Tải bản đầy đủ (.docx) (91 trang)

giáo trình phương pháp luận nghiên cứu khoa học sinh viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.7 KB, 91 trang )

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ KHOA HỌC VÀ NGHIÊN
CỨU KHOA HỌC

I. Khoa học
1. Khái niệm khoa học
Thuật ngữ khoa học xuất hiện sớm và được hiểu theo nghĩa là một hình thức hoạt
động sáng tạo đặc biệt, chiếm vị trí quan trọng trong đời sống xã hội. Ở mỗi góc độ tiếp
cận, khoa học hàm nghĩa khác nhau.
Khoa học là một hình thái ý thức xã hội. Sự hình thành, phát triển của khoa học
không tách rời sự hình thành và phát triển của tồn tại xã hội. Khoa học vừa phản ánh đời
sống xã hội, trước hết là đời sống vât chất của xã hội ấy, vừa có tính vượt trước so với tồn
tại xã hội sinh ra nó. Đồng thời khoa học có tác động qua lại với các hình thái ý thức xã
hội khác trong quá trình phát triển của chúng.
Khoa học là một hoạt động nghề nghiệp xã hội. Sản phẩm của hoạt động khoa
học là những tri thức về thế giới, về sự cải tiến kỹ thuật công nghệ, cách thức tổ chức sản
xuất. Hoạt động khoa học đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ làm khoa học có trình độ
chuyên môn cao, có phương pháp làm việc thực sự chuyên nghiệp.

Khoa học là hệ thống tri thức phản ánh cái bản chất, tính quy luật
của sự vật hiện tượng hay quá trình, hình thành trong lịch sử và không
ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn. Khoa học là quá trình nhận thức,
chiếm lĩnh chân lý và chỉ tìm thấy ý nghĩa khi chúng được áp dụng vào thực
tiễn. Không có giới hạn trong sự phát triển khoa học.
2. Sự phát triển của khoa học
Quá trình phát triển của khoa học có hai xu hướng ngược chiều nhưng
thống nhất với nhau.
Xu hướng phân lập khoa học dẫn đến sự tách một hay một số bộ môn
khoa học ra khỏi một bộ môn khoa học đang tồn tại. Bản chất quá trình này


là sự phân lập đối tượng nghiên cứu từ bộ môn khoa học ban đầu để hình


thành một bộ môn khoa học có đối tượng nghiên cứu hẹp hơn.
Trong thời kỳ cổ đại, triết học là khoa học duy nhất chứa đựng mọi tri
thức về tự nhiên và xã hội. Thời kỳ phục hưng trở đi, các khoa học tự nhiên
dần tách khỏi triết học. Sau này, các khoa học xã hội như kinh tế học, chính
trị học... cũng tiếp tục trở nên (thành) những bộ môn độc lập theo xu hướng
phân lập khoa học.
Xu hướng phân lập không loại trừ quá trình tích hợp các khoa học.
Bản chất của quá trình tích hợp các khoa học là sự tích hợp phương pháp
luận của hai hay nhiều bộ môn khoa học riêng lẻ để hình thành một bộ môn
khoa học mới. Trong thực tiễn phát triển khoa học, khi nảy sinh các vấn đề
mà phương pháp luận của từng bộ môn không thể giải quyết thi chúng liên
minh với nhau, thâm nhập nhau dẫn đến sự hình thành của bộ môn khoa học
mới.
Trong từng giai đoạn lịch sử, theo yêu cầu của sự phát triển sản xuất
và đời sống, yêu cầu phát triển của chính các bộ môn khoa học mà xu hướng
phân lập hay tích hợp các khoa học nổi lên chiếm ưu thế.
Việc thừa nhận một bộ môn khoa học dựa trên các tiêu chí:
Một là, có đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu là sự vật, hiện
tượng được đặt trong phạm vi quan tâm của bộ môn khoa học. Một sự vật
hiện tượng có thể là đối tượng nghiên cứu của nhiều bộ môn khoa học khác
nhau. Song mỗi bộ môn khoa học nghiên cứu sự vật hiện tượng ấy trên
những khía cạnh khác nhau.
Hai là, có một hệ thống lý thuyết. Hệ thống lý thuyết bao gồm những
khái niệm, phạm trù, quy luật…là tiêu chí nhận diện một bộ môn khoa học.
Lý thuyết mỗi bộ môn khoa học vừa mang tính kế thừa của các bộ môn khoa
học khác, vừa có những tri thức riêng có, đặc trưng của mình.


Ba là, có hệ thống phương pháp luận. Mỗi bộ môn khoa học dù có
phương pháp luận chung nhất, phương pháp luận ngành thì vẫn có phương

pháp luận của riêng nó.
Bốn là, có mục đích sử dụng. Mục đích thực sự của khoa học là nhận
thức và cải tạo thế giới. Khoảng cách giữa nhận thức và thay đổi hiện thực
ngày càng được rút ngắn. Tuy nhiên, không phải bao giờ cũng đặt rõ ràng và
cụ thể mục đích sử dụng khi thừa nhận một bộ môn khoa học.
3. Phân loại khoa học
Phân loại khoa học là sắp xếp các bộ môn khoa học thành một hệ
thống thứ bậc trên cơ sở những dấu hiệu đặc trưng bản chất của chúng. Việc
phân loại khoa học nhằm nhận dạng cấu trúc của toàn bộ hệ thống tri thức,
xác định vị trí của mỗi bộ môn khoa học và con đường phát triển cho khoa
học.
Lịch sử phát triển khoa học ghi nhận những bảng phân loại khoa học
khác nhau. Thời cổ đại, Arixtốt đã chia khoa học thành ba loại: khoa học lý
thuyết, khoa học sáng tạo và khoa học thực hành. Thời trung cổ, khoa học
được phân thành thần học, logic học và ngữ pháp. Thời cận đại, Bêcơn lại
chia khoa học thành lịch sử, thơ ca và triết học, Xanhximông chia khoa học
tự nhiên thành vật lý vô cơ và vật lý hữu cơ. Khoa học xã hội là bộ phận của
khoa học tự nhiên gọi là vật lý xã hội. Hêghen chia khoa học tự nhiên thành
ngành cơ học, ngành hóa học và ngành cơ thể học.
Căn cứ vào các hình thức vận động của vật chất, mối liên hệ, sự
chuyển hóa giữa chúng, Mác - Ăngghen cho rằng sự phân loại khoa học phải
dựa trên nguyên tắc khách quan, dựa vào đối tượng mà nó nghiên cứu và
nguyên tắc phối thuộc, tri thức có sau xuất phát từ tri thức có trước và bao
hàm tri thức có trước ấy.


