Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tieu luan Lê nin về xây dựng đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.06 KB, 28 trang )

2
MỞ ĐẦU
V.I.Lênin vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động Nga, người thầy vĩ đại của phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình,
V.I.Lênin đã phấn đấu không mệt mỏi vì sự nghiệp giải phóng giai
cấp công nhân, nhân dân lao động Nga và phong trào cộng sản, công
nhân quốc tế. V.I.Lênin không những đã bảo vệ thành công lý luận
chủ nghĩa xã hội của C.Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện mới, mà
còn là người đầu tiên đưa lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học của
C.Mác và Ph.Ăngghen trở thành hiện thực trên đất nước Nga, mở ra
một thời đại mới cho nhân loại, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Những di sản tư
tưởng mà V.I.Lênin để lại cho phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế là cả một kho tàng lý luận có giá trị to lớn trong nhiều lĩnh
vực. Một trong những lĩnh vực mà V.I.Lênin có sự cống hiến nhiều
nhất cả về mặt lý luận và thực tiễn đó lĩnh vực xây dựng Đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân.
Học thuyết về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân
của V.I.Lênin chính là sự kế thừa, vận dụng những tư tưởng cơ bản
của C.Mác và Ph.Ăngghen về Đảng Cộng sản; đồng thời có sự bổ
sung, phát triển hoàn chỉnh những đặc trưng, nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của Đảng Cộng sản trong điều kiện mới. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu nắm vững những tư tưởng về Đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân của V.I.Lênin có ý nghĩa rất quan trọng, giúp cho các Đảng
Cộng sản nói chung, Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng xác định đúng
đắn phương hướng, nội dung, biện pháp xây dựng Đảng, làm cho Đảng
thực sự vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới.



3
1. Tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về Đảng kiểu mới của giai
cấp công nhân
1.1. Tính tất yếu phải thành lập Đảng kiểu mới của giai cấp công
nhân
Khi C.Mác và Ph.Ăngghen còn sống, bằng uy tín và sự tích cực
hoạt động thực tiễn của mình trong phong trào công nhân, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã có công lao to lớn trong việc đưa lý luận chủ nghĩa xã
hội vào phong trào công nhân, dẫn đến sự ra đời hàng loạt các Đảng dân
chủ xã hội - Đảng cách mạng của giai cấp công nhân. Đó là những chính
đảng Mác xít của giai cấp công nhân; là lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu
chiến đấu của giai cấp, mang bản chất của giai cấp công nhân.
Trong những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa
tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, giai đoạn mà cách mạng
vô sản đã trở thành trực tiếp. Giai đoạn này, giai cấp công nhân cũng đã
lớn mạnh về số lượng, về tổ chức và về chính trị; ý thức giác ngộ giai cấp
và vai trò của các Đảng Cộng sản cũng được nâng cao. Trước tình hình
ấy, chủ nghĩa đế quốc đã tăng cường việc tuyên truyền hệ tư tưởng tư sản,
tìm cách chia rẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phát triển chủ
nghĩa cơ hội trong hàng ngũ những người dân chủ xã hội.
Tháng 7 năm 1889, Quốc tế II được thành lập. Trong giai đoạn
khi Ph.Ăngghen còn sống và lãnh đạo, bằng uy tín và sự cương quyết
đấu tranh chống xu hướng cải lương, thoả hiệp, cơ hội xuất hiện trong
nội bộ quốc tế II, Ph.Ăngghen đã làm cho Quốc tế II ổn định, giữ vững
là một tổ chức cộng sản chân chính. Sau khi Ph.Ăngghen mất (1895),
bọn cơ hội xét lại trong Quốc tế II đứng đầu là Bécstanh đã phản bội lại
chủ nghĩa Mác. Bécstanh đã phủ nhận khả năng đem lại cho chủ nghiã xã
hội một cơ sở khoa học và khả năng cách mạng; phủ nhận tình trạng bần
cùng hoá, tình trạng mâu thuẫn ngày càng tăng trong lòng chủ nghĩa tư
bản, bác bỏ chuyên chính vô sản, lý luận về đấu tranh giai cấp... Bằng



4
thủ đoạn “tự do phê bình”, chủ nghĩa cơ hội đã xuyên tạc, phủ nhận chủ
nghiã Mác, truyền bá những tư tưởng tư sản vào phong trào công nhân
và các Đảng dân chủ - xã hội ở Tây Âu, làm lũng đoạn phong trào công
nhân, biến các Đảng dân chủ - xã hội ở Tây Âu thành những đảng cơ hội
cải lương, xa rời bản chất của giai cấp công nhân và trở thành tay sai của
giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản. Trong những điều kiện như vậy,
V.I.Lênin đã đấu tranh kiên quyết với chủ nghĩa cơ hội, bảo vệ sự trong
sáng của chủ nghĩa Mác. Đồng thời, V.I.Lênin cũng khẳng định cần có
một đảng kiểu mới, một đảng chiến đấu cách mạng đủ sức lãnh đạo nhân
dân lao động giành chính quyền, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Người chỉ rõ: Trong điều
kiện chủ nghĩa đế quốc và trong điều kiện cách mạng vô sản đang chín
muồi ở nhiều nước, cần phải có một đảng kiểu mới, thực sự cách mạng,
thực sự cộng sản, đảng đó phải thay thế cho những đảng kiểu cũ - các
đảng nghị viện của Châu Âu.
Cũng trong thời gian đó, ở nước Nga diễn ra cuộc khủng hoảng
cách mạng ngày càng sâu sắc và gay gắt; phong trào cách mạng chống
chế độ địa chủ - chuyên chế ngày càng mang tính quần chúng. Những
cuộc biểu tình và bãi công của công nhân ở Pêtécbua, Rô- xtốp trên sông
Đôn, Ba- tum vào tháng 2 và tháng 3 năm 1902, những cuộc biểu tình
ngày 1 tháng 5 ở Xa- ra- tốp, Vin-nô, Ba- cu, Ni- giơ- ni, Nốp- gô- rốt và
những thành phố khác chứng tỏ rằng tính tích cực và sự trưởng thành về
chính trị của giai cấp công nhân - đội tiền phong trong cuộc đấu tranh
của toàn dân chống chế độ chuyên chế Nga Hoàng đã tăng lên. Cùng với
cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, nông dân các tỉnh Khác- cốp,
Pôn- ta- va, Xa- ra- tốp nổi dậy chống lại bọn địa chủ; “những cuộc nổi
loạn vì ruộng đất” cũng lan sang nhiều địa phương khác, những cuộc đấu
tranh của nông dân Gu- ri- a đã tỏ ra rất ngoan cường và có tổ chức.



