Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

Ảnh hưởng của số lần cho ăn đến hiệu quả sử dụng thức ăn và chất lượng môi trường nước trong ương ấu trùng tôm chân trắng (litopenaeus vannamei) giai đoạn postlarvar 1 12 tại công ty cổ phần chăn nuôi CP tại bình định”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (612.46 KB, 43 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ

Khoa Thủy Sản

KHÓA LUẬN

TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:
Ảnh hưởng của số lần cho ăn đến hiệu quả sử dụng thức ăn và chất
lượng môi trường nước trong ương ấu trùng tôm Chân trắng
(Litopenaeus vannamei) giai đoạn postlarvar 1-12 tại Công ty Cổ phần
Chăn nuôi CP tại Bình Định”

Sinh viên thực hiện: Thái Thị Hằng
Lớp: Nuôi trồng thủy sản 45
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Tôn Thất Chất
Bộ môn: Nuôi trồng thủy sản

NĂM 2015


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài tốt nghiệp này, trong quá trình học tập và thực hiện đề tài
tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ quý báu,với tất cả sự trân trọng và lòng chân thành
tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
Quý thầy cô giáo trong khoa thủy sản Trường đại học Nông Lâm Huế đã cung
cấp cho tôi những kiến thức cơ bản trong suốt quá trình học tập, đặc biệt là thầy Phó
Giáo sư Tiến sĩ Tôn Thất Chất, người đã trực tiếp hướng dẫn tôi với tất cả tinh thần
trách nhiệm và lòng nhiệt huyết từ khâu định hướng chọn đề tài đến quá trình thực
hiện nghiên cứu và viết khóa luận.
Xin chân thành cảm ơn ban Giám đốc, các anh chị tại Công ty Cổ phần chăn


nuôi C.P Việt Nam - Mỹ An - Phù Mỹ - Bình Định, cùng bạn bè đã tạo điều kiện
thuận lợi và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực tập tại công ty.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn gia đình, người thân và bạn bè đã động
viên giúp đỡ tôi về mặt tinh thần cũng như vật chất trong suốt quá trình học tập và
thực hiện đề tài.
Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn !
Huế , tháng 5 năm 2015


DANH MỤC VIẾT TẮT


: Phần ngàn

NT

: Nghiệm thức

N

: Nauplius

Z

: Zoea

M

: Mysis


P

: Postlavae

Ppm : Phần triệu


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 3.1. Lượng thức ăn TNT sử dụng
Bảng 4.2.1. Biến động pH
Bảng 4.2.2. Diễn biến độ kiềm ở 2 nghiệm thức
Bảng 4.2.3. Biến động độ mặn trong 2 nghiệm thức
Bảng 4.2.4. Biến động NH3
Bảng 4.2.5. Biến động NO2
Bảng 4.3.1. Tăng trưởng trung bình chiều dài thân tôm
Bảng 4.3.2. Tỷ lệ sống của ấu trùng qua các giai đoạn
Bảng 4.3.3. Lượng thức ăn sử dụng ở 2 nghiệm thức
Bảng 4.3.4. Hệ số FCR
Bảng 4.3.5. Tổng chi của cả vụ
Bảng 4.3.6. Tổng thu


DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Tôm thẻ chân trắng
Hình 3.1. Sơ đồ huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định
Hình 3.4. Máy đo chiều dài thân tôm
Hình 4.2.1. Biến động pH ở 2 nghiệm thức
Hình 4.2.2. Biến động độkiềm ở 2 nghiệm thức
Hình 4.2.3. Biến động độ mặn ở 2 nghiệm thức

Hình 4.2.4. Biến động NH3 ở 2 nghiệm thức
Hình 4.2.5. Biến động NO2 ở 2 nghiệm thức
Hình 4.3.1. Tăng trưởng trung bình chiều dài thân tôm
Hình 4.3.2. Tỷ lệ sống của ấu trùng qua các giai đoạn


PHẦN 1.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nước ta là một nước nông nghiệp phát triển kinh tế chủ yếu bằng trồng
trọt chăn nuôi và nuôi trồng đánh bắt thủy sản. Đặc biệt trong những năm gần
đây nghề nuôi trồng thủy sản đang được chú trọng phát triển để tận dụng hết
những lợi thế về tự nhiên, xã hội vốn có để phát triển kinh tế nâng cao đời sống
cho người dân. Trong số các đối tượng thủy sản mang lại hiệu quả kinh tế cao
hiện nay phải kể đến đó là tôm thẻ Chân trắng.
Tôm thẻ Chân trắng (Litopenaeus vannamei) là loài tôm rộng muối, rộng
nhiệt, có tốc độ sinh trưởng nhanh, khản năng chống chịu bệnh tốt, thời gian
nuôi ngắn có thể tránh được những rủi ro bất lợi về thời tiết, khí hậu. Người nuôi
có khản năng thu được lợi nhuận dễ hơn các đối tượng tôm nuôi khác. Đây cũng
là đối tượng nuôi được ưu tiên phát triển hiện nay và trong thời gian tới.
Giống tôm thẻ Chân trắng hiện nay được sản xuất đại trà ở nước ta và để
có một vụ nuôi thành công thì điều kiện không thể thiếu là con giống phải khỏe
mạnh và sạch bệnh. Tuy nhiên, trong quy trình sản xuất giống tôm thẻ chân
trắng thường gặp rủi ro, hiệu quả không cao do có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến
quá trình ương nuôi ấu trùng. Trong đó thức ăn là một trong những yếu tố then
chốt quyết định đến tỉ lệ sống và sự sinh trưởng của ấu trùng tôm. Các nhà
nghiên cứu thủy sản đã tìm ra loại thức ăn phù hợp nhất cho ấu trùng tôm thẻ
chân trắng như tảo, artemia và thức ăn tổng hợp. Vì vậy để mang lại hiệu quả
kinh tế và nâng cao lợi nhuận cho người nuôi chúng ta cần chú trọng đến việc
sản xuất giống tôm thẻ Chân trắng. Việc tạo ra được đàn giống sạch bệnh, khỏe
mạnh và chi phí sản xuất thấp thì vấn đề cần quan tâm nhất đó là sử dụng thức

ăn trong ương giống tôm, chính vì vậy mà em chọn đề tài: “ Ảnh hưởng của số
lần cho ăn đến hiệu quả sử dụng thức ăn và chất lượng môi trường nước
trong ương ấu trùng tôm Chân trắng (Litopenaeus vannamei) giai đoạn
postlarvar 1-12 tại Công ty Cổ phần Chăn nuôi CP tại Bình Định”
Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu nhằm tìm ra số lần cho ăn thích hợp
trong ngày để giảm chi phí sản xuất, hạn chế lãng phí gây ô nhiễm môi trường
nước. Theo dõi tốc độ tăng trưởng của ấu trùng tôm Chân trắng.