Hiện nay, nhiều quan điểm phân loại khoa học dựa trên cách tiếp cận
khác nhau cùng tồn tại. Chẳng hạn, theo mục đích ứng dụng của khoa học,
người ta phân thành khoa học mô tả, khoa học phân tích, khoa học ứng
dụng, khoa học sáng tạo...Theo mức độ khái quát hóa của khoa học có khoa

học cụ thể, khoa học trừu tượng, khoa học khái quát, khoa học đặc
thù...Theo cơ cấu của hệ thống tri thức hoặc chương trình đào tạo có khoa
học cơ bản, khoa học cơ sở, khoa học chuyên môn. Theo đối tượng nghiên
cứu của khoa học có khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học kỹ thuật,
khoa học nông nghiệp, khoa học sức khỏe...
Phân loại khoa học là yêu cầu khách quan cho sự phát triển của chúng.
Vùng giáp ranh giữa các bộ môn khoa học đòi hỏi cần được giới khoa học
quan tâm bởi đây chính là nơi thường diễn ra quá trình tích hợp phương
pháp luận để hình thành một môn khoa học mới.
Sự phát triển khoa học luôn dẫn đến sự phá vỡ những ranh giới cứng
nhắc trong phân loại khoa học. Vì vậy, mọi bảng phân loại khoa học cần
được xem là hệ thống mở, luôn được hoàn thiện và phát triển.
II. Nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học
nhằm tìm tòi, khám phá bản chất và các quy luật vận động của thế giới, ứng
dụng vào các quá trình xã hội để tạo ra những sản phẩm vật chất, tinh thần
mãn nhu cầu của con người.
1. Chức năng của nghiên cứu khoa học
a. Mô tả
Nhận thức một sự vật hiện tượng bao giờ cũng bắt đầu từ mô tả sự vật
hiện tượng ấy. Mô tả sự vật là trình bày bằng ngôn ngữ, hình ảnh về cấu
trúc, trạng thái, sự vận động của sự vật. Trong nghiên cứu khoa học, sự vật
được mô tả một cách chân thực như sự tồn tại, vận động vốn có của nó. Mô


tả giúp con người nhận dạng, phân biệt sự vật hiện tượng ấy với các sự vật
hiện tượng khác thong qua những dấu hiệu của nó. Mô tả định lượng nhằm
chỉ rõ những đặc trưng về lượng của sự vật. Mô tả định tính cho phép nhận
thức đặc trưng về chất của sự vật ấy.
b. Giải thích

Giải thích trong nghiên cứu khoa học là làm rõ căn nguyên dẫn đến sự
hình thành, phát triển và quy luật chi phối quá trình vận động của sự vật hiện
tượng. Trong nghiên cứu khoa học, giải thích bao gồm làm rõ nguồn gốc,
mối quan hệ, sự tương tác giữa các yếu tố cấu thành sự vật và giữa sự vật
hiện tượng ấy với các sự vật hiện tượng khác. Mục đích của giải thích là đưa
ra thông tin về thuộc tính bản chất của sự vật nhằm nhận thức cả những
thuộc tính bên trong của sự vật.
c. Tiên đoán
Tiên đoán là nhìn trước quá trình hình thành, sự vận động và biến đổi
của sự vật hiện tượng trong tương lai. Tiên đoán được thực hiện trên cơ sở
mô tả và giải thích. Với phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu, con
người có thể tiên đoán với độ chuẩn xác cao về nhiều hiện tượng, quá trình
diễn ra trong tự nhiên và xã hội. Những dự báo của khoa học thiên văn, về
những biến cố chính trị - xã hội hay các hiện tượng kinh tế... đã chứng minh
khả năng tiên đoán trong nghiên cứu khoa học.
Trong nghiên cứu khoa học, mặc dù thừa nhận khả năng tiên đoán của
con người về sự vật, hiện tượng song chúng ta cần chấp nhận sự sai lệch
nhất định trong chính khả năng ấy. Sự sai lệch này có nhiều nguyên nhân: do
nhận thức ban đầu về sự vật chưa chuẩn xác, môi trường vận động của sự
vật biến động... Phương pháp luận biện chứng duy vật không cho phép
người nghiên cứu tự thỏa mãn với những tiên đoán hoặc lạm dụng tiên đoán.
Mọi tiên đoán phải được kiểm chứng trong đời sống hiện thực.


d. Sáng tạo
Sáng tạo là làm ra một sự vật mới chưa từng tồn tại. Sứ mệnh lớn lao
của khoa học là sáng tạo ra các giải pháp nhằm cải tạo thế giới. Giải pháp ấy
có thể là những phương pháp, phương tiện, cách thức tổ chức nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động của con người; có thể là những giải pháp kỹ thuật
trong sản xuất, nguyên lý công nghệ mới, vật liệu hay sản phẩm mới.

2. Đặc điểm của nghiên cứu khoa học
a. Tính mới
Tính mới là biểu hiện quan trọng nhất, là thuộc tính số một của lao
động khoa học. Nghiên cứu khoa học luôn hướng tới những phát hiện mới
hoặc sáng tạo những sự vật, những giải pháp quản lý và công nghệ mới.
Biểu hiện tính mới trong nghiên cứu khoa học là sự không chấp nhận lặp lại
về phương pháp, cách tiếp cận hay sản phẩm tạo ra. Con người dù đã đạt
được những thành tựu khoa học vĩ đại thì vẫn không ngừng tìm kiếm và
sáng tạo, liên tục chiếm lĩnh những đỉnh cao mới trong nhận thức và hiệu
quả cải tạo thế giới.
Tính mới không mâu thuẫn mà bao hàm trong nó sự kế thừa những
kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước. Thành quả nghiên cứu
khoa học phụ thuộc vào thái độ của nhà khoa học trước những giá trị khoa
học mà nhân loại đã sáng tạo ra.
b. Tính thông tin
Sản phẩm của nghiên cứu khoa học là những tri thức thể hiện dưới
nhiều hình thức khác nhau như bài báo khoa học, mẫu sản phẩm, mô hình
sản xuất thí điểm… song đều đem đến cho người tiếp nhận những tin tức,
thông báo và hiểu biết mới. Sự gắn bó giữa thông tin - tri thức, tri thức thông tin ở hoạt động nghiên cứu khoa học làm nên đặc trưng của hoạt động
này. Thông tin là nguyên liệu của hoạt động nghiên cứu. Thông qua quá