5
Do yêu cầu khách quan của phong trào công nhân Nga, nhiều tổ
chức chính trị của giai cấp công nhân Nga được thành lập. Năm 1895,
V.I.Lênin đã tổ chức thống nhất các tổ chức Mác xít ở Pêtécpua lập ra
“Hội liên hợp giải phóng giai cấp công nhân”, song tổ chức này bị chính
phủ Nga hoàng đàn áp, V.I.Lênin và những người lãnh đạo của “Hội liên
hợp” bị bắt và bị đưa đi đày ở Xibêri. Ban lãnh đạo mới của hội được
thành lập do Máctưnốp đứng đầu, theo đuổi một đường lối chính trị sai
lầm cải lương, cơ hội. Cũng trong thời gian đó, trong các nhóm Mác xít
ở Nga xuất hiện phái “kinh tế”. Theo V.I.Lênin, phái “kinh tế”, thực chất
là bọn cơ hội xét lại, theo đuôi chủ nghĩa cơ hội Bécstanh; chúng tìm
mọi cách để xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác trong phong trào công
nhân Nga, mục đích ngăn cản phong trào đấu tranh tự giác của phong
trào công nhân và sự ra đời của chính đảng Mác xít chân chính ở Nga.
Mùa xuân năm 1898, một số nhóm Mác xít đã nhóm họp ở Minxcơ, tiến
hành Đại hội lần thứ nhất, tuyên bố thành lập Đảng Công nhân dân chủ
xã hội Nga, bầu Ban chấp hành Trung ương nhưng chưa thông qua được
Cương lĩnh và Điều lệ Đảng do sự chống phá của bọn cơ hội xét lại trong
những người dân chủ xã hội. Phái “kinh tế” đã tuyên truyền tư tưởng chủ
nghĩa cơ hội Bécstanh vào phong trào công nhân và các nhóm Mác xít ở
Nga. Chúng sùng bái tính tự phát của phong trào công nhân, khuyên giai
cấp công nhân Nga chỉ nên dừng lại ở đấu tranh kinh tế trong khuôn khổ
hiến pháp nhà nước quy định, không cần phải tiến hành cách mạng vô
sản lật đổ chế độ chuyên chế Nga Hoàng. Phái “kinh tế” cũng cổ cũ và
bảo vệ cho lối làm việc “thủ công nghiệp” trong Đảng Công nhân dân
chủ xã hội Nga, tìm cách hạ thấp tính tiền phong của Đảng xuống ngang
hành những tổ chức quần chúng của giai cấp công nhân. Sự chống phá
của phái “kinh tế” trong hàng ngũ những người dân chủ xã hội Nga, đã

làm phân tán về tư tưởng, tan rã về tổ chức trong Đảng dân chủ xã hội
Nga.


6
Trước tình hình đó V.I.Lênin đã khái quát thực trạng phong trào
dân chủ xã hội Nga lúc bấy giờ như sau: “Chủ nghĩa xã hội khoa học
không còn là một học thuyết cách mạng hoàn chỉnh nữa, nó đã trở thành
một sự hỗn hợp, trong đó người ta “tha hồ” pha thêm vào những điều vô
bổ của bất cứ quyển sách giáo khoa mới nào của Đức; khẩu hiệu “đấu
tranh giai cấp” không còn thúc đẩy người ta hành động ngày một rộng
thêm, ngày một kiên quyết thêm, mà lại được dùng để xoa dịu, vì “đấu
tranh kinh tế không thể nào tách ra khỏi cuộc đấu tranh chính trị được”;
quan niệm về đảng không phải là lời kêu gọi thành lập ra một tổ chức
chiến đấu của những người cách mạng, mà lại biện hộ cho một thứ “chủ
nghĩa quan liêu cách mạng” và một khuynh hướng chơi cái trò những
hình thức dân chủ” 1 .
Tình hình đó đặt ra vấn đề cấp bách cho phong trào công nhân
Nga là phải thành lập một Đảng tập trung thống nhất trên toàn lãnh thổ
nước Nga, chấm dứt tình trạng phân tán về tư tưởng, tan rã về tổ chức
trong phong trào công nhân Nga. Theo V.I.Lênin đó phải là Đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân, một đảng thực sự đại biểu cho lợi ích của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga. Đảng đó phải độc lập về
chính trị, tư tưởng và tổ chức so với các Đảng Dân chủ xã hội kiểu cũ các đảng dân chủ cải lương cơ hội ở Châu Âu lúc đó.
Không những luận giải, chỉ ra sự cần thiết phải xây dựng một đảng
cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, V.I.Lênin còn kiên quyết đấu
tranh chống phái “kinh tế” ở Nga, chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức
cho sự ra đời của Đảng Bôn sê vích - Đảng Cộng sản Nga. Việc thành lập
Đảng Bôn sê vích Nga đã đánh dấu sự mở đầu của một giai đoạn mới trong
sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đảng Bôn sê

vích Nga đã trở thành mẫu mực để xây dựng các Đảng Cộng sản của giai
cấp công nhân thế giới. V.I.Lênin luôn luôn nhấn mạnh vai trò quyết định
. V.I.Lênin TT, Tập 6, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva, 1975, tr 233.

1


7
của Đảng Cộng sản đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, coi
đó là đòn bẩy mạnh mẽ có khả năng “đảo lộn nước Nga”.
1.2. Tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về Đảng kiểu mới của giai
cấp công nhân
1.2.1. Chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
mọi hành động của Đảng
Đây là nội dung hết sức quan trọng. Nó là một trong những cơ
sở để phân biệt Đảng Mác xít với những đảng khác, là nội dung cơ bản
xác định bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Trước hết V.I.Lênin khẳng định: Cơ sở tư tưởng của Đảng Cộng
sản là học thuyết Mác. Đó chính là cơ sở tư tưởng để thành lập Đảng, để
đoàn kết những người cộng sản, là cơ sở đề ra cương lĩnh, chiến lược,
sách lược của Đảng.
Chủ nghĩa Mác là hệ thống lý luận cách mạng hình thành trên cơ
sở vật chất là giai cấp công nhân và phong trào công nhân, là kết tinh trí
tuệ của loài người, là kết quả có tính quy luật của sự phát triển những tư
tưởng tiên tiến của nhân loại. Vì vậy, chủ nghĩa Mác là sự thể hiện khoa
học lợi ích căn bản của giai cấp công nhân. V.I.Lênin viết: “Chủ nghĩa
Mác là lý luận của phong trào giải phóng của giai cấp vô sản”2 và đương
nhiên nó tất yếu phải trở thành hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản.
V.I.Lênin đã chứng minh rằng: Nắm được lý luận cách mạng thì giai cấp
vô sản và đội tiên phong của nó có được vũ khí tư tưởng mạnh mẽ nhất,

còn bản thân lý luận thì thông qua họ sẽ trở thành sức mạnh vật chất to
lớn. Trong tác phẩm'' Làm gì?'' viết năm 1902, V.I.Lênin khẳng định:
“Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách
mạng”3...“chỉ Đảng nào có được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì
mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sỹ tiên phong” 4 . Và V.I.Lênin
. V.I.Lênin TT, Tập 26, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva, 1980, tr281
. V.I.Lênin TT, Tập 6, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva, 1978, tr 30
4. V.I.Lênin TT, Tập 6, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva, 1978, tr 32
2
3