6


PHẦN 2.
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

2.1. Một số đặc điểm sinh học của tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei )
2.1.1. Hệ thống phân loại
Ngành: Arthropoda
Lớp: Crustacea
Bộ: Decapoda
Họ: Penaeidea
Giống: Penaeus
Loài: Penaeus vannamei (Boone, 1931)
Tên khoa học: Penaeus vannamei.
Tên tiếng Anh: White Leg shrimp.
Tên Việt Nam: Tôm he chân trắng, tôm thẻ chân trắng.
2.1.2. Đặc điểm hình thái

Hình 1.1. Tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei)
Cấu tạo ngoài tôm thẻ chân trắng giống với tôm he Trung Quốc (Penaeus
chinensis) và tôm bạc (Penaeus merguiensis)

Tôm có màu lam, trên thân không có đốm vằn, chân bò có màu trắng
vàng, các vành chân đuôi có màu đỏ nhạt và xanh.

7


Vỏ tôm mỏng, có thể nhìn thấy đường ruột rất rỏ. Râu tôm có màu đỏ và
dài gấp 1,5 chiều dài thân. Tôm cái có thelycum hở. Cá thể lớn nhất có chiều dài
thân đạt tới 23 cm [10].
2.1.3. Đặc điểm phân bố
Tôm thẻ chân trắng phân bố chủ yếu ở khu vực phía Tây Thái Bình
Dương và châu Mỹ, từ ven biển Sonora - Mexico đến miền Trung Peru.
Tôm sống ở các vùng biển đáy cát có độ sâu từ 0-72 m, nhiệt độ nước
tương đối ổn định: 25-32oC, độ mặn 28-34‰. Tôm he chân trắng có sự thích
nghi rất tốt đối với những thay đổi đột ngột của môi trường sống, lên khỏi mặt
nước khá lâu vẫn không chết [4].
Một số nghiên cứu cho thấy: Nhu cầu oxy hóa tối thiểu của tôm he chân
trắng cỡ 4 cm là 2 mgO2. Tôm lớn có sức chịu đựng tốt hơn tôm nhỏ [4].
Trong tự nhiên, tôm he chân trắng sinh trưởng, thành thục sinh dục, giao
vĩ và đẻ trứng ở những vùng biển có độ sâu 70 m với nhiệt độ khoảng 26-28 oC,
độ mặn khá cao (35‰). Trứng nở ra ấu trùng và vẫn sống ở khu vực này. Ở giai
đoạn Post-larvae, chúng bơi vào gần bờ và sinh sống ở đáy những vùng cửa
sông cạn. Điều kiện môi trường ở đây khác biệt hơn: thức ăn nhiều hơn, độ mặn
thấp hơn, nhiệt độ cao hơn, . . .. Sau một vài tháng tôm ấu niên trưởng thành bơi
ngược ra biển và tiếp tục vòng đời [4].
2.1.4. Tập tính sống và tính thích ứng
Tôm he chân trắng thích ứng mạnh với sự thay đổi đột ngột của môi trường
sống.
- Trong vùng biển tự nhiên tôm he chân trắng sống ở đáy cát có độ sâu từ
0,5-72 m, nhiệt độ nước ổn định từ 25-32oC, độ mặn từ 28-33‰, pH:7,7-8,3.

Tôm trưởng thành phần lớn sống ở ven biển gần bờ, tôm ưa sống ở vùng cửa
sông giàu chất dinh dưỡng. Ban ngày tôm vùi mình trong bùn, ban đêm mới mò
đi kiếm ăn.
- Về oxy hòa tan: tôm he chân trắng tăng trưởng thích hợp nhất ở nồng độ
oxy hòa tan >5 ppm. Ngưỡng an toàn thấp nhất là 2,5-3 ppm. Nếu thấp hơn 1,9
ppm tôm sẽ chết.
- Về độ mặn: cỡ tôm 1- 6 cm đang ở độ mặn 20‰ khi chuyển ra ao thì
chúng có thể sống ở độ mặn 5-50‰, khoảng thích ứng nhất là 10-32‰

8


- Về nhiệt độ: Ở tự nhiên chúng ở nhiệt độ nước từ 25-32 oC nhưng thích
nghi được khi nhiệt độ thay đổi lớn.
2.1.5. Đặc điểm sinh trưởng
a. Các thời kì phát triển của tôm chân trắng
- Thời kì phôi
Thời kì phôi bắt đầu từ khi thụ tinh đén khi trứng nở, thời gian phát triển
phôi tùy thuộc vào nhiệt độ nước.
- Thời kì ấu trùng
Ấu trùng tôm thẻ Chân trắng trải qua nhiều lần lột xác và biến thái hoàn
toàn, gồm các giai đoạn sau:
+ Giai đoạn Nauplius (N)
Ấu trùng N của Tôm Thẻ Chân Trắng trải qua 6 lần lột xác vá có 6 giai
đoạn phụ (N1-N6). Ấu trùng N bơi lội bằng 3 đôi chân phụ, vận động theo kiểu
zic zắc, không định hướng và không liên tục. Chúng chưa ăn thức ăn ngoài mà
dinh dưỡng bằng noãn hoàng dự trữ.
+ Giai đoạn Zoea (Z)
Giai đoạn Z có 3 giai đoạn phụ (Z1-Z3) thay đổi hẳn về hình thái so với
N. Ấu trùng Z bơi lội nhờ hai đôi râu và 3 đôi chân hàm phân nhánh. Chúng bơi