trình xử lý thông tin của tư duy(phân tích - tổng hợp, khái quát hóa, trừu
tượng hóa…) để hình thành tri thức mới. Khi đưa vào hệ thống lưu chuyển
xã hội, tri thức ấy lại đóng vai trò là thông tin trong một quá trình nghiên
cứu tiếp theo. Do vậy, thông tin cũng là sản phẩm của nghiên cứu khoa học.
c. Tính mạnh dạn, mạo hiểm
Đặc trưng tính mới của hoạt động này đặt ra yêu cầu người nghiên
cứu dám đảm nhận việc những vấn đề nghiên cứu hết sức mới mẻ. Do vậy,
dù cân nhắc đến tính hiệu quả, sự thành công thì người nghiên cứu phải luôn

chấp nhận những rủi ro, khả năng thất bại trong nghiên cứu.Thất bại trong
nghiên cứu có thể do nhiều nguyên nhân với những mức độ khác nhau.
Chẳng hạn như thiếu thông tin và thông tin thiếu tin cậy làm cơ sở cho công
trình nghiên cứu; năng lực thực hiện của nhà khoa học; mức độ đầy đủ và
trình độ kỹ thuật của phương tiện nghiên cứu; các tác nhân bất khả kháng
trong quá trình nghiên cứu… Ngay cả những công trình đã tạo ra sản phẩm
thử nghiệm thành công vẫn chịu những rủi khi áp dụng trong thực tiễn. Thất
bại trong nghiên cứu cũng được xem là kết quả có ý nghĩa. Sự thất bại ấy
cần được tổng kết, lưu giữ như một tài liệu khoa học, trở thành bài học kinh
nghiệm quý giá cho đồng nghiệp đi sau, tránh lãng phí các nguồn lực nghiên
cứu.
Trong lĩnh vực khoa học xã hội, sự mạnh dạn mạo hiểm còn thể hiện
ở sự vượt lên trên lối mòn và rào cản tâm lý, đề xuất những ý tưởng nghiên
cứu, phương pháp tiệm cận mới. Đôi khi một số ý tưởng nghiên cứu được đề
xuất không phải bao giờ cũng dễ dàng được ủng hộ, chấp nhận ngay. C. Mác
từng nhận định: đối với khoa học không có con đường nào bằng phẳng thênh
thang cả, chỉ có những con người không sợ mỏi gối chồn chân để trèo lên
những con đường nhỏ bé gập ghềnh của khoa học thì mới có hy vọng đạt tới
đỉnh cao sán lạnh của khoa học mà thôi. Lịch sử khoa học thế giới ghi nhận


những tấm gương như Galilê, Côpecnic… Hơn bất kỳ một lĩnh vực nào,
hoạt động nghiên cứu khoa học là hoạt động mang tính mạnh dạn, mạo
hiểm. Song hoạt động này cũng đòi hỏi nhà khoa học phải biết cân nhắc, tìm
ra những vấn đề mang tính bản chất, phương pháp hiệu quả và hướng triển
khai khả thi.
d. Tính phi kinh tế
Mục đích của nghiên cứu khoa học là giải phóng sức lao động, nâng
cao hiệu quả chinh phục tự nhiên và tổ chức quản lý, phát triển kinh tế xã
hội. Song trong nghiên cứu khoa học, lợi ích kinh tế trước mắt không được

xem là mục đích trực tiếp, động lực duy nhất.
Tính phi kinh tế trong nghiên cứu khoa học thể hiện:
- Lao động nghiên cứu khoa học khó định mức một cách chính xác
như trong lĩnh vực sản xuất vật chất. Trong một số trường hợp, lao động
khoa học không thể định mức.
- Những thiết bị chuyên dụng cho nghiên cứu khoa học hầu như
không thể khấu hao bởi tần suất sử dụng không ổn định. Tốc độ hao mòn vô
hình luôn vượt trước xa so với hao mòn hữu hình. Chẳng hạn một thiết bị thí
nghiệm có thể chưa hao mòn hữu hình thì đã trở nên lỗi thời về kỹ thuật.
- Hiệu quả kinh tế của nghiên cứu khoa học hầu như không thể xác
định. Ngay cả những kết quả nghiên cứu về kỹ thuật có giá trị mua bán cao
trên thị trường song vẫn có thể không được áp dụng bởi lý do thuần thúy xã
hội. Do vậy, hiệu quả kinh tế không trở thành hiện thực.
e.Tính cá nhân và vai trò của tập thể khoa học
Hoạt động nghiên cứu khoa học là một dạng lao động xã hội. Vai trò
của tập thể khoa học được khẳng định. Song, trong nghiên cứu, những sáng
tạo mới, những phát minh, sáng chế luôn gắn với vai trò đột phá của cá


nhân, của các nhà khoa học đầu đàn. Tính cá nhân thể hiện trong tư duy và
chủ kiến độc đáo của nhà nghiên cứu.
Song trong hoạt động nghiên cứu, cá nhân không tách rời tập thể khoa
học. Tập thể khoa học là môi trường nâng đỡ cho sự ra đời ý tưởng mới của
cá nhân, phản biện, hoàn thiện ý tưởng ấy, tập trung trí tuệ thực hiện quá
trình nghiên cứu. Không phải ngẫu nhiên trên thế giới, hình thành trung tâm
nghiên cứu lớn, từng bước chuyên môn hóa quá trình nghiên cứu trở thành
khuynh hướng cho sự phát triển khoa học.
III. Nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn
1. Quan niệm về khoa học xã hội và nhân văn
Khoa học xã hội và nhân văn, nghĩa rộng, là một nhóm các ngành khoa

học bao gồm cả khoa học xã hội và khoa học nhân văn. Khoa học xã hội
nghiên cứu các quan hệ giữa con người với con người, đối tượng nghiên
cứu của khoa học xã hội là những quan hệ con người trong xã hội, điều
kiện sinh hoạt, quá trình vận động của xã hội con người. Khoa học nhân
văn được coi là hệ thống các môn khoa học về con người và những hoạt
động tinh thần của con người, gắn liền với những phương thức đặc thù
sang tạo ra các giá trị văn hóa tinh thần. Đối tượng của khoa học nhân văn
chú trọng nhiều hơn tới những giá trị tinh thần và những hoạt động tinh
thần của con người.
Ở Việt Nam hiện nay, dù thừa nhận khoa học xã hội và khoa học nhân văn
vẫn có sự phân biệt nhất định song vẫn được xếp chung vào một nhóm
ngành gọi là khoa học xã hội và nhân văn. Xuất phát điểm của quan niệm
này là bất kỳ một nghiên cứu nào về xã hội (quy luật vận động của xã hội,
của lịch sử…) cuối cùng đều hướng tới con người. Không một nghiên cứu
nào về con người (về những giá trị tinh thần của con người) được coi là
khoa học nếu thoát ly xã hội với những điều kiện lịch sử, kinh tế, chính


trị. Con người và hoạt động tinh thần của con người không thể tồn tại ở
đâu khác bên ngoài xã hội. Phát triển xã hội không có gì khác là hướng tới
một xã hội nhân văn, giải phóng con người và đem lại cho con người cuộc
sống hạnh phúc.
Khoa học xã hội và nhân văn là các khoa học về các quy luật hình
thành và phát triển của xã hội và con người, mối quan hệ giữa con người với
con người, giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội
2. Đặc điểm của khoa học xã hội và nhân văn
Thứ nhất, khoa học xã hội và nhân văn mang tính trừu tượng. Tính
trừu tượng của khoa học xã hội và nhân văn được biểu hiện ở nhiều khía
cạnh. Nhìn tổng thể từ đối tượng, phương pháp cho đến sản phẩm nghiên
cứu đều mang tính đặc thù này.