8
tuyên bố dứt khoát: Chủ nghĩa Mác là hệ tư tưởng của Đảng Cộng sản.
Tiêu chuẩn đầu tiên của người đảng viên cộng sản là giác ngộ lý tưởng
cộng sản, thừa nhận chủ nghĩa Mác và có trình độ nhất định về chủ nghĩa
Mác. Trong tác phẩm ''Làm gì?'', V.I.Lênin đã vạch trần luận điệu phản
động và phản bội chủ nghĩa Mác của cái gọi là ''chủ nghĩa Kinh tế'' do
bọn xét lại chủ nghĩa Mác trong các Đảng dân chủ - xã hội ở Tây Âu đưa
ra, góp phần củng cố khối đoàn kết thống nhất phong trào công nhân trên
cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác.
Chủ nghĩa Mác là cơ sở tư tưởng của Đảng Cộng sản, còn được
quy định bởi quy luật ra đời của Đảng. Đảng Cộng sản là sản phẩm của
sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân. Bản thân quy luật
ra đời của Đảng Cộng sản, tự nó đã nói lên tính tất yếu của việc Đảng
Cộng sản phải lấy chủ nghĩa Mác làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho hành động của mình. Đây là tiêu chuẩn cơ bản để xem xét một đảng
có phải là chính đảng Mác xít hay không và là tiêu chuẩn hàng đầu để
xác định bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Chủ nghĩa Mác với vai
trò cải tạo thế giới chỉ phát huy được tác dụng khi các chính Đảng cách

mạng của giai cấp công nhân ở từng nước có khả năng nắm được và vận
dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể của nước mình. Do đó, mỗi
Đảng Cộng sản phải hiểu sâu và đầy đủ tình hình kinh tế, chính trị xã
hội, phải nghiên cứu nắm vững những đặc điểm của dân tộc, của đất
nước mình để vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác, tìm ra đuợc những giải
pháp cách mạng và khoa học phù hợp với điều kiện cụ thể của từng
nước. Có như vậy, nền tảng của sự thống nhất tư tưởng của Đảng mới
được bảo đảm thật sự thống nhất.
Khẳng định chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động, như vậy, trước hết Đảng phải trung thành, nắm vững
bản chất cách mạng và khoa học, không bớt xén, máy móc giáo điều,
vận dụng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của


9
thực tiễn. Đồng thời, Đảng phải thường xuyên nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn để bổ sung phát triển lý luận, làm cơ sở vận dụng
vào tiếp tục chỉ đạo, giải quyết những vấn đề của thực tiễn vì thực tiễn
luôn luôn vận động biến đổi.
1.2.2. Đảng là một bộ phận của giai cấp công nhân, là đội tiên
phong chính trị có tổ chức và là tổ chức chặt chẽ nhất, giác ngộ nhất
của giai cấp công nhân
Đây là luận điểm cơ bản, luận điểm gốc, là nguyên tắc cơ bản
nhất trong xây dựng đảng. Nó xác định bản chất giai cấp công nhân của
Đảng, xác định tính tiền phong của Đảng, xác định vị trí của Đảng trong
xã hội, là cơ sở để xác định những nguyên tắc khác.
Tư tưởng về bản chất giai cấp công nhân và tính tiền phong của
Đảng đã được C.Mác và Ph.Ăngghen nêu lên ngay từ tác phẩm "Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản". Cụ thể, trong tác phẩm của mình, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: Đảng Cộng sản là một bộ phận gắn liền với giai cấp,

mang bản chất giai cấp công nhân, lợi ích của Đảng thống nhất với lợi ích
giai cấp và “Họ tuyệt nhiên không có một lợi ích nào tách khỏi lợi ích của
toàn thể giai cấp vô sản”5. Tuy nhiên, theo Mác và Ph.Ăngghen: “những
người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất
cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên. Về mặt lý
luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những
điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”6. Kế thừa tư
tưởng của C.Mác và Ăngghen, V.I.Lênin khẳng định: “Đảng Cộng sản là
đội tiên phong, là người lãnh đạo quảng đại quần chúng giai cấp công
nhân, toàn thể (hay hầu như toàn thể) giai cấp này hành động dưới sự kiểm
soát và lãnh đạo của các tổ chức Đảng nhưng họ không gia nhập tất cả và
không được gia nhập tất cả vào Đảng”7.
. C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 614
. C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 614-615
7. V.I.Lênin TT, Tập 7, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva, 1979, tr352
5
6


10
Như vậy, theo V.I.Lênin, Đảng là của giai cấp, Đảng gắn liền
không tách rời giai cấp nhưng Đảng không phải là toàn bộ giai cấp,
không được lẫn lộn giữa Đảng với giai cấp. Sở dĩ V.I.Lênin khẳng định
như vậy bởi vì, ở thời điểm bấy giờ những phần tử xét lại chủ nghĩa Mác
trong Quốc tế II và trong Đảng Công nhân dân chủ - xã hội Nga muốn
biến Đảng thành một câu lạc bộ tranh cãi suông và đánh đồng giữa Đảng
với toàn bộ giai cấp công nhân để làm cho Đảng mất sức chiến đấu, mất
vai trò tiên phong lãnh đạo. Chính vì vậy, V.I.Lênin chỉ rõ: Đảng là đội
tiên phong của giai cấp công nhân, Đảng chỉ kết nạp vào đội ngũ của
mình những người tiên tiến nhất, triệt để cách mạng nhất trong giai cấp

công nhân và nhân dân lao động, chứ không thể ''càng mở rộng cho
nhiều người được mang danh hiệu là đảng viên thì càng tốt'' như Máctốp
và phái Men sê vích chủ trương. V.I.Lênin khẳng định: Đối với người
đảng viên của Đảng Cộng sản không thể ''chỉ cần giúp đỡ Đảng là đủ''
mà ''đảng viên nhất thiết phải tham gia sinh hoạt trong một tổ chức
Đảng''. Đảng không phải là một tổng số đơn giản như trong số học mà là
tổng hợp các tổ chức gắn với nhau thành một khối, có nghĩa là Đảng phải
được tổ chức thành một chỉnh thể thống nhất, có Cương lĩnh, Điều lệ
thống nhất và kỷ luật chặt chẽ từ trung ương đến các chi bộ cơ sở.
V.I.Lênin còn chỉ rõ: Đảng không phải là một tổ chức duy nhất của giai
cấp công nhân, mà là tổ chức chặt chẽ nhất, là người lãnh đạo các tổ
chức khác của giai cấp công nhân. Đảng là của giai cấp, bởi vậy hầu như
toàn bộ giai cấp cần phải hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng
phải được tổ chức chặt chẽ để bảo đảm là một đội ngũ thống nhất ý chí
và hành động có kỷ luật nghiêm minh.
Tăng cường bản chất giai cấp công nhân có ý nghĩa vô cùng
quan trọng. Đó là vấn đề liên quan trực tiếp đến năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng Cộng sản, đến sự tồn vong của chế độ. Vì vậy, giữ
vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng là biện pháp