lội liên tục có định hướng về phía trước, ấu trùng Z bắt đầu ăn thức ăn bên
ngoài. Thức ăn chủ yếu là thực vật nổi với hình thức ăn chủ yếu là ăn lọc. Ở giai
đoạn này ấu trùng ăn mồi liên tục, ruột luôn đầy thức ăn và thải phân liên tục tạo
thành đuôi phân kéo dài về phía sau. Vì vậy khi ương ấu trùng Z thức ăn phải
cung cấp đạt mật độ thích hợp, để đảm bảo thức ăn cho ấu trùng. Ngoài hình
thức ăn lọc ấu trùng Z vấn có khản năng bắt mồi và ăn được các động vật nổi có
kích thước nhỏ ( Nauplius của artemia, luân trùng...) đặc biệt là vào cuối giai
đoạn Z, mỗi giai đoạn phụ của giai đoạn này thường kéo dài khoảng 28-30h, ở
nhiệt độ 31-320C
+ Giai đoạn Mysis (M)
Giai đoạn này gồm 3 giai đoạn phụ (M1-M3), ấu trùng M sống trôi nổi có
đặc tính treo ngược mình trong nước, đầu chúc xuống dưới. Ấu trùng M bơi lội
kiểu búng ngược, vận động chủ yếu nhờ vào 5 đôi chân bò. Ấu trùng M bắt mồi
chủ động, thức ăn chủ yếu là động vật nổi. Tuy nhiên, chúng vấn có thể ăn tảo

9


silic đặc biệt là ở giai đoạn phụ M1 và M2. Thời gian chuyển giai đoạn của M
cũng giống với giai đoạn Z.
+ Giai đoạn Postlarvae (PL)
Hậu ấu trùng PL đã có hình dạng của loài nhưng sắc tố chưa hoàn thiện,
nhánh trong 2 anten chưa kéo dài. PL bơi thẳng có định hướng về phía trước,
bơi chủ yếu dựa vào 5 đôi chân bụng, PL hoạt động nhanh bắt mồi chủ động,
thức ăn chủ yếu giai đoạn này là động vật nổi. Tuổi của PL được tình theo ngày
sống trôi nổi từ PL3 hoặc PL5 bắt đầu chuyển sang sống đáy, PL sống đáy hoàn
toàn ở PL9-PL10.
Giai đoạn khoảng từ PL5 trở đi được gọi là giai đoạn ấu niên.
- Thời kì ấu niên
Ở thời kì này, hệ thống mang của tôm đã hoàn chỉnh. Tôm chuyển qua

sống đáy bắt đầu bò bằng chân và bơi bằng chân bơi. Anten 2 và sắc tố thân
ngày càng phát triển. Thời kì này tương đương với giai đoạn tôm bột và đầu tôm
giống trong sản xuất tức là PL5-PL20.
- Thời kì thiếu niên
Tôm bắt đầu ổn định tỷ lệ chân, thelycum petasma được hình thành nhưng
chưa hoản chỉnh, hai nánh của petasama tách biệt. Giai đoạn này tương đương
với giai đoạn ương giống tôm và nuôi thịt trong sản xuất. Cuối thời kì ấu niên
xuất hiện sự sinh trưởng không đều giữa tôm đực và tôm cái, con cái lớn nhanh
hơn con đực.
- Thời kì sắp trưởng thành
Tôm trưởng thành về mắt sinh dục: cơ quan sinh dục ngoài đã hoàn thiện,
tôm đực bắt đầu có tinh trùng trong túi tinh, tôm cái tha, gia giao vĩ lần đầu.
Hiện tưởng sinh trưởng không đều giữa 2 giới tính thể hiện rõ rệt hơn trong thời
kì này.
- Thời kì trưởng thành
Tôm có khản năng tham gia sinh sản, cúng sống ở vùng nước xa bờ, nơi
có độ trong cao và độ mặn ổn định.
b. Vòng đời của Tôm Thẻ Chân Trắng
Ở thời kì ấu niên và thời kì thiếu niên Tôm sống ở vùng của sông. Ở giai
đoạn sắp trưởng thành và trưởng thành, khi tôm có thể tham gia sinh sản lần đầu
thì chúng sống ở vùng nước có độ sâu 7-20m nước. Đối với những con trưởng
10


thành có sản phẩm sinh dục thành thục thì chúng di chuyển ra vùng biển khơi có
độ sâu khoảng 70m và sinh sản ở đây. Trứng và ấu trùng Mysis sống và phát
triển tại vùng biển khơi theo dòng nước trôi dạt vào bờ. Khi đến vùng triều thì
ấu trùng chuyển qua giai đoạn Postlarvae và tiếp tục theo thủy triều trôi dạt vào
vùng cửa sông phát triển thành ấu niên và tiếp tục vòng đời.
2.1.6. Đặc điểm dinh dưỡng

Tôm thẻ Chân trắng là loài ăn tạp, có thể ăn nhiều loại thức ăn có nguồn gốc
từ động thực vật. Trong nuôi thâm canh, có thể sử dụng các loại thức ăn công
nghiệp. Tôm he chân trắng có nhu cầu về đạm thấp hơn (20-35%) so với tôm sú (3840%), hệ số thức ăn (FCR) thấp với khoảng 1,1-1,3 tôm sú là 1,5. Đây là một trong
những ưu điểm mang lại hiệu quả cho người nuôi.
Khả năng chuyển hóa thức ăn của của tôm he chân trắng rất cao. Trong
điều kiện nuôi thương phẩm bình thường, tỷ lệ cho ăn chỉ cần 5% khối lượng cơ
thể của tôm. Tuy nhiên, trong thời kỳ sinh sản, đặc biệt là giữa và cuối giai đoạn
phát dục của buồng trứng, nhu cầu về lượng thức ăn hàng ngày của tôm tăng lên
3-5 lần. Mực tươi là loại thức ăn ưa thích của tôm he chân trắng bố mẹ trong khi
nuôi vỗ. (The Oceanic Insitue Hawaii,1985, litopenaeus vannamei, boone,
1931).
Tôm có tốc độ sinh trưởng nhanh. Trong điều kiện nuôi môi trường sinh
thái phù hợp, tôm co khản năng đạt 8-10g. Tôm tăng trưởng nhanh hơn trong 60
ngày nuôi đầu, sau đó mức tăng trọng giảm dần theo thời gian nuôi.
Tôm chân trắng bắt mồi khỏe, linh hoạt, nên trong quần đàn chúng có
khản năng bắt mồi như nhau, vì thế tôm tăng trưởng đồng đều.