Đối tượng nghiên cứu của khoa học xã hội và nhân văn là đời sống
tinh thần và những quan hệ xã hội của con người. Vấn đề nghiên cứu thường
trừu tượng, chịu ảnh hưởng của những quan hệ phức tạp và khó xác định.
Tính trừu tượng của khoa học xã hội và nhân văn còn thể hiện trong
tính đặc thù của sản phẩm khoa học mà nó tạo ra. Khoa học xã hội và nhân
văn không trực tiếp tạo ra vật phẩm - sản phẩm vật chất cho xã hội. Sản
phẩm của khoa học xã hội và nhân văn chủ yếu là tri thức tồn tại dưới dạng
tinh thần, tư tưởng mặc dù trong điều kiện hiện nay, những nghiên cứu thuộc
ngành khoa học đã chú ý nhiều hơn đến việc sáng tạo những công cụ,
phương tiện quản lý và mô hình thực nghiệm. Sản phẩm khoa học xã hội và
nhân văn khi được áp dụng có thể tạo nên sự thay đổi sâu rộng cho một
ngành, một phương diện của đời sống xã hội. Thậm chí có thể tạo nên sự
thay đổi của một dân tộc, một thời đại.
Tính trừu tượng còn thể hiện trong việc đánh giá giá trị của sản phẩm
khoa học xã hội và nhân văn.Khác với cách thức đánh giá trong khoa học kỹ


thuật và công nghệ, sản phẩm của nghiên cứu trong khoa học xã hội không
thể “cân, đong, đo, đếm” hay định giá theo kiểu thông thường. Tính chính
xác của khoa học xã hội là tính chính xác của quan điểm và phương pháp.
Thứ hai, khoa học xã hội và nhân văn là khoa học có tính giai cấp.
Khoa học xã hội và nhân văn là cơ sở trí tuệ - tinh thần của chế độ và
biểu đạt tư tưởng của chế độ đó. Khoa học xã hội và nhân văn gắn liền với
việc củng cố và phát triển hệ ý thức của xã hội thông qua hệ thống quan
điểm về chính trị, về đạo đức, lối sống… vũ trang nhận thức cho xã hội theo
định hướng và mục đích chính trị mà giai cấp cầm quyền cùng thể chế của
nó đòi hỏi.
Nhà nghiên cứu hoặc đứng trên lập trường tư tưởng của giai cấp này
hoặc giai cấp khác khi nghiên cứu, lý giải sự vận động của xã hội, vận dụng
quy luật xã hội sao cho đảm bảo cao nhất lợi ích của giai cấp mình.

Tiêu chí kiểm chứng tính chính xác của khoa học xã hội phụ thuộc rất
nhiều vào thái độ của giai cấp cầm quyền đối với sản phẩm của khoa học
này.
Thừa nhận tính giai cấp của khoa học xã hội và nhân văn không có
nghĩa là phủ nhận tính dân tộc và nhân loại của nó.
Khoa học xã hội và nhân văn là bộ phận của văn hóa, xây dựng trên
nền tảng văn hóa của mỗi dân tộc và chỉ có thể phát triển khi thể hiện sâu
sắc tinh thần của dân tộc ấy. Đồng thời, với tư cách là văn hóa, ý nghĩa nhân
bản, nhân văn của khoa học xã hội có thể vượt ra ngoài biên giới quốc gia,
dân tộc, là thành quả nghiên cứu của nhân loại, vì sự phát triển của nhân loại
tiến bộ.
Thứ ba, khoa học xã hội và nhân văn vận động và phát triển trong sự
vận động của các khoa học như một hệ thống chỉnh thể.


Sự giao thoa giữa đối tượng nghiên cứu của các khoa học tạo ra mối
liên kết tất nhiên giữa khoa học xã hội và nhân văn với các khoa học khác
trong quá trình nghiên cứu. Điều này thể hiện rõ trong mối quan hệ nội bộ
của các khoa học thuộc lĩnh vực xã hội và nhân văn. Đồng thời sự tương tác,
hợp tác này cũng thể hiện trong mối quan hệ của khoa học xã hội và nhân
văn với các lĩnh vực khoa học khác. Giải quyết nhiệm vụ của mỗi ngành
khoa học đòi hỏi sự hợp tác thường xuyên, liên tục của các khoa học khác
nhau. Do vậy, sự thâm nhập, hỗ trợ, vận dụng phương pháp, kết quả nghiên
cứu của các khoa học là đòi hỏi tất yếu khách quan trong khoa học. Nghiên
cứu khoa học xã hội và nhân văn đặt ra yêu cầu sử dụng kiến thức, phương
pháp của khoa học tự nhiên, kỹ thuật công nghệ. Ngược lại, thành tựu khoa
học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ đạt được lại đặt ra những vấn đề mới
cho khoa học xã hội và nhân văn. Chẳng hạn, thành tựu chinh phục tự nhiên
đang đặt ra các vấn đề như môi trường, bệnh tật, dân số…đòi hỏi khoa học
xã hội và nhân văn giải quyết.

VẤN ĐỀ ÔN TẬP

1.
2.
3.
4.

Khoa học và phân loại khoa học
Các chức năng của nghiên cứu khoa học.
Đặc điểm của nghiên cứu khoa học và ý nghĩa rút ra đối với nhà khoa học.
Đặc thù trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn.