11
cơ bản và cấp bách để khắc phục có hiệu quả mặt trái của cơ chế thị
trường, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, để đội ngũ cán bộ đảng
viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, không bị sa ngã trước những cám
dỗ của đời thường và sự lôi kéo, mua chuộc của kẻ thù.
Tính tiền phong của Đảng có mối quan hệ mật thiết với vai trò
lãnh đạo của Đảng. Nếu tính tiền phong không được củng cố, giữ vững
và tăng cường sẽ dẫn đến Đảng mất vai trò lãnh đạo. Vì vậy, phải chăm
lo xây dựng Đảng vững mạnh, thực sự tiên phong về chính trị, tư tưởng

và tổ chức, để Đảng mãi luôn là "hiện thân của trí tuệ, lương tâm, danh
dự của thời đại chúng ta".
1.2.3. Khi có chính quyền, Đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ thống
chính trị của chủ nghĩa xã hội và là một bộ phận của hệ thống đó
Để chuẩn bị cơ sở lý luận cho giai cấp vô sản giành chính quyền
từ tay giai cấp tư sản, tháng 8 năm 1917, V.I.Lênin viết Tác phẩm ''Nhà
nước và Cách mạng'', trong đó ông chỉ rõ: Học thuyết đấu tranh giai cấp
của C.Mác vận dụng vào vấn đề nhà nước và vấn đề cách mạng, tất yếu
phải đưa đến chỗ thừa nhận sự thống trị về chính trị của giai cấp vô sản.
Giai cấp vô sản cần có chính quyền nhà nước, cần có tổ chức sức mạnh
tập trung, cần có tổ chức bạo lực để trấn áp sự phản kháng của bọn bóc
lột và lãnh đạo quảng đại quần chúng nhân dân trong công cuộc tổ chức
xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Và V.I.Lênin khẳng định: Đảng
Cộng sản cần đủ sức nắm chính quyền và dẫn dắt toàn dân tiến lên chủ
nghĩa xã hội, đủ sức tổ chức và lãnh đạo một chế độ mới, đủ sức làm
thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao động
bị bóc lột để giúp họ tổ chức đời sống xã hội mà không cần giai cấp tư
sản và chống lại giai cấp tư sản.
Khi đã giành được chính quyền, theo V.I.Lênin cuộc đấu tranh
giai cấp chưa chấm dứt mà tiếp tục diễn ra với những hình thức và
phương pháp đấu tranh mới. Để phối hợp hành động và hướng hoạt


12
động của cả hệ thống chính trị vào xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản, Người chỉ rõ: “Về nguyên tắc, Đảng Cộng
sản phải giữ vai trò lãnh đạo, đó là điều không phải ngờ gì nữa” 8 . Vì
trong hệ thống chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa, chỉ có Đảng Cộng
sản mới có đủ phẩm chất chính trị và năng lực xứng đáng là người lãnh
đạo. Mặt khác, có thực hiện được vai trò hạt nhân lãnh đạo thì Đảng

mới xứng đáng là đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp
công nhân. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công. Buông lỏng sự lãnh
đạo của Đảng là sai lầm về nguyên tắc, là thủ tiêu sức mạnh của nhà
nước và của cả hệ thống chính trị, là mở đường cho những phần tử phản
động cướp chính quyền, đưa đất nước trở lại con đuờng phát triển tư
bản chủ nghĩa. Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của mình bằng đường
lối và các chính sách của Đảng; bằng lãnh đạo biến các chủ trương
chính sách lớn của Đảng thành pháp luật và pháp quy của nhà nước, cho
mọi người dân thi hành; bằng lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy và giới
thiệu cán bộ vào vị trí quan trọng của cơ quan nhà nước và giáo dục cán
bộ đảng viên của Đảng, giữ gìn phẩm chất cách mạng hết lòng hết sức
phục vụ nhân dân; tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật nhà
nước; bằng việc xây dựng các tổ chức quần chúng, động viên giáo dục
quần chúng vừa thực hiện các chủ trương chính sách và pháp luật của
nhà nước, vừa kiểm tra đôn đốc góp ý kiến xây dựng với các cơ quan
nhà nước. Đảng còn lãnh đạo phối hợp thống nhất giữa các tổ chức
trong hệ thống chính trị và tiến hành công tác kiểm tra. Đảng ý thức rõ
ràng trong xã hội xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng luôn gắn liền
với việc phát huy hiệu lực quản lý của nhà nước và vai trò của các tổ
chức quần chúng, nhằm làm cho các tổ chức ấy vững mạnh, đều phát
huy được vai trò, hiệu lực của mình. Không được lẫn lộn giữa hai chức
. V.I.Lênin TT, Tập 33, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva, 1976, tr453

8


13
năng lãnh đạo và tổ chức quản lý, không biến Đảng thành Nhà nước,
đứng trên Nhà nước. Nếu không phân định rõ sẽ làm suy yếu cả hai dẫn

đến nguy cơ mất Đảng, mất chế độ. Vì vậy, cần khắc phục tình trạng
lẫn lộn công việc của Đảng với công việc của Nhà nước, tổ chức Đảng
bao biện làm thay chức năng của cơ quan nhà nước và tổ chức quần
chúng, đồng thời cũng phải chống lại những khuynh hướng coi nhẹ
buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng. Phải thường xuyên chăm lo xây
dựng Đảng vững mạnh ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm
quyền. Xây dựng Đảng phải kết hợp chặt chẽ với xây dựng chính quyền
Nhà nước, công tác đảng viên với công tác cán bộ.
1.2.4. Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây
dựng, tổ chức sinh hoạt và họat động của Đảng
Trong những nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của V.I.Lênin,
nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản trong xây dựng
tổ chức và hoạt động của Đảng. Việc xác lập được nguyên tắc tập trung
dân chủ là thắng lợi lớn nhất của V.I.Lênin và những người Bôn sê vích
trong cuộc đấu tranh với Máctốp và những người Men sê vích chủ trương
không cần phải có một hệ thống những ban, những cấp bậc trong Đảng;
không cần phải có nguyên tắc nào về bộ phận phải phục tùng toàn thể;
không cần có một quy định nào có tính chất ''quan liêu và hình thức''. Họ
bênh vực chế độ tự trị, chống lại chế độ tập trung, họ từ chối không chịu
phục tùng sự lãnh đạo của Trung ương Đảng.
V.I.Lênin và những người Bôn sê vích, đã lên án mạnh mẽ tư
tưởng tự trị của những người Men sê vích và chỉ rõ: “Từ chối không
chịu sự lãnh đạo của các cơ quan trung ương tức là từ chối không
muốn làm người đảng viên tức là phá hoại Đảng” 9 . V.I.Lênin khẳng
định: “Trước kia, Đảng ta chưa phải là một khối chính thức có tổ chức,
mà chỉ là tổng số những nhóm riêng biệt và do đó giữa các nhóm ấy
. V.I.Lênin TT, Tập 8, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva, 1978, tr 424