Nhu cầu về Protein
Protein là vật chất hữu cơ chủ yếu xây dựng nên các tổ chức mô của động
vật và các chất có hoạt tính sinh học cao như là enzyme, hormon và các sản
phẩm khác, là thành phần quan trọng trong thức ăn của tôm. Nó thay đổi theo
giai đoạn phát triển của tôm và thay đổi tùy loài. Nhu cầu về protein của tôm thẻ
chân trắng thấp hơn nhiều so với các loài ăn thiên về động vật như P.japonicus,
P.monodon…. Hàm lượng protein trong thức ăn của giai đoạn ấu trùng tôm tốt
nhất ≥ 40 %.
Thức ăn thiếu protein sẽ làm cho động vật chậm lớn, tôm dễ bị nhiễm
trùng đường ruột, đường hô hấp dễ bị nhiễm bệnh [5]. Còn nếu thừa protein thì
chỉ 1 phần protein sẽ được sử dụng để tổng hợp nên các protein mới trong cơ


11


thể, phần còn lại sẽ được chuyển hóa thành năng lượng hoặc bài tiết ra ngoài,
gây lãng phí làm giảm hiệu quả nuôi, gây ô nhiễm môi trường nuôi.


Nhu cầu Lipid
Lipid là hợp phần cấu tạo quan trọng của các màng sinh học, là nguồn
cung cấp năng lượng, cung cấp các vitamin hòa tan trong mỡ (như A, D, E, K),
các acid béo cần thiết cho quá trình sinh trưởng và phát triển của động vật thủy
sản. Nhiều nghiên cứu cho thấy lipid có ảnh hưởng đến sinh trưởng của tôm, đặc
biệt là giai đoạn ấu trùng và tôm giống [2].
Thành phần lipid có trong thức ăn tôm khoảng 6 - 7,5%, không nên quá
10%. Với hàm lượng lipid trong thức ăn >10% sẽ dẫn đến giảm tốc độ sinh
trưởng, tăng tỷ lệ tử vong, có thể do nguyên nhân mất thăng bằng và thiếu dinh
dưỡng.



Acid béo: ở tôm he, bốn loại acid béo không thay thế là: linoleic acid, linolenic
acid, eicosapentaenoic và docosahexanoic [9].



Phospholipid: là thành phần có vai trò quan trọng trong dinh dưỡng của động
vật thủy sản đặc biệt là giáp xác. Nó tham gia vào cấu trúc của tất cả các màng
tế bào cơ bản, giữ vai trò quan trọng trong sự vận chuyển và hấp thu lipid, tham
gia vào quá trình biến dưỡng trung gian trong cơ thể sinh vật. Nguồn cung cấp
phospholipid chủ yếu cho động vật thủy sản là lecithin từ đậu nành.

Trong thức ăn cho tôm tổng hàm lượng phospholipid tổng số chiếm
khoảng 2%. Nếu sử dụng licetin (phophatidycholien) thì nhu cầu chỉ cần 1%.
Phospholipid có chứa acid béo 20: 5n - 3 hoặc 22 : 6n - 3 ở vị trí thứ hai của
phospholipid thì chỉ cần 0,4%.



Sterol: giáp xác không thể tổng hợp được sterol nên chúng phải lấy sterol từ
thức ăn, mà duy nhất là từ lipid của thức ăn. Một vài dạng của sterol là
cholesterol, phytosterol, isofucosterol…trong đó cholesterol được xem là có ảnh
hưởng lớn nhất đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của nhiều loài giáp xác. Hàm
lượng cholesterol tối ưu cho một số loài tôm he dao động trong phạm vi 0.2 ÷
2.0% [6].



Carbohydrate
Hydratcabon cùng với chất béo tạo ra nguồn năng lượng cho tôm. Nó còn
có vai trò quan trọng trong việc dự trữ năng lượng tổng hợp kitin, steroid và chất
béo.

12


Chất xơ được chia làm hai nhóm: các chất xơ dẻo và các chất polysaccarit
tan trong nước như celluloze. Thức ăn có nhiều celluloze trong thức ăn tôm thì
khả năng tiêu hóa chất khô tổng số giảm. Các nhà khoa học cũng xác định rằng
hàm lượng celluloze không ảnh hưởng tới khả năng tiêu hóa protein của
P.Vannamei nhưng ảnh hưởng tới khả năng tiêu hóa protein của P.aztecus.



Vitamin
Vitamin là những chất hữu cơ có bản chất hóa học khác nhau, cơ thể
động vật không thể tự tổng hợp được, có nhu cầu một lượng nhỏ trong thức ăn
để đảm bảo sự sinh trưởng và phát triển bình thường. Hầu hết vitamin có vai trò
như một co-enzyme hoặc các tác nhân hỗ trợ các enzyme thực hiện các phản
ứng sinh hóa trong cơ thể [13].
Nhu cầu về loài vitamin thực tế cho từng loài tôm và cho từng giai đoạn
vẫn chưa được biết nhiều. Vì thế lượng thức ăn thường vượt quá nhu cầu thực tế
của tôm nhằm bù đắp lượng mất đi do hòa tan vào nước, do phân hủy trong quá
trình sản xuất thức ăn và bảo quản. Hơn nữa, lượng vitamin trong các thành
phần nguyên liệu rất biến đổi, nếu phân tích từng thành phần hoặc từng nhóm
thành phần sẽ rất tốn kém. Vì vậy cách đơn giản hơn là bổ sung quá mức lượng
vitamin.