CÁC LOẠI HÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Loại hình nghiên cứu khoa học là khái niệm dùng để chỉ tập hợp của
những công trình nghiên cứu được phân loại theo một cách thức nhất định.
Xuất phát từ sự phân chia các ngành khoa học, người ta phân chia công trình
khoa học thuộc các ngành khoa học khác nhau. Chẳng hạn, công trình
nghiên cứu thuộc ngành khoa học tự nhiên, khoa học xã hội hay khoa học kỹ
thuật - công nghệ. Dựa vào nhóm giải pháp mà nhà khoa học đề xuất
nghiêng về lý thuyết hay thực nghiệm, người ta chia các công trình nghiên
cứu thành hai loại: công trình nghiên cứu lý thuyết và công trình nghiên cứu
thực nghiệm. Căn cứ vào mục tiêu mà công trình nghiên cứu đề ra và thực
hiện, có ba loại hình nghiên cứu: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng
và nghiên cứu triển khai - thực nghiệm.
I. Nghiên cứu cơ bản (fundamental research)
Nghiên cứu cơ bản là những nghiên cứu nhằm phát hiện bản chất và
quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình.
Kết quả của nghiên cứu cơ bản là những phân tích lý luận, phát kiến,

kết luận về tính quy luật, những định lý, định luật…. Trên cơ sở nghiên cứu
cơ bản, ngưởi nghiên cứu trình bày những phát hiện, phát kiến, phát minh.
Chẳng hạn, định luật về sức nâng của nước do Acsimet khám phá, phát hiện
châu Mỹ của Critxtôp Côlômbô và nhiều quy luật do nhiều nhà khoa học xã
hội công bố.


Sản phẩm của nghiên cứu cơ bản thường dẫn đến một hệ thống lý
thuyết có ảnh hưởng đến một hoặc nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau. Tác
động của những phát kiến ấy thường vượt qua giới hạn nhận thức về một
lĩnh vực, phạm vi mà nó nghiên cứu. Chẳng hạn, những tác động của định
luật vạn vật hấp dẫn do Niutơn phát minh, “bàn tay vô hình” của kinh tế thị
trường (Ađam Smith) hay quy luật giá trị thặng dư của C. Mac ở những
mức độ khác nhau trong nhiều lĩnh vực hoạt động của con người.
Nghiên cứu cơ bản gồm hai loại: nghiên cứu cơ bản thuần túy và
nghiên cứu cơ bản định hướng.
Nghiên cứu cơ bản thuần túy là những nghiên cứu đơn thuần là nhằm
mục đích phát hiện ra bản chất, quy luật tồn tại, phát triển của sự vật hiện
tượng mà chưa bàn đến ý nghĩa ứng dụng của nghiên cứu ấy. Những nghiên
cứu cơ bản thuần túy nhằm mở rộng và nâng cao nhận thức của con người.
Nghiên cứu cơ bản định hướng là những nghiên cứu hướng tới mục
đích ứng dụng nhất định, dự kiến phạm vi và mức độ ứng dụng khi nghiên
cứu ấy thành công. Nghiên cứu cơ bản định hướng không chỉ dẫn đến những
cơ sở lý thuyết quan trọng mà còn có thể dẫn đến những ứng dụng có ý
nghĩa lớn lao trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau của đời sống xã hội.
II. Nghiên cứu ứng dụng (applied research)
Nghiên cứu ứng dụng là sự vận dụng kết quả của nghiên cứu cơ bản
(những định luật, định lý, quy luật…), thường là nghiên cứu cơ bản định
hướng để tìm ra nguyên lý về các giải pháp ứng dụng trong môi trường tồn
tại của sự vật, hiện tượng hay quá trình.

Sản phẩm của nghiên cứu ứng dụng có thể là giải pháp về vật liệu,
công nghệ trong khoa học kỹ thuật hay giải pháp về tổ chức, quản lý trong
khoa học xã hội.


Dù là kết quả của loại hình nghiên cứu có tên là nghiên cứu ứng dụng
nhưng kết quả của nó lại chưa ứng dụng được ngay. Để đưa kết quả nghiên
cứu ứng dụng vào sử dụng trong thực tế cần tiến hành loại hình nghiên cứu
triển khai - thực nghiệm.
III. Nghiên cứu triển khai - thực nghiệm (development reseach)
Nghiên cứu triển khai - thực nghiệm là loại hình nghiên cứu vận dụng
các quy luật (thu được từ nghiên cứu cơ bản) và các nguyên lý giải pháp (từ
nghiên cứu ứng dụng) để đưa ra những hình mẫu về một phương diện kỹ
thuật mới, sản phẩm mới, dịch vụ mới với tính khả thi cao nhất cho hoạt
động thực tiễn của con người.
Nghiên cứu triển khai - thực nghiệm bao gồm cả quá trình thiết kế thử
nghiệm và mô hình thử nghiệm và được chia thành hai loại, hai giai đoạn:
triển khai trong phòng và triển khai bán đại trà.
Triển khai trong phòng hướng vào việc áp dụng nguyên lý giải pháp
để tạo ra cho được sản phẩm trong điều kiện phòng thí nghiệm.
Triển khai bán đại trà là dạng triển khai nhằm kiểm chứng giả thuyết
về một hình mẫu trên một quy mô nhất định, xác định điều kiện cần và đủ để
mở rộng phạm vi áp dụng, triển khai đại trà.
Nghiên cứu triển khai - thực nghiệm trong khoa học xã hội đem lại ý
nghĩa lớn lao trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng mô hình quản lý các
phương diện xã hội một cách hiệu quả.
IV. Mối quan hệ giữa các loại hình nghiên cứu và thực tiễn
Các loại hình nghiên cứu khoa học có mối quan hệ biện chứng, thống
nhất trong chỉnh thể hoạt động khoa học của mỗi ngành, mỗi quốc gia. Việc
phân chia các loại hình nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng cho định hướng và

xây dựng chính sách phát triển khoa học của mỗi ngành, mỗi quốc gia ấy.


Các loại hình nghiên cứu khoa học liên hệ với nhau theo trình tự:
nghiên cứu cơ bản - nghiên cứu ứng dụng - nghiên cứu triển khai, thực
nghiệm. Trong đó, kết quả nghiên cứu của loại hình trước là cơ sở, tiền đề,
điều kiện cho sự bắt đầu của loại hình nghiên cứu sau đó. Đồng thời, nghiên
cứu khoa học có mối quan hệ không thể tách rời với hoạt động thực tiễn bởi
suy đến cùng, mọi nghiên cứu đều hướng tới phát triển các phương diện hoạt
động thực tiễn của con người.
Mỗi đề tài khoa học, xét mục tiêu chính của nó đều thuộc một loại
hình nghiên cứu khoa học xác định. Song trong chính mỗi đề tài nghiên cứu,
sự xuất hiện của trật tự logic nội dung bao giờ cũng thể hiện đầy đủ các loại
hình nghiên cứu nêu trên ở các mức độ khác nhau. Chính đặc điểm này cho
phép chúng ta hiểu sự phân chia loại hình nghiên cứu khoa học chỉ là tương
đối.
VẤN ĐỀ ÔN TẬP
1. Phân loại tri thức khoa học.
2. Đặc điểm, vị trí và vai trò của nghiên cứu cơ bản trong sự phát triển
khoa học và đời sống xã hội.
3. Đặc điểm, vị trí và vai trò của nghiên cứu ứng dụng trong sự phát
triển khoa học và đời sống xã hội.
4. Đặc điểm, vị trí và vai trò của nghiên cứu triển khai - thực nghiệm
trong sự phát triển khoa học và xã hội.
5. Mối quan hệ giữa các loại hình nghiên cứu khoa học và thực tiễn.


VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
XÂY DỰNG VÀ KIỂM CHỨNG GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU


I. Vấn đề nghiên cứu
1. Khái niệm vấn đề nghiên cứu
Vấn đề nghiên cứu là những điều chưa biết hoặc biết chưa thấu đáo về
sự vật, hiện tượng hay quá trình, cần được làm rõ trong quá trình nghiên
cứu.
Vấn đề nghiên cứu chỉ có thể được phát hiện trong quá trình quan sát
sự kiện. Sự kiện tồn tại trong tự nhiên và đời sống xã hội. Người nghiên cứu
có thể thiết lập sự kiện để tiến hành quan sát bằng cách chọn những sự kiện
vốn tồn tại trong tự nhiên hoặc xã hội hoặc chủ động tạo ra sự kiện nhờ thực
nghiệm.
Trong nghiên cứu khoa học, quan sát có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Quan sát không chỉ nhằm phát hiện vấn đề nghiên cứu mà còn giúp nhà khoa
học xây dựng giả thuyết, kiểm chứng giả thuyết trong suốt quá trình triển
khai hoạt động nghiên cứu sau này.
2. Con đường phát hiện vấn đề nghiên cứu, hình thành ý tưởng
nghiên cứu
- Phát hiện những kẽ hở trong khoa học
Vấn đề nghiên cứu xuất hiện ở chỗ những nội dung chưa được nhận
thức và giải quyết trọn vẹn về mặt khoa học trong các tài liệu khoa học, khi
phản biện các công trình nghiên cứu của đồng nghiệp.
- Nhận dạng những bất đồng trong tranh luận khoa học
Khi tham dự các cuộc tranh luận khoa học, trong hội nghị, hội thảo
hay các buổi tọa đàm khoa học, trước những ý kiến trái chiều cùng bàn về


một vấn đề khoa học, người nghiên cứu có thể nhận dạng vấn đề khoa học
cần được giải quyết thấu đáo và sâu sắc hơn.
- Nghĩ ngược lại những quan niệm thông thường
- Nhận dạng những vướng mắc trong hoạt động thực tiễn
Những khó khăn nảy sinh trong hoạt động sản xuất, tổ chức và quản

lý xã hội không thể sử dụng biện pháp thông thường, hay biện pháp thông
thường không thể đưa lại kết quả mong muốn. Thực tế ấy đặt ra yêu cầu phải
thay đổi nhận thức và hành động.
- Sự phàn nàn của những người xung quanh
Đôi khi vấn đề nghiên cứu xuất hiện khi nhà nghiên cứu lắng nghe ý
kiến phàn nàn của những người liên quan đến sự vật, sự việc trong khi họ
thậm chí không am hiểu nhiều về lĩnh vực nhà nghiên cứu quan tâm cũng
giúp cho nhà nghiên cứu nhận dạng vấn đề cần làm rõ trên phương diện
khoa học.
Vấn đề nghiên cứu thường tồn tại dưới dạng các câu hỏi nghiên cứu.
Trong nghiên cứu khoa học thường xuất hiện hai lớp vấn đề. Một là, vấn đề
về bản thân sự vật và quy luật vận động của nó. Hai là, vấn đề về phương
pháp tác động vào sự vật hiện tượng. Giải quyết vấn đề sẽ mở ra những khả
năng mới cho hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người.
Trong khi nhận dạng vấn đề nghiên cứu, ý tưởng nghiên cứu xuất
hiện.
3. Ý tưởng nghiên cứu
Ý tưởng nghiên cứu là những phán đoán trực cảm về bản chất hay
phương pháp tác động vào sự vật, hiện tượng hay quá trình. Ý tưởng nghiên
cứu xuất hiện theo cảm nhận, chưa được tổng kết và có căn cứ đầy đủ để
nhận thức. Có thể phân biệt một số loại ý tưởng nghiên cứu:
- Ý tưởng về quy luật là những phán đoán trực cảm mô tả, giải thích
về sự vật hiện tượng, về quy luật vận động của sự vật hiện tượng. Trong lịch


sử khoa học, loại ý tưởng này thường dẫn đến việc phát hiện, phát minh
những hệ tiên đề, nền tảng lý thuyết cho một phương hướng khoa học mới.
- Ý tưởng về giải pháp
Đây là những ý tưởng về biện pháp tác động vào sự vật hiện tượng.
Chẳng hạn, Acsimet phát hiện ra nguyên tắc đòn bẩy, ông nảy ra ý tưởng

“nếu cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ bẩy được cả trái đất”.
- Ý tưởng về hình mẫu
Sự hình dung một mô hình cụ thể với các tham số xác định. Ý tưởng
này xuất hiện khi người nghiên cứu gặp một tình huống có tính mô phỏng
quá trình mà người nghiên cứu đang quan tâm.
Ý tưởng nghiên cứu thường xuất hiện rất nhanh, đôi khi chỉ là một ý
nghĩ thoáng qua trong tư duy và rất có thể bộ nhớ sinh học của con người sẽ
xóa rất nhanh nếu nó không được ghi nhớ và giao nhiệm vụ tiếp tục xử lý. Ý
tưởng nghiên cứu có vai trò quan trọng trong khoa học. Sự xuất hiện ý tưởng
còn được coi là giai đoạn tiền giả thuyết trong nghiên cứu. Song bản than ý
tưởng chưa mang ý nghĩa thực tế cho sự phát triển của khoa học. Nó cần
được người nghiên cứu phát triển tư duy để nâng lên một trình độ cao hơn.
Đó là giai đoạn xây dựng giả thuyết nghiên cứu.
4. Thẩm định vấn đề nghiên cứu
Thẩm định vấn đề nghiên cứu là quá trình xem xét nhằm củng cố ý
tưởng nghiên cứu, loại bỏ hướng nghiên cứu không phù hợp để chuẩn bị xây
dựng giả thuyết nghiên cứu.
Các phương pháp thẩm định vấn đề nghiên cứu:
- Thay đổi phương thức quan sát
- Mở rộng phạm vi quan sát
- Thu thập tài liệu
- Trao đổi với đồng nghiệp.