9



14
không thể có những quan hệ nào khác, ngoài sự tác động về tư tưởng.
Hiện nay, chúng ta đã trở thành một Đảng có tổ chức, điều đó có nghĩa
là chúng ta đã tạo ra một quyền lực, biến uy tín về tư tưởng thành uy
tín về quyền lực, khiến cấp dưới phải phục tùng cấp trên của Đảng” 10 .
Năm 1919, khi Quốc tế III được thành lập, V.I.Lênin khẳng định: “Các
Đảng gia nhập Quốc tế Cộng sản phải được tổ chức theo nguyên tắc
tập trung dân chủ” 11 và phải lấy tên là Đảng Cộng sản của nước đó.
Tên gọi là Đảng Cộng sản cùng với nguyên tắc tập trung dân chủ
chính là sự phân biệt rõ ràng sự khác nhau giữa các Đảng Cộng sản
với những Đảng dân chủ - xã hội cũ và những Đảng xã hội chủ nghĩa
đã phản bội lá cờ của giai cấp công nhân. Trong tác phẩm ''Làm gì?'';
''Một bước tiến, hai bước lùi''... V.I.Lênin đã diễn giải một cách rõ
ràng về nguyên tắc tập trung dân chủ. Bản chất của nguyên tắc này là
sự thống nhất hữu cơ giữa dân chủ và tập trung vốn có trong bản chất
của giai cấp công nhân, bắt nguồn từ nền sản xuất đại công nghiệp.
Tháng 7 năm 1905, trong lời tựa cuốn ''Công nhân nói về sự chia rẽ
trong Đảng'', Người cho rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ trước hết
là: Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên. Cơ quan tối
cao của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng. Nghị quyết của
Đảng có tính chất quyết định cuối cùng và mọi đảng viên phải có trách
nhiệm nghiêm chỉnh thực hiện.
V.I.Lênin chỉ rõ, nguyên tắc tập trung dân chủ bảo đảm cho
Đảng thống nhất về quan điểm, mục tiêu lý tưởng, đường lối chính
sách, ý chí hành động; bảo đảm đảng lãnh đạo thông suốt từ trên xuống
dưới, phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức Đảng và đảng viên trên cơ sở
đường lối đã được toàn Đảng nhất trí thông qua. Tập trung dân chủ dẫn
tới tập trung thống nhất, nhưng tập trung trên cơ sở dân chủ, mọi quyết
định đều phải được thảo luận trên cơ sở dân chủ. Tập trung dân chủ

. V.I.Lênin TT, Tập 8, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva,1978, tr 424
. V.I.Lênin TT, Tập 36, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva, 1978, tr 185

10
11


15
hoàn toàn khác với tập trung quan liêu, độc đoán. V.I.Lênin cho rằng,
không có gì sai lầm bằng việc lẫn lộn chế độ tập trung dân chủ với chủ
nghĩa quan liêu và với lối dập khuôn máy móc. Trong nguyên tắc tập
trung dân chủ, tập trung và dân chủ tác động biện chứng qua lại là nhân
quả của nhau. Khi tập trung trên cơ sở mở rộng dân chủ thì trở thành
nhu cầu của dân chủ, thúc đẩy dân chủ phát triển cả bề rộng và chiều
sâu. Dân chủ hướng tới tập trung, phát huy được trí tuệ, sức mạnh sáng
tạo của mỗi người trở thành ý chí chung, tạo nên sức mạnh của tập thể.
Nếu tập trung không trên cơ sở dân chủ thì trở thành độc đoán, quan
liêu bóp nghẹt dân chủ. Dân chủ mà kém tập trung sẽ trở thành vô chính
phủ, vô tổ chức kỷ luật, bè cánh mất đoàn kết. Người nhấn mạnh: “Cần
phải hiểu rõ rằng chế độ tập trung dân chủ, một mặt thật khác xa chế độ
tập trung quan liêu chủ nghĩa và mặt khác, thật khác xa chủ nghĩa vô
chính phủ” 12 . Cả hai thái cực tập trung quan liêu và dân chủ vô tổ chức
đều dẫn tới sự tan rã của Đảng. Do đó, tập trung phải trên nền dân chủ
và dân chủ phải được sự chỉ đạo tập trung.
Những người cộng sản Liên Xô trước đây đã không thực hiện tốt
nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng tổ chức sinh hoạt và hoạt
động của Đảng để cho bệnh quan liêu ngày càng trầm trọng. Đó là một
trong những nguyên nhân dẫn đến việc Đảng Cộng sản Liên Xô mất
quyền lãnh đạo đất nước vào năm 1991.
Nắm vững nguyên tắc tập trung dân chủ không bao giờ được

tách rời hai thành tố tập trung và dân chủ vì nó là một thể thống nhất.
Phủ nhận xa rời nguyên tắc là phản bội Đảng. Nguyên tắc này phải được
thực hiện cả ở trong Nhà nước và các đoàn thể xã hội. Các đảng viên và
tổ chức Đảng thực hiện nguyên tắc phải chú ý đến mặt phục phục tùng
kỷ luật, chống mọi biểu hiện tập trung quan liêu, chuyên quyền độc
đoán, dân chủ hình thức, dân chủ quá trớn, phân tán, cục bộ địa phương.
12

. V.I.Lênin TT, Tập 36, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva, 1978, tr 207


16
Những người lãnh đạo phải chú ý đến phát huy dân chủ, trí tuệ của cán
bộ đảng viên và quần chúng.
1.2.5. Đảng gắn bó chặt chẽ với quần chúng, kiên quyết đấu
tranh để ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu xa rời quần chúng
Đây là bản chất và quy luật tồn tại và phát triển của Đảng, điều
kiện bảo đảm cho cách mạng đi đến thắng lợi. Quần chúng nhân dân là
lực lượng quyết định, lực lượng sáng tạo ra lịch sử, sáng tạo ra những
giá trị vật chất và tinh thần của xã hội.V.I.Lênin yêu cầu, Đảng phải
luôn gắn bó chặt chẽ với quần chúng, vừa lãnh đạo quần chúng vừa học
hỏi quần chúng, bởi vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng được
lãnh đạo, tổ chức và giáo dục. Đảng là một tổ chức tự nguyện đấu tranh
vì sự nghiệp giải phóng quần chúng khỏi ách áp bức bóc lột. Quần
chúng cần có Đảng với tư cách là người lãnh đạo trong cuộc đấu tranh
ấy. Đồng thời, nếu không có sự đồng tình và ủng hộ của quần chúng thì
mọi chủ trương đường lối của Đảng không trở thành hiện thực.“Chỉ khi
nào giai cấp vô sản và những người nông dân nghèo tỏ ra có đầy đủ tinh
thần tự giác, trình độ tư tưởng, tinh thần hy sinh và tinh thần bền bỉ, thì
khi đó thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa mới được bảo đảm” 13 .