Chất khoáng
Chất khoáng là yếu tố tạo hình (đặc biệt là vỏ) giúp tôm tăng sức đề
kháng đối với sự biến động của môi trường và sự nhiễm trùng [19]. Giống như
các động vật thủy sản khác, tôm có thể hấp thu và bài tiết chất khoáng trực tiếp
từ môi trường vào nước thông qua mang và bề mặt cơ thể. Vì vậy, nhu cầu
khoáng ở tôm phụ thuộc nhiều vào hàm lượng chất khoáng có trong môi trường
tôm đang sống [16].
2.1.7. Đặc điểm sinh sản
* Mùa vụ sinh sản:
Tùy vào nhiệt độ nước mà mùa vụ sinh sản của tôm cũng thay đổi tùy
theo từng khu vực. Ở Bắc Ecuador, tôm thẻ chân trắng sinh sản từ tháng 3 đến
tháng 8, tập trung vào tháng 4 và tháng 5. Ở Peru, tôm sinh sản chủ yếu từ tháng
12 đến tháng 4 [4].

* Hoạt động giao vĩ và đẻ trứng:
Tôm he chân trắng là loài có Thelycum hở. Sự giao vĩ chủ yếu xảy ra vào
ban đêm. Ban đầu một hoặc nhiều con đực cùng theo đuổi con cái ở phía sau,
13


con đực dùng chủy và râu đẩy nhẹ dưới đuôi con cái. Sau đó tôm đực lật ngửa
thân và ôm con cái theo hướng đầu nối đầu, đuôi nối đuôi hoặc xoay 180 o và
giao vĩ ở tư thế đầu nôi đuôi. Thời gian giao vĩ xảy ra tương đối nhanh (khoảng
3-7 phút) [2].
Tôm cái được gắn túi tinh trước khi đẻ vài giờ hoặc có thể trước đó vài
ngày (Lột xác - thành thục - giao vĩ - đẻ trứng). Túi tinh được đính vào
Thelycum của con cái, không được bảo vệ chắc chắn nên dễ bị rơi rớt và tôm có
thể giao vĩ trở lại [2].
Buồng trứng tôm cái thành thục có màu hồng. Tôm thường đẻ trứng vào
ban đêm, từ 21 đến 3 giờ sáng, trứng sau khi đẻ có màu vỏ đậu xanh với đường
kính trung bình khoảng 0,22-0,28 mm. Thời gian giữa hai lần đẻ cách nhau
khoảng 2-3 ngày và thông thường sau khi đẻ 3-4 lần thì có 1 lần lột vỏ [4].
* Sức sinh sản:
- Sức sinh sản tuyệt đối: tôm mẹ có kích thước khoảng 14 cm có sức sinh
sản tuyệt đối khoảng 10-15 vạn trứng [4].
- Sức sinh sản hữu hiệu của tôm he chân trắng dao động trong khoảng 515 vạn trứng/tôm mẹ [4].
- Trong tự nhiên tôm mẹ thường đẻ ở độ sâu 70m, độ mặn 35%o, nhiệt độ
khoảng 26-280C. trứng nở ra Nauplius và trải qua các giai đoạn biến thái ấu
trùng rồi di cư dần vào cửa sông nơi có độ mặn thấp, sau vài tháng phát triển
tôm con thành tôm trưởng thành tiếp tục vòng đời.
2.2. Tình hình nghiên cứu và sản xuất tôm giống tôm thẻ chân trắng trên
thế giới và tại Việt Nam
2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sản xuất tôm giống tôm thẻ chân trắng trên
thế giới

* Nghiên cứu về sản xuất giống
Tôm cái đẻ trứng chủ yếu vào khoảng thời gian từ 21-3 giờ sáng. Thời
gian bắt đầu đẻ trứng đến lúc đẻ xong chỉ khoảng 1-2 phút.
Trứng thụ tinh sau 14-16 giờ nở ra Nauplius, quá trình biến thái của ấu
trùng cũng trải qua 6 giai đoạn Nauplius, 3 giai đoạn Zoea, 3 giai đoạn Mysis và
đến Post-larvae. Post-lavae sống ở vùng cửa sông có độ mặn thấp, nhiệt độ cao,
sau vài tháng tôm con trưởng thành bơi ra biển giao vĩ và tiến hành đẻ trứng.
Trong tự nhiên tôm mẹ thường đẻ ở độ sâu 70 m nước, nhiệt độ 26-28oC.
14


* Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ nước lên số lượng và tỷ lệ dị hình
của tinh trùng trong điều kiện nuôi nhốt 42 ngày, Pazez và CTV nhận thấy ở
26oC thì chất lượng tinh trùng tốt hơn hẳn so với 29 oC và 32oC. Cụ thể ở 26oC
số lượng tinh trùng là 18,6 triệu tế bào, tỷ lệ dị hình 36,7%, ở 29 oC số lượng tinh
trùng là 0,1 triệu tế bào, tỷ lệ dị hình là 99,7%, còn ở 32 oC không thấy xuất hiện
tinh trùng.
Ngoài việc cắt một bên mắt để kích thích sự thành thục và khả năng đẻ,
Vaca và ctv còn dùng kích dục tố setrotonin (5 - hydroxytrytamine), ở nồng độ
15 và 50 µg/g trọng lượng cơ thể để kích thích tôm đẻ lần thứ hai, tuy nhiên sự
thành thục và tỷ lệ đẻ của tôm cắt mắt cao hơn nhiều so với liệu pháp dùng kích
dục tố.
* Nghiên cứu về phòng trị bệnh
Hiện nay một trong những nguyên nhân chính làm giảm sút sản lượng
tôm trên thế giới đó là dịch bệnh. Theo thống kê sơ bộ, dịch bệnh đốm trắng xảy
ra vào 2 năm 1999-2000 đã làm sản lượng tôm he chân trắng giảm sút chỉ còn
chiếm 11% tổng sản lượng tôm trên thế giới, sau một thập kỷ phát triên nghề nuôi
tôm he chân trắng lại trở về thời kỳ ban đầu với mức sản lượng 90.000 tấn/năm.
Công tác phòng trị bệnh có ý nghĩa rất quan trọng, nó quyết định sự thành bại của
quy trình sản xuất.

