%3A%2F%2Fdoc.edu.vn%2Ftai-lieu%2Ftieu-luan-dan-toc-tay-va-nhung-netvan-hoa-dac-trung70072%2F&ei=osg3VbHMG8G0mAWJ3YGQAg&usg=AFQjNETrFYVpx5yKgAL
ZRaUmXP_D8b8JA&bvm=bv.91071109,d.dGY
/>sa=t&rct=j&q=&esrc=s&source=web&cd=7&cad=rja&uact=8&ved=0CEMQFjAG&
url=http%3A%2F%2Fwww.docs.vn%2Fvi%2Fcac-de-tai-khac-106%2F7823-dan-toctay-nhung-net-vanhoa.html&ei=osg3VbHMG8G0mAWJ3YGQAg&usg=AFQjCNETZQhUP3fOfhH5I
ZQ9clYaTiD4kQ&bvm=bv.91071109,d.dGY




×