Trong điều kiện Đảng cầm quyền, V.I.Lênin cho rằng, những người
cộng sản chỉ như những giọt nước trong đại dương mênh mông và chỉ
riêng với bàn tay những người cộng sản thì không thể xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội. Và Người nhấn mạnh: Đối với những người
cộng sản... thì một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất là
cắt đứt liên hệ với quần chúng. Do đó, V.I.Lênin đã nhiều lần nhắc nhở:
Đảng cầm quyền, đảng viên và cán bộ càng cần giữ vững và tăng cường
mối liên hệ gắn bó với quần chúng để được quần chúng tin yêu. Thiếu
điều đó thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội mà còn có
thể dẫn đến mất chính quyền.
. V.I.Lênin TT, Tập 44, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva, 1979, tr 426

13


17
1.2.6. Đảng là một khối thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng
Đây là quy luật tồn tại, trưởng thành và phát triển của Đảng và
là nguồn sức mạnh của Đảng. Trải qua quá trình hoạt động và phát triển
của Đảng, V.I.Lênin đã chỉ ra rằng, đoàn kết thống nhất, tự phê bình và
phê bình là quy luật phát triển của Đảng. Trong nhiều tác phẩm của
mình, V.I.Lênin đã phân tích một cách sâu sắc về tính tất yếu và tầm
quan trọng của sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Sự đoàn kết thống
nhất trong Đảng, bắt nguồn từ bản chất của giai cấp vô sản, từ sự kết cấu
chặt chẽ của Đảng. Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi, “Đảng phải có
một sự thống nhất ý chí hết sức chặt chẽ”14 . Đó là nguồn sức mạnh chủ
yếu, vô tận và vô địch của Đảng Cộng sản; là điều kiện để đoàn kết giai
cấp và đoàn kết toàn dân. Đó cũng là một nhiệm vụ cơ bản của công tác
xây dựng Đảng. Đảng Cộng sản phải tuyệt đối không dung thứ chia rẽ bè

phái trong Đảng, vì chia rẽ bè phái tất yếu sẽ dẫn tới làm tan rã Đảng.
Người chỉ rõ, khi đã có chính quyền nếu để xảy ra chia rẽ thì không
những là nguy hiểm mà còn là cực kỳ nguy hiểm, nếu Đảng đó lại nắm
chính quyền ở một nước mà giai cấp công nhân chiếm một tỷ lệ nhỏ bé
trong dân cư. Phải giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ
sở lý luận của chủ nghĩa Mác, đường lối nhiệm vụ của Đảng. Đoàn kết
thống nhất phải trên cơ sở các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Đảng, duy trì kỷ luật trong Đảng và tiến hành thanh Đảng.
Theo V.I.Lênin, để xây dựng và tăng cường khối đoàn kết thống
nhất trong Đảng, phải thường xuyên và nghiêm chỉnh thực hiện phê bình
và tự phê bình. Một trong những nguồn gốc tạo ra sức mạnh vô địch và
vô tận của Đảng là ở chỗ đảng có biết thừa nhận sự sai lầm và dũng cảm
thừa nhận sai lầm, thất bại một cách tỉnh táo để rút ra cho mình những
bài học bổ ích. Người khẳng định: “Công khai thừa nhận sai lầm, tìm ra
14

. V.I.Lênin TT, Tập 36, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva, 1978, tr 295


18
nguyên nhân sai lầm, nghiên cứu cẩn thận những biện pháp để sửa chữa
sai lầm ấy, đó là dấu hiệu chứng tỏ một đảng nghiêm túc” 15 . Chỉ có
thông qua phê bình và tự phê bình một cách nghiêm túc mới có thể nhận
rõ sai lầm và tìm ra nguyên nhân sai lầm và những biện pháp sửa chữa
sai lầm. Do đó, tự phê bình và phê bình là một việc làm tuyệt đối cần
thiết và là một trong quy luật phát triển của Đảng Cộng sản. Buông lỏng
tự phê bình và phê bình thì không một Đảng Cộng sản nào có thể đứng
vững và phát triển được, thậm chí những người cộng sản có thể đánh mất
vai trò tiên phong của mình, có thể bị sa đoạ biến chất.
Những lời nhắn nhủ và cảnh tỉnh của V.I.Lênin từ những năm

đầu của thế kỷ XX cho đến nay vẫn còn mang tính thời sự, giúp các
Đảng Cộng sản thấy rõ sự cần thiết phải duy trì chặt chẽ và đều đặn chế
độ sinh hoạt tự phê bình và phê bình trong mỗi tổ chức Đảng.
Để lãnh đạo thắng lợi công cuộc đổi mới hiện nay đòi hỏi Đảng
ta phải tăng cường sự đoàn kết nhất trí cả về chính trị, tư tưởng và tổ
chức. Làm tốt công tác tư tưởng để có sự thống nhất nhận thức về những
vấn đề mới mẻ, phức tạp mới nảy sinh ở trong nước và quốc tế. Coi trọng
nâng cao phẩm chất, đạo đức, năng lực, phương pháp tác phong công tác
cho cán bộ đảng viên. Đồng thời luôn đề cao cảnh giác kiên quyết đập tan
những âm mưu gây mất đoàn kết, chia rẽ, bè phái của kẻ thù.
1.2.7. Đảng phải tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động vào Đảng, phải thường xuyên đưa
những người không đủ tiêu chuẩn và những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng
V.I.Lênin khẳng định, việc phát triển củng cố và làm trong
sạch Đảng là một trong những quy luật phát triển của Đảng, một nhiệm
vụ quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Đảng chỉ có thể làm tròn
vai trò chiến sỹ tiên phong, nếu trong Đảng gồm những đảng viên ưu tú.
Mỗi thời kỳ cách mạng do nhiều nguyên nhân khác nhau, đều không
. V.I.Lênin TT, Tập 36, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva, 1978, tr 295

15


19
tránh khỏi có những phần tử cơ hội chui và đảng để mưu cầu lợi ích cá
nhân và phá hoại Đảng. Vì vậy, để bảo đảm cho Đảng luôn luôn trong
sạch và có sức chiến đấu cao, một mặt phải thường xuyên phát hiện, bồi
dưỡng kết nạp những người ưu tú vào Đảng; mặt khác “phải đuổi cổ ra
khỏi Đảng những kẻ gian giảo, những đảng viên cộng sản đã quan liêu
hoá, không trung thực nhu nhược” 16 . Người cũng chỉ rõ: “Việc làm

trong sạch Đảng phải làm bằng cách, coi trọng ý kiến của những đại
diện của quần chúng vô sản ngoài Đảng. Đó là điều quý báu, quan trọng
nhất...dĩ nhiên, chúng ta sẽ không nghe theo tất cả những ý kiến của
quần chúng, vì quần chúng cũng đôi khi bị lôi kéo bởi những tư tưởng
không có chút gì là tiên tiến cả. Song, đối với việc đánh giá người và
gạt bỏ những kẻ chui vào Đảng, bọn (làm quan), bọn đã (quan liêu hoá)
thì những lời chỉ dẫn của quần chúng vô sản ngoài Đảng và trong nhiều
trường hợp thì cả những lời chỉ dẫn của quần chúng nông dân ngoài
Đảng nữa rất là quý báu” 17 . V.I.Lênin khẳng định, chỉ có làm như vậy
Đảng Cộng sản mới thực sự là đội tiên phong đáng tin cậy của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động.
1.2.8. Chủ nghĩa quốc tế vô sản là một trong những nguyên tắc
quan trọng của việc xây dựng tổ chức và hoạt động của Đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân
Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ănghen về tính quốc tế
của Đảng Cộng sản trong điều kiện lịch sử mới, V.I.Lênin đã phát triển
khẩu hiệu ''Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại'' của C.Mác và
Ph.Ănghen thành ''Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn
kết lại''. Tháng 6 năm 1920, V.I.Lênin viết ''Bản sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa'' phác thảo bức
tranh về các dân tộc thuộc địa; vạch ra phương hướng và bước đi của
cách mạng giải phóng dân tộc; chỉ rõ mối quan hệ hữu cơ giữa cách
. V.I.Lênin TT, Tập 44, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva, 1978, tr 154
. V.I.Lênin TT, Tập 44, Nxb Tiến bộ, Mát xcơva, 1979, tr 151