Theo Lighner và Bell (1984-1987), Wyban và Swany (1991) ấu trùng tôm
he chân trắng rất dễ bị cảm nhiễm vibrio, vi khuẩn dạng sợi và các bệnh do
nguyên sinh động vật. Để phòng trị bệnh này ngoài việc thay nước, điều chỉnh
chế độ cho ăn, dùng các loại hóa chất, cần phải tính đến việc chuẩn bị một
nguồn nước sạch trước khi đưa vào ương nuôi. Tôm he chân trắng dễ bị cảm
nhiễm bởi loài nấm sirolpidium sp, bệnh này có thể gây chết ấu trùng 100%. Một
số báo cáo cho biết có thể dùng Treflan ở nồng độ 0,1 ppm để phòng trị. Ngoài
việc bệnh do virus gây ra ở tôm he chân trắng chủ yếu như IHHNV, BP, REO,
đặc biệt bệnh đốm trắng gặp ở cả giai đoạn hậu ấu trùng và nuôi thương phẩm mà
đến nay vẫn chưa có cách phòng trị.
Ngoài ra, còn có bệnh do dinh dưỡng, độc tố và môi trường. Tôm có thể
chịu ảnh hưởng do khẩu phần thức ăn không hợp lý, do chất độc hoặc do các tác
nhân gây ô nhiễm trong nước nuôi, cũng như các tác nhân môi trường như nhiệt
độ quá cao (quá thấp), thiếu oxi,. . . dưới tác dụng của các tác nhân này tôm có
thể có các triệu chứng khác nhau, nếu ở mức nhẹ là thay đổi thể trọng đến mức
nặng là chết rải rác đến hàng loạt trong vòng vài giờ. Việc tích tụ các chất thải
15


hữu cơ và khí độc do nuôi tôm quá dài, cho ăn quá nhiều cộng với công tác vệ
sinh kém, chất lượng nước nuôi tôm xấu góp phần làm cho tôm chết trong các
bể ương (Villaluz, 1975), ), cụ thể một số bệnh như: Bệnh mềm vỏ, bệnh đóng
rong, bệnh đỏ, nhiễm mỡ gan tụy.
* Nghiên cứu tạo đàn tôm sạch bệnh và cải thiện chất lượng di truyền
Nhằm duy trì và phát triển ngành công nghiệp nuôi tôm chân trắng, các
quốc gia châu Mỹ đã có nhiều nghiên cứu có quy mô để ngăn chặn có hiệu quả
các đợt dịch bệnh và bước đầu thu được những thành tựu đáng kể. Thành công
nhất là chương trình nuôi tôm biển của Hoa Kỳ với dự án nghiên cứu đàn tôm
sạch bệnh, kết quả dự án đã phát triển mạng lưới ra các nước.
Vùng Thái Bình Dương - nơi có nghề tôm biên phát triển. Một số quốc

gia ven biển Tây Thái Bình Dương như Ecuador, Mexico, Colombia, . . ..
Cũng có những chương trình cải thiện chất lượng di truyền đàn tôm he
chân trắng, kết quả bước đầu cho thấy có hy vọng tạo được một thế hệ con có
sức sống và sức đề kháng hơn hẳn đàn bố mẹ.
2.2.2. Tình hình nghiên cứu và sản xuất tôm giống tôm thẻ chân trắng tại Việt
Nam
Do rất thận trọng với đối tượng nhập nội nuôi mới, nước ta cho dù đã đưa
tôm he chân trắng vào nuôi từ năm 1997 ở Bạc Liêu (Công Ty TNHH Duyên
Hải), sau đó ở Phú Yên (Công ty Asia Hawaii Ventures), ở Ninh Thuận (Công
ty TNHH Anh Việt) và Hà Tĩnh (Công ty Công nghệ Việt Mỹ); việc sản xuất
giống tôm he chân trắng chỉ dừng lại ở mức độ tự cung tự cấp trong diện tích
của các đơn vị nói trên, và nhìn chung tỷ lệ sống trung bình từ Nauplius đến
Post-lavae chỉ dừng lại ở mức <30%.
Từ năm 2002, các nhà khoa học Việt Nam đã bắt đầu đặt vấn đề nghiên
cứu quy trình sản xuất giống tôm he chân trắng như Viện Hải Dương Học Nha
Trang (nguồn tôm mẹ do công ty Việt Linh cung cấp từ Hawaii); Trung tâm
nghiên cứu thủy sản III Nha Trang (nguồn tôm mẹ từ Công ty Asia Hawaii
Ventures Phú Yên); Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I Hà Bắc (nguồn tôm
mẹ do công ty Việt Đức cung cấp),…
Năm 2003, trại tôm giống Hạnh Phúc Phú Yên hợp đồng với chuyên gia
Thái Lan sản xuất giống tôm sú sạch kết hợp sản xuất thử nghiệm Post-lavae từ
Nauplius tôm he chân trắng của công ty Asia Hawaii Ventures đạt tỷ lệ sống
bình quân khoảng 30%.
16


Hiện nay, Viện nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III đã tạo ra được đàn
tôm bố mẹ (F1) có nguồn gốc từ Hawaii và đã tạo ra được đàn giống tôm thẻ
chân trắng có chất lượng cao với tên gọi F1-V3-VN. Qua thời gian nghiên cứu
đặc tính sinh sản của đàn tôm bố mẹ mới này, cho thấy chúng có một số đặc