Sau khi tiến hành thẩm định vấn đề nghiên cứu, có ba khả năng được
ghi nhận. Một là, vấn đề nghiên cứu được khẳng định, ý tưởng nghiên cứu
được củng cố. Hai là, vấn đề nghiên cứu có thể không tồn tại hoặc đã được
giải quyết. Ba là, vấn đề nghiên cứu được xác định là “giả - vấn đề” (pseudo
– problem). Vấn đề nghiên cứu tồn tại nhưng nguyên nhân của nó nằm ngoài
hướng tiếp cận ban đầu. Xét về nguồn gốc, giả - vấn đề xuất hiện có thể do

thế giới quan sai lầm hoặc vấn đề nảy sinh từ tư duy tư biện, phiến diện của
một số học giả. Trong một số trường hợp, giả - vấn đề còn xuât hiện khi ý
tưởng nghiên cứu xuất hiện quá sớm so với điều kiện cho phép để giải quyết
chúng. Chẳng hạn những tiên đoán về vấn đề nghiên cứu có thể xuất hiện
trong tương lai, xa vời so với thời điểm hiện thực đặt vấn đề.
II. Xây dựng giả thuyết nghiên cứu
1. Giả thuyết và phân loại giả thuyết khoa học
a. Giả thuyết khoa học là một kết luận giả định về bản chất, biện pháp
tác động của một sự vật hiện tượng đã được đặt ra trong vấn đề nghiên cứu.
Giả thuyết là hình thức độc đáo của tư duy, do người nghiên cứu đặt
ra, theo đó mà xem xét, phân tích kiểm chứng trong suốt quá trình nghiên
cứu. Giả thuyết khoa học trước hết phụ thuộc vào nhận thức chủ quan của
người nghiên cứu. Thực chất đó là sự phỏng đoán tạm thời, một nhận định
sơ bộ chưa được xác nhận bằng các luận cứ và luận chứng. Nhận định sơ bộ
ấy có thể được khẳng định, điều chỉnh hoặc bác bỏ trong quá trình nghiên
cứu.
Tiêu chí để xem xét giả thuyết khoa học:
Một là, giả thuyết phải được xây dựng trên cơ sở quan sát. Người
nghiên cứu dựa trên kết quả quan sát từ các sự vật hiện tượng để hình thành
giả thuyết. Khả năng quan sát hữu hạn các sự kiện cho phép khẳng định bản


chất thống kê của giả thuyết. Mọi ý đồ tuyệt đối hóa giả thuyết đều là sự sai
phạm logic về bản chất quan sát khoa học.
Hai là, giả thuyết khoa học không được trái với lý thuyết đã được xác
nhận tính đúng đắn về mặt khoa học. Khi xem xét tiêu chí này, người nghiên
cứu và cơ quan khoa học cần lưu ý ba trường hợp.
- Cần phân biệt lý thuyết đã được xác nhận tính đúng đắn về mặt
khoa học với những lập luận bị ngộ nhận là lý thuyết đã được xác nhận.
Trường hợp này, giả thuyết khoa học khi được chứng minh và khẳng định

sau quá trình nghiên cứu sẽ thay thế lý thuyết đang tồn tại.
- Có những lý thuyết đã được xác nhận tính đúng đắn về mặt khoa học
nhưng với sự phát triển của nhận thức khoa học, những giả thuyết này thể
hiện tính chưa hoàn thiện. Trường hợp này giả thuyết mới sẽ bổ sung, phát
triển lý thuyết đang tồn tại.
- Giả thuyết mới mang một ý nghĩa khái quát, lý thuyết đang tồn tại là
một trường hợp riêng của lý thuyết tổng quát được xây dựng từ giả thuyết
mới.
Ba là, giả thuyết có thể kiểm chứng bằng lý thuyết hoặc thực nghiệm.
Giới nghiên cứu thừa nhận giả thuyết khoa học có thể kiểm chứng bằng lý
thuyết. Song giả thuyết cần và có thể chứng minh bằng thực nghiệm khoa
học. Tuy nhiên, lịch sử phát triển khoa học cho thấy không phải giả thuyết
nào cũng có thể được chứng minh hoặc bị bác bỏ ngay trong thời đại của nó.
Nhà bác học thời cổ đại Acsimet dung gương tập trung ánh sang đốt cháy
các chiến thuyền La mã song đến năm 1939 mới được các nhà khoa học xây
dựng thành lý thuyết khuyếch đại lượng tử. Việc phát minh ra tia la de mới
được mở đường bằng lý thuyết khoa học. Trong khoa học xã hội, việc kiểm
chứng giả thuyết còn khó khăn hơn nhiều.
b. Phân loại giả thuyết


- Theo chức năng của nghiên cứu khoa học, người ta chia thành giả
thuyết mô tả, giả thuyết giải thích, giả thuyết dự báo, giả thuyết giải pháp
Giả thuyết mô tả là giả thuyết về trạng thái tồn tại của một sự vật, hiện
tượng hay quá trình.
Giả thuyết giải thích là kết luận giả định về nguyên nhân dẫn đến
trạng thái của sự vật, hiện tượng.
Giả thuyết dự báo là phỏng đoán về trạng thái của sự vật hiện tượng
tạo một thời điểm hoặc một quãng thời gian nào đó trong tương lai.
Giả thuyết giải pháp là những giả thuyết biện pháp, hình mẫu được

nhà nghiên cứu trình bày.
- Theo loại hình nghiên cứu khoa học có giả thuyết về quy luật, giả
thuyết giải pháp hay giả thuyết hình mẫu. Các loại giả thuyết này ứng với
loại hình nghiên cứu cơ bản, loại hình nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu
triển khai thực nghiệm.
2. Vai trò của giả thuyết khoa học
- Đặt giả thuyết là công việc quan trọng nhất của nghiên cứu khoa
học. Không có giả thuyết thì không có nghiên cứu khoa học.
- Giả thuyết khoa học định hướng, đặt ra yêu cầu cho quá trình tổ
chức và triển khai hoạt động nghiên cứu. Giả thuyết dẫn đường, giúp nhà
khoa học rút ngắn đoạn đường vòng vô ích. Đồng thời đối với mỗi ngành
khoa học, giả thuyết vạch đường đi cho quá trình nghiên cứu của tập thể
khoa học.
- Giả thuyết có thể không phù hợp và bị bác bỏ sau quá trình kiểm
chứng. Song thực tế phát triển khoa học đã chứng minh khi từ bỏ một giả
thuyết cũng có nghĩa là đã tiến một bước thực sự sâu thêm vào con đường
tìm kiếm chân lý.
3. Các phương pháp xây dựng giả thuyết khoa học