16
17


20

mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc, dự báo cách mạng ở các
nước thuộc địa có thể thành công trước cả cách mạng chính quốc. Đồng
thời V.I.Lênin xác định rõ nhiệm vụ của các Đảng cộng sản ở chính
quốc đối với cách mạng giải phóng các nước thuộc địa. Như vậy, theo
V.I.Lênin tính chất quốc tế của Đảng Cộng sản chẳng những bắt nguồn
từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân mà còn biểu hiện ở mối quan
hệ giữa cách mạng vô sản với cách mạng giải phóng dân tộc.
2. Sự vận dụng của Đảng ta trong công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng hiện nay
2.1. Sự cần thiết phải tăng cường công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi thành lập đến nay luôn luôn
trung thành, nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa
Mác - Lênin, với sự vận dụng sáng tạo học thuyết về xây dựng Đảng vào
tiến trình cách mạng ở Việt Nam. Qua thực tiễn tiến hành công tác xây
dựng Đảng, Đảng ta đã từng bước đúc rút kinh nghiệm trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc, cũng như trong điều kiện Đảng cầm quyền lãnh đạo
nhân dân xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ năm 1986 đế nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta
bước vào thời kỳ đổi mới và đã giành được những thành tựu có ý nghĩa
lịch sử. Một trong những bài học lớn Đảng ta đã rút ra là: trong quá trình
đổi mới, Đảng luôn luôn phát huy vai trò lãnh đạo, đồng thời tích cực tự
đổi mới, tự chỉnh đốn một cách có hiệu quả.
Một thực tế đặt ra là, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng
vững mạnh, cách mạng Việt Nam ngày càng trưởng hành và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng phát triển, thì chủ nghĩa
đế quốc và các thế lực thù địch càng tỏ ra hằn học; và mỗi khi Đảng
Cộng sản Việt Nam và cách mạng Việt Nam gặp khó khăn, phức tạp
thì bọn chúng lại hí hửng cho rằng cách mạng nước ta đã bước và thời



21
kỳ suy thoái... tất cả những điều đó, chứng tỏ rằng các thế lực thù địch
của cách mạng nước ta chúng đánh giá rất cao vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Do vậy, một trong những mũi nhọn chủ yếu mà chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch thường tập trung sức tấn công chống phá
sự nghiệp cách mạng nước ta - đó là vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, mà trước hết là đánh vào nền tảng tư tưởng của Đảng,
đó là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Các thế lực thù
địch luôn tìm mọi cách để hạ thấp giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin,
chúng cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, chủ nghĩa xã hội
khoa học không còn sức sống, không còn phù hợp trong thời đại ngày
nay. Chúng phá hoại bằng cách xuyên tạc, bác bỏ những tư tưởng căn
bản nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin, những quy luật vận động phát
triển của xã hội, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân... đồng thời
chúng đưa ra những luận điệu nhằm xuyên tạc, bóp méo sự thật, hạ
thấp vai trò, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách
mạng nước ta. Các thế lực thủ địch tập trung mũi nhọn đã kích chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chính là nhằm đánh vào
nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, cội nguồn của chủ
nghĩa xã hội, đánh vào thế giới quan khoa học, cơ sở phương pháp
luận cách mạng vào đường lối chính trị của Đảng.
Về cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng, các phần tử
chống cộng luôn cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam lựa chon con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội là sai lầm, không thể có chủ nghĩa xã
hội. Chúng ra sức ca ngợi chủ nghĩa tư bản, rằng chủ nghĩa tư bản
ngày nay đã thay đổi bản chất, thời đại ngày nay là thời đại văn minh
trí tuệ, chủ nghĩa tư bản là vĩnh hằng, còn chủ nghĩa xã hội có nhiều
khuyết tật, tội ác...



22
Về tổ chức Đảng, chúng tập trung đánh vào các nguyên tắc tổ
chức sinh hoạt và hoạt động của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung
dân chủ. Các thế lực thù địch cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ
đến nay không còn giá trị. Thực hiện nguyên tắc này sẽ dẫn đến mất
dân chủ, dẫn đến sự phân tán nội bộ, làm cho Đảng rơi vào quân phiệt,
độc quyền. Chúng ra sức tán dương thực hiện nền dân chủ tự do, dân
chủ cực đoan, cổ vũ chiêu bài "dân chủ tự do", "đa nguyên chính trị,
đa đảng đối lập"... với mục đích của nó nhằm làm tan rã hoặc phân liệt
Đảng về tổ chức.
Về mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng, các thế lực thù địch
luôn tìm mọi cách để chia rẽ mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng, lôi
kéo, kích động nhằm tách nhân dân ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng bằng
cách vu cáo Đảng chiếm quyền làm chủ của nhân dân, vi phạm dân chủ.
Chúng đối lập quyền lãnh đạo của Đảng với sự quản lý xã hội của Nhà
nước. Lợi dụng quá trình tự phê bình của Đảng ta để công kích nói xấu
Đảng. Chúng ra sức tác động lôi kéo quần chúng, tranh giành lực lượng
nhằm kích động đấu tranh chống đối cách mạng... hòng làm mất ổn định
về chính trị tạo cơ hội để phá hoại ta từ bên trong.
Mặt khác, bên cạnh sự chống phá của các thế lực thù địch,
Đảng ta đã nghiêm túc đánh giá những thành tựu và yếu kém trong công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc gắn liền với trách nhiệm
lãnh đạo của Đảng và những ưu, khuyết điểm trong công tác xây dựng
Đảng. Tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã xác định:
“Trong công tác xây dựng Đảng, bên cạnh những ưu điểm, đang nổi lên
một số mặt yếu kém và khuyết điểm, nhất là khuyết điểm về công tác
giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, chưa ngăn chặn và đẩy
lùi được được sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống.