điểm nổi trội như khả năng sinh sản tương đối ổn định và số lượng trứng cũng
nhiều hơn so với đàn tôm bố mẹ nguyên thủy nhập từ Hawaii (tôm bố mẹ giống
mới mỗi lần đẻ từ 200.000-230.000 trứng so với 170.000-190.000 trứng do tôm
Hawaii đẻ). So với các lô đối chứng, tỷ lệ nở và tỷ lệ thụ tinh của tôm F1-V3VN cao hơn. Hơn nửa, thời gian từ lúc cắt mắt (kích thích tôm đẻ) đến khi tôm
đẻ cũng ngắn hơn.
Đến nay, toàn bộ diện tích tôm F1-V3-VN nuôi thử nghiệm đều thu
hoạch. Qua theo dõi trong thời gian nuôi thành thục và cho đẻ của tôm thì tỷ lệ
sống đạt gần 94%. Đặc biệt, kết quả kiểm dịch các mẫu giống tôm F1-V3-VN
đều dương tính (không mang mầm bệnh) với 6 loại bệnh phổ biến hiện nay trên
tôm như: TSV, WSSV, MBV, IHV, BP, IHBMV. Trong khi đó, giá thành của
tôm giống F1-V3-VN chỉ bằng 50% so với tôm nhập từ Thái Lan và bằng 30%
so với tôm giống được sản xuất từ tôm bố mẹ được nhập trực tiếp từ Hawaii.
2.2.3. Sơ lược về Công ty Cổ phần Chăn Nuôi C.P Việt Nam
Tập đoàn C.P. (Charoen Pokphand Group) được thành lập năm 1921 tại
Bangkok, Thái Lan. Nay là một tập đoàn sản xuất kinh doanh đa ngành nghề và là
một trong những tập đoàn mạnh nhất của Thái Lan trong lĩnh vực công - nông
nghiệp và chế biến thực phẩm. Tập đoàn C.P. bắt đầu vào Việt Nam năm 1988 với
văn phòng đại diện tại TP. Hồ Chí Minh. Năm 1993 thành lập Công ty TNHH
Chăn Nuôi C.P. Việt Nam, có trụ sở chính tại Khu Công nghiệp Biên Hòa 2, TP.
Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Năm 2011 đổi tên thành Công ty Cổ phần Chăn nuôi
C.P. Việt Nam (CPV).
Các ngành sản xuất chính bao gồm:
- Thức ăn chăn nuôi
- Thức ăn thủy sản
- Chăn nuôi gia súc gia cầm
- Nuôi trồng thủy sản
- Chế biến thực phẩm (chế biến thịt và thủy sản)
- Phân phối, bán lẻ thực phẩm
17



Hệ thống sản xuất đa ngành khép kín theo mô hình “FEED-FARM-FOOD”
là một thế mạnh của Công ty CP trong sản xuất thực phẩm chất lượng cao và an
toàn cho người tiêu dùng.
Để hỗ trợ cho nghành chăn nuôi Việt Nam phát triển theo hướng công
nghiệp và nâng cao hiệu quả cho các trang trại, Công Ty đã xây dựng : Nhà máy
dụng cụ và thiết bị chăn nuôi tại khu công nghiệp Biên Hòa 2 Tỉnh Đồng Nai, 3 trại
gà giống Bố Mẹ và 3 Nhà máy Ấp Trứng tại Tỉnh Đồng Nai.
Nhiều trại heo giống ở các tỉnh: Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu...
Trong lĩnh vực chế biến thức ăn gia súc tại Việt Nam, tập đoàn C.P đã xây
dựng 2 nhà máy sản xuất thức ăn một tại miền nam và một tại miền trung. Nhiều
nhà máy và trại nuôi đang được xây dựng tại nhiều tỉnh trong cả nước và chuẩn bị
đưa vào sử dụng như ở Kiên Giang, Quảng Bình, Vũng Tàu...Vơi đội ngũ nhân
viên giàu kinh nghiệm của phòng thu mua, phòng thí nghiệm phòng bán hàng,
phòng kỹ thuật và được sự hỗ trợ của các chuyên gia của tập đoàn C.P trên Thế
Giới. Nghành thức ăn gia súc của công ty C.P Việt Nam luôn đứng đầu về chất
lượng và doanh số bán trên thị trường.
Công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam chi nhánh Bình Đinh 3 nằm ở
thôn Xuân Thạnh, xã Mỹ An, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định 3. Giám đốc chi
nhánh là ông Piyapong Chatkul người Thái Lan, với tổng diện tích trại giống hơn
12ha, Đây là mọt trong những trại sản xuất tôm giống lớn nhất Việt Nam, sản
xuất giống dựa trên công nghệ tiên tiến của Thái Lan. Hệ thống trại bao gồm:
-

Hệ thống văn phòng làm việc của ban giám đốc

-

Khu nhà nghỉ của giám đốc và công nhân viên.


-

Bộ phận thí nghiệm gồm: 1 phòng Vi khuẩn, 2 phòng PCR, 1 phòng kiểm tra
chất lượng nước, 1 phòng kiểm định chất lượng tôm, 1 phòng nuôi cấy tảo thí
nghiệm ( Lab), 1 nhà ấp Artemia, 3 nhà nuôi tảo ống, 10 nhà nuôi tảo sinh khối
(Mass).

-

Khu nuôi dời

-

Khu tôm bố mẹ (Maturation) gồm 4 nhà, mỗi nhà có 32 bể x 24m2.

-

Khu ương nuôi ấu trùng gồm 32 nhà mỗi nhà có 14 bể x 10m3.
18


Và hệ thống bể chứa và xử lý nước.

19


PHẦN 3.
VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
3.1.1. Thời gian nghiên cứu

Từ ngày 06/01/2015 đến ngày 08/05/2015
3.1.2. Địa điểm nghiên cứu
Công ty Cổ phần Chăn nuôi C.P Việt Nam - Chi nhánh Bình Định 3, thôn
Xuân Thạnh, xã Mỹ An, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.

Trại giống CP

Hình 3.1. Sơ đồ huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Tên tiếng Việt: Tôm chân trắng
Tên la tinh: Litopenaeus vannamei (Boone, 1931)
Tên tiếng anh: White Leg shrimp
3.3. Nội dung nghiên cứu
- Theo dõi biến động các yếu tố môi trường trong thời gian ương nuôi ấu
trùng tôm Chân trắng.
- Theo dõi ảnh hưởng của số lần cho ăn đến tốc độ sinh trưởng, tỷ lệ sống
của tôm Chân Trắng trong các bể ương ở Công ty Cổ Phần Chăn nuôi CP Việt
Nam – chi nhánh Bình Định 3, thôn XuânThạnh, xã Mỹ An, huyện Phù Mỹ, tỉnh
Bình Định.
20


- Thử nghiệm các thời gian cho ăn khác nhau trong các bể ương nuôi ấu
trùng tôm thẻ Chân trắng rút ra kết luận số lần cho ăn trong ngày phù hợp nhất.
Sơ đồ nội dung nghiên cứu

G

3.4. Phương pháp nghiên cứu
21



3.4.1. Phương pháp thu thập số liệu


Nguồn thông tin sơ cấp: Thu thập thông tin từ các cán bộ kỹ thuật của công ty.
Trực tiếp thu thập số liệu từ quy trình ương nuôi giống tôm Chân trắng ở Công
ty CP Việt Nam.