Giả thuyết là một kết luận giả định, một nhận định sơ bộ do nhà
nghiên cứu đưa ra về vấn đề nghiên cứu. Giả thuyết nghiên cứu là kết quả tư
duy của nhà khoa học. Trên cơ sở phân tích những thông tin thu nhận được
từ quá trình quan sát và dựa trên nền tảng tri thức đã tích lũy, nhà nghiên cứu
rút ra kết luận (phỏng đoán) về bản chất của sự vật, biện pháp tác động hay
hình mẫu về một sự vật hiện tượng hay cách thức tổ chức quản lý mới. Về
mặt logic học, quá trình hình thành giả thuyết thực chất là quá trình suy luận
của nhà khoa học.
Suy luận là một hình thức tư duy, từ một hay một số phán đoán mà
tính chân xác đã được công nhận (tiền đề), đưa ra phán đoán mới (kết đề).

Phán đoán mới chính là giả thuyết.
Ba hình thức suy luận đề hình thành giả thuyết là suy luận quy nạp,
suy luận diễn dịch và loại suy.
- Suy luận quy nạp là hình thức suy luận trong đó kết luận là tri thức
chung được khai quát từ những tri thức ít chung hơn.
Nhà bác học Nga Lômônôxốp viết: ta biết rất rõ rằng nhiệt là do
chuyển động gây nên. Hai tay xát vào nhau thì nóng lên, có tia lửa bật ra khi
ta đánh đá vào thép, sắt nóng lên khi ta rèn nó bằng những nhát búa giáng
mạnh... những điều trên đây cho thấy chuyển động là cơ sở tất yếu của nhiệt.
Như vậy, bản chất của nhiệt là ở trong sự chuyển động của các phân tử tạo
thành.
Phương pháp xét tất cả các lớp đối tượng nghiên cứu rồi rút ra kết
luận về thuộc tính, tính chất chung của chúng là quy nạp hoàn toàn. Ngược
lại, kết luận thu được bằng cách chỉ xét một số bộ phận của lớp đối tượng
gọi là quy nạp không hoàn toàn. Trong khoa học không phải lúc nào cũng
cho phép chúng ta xem xét tất cả các thành phần của lớp đối tượng nên
phương pháp suy luận quy nạp không hoàn toàn rất cần thiết và có ý nghĩa


khoa học, là điều kiện tất yếu của quá trình nhận thức các quy luật của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Tuy nhiên, tri thức kết luận thu được nhờ suy luận
không hoàn toàn chỉ được tin cậy khi tri thức đó lý giải được các dấu hiệu
bản chất, tất yếu quy định sự tồn tại của sự vật hiện tượng ấy.
- Suy luận diễn dịch
Khi đã có những khái quát về thuộc tính chung của một loại đối
tượng, người ta xây dựng những kết luận (giả định) về các sự vật, hiện tượng
mới trong cùng tập hợp. Đó là diễn dịch.
Diễn dịch trực tiếp là suy luận diễn dịch mà kết luận được rút ra từ
một tiền đề. Có thể thực hiện diễn dịch trực tiếp bằng phép chuyển hóa, phép
đảo ngược hay phép đối lập vị từ. Chẳng hạn, từ luận đề: chúng ta không thể

nâng cao chất lượng giáo dục nếu không xây dựng được đội ngũ giảng viên
đủ tiêu chuẩn, có thể xây dựng thành giả thuyết:
(1) Nếu không có đội ngũ giảng viên đủ tiêu chuẩn thì không thể nâng

cao chất lượng giáo dục.
(2) Muốn nâng cao chất lượng giáo dục thì phải xây dựng đội ngũ
giảng viên đủ tiêu chuẩn.
(3) Nếu có đội ngũ giảng viên đủ tiêu chuẩn thì (mới có thể) nâng cao
chất lượng giáo dục.
Diễn dịch gián tiếp là suy luận diễn dịch mà kết luận được rút ra từ
nhiều tiền đề. Trong đó, tam đoạn luận là trường hợp được sử dụng khá phổ
biến trong suy luận.
Chẳng hạn: Toàn cầu hóa là xu thế chung của sự phát triển, tác động
một cách mạnh mẽ, sâu rộng tới các lĩnh vực đời sống xã hội của mọi quốc gia trên thế
giới. Việt Nam xây dựng và phát triển kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa.

(Do vậy) Việt Nam không thể tránh khỏi những tác động của toàn cầu hóa.
III. Kiểm chứng giả thuyết


1. Kiểm chứng giả thuyết và các thành tố của một quá trình kiểm
chứng
Một giả thuyết đưa ra cần phải được kiểm chứng dựa trên những căn
cứ khoa học. Kết quả kiểm chứng là sự khẳng định hay phủ định giả thuyết.
Quá trình này gồm ba bộ phận hợp thành.
Luận đề là những phán đoán do nhà nghiên cứu đưa ra và tính chân
xác của nó cần được chứng minh hoặc bác bỏ.
Trong nghiên cứu khoa học, luận đề phải được trình bày rõ ràng, xác
định và đơn nghĩa.
Luận cứ là những căn cứ, những bằng chứng được đưa ra để chứng

minh (hoặc bác bỏ) luận đề. Tính chân xác của luận cứ đã được công nhận
và được sử dụng làm tiền đề để chứng minh giả thuyết (luận đề) do người
nghiên cứu đặt ra. Có hai loại luận cứ: luận cứ lý thuyết và luận cứ thực tiễn.
Luận cứ lý thuyết là cơ sở lý thuyết khoa học, các luận điểm khoa học,
các định luật, định lý, quy luật mà tính đúng đắn của nó đã được khoa học
xác nhận.
Luận cứ thực tiễn là những căn cứ thu được từ quan sát hoặc thực
nghiệm khoa học, bao gồm các số liệu, dữ kiện…
Luận cứ sử dụng để kiểm chứng giả thuyết phải chính xác, có liên hệ
với luận đề và đảm bảo đủ cơ sở để rút ra kết luận cho luận đề.
Luận chứng là cách thức tổ chức, nối kết các luận cư và liên hệ giữa
các luận cứ với luận đề nhằm khẳng định hoặc phủ định luận đề ấy
Luận chứng bao gồm một chuối các phép suy luận khác nhau được
liên kết lại với nhau theo một trật tự xác định. Luận chứng phải thực hiện
theo đúng các quy tắc suy luận.
2. Các phương pháp kiểm chứng giả thuyết
a. Chứng minh giả thuyết


×