Một số tổ chức đảng ở các cấp chưa được chỉnh đốn; dân chủ bị vi
phạm, kỷ luật, kỷ cương lỏng lẻo, nội bộ không đoàn kết, Công tác tư


23
tưởng, công tác lý luận còn yếu kém, bất cập. Công tác tổ chức, cán bộ
còn một số biểu hiện trì trệ..."” 18
Như vậy, trước sự hoạt động chống phá của các thế lực thù địch
đối với cách mạng Việt Nam nói chung, cũng như chống phá Đảng Cộng
sản Việt Nam với phương châm nhất quán toàn diện và ngày càng điên
cuồng bằng âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình". Chúng nhằm mục
đích cuối cùng là hòng xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam,
xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để khắc phục những yếu kém,
khuyết điểm trong Đảng, tránh được nguy cơ rơi vào âm mưu "diễn biến
hòa bình" của các thế lực thù địch. Đặc biệt là quá trình "tự diến biến" từ
bên trong. Đảng ta đã xác định: Công tác xây dựng Đảng là nhệm vụ
then chốt, trong đó việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn là là nhệm vụ cần kíp
trong giai đoạn hiện nay.
2. 2. Những nội dung cơ bản trong công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay
Những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về Đảng kiểu mới là
những nguyên tắc xây dựng Đảng Cộng sản trên tất cả các mặt chính trị,
tư tưởng và tổ chức, những nguyên tắc đó luôn luôn vận động, phát triển
trong mối quan hệ biện chứng với nhau.
Trong suốt quá trình xây dựng và trưởng thành của Đảng Cộng
sản Việt Nam, nhất là trong những năm gần đây, khi đề ra phương
hướng, biện pháp xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Đảng ta luôn luôn nghiên
cứu, quán triệt vận dụng đầy đủ các nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân - trong học thuyết về Đảng Cộng sản của chủ
nghĩa Mác - Lênin và vận dụng một cách tổng hợp trong điều kiện, đặc

diểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, chúng ta khẳng định rằng:
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu đến mọi
thắng lợi của cách mạng Việt nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội IX, Nxb CTQG, Hà Nội 2001, tr 52

18


24
Vấn đề quan tâm hàng đầu của Đảng ta là: nâng cao bản lĩnh
chính trị, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng,
nâng cao bản lĩnh chính trị của Đảng, đòi hỏi Đảng phải nắm vững bản
chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, coi đó là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng và là nền tảng
tư tưởng của Đảng. Đó là sự thể hiện Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây
dựng nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng tư
tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bản lĩnh chính trị của Đảng phụ thuộc và có ý nghĩa quyết
định là giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Trong cương lĩnh, và văn kiện quan trọng khác qua các kỳ Đại hội của
Đảng đều khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp
công nhân Việt Nam, là đội tiền phong, bộ tham mưu chiến đấu có tổ
chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân Việt Nam. Đảng
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động và của cả dân tộc. Là chính Đảng của giai cấp công nhân, đương
nhiên Đảng phải giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân.
Nhất là trong giai đoạn hiện nay, để giữ vững và tăng cường bản chất
giai cấp công nhân của Đảng nhất thiết phải kiên định mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong bất kỳ tình huống nào cũng
không dao động, không xa rời mục tiêu đó; kiên định và vận dụng sáng

tạo góp phần bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh cho phù hợp với thực tiễn; phải xuất phát từ thực tiễn để
xã định chủ trương, đường lối đúng đắn; phải giữ vững nguyên tắc tập
trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách, thường
xuyên nêu cao tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất
trong Đảng. Thường xuyên giáo dục, bồi dững lập trường quan điểm, ý
thức tổ chức của giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên trong sạch vững mạnh theo lập trường quan điểm của giai cấp


25
công nhân. Tăng cường củng cố mối quan hệ gắn bó với nhân dân,
chăm lo xây dựng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, chăm lo đời
sống của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; trung thành
với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh của thời đại.
Về vấn đề giữ gìn sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng, Đảng
ta nhận thấy trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng không thể
hoàn thành nhiệm vụ chính trị của mình với tư cách cách người chiến sĩ
tiên phong lãnh đạo toàn xã hội nếu như không có sự đoàn kết thống
nhất trong Đảng. Sự đoàn kết đó phải dựa trên cơ sở lý luận Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thể hiện đường lối quan điểm của Đảng,
trên cơ sở có sự giác ngộ của đội ngũ đảng viên về mục tiêu, lý tưởng và
những nhiệm vụ của Đảng.
Về vấn đề tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
xa hội chủ nghĩa, Đảng cho rằng, khi bước vào công cuộc đổi mới, Đảng
phải thường xuyên đổi mới và chỉnh đốn Đảng để lãnh đạo hệ thống
chính trị, nhất là đối với Nhà nước, có chất lượng và hiệu quả ngày càng
cao. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác
định: “Tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng
đồng bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để tiếp tục

đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống
chính trị. Khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng
lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, tôn trọng
nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam. Đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan
lãnh đạo của Đảng từ trung ương đến địa phương, cơ sở… ”19 . Điều kiện
quyết định tăng cường và nâng cao hiệu lực của Nhà nước là bảo đảm tốt
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb CTQG, H, 2011., tr.189

19


26
sự lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng, kiện toàn, sử dụng, phát huy
vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước. Nhà nước vững mạnh hoạt
động có hiệu quả là điều kiện không thể thiếu được để bảo đảm hoàn
thành nhiệm vụ chính trị do Đảng đề ra. Để tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với xã hội, vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước được
nâng cao là dấu hiệu quan trọng nói lên trình độ, năng lực tổ chức của
Đảng. Đó cũng là một yêu cầu mới về nâng cao tính chất gai cấp công
nhân của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Do vậy, mọi khuynh hướng coi nhẹ sự lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước đều là sai lầm, là làm giảm hiệu lực quản lý của Nhà nước. Thực
chất đó là hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng. Nắm chắc vấn đề này để khắc
phục tình trạng Đảng bao biện làm thay công việc của các cơ quan nhà
nước, lẫn lộn chức năng lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của nhà
nước; chống lối phân công máy móc, tách rời hoạt động của cơ quan lãnh
đạo của Đảng (cấp ủy) với các hoạt động của cơ quan Nhà nước.
Về vấn đề xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, gắn bó với quần

chúng, chống quan liêu, tham nhũng, Đảng ta nhận định: Tệ quan liêu ở
nước ta hiện nay biểu hiện dưới nhiều hình thức rất đa dạng như: xa rời thực
tiễn, coi thường quần chúng, không nắm chắc tình hình diễn biến trong đời
sống thực tiến, thực tiễn ở cơ sở; tổ chức bộ máy cồng kềnh, mang nặng tính
hành chính giấy tờ, phô trương hình thức... đi liền với tệ quan liêu là thói
cửa quyền hách dịch, lãng phí tham nhũng đang là một nguy cơ lớn đối với
sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Nguồn gốc của tệ quan liêu ở nước ta không
chỉ là tình trạng của nền sản xuất nhỏ mà còn do chịu ảnh hưởng của những
tàn dư, tập tục phong kiến và tiểu tư sản. Song nguyên nhân trực tiếp là do
tư tưởng cá nhân, do thiếu trách nhiệm và trình độ tổ chức, quản lý yếu kém
của một số cán bộ, đảng viên gây nên. Vì vậy, phải tăng cường công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên phải hướng vào việc nâng cao
phẩm chất đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân, thực sự


×