Nguồn thông tin thứ cấp: Từ sách, báo, tạp chí thủy sản, các trang web liên quan
như: vietlinh.com.vn; fishtenet.gov.vn...
3.4.2. Phương pháp bố trí thí nghiệm



Thí nghiệm được bố trí trên 6 bể, mỗi bể có thể tích 10m 3 nước, chia 2 nghiệm
thức, 3 lần lặp lại. Mật độ ấu trùng 120con/lít



Các bể được bố trí trong nhà, sục khí liên tục 24h/24h
Số lần cho ăn
trong ngày
Bể thí nghiệm

8 lần
B1


B2

12 lần
B3

B4

B5

B6



Nghiệm thức 1: 3 giờ cho ăn một lần, vào các thời gian: 8h, 11h, 14h, 17h, 20h,
23h, 2h, 5h



Nghiệm thức 2: 2 giờ cho ăn một lần, vào các thời gian: 7h, 9h, 11h, 13h, 15h,
17h, 19h, 21h, 23h, 1h, 3h, 5h
3.4.3. Phương pháp theo dõi các yếu tố môi trường
- Độ mặn đo bằng khúc xạ kế
- Độ kiềm đo bằng Ankality test kit
- NH3 và NO-2 đo bằng test kit
- pH đo bằng pH test kit
Mỗi yếu tố đo 1 ngày 1 lần
3.4.4. Phương pháp theo dõi khản năng sinh trưởng của ấu trùng tôm Chân
trắng giai đoạn postlarvar 1–12
3.4.4.1. Theo dõi chiều dài
- Phương pháp thu mẫu: Dùng vợt có mắt lưới 2a = 125µm để thu ấu

trùng vào dụng cụ chứa.

22


- Cách đo: Chiều dài toàn thân (L-Length) là khoảng cách từ đầu chủy
đến cuối đốt đuôi khi thân tôm duỗi thẳng. được đo bằng thước vân vạch đến
mm.
+ Mẫu tôm đem đo 30 con. Cho tôm cần đo vào máy đo chiều dài và
máy sẽ lưu lại kết đo được.

Hình 3.4. Máy đo chiều dài của tôm
-

Tốc độ tăng trưởng về chiều dài (mm/con)


GL =

T2 – T1

GL là tốc độ tăng trưởng tuyệt đó về chiều dài
T1, T2 là thời gian của lần đo thứ nhất và thứ hai
,

là chiều dài trung bình của tôm ở lần đo thứ nhất và thứ hai

3.4.4.2. Tỷ lệ sống và sức khỏe đàn tôm
TLS = (%)


tổng số lượng tôm thu hoạch được
Tổng số lượng tôm ban đầu

x 100

* Phương pháp đánh giá chất lượng tôm giống: Tôm được đánh giá chất
lượng thông qua các chỉ tiêu, các phản ứng shock môi trường:
+ Quan sát các chỉ tiêu cảm quan của tôm giống: Màu sắc, trạng thái hoạt
động, các phụ bộ, sự đồng đều,…

23


+ Shock độ mặn: Thả tôm giống vào bát nước, tỷ lệ nước ngọt 50% (V =
1 lít) theo dõi tỷ lệ sống của tôm sau 60 phút tỷ lệ sống đạt trên 95% là đạt yêu
cầu. Ta lặp lại 3 lần.
+ Kiểm tra qua kính hiển vi.
3.4.5. Lượng thức ăn sử dụng
%cho ăn x khối lượng đàn tôm(g)

Lượng thức ăn sử dụng (g/ngày) =

1000

3.4.6. Hệ số tiêu tốn thức ăn
Công thức tính hệ số tiêu tốn thức ăn (FCR) như sau:
FCR =

Tổng lượng thức ăn sử dụng
Tổng khối lượng tôm


3.4.7. Hiệu quả kinh tế
Lợi nhuận = Tổng thu – Tổng chi
Tổng thu = Tổng lượng tôm x Đơn giá tại thời điểm thu hoạch
Tổng chi = Tiền con giống + thức ăn + thuốc, hóa chất + dụng cụ,vật tư +
chi phí khác.
Tỷ suất lợi nhuận (%) =

Lợi nhuận x 100
Tổng chi

3.4.8. Phương pháp phân tích số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS và phần mềm Microsoft Excel
3.5. Một số kỹ thuật chăm sóc ấu trùng trong quá trình thí nghiệm
3.5.1. Sử dụng thức ăn
Loại thức ăn sử dụng trong thí nghiệm là TNT2 và TNT3. Khối lượng
thức ăn sử dụng thể hiện ở 2 bảng sau:
Bảng 3.1. Lượng thức ăn TNT sử dụng
Giai đoạn

PL1- PL3

Lượng thức ăn

20g/bể/lần

PL4-PL6
25g/bể/lần

PL7-PL9


PL10-PL12

30g/bể/lần

35g/bể/lần

Giai đoạn P1-P3 ở 2 nghiệm thức cho ăn TNT2, các giai đoạn sau cho ăn
TNT3
24


3.5.2. Chế độ thay nước
-Thay nước vào mỗi buổi sáng 7h-8h, đồng thời vệ sinh thành bể.
-Thay từ 20-30% lượng nước trong bể.
- Nước thay phải qua kiểm tra đạt tiêu chuẩn môi trường nuôi.
3.5.3. Chăm sóc ấu trùng
Phải theo dõi tôm hằng ngày, thường xuyên kiểm tra tôm.
Chỉ tiêu theo dõi: lượng thức ăn tôm đã sử dụng, sự lột xác, màu sắc tôm
và khả năng hoạt động của tôm.

25


×