Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Công tác quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên trên địa bàn thành phố huế, tỉnh thừa thiên huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.87 KB, 109 trang )

ai

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
.........../...........

BỘ NỘI VỤ
.........../...........

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

TRƯƠNG QUANG TRUNG

CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHỔ BIẾN,
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO THANH THIẾU NIÊN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HUẾ,
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

Chuyên ngành : Quản lý công
Mã số

: 60 34 04 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN THỊ DIỆU OANH

THỪA THIÊN HUẾ - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn Cao học Hành chính công “Công tác quản
lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên trên địa
bàn thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế” là công trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi.
Các số liệu và thông tin được sử dụng trong Luận văn có xuất xứ rõ ràng
và kết quả nghiên cứu là do quá trình lao động trung thực của bản thân tôi.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật và lãnh đạo Học
viện Hành chính về Luận văn cao học này.
Học viên

Trương Quang Trung


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm trân trọng nhất, tác giả luận văn xin gửi lời cảm ơn chân
thành và sâu sắc tới TS. Trần Thị Diệu Oanh, Học viện Hành chính đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong quá trình thực hiện và hoàn thành Luận văn
Cao học Hành chính công: “Công tác quản lý nhà nước về phổ biến, giáo
dục pháp luật cho thanh thiếu niên trên địa bàn thành phố Huế, tỉnh Thừa
Thiên Huế”
Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc, các thầy giáo, cô giáo của Học
viện Hành chính đã tận tình, chu đáo trong quá trình tham gia giảng dạy và
truyền đạt kiến thức cho tác giả. Xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành đến
toàn thể cán bộ, công chức, viên chức của Học viện Hành chính và Phân
viện Học viện Hành chính khu vực Miền Trung đã tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho tác giả trong thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành chương
trình cao học cũng như hoàn thành Luận văn này.
Xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến Lãnh đạo UBND Thành phố
Huế, Văn phòng UBND Thành phố, Phòng Tư pháp thành phố Huế, các cơ sở
Đoàn, Hội, Đội trong địa bàn Thành phố Huế mà tác giả đã đến khảo sát,

lấy số liệu phục vụ cho việc hoàn thành Luận văn này.
Kính mong nhận được sự góp ý của quý thầy giáo, cô giáo, đồng
nghiệp và các học viên cao học - Học viện Hành chính và quý bạn đọc để
Luận văn được hoàn thiện và hữu ích hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Học viên

Trương Quang Trung


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CĐTS

: Chiếm đoạt tài sản

GTĐB

: Giao thông đường bộ

HĐND


: Hội đồng nhân dân



: Hội đồng

LHTNVN

: Liên hiệp Thanh niên Việt Nam

PBGDPL

: Phổ biến giáo dục pháp luật

QLNN

: Quản lý nhà nước

THCV

: Thi hành công vụ

TP

: Tội phạm

TS

: Tài sản


TTTP

: Thanh tra thành phố

TTĐT-ATGT

: Trật tự đô thị – An toàn giao thông

UBND

: Ủy ban nhân dân

UBMTTQVN : Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam


DANH MỤC CÁC BẢNG


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Trong bất cứ thời kỳ nào, thanh thiếu niên luôn có vai trò đặc biệt quan
trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh số đông thanh
thiếu niên sống có lý tưởng, có ước mơ, hoài bão tốt đẹp, ít nhất là cho bản
thân họ, sau nữa là bổn phận với gia đình, xã hội, thì cũng có một bộ phận lớp
trẻ đua đòi, thiếu bản lĩnh, ham hưởng thụ, trở thành nỗi bức xúc của xã hội.
Trong âm mưu thâm độc “Diễn biến hòa bình” của bọn phản động, thanh thiếu
niên còn là đối tượng để các thế lực thù địch với nhân dân ta lôi kéo, kích động

các hành động gây rối loạn xã hội…làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh
chính trị trên địa bàn, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.
Mặt khác, tác động của cơ chế thị trường đã làm một bộ phận thanh
thiếu niên có lối sống thực dụng, buông thả, ngại tham gia các hoạt động xã
hội, có biểu hiện thiếu niềm tin, tự ti, bản lĩnh chính trị non kém, dao động về
lập trường, dễ bị kích động, lôi kéo…Đặc biệt, những thông tin phản động và
phản văn hóa trên Internet ngày càng nhiều đã có những tác động tiêu cực đến
tâm trạng, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận thanh thiếu niên, dẫn
đến thanh thiếu niên sa vào các tệ nạn xã hội, thanh thiếu niên vi phạm pháp
luật gia tăng. Một vấn đề nổi lên trong thời gian qua khiến nhiều người rất
quan tâm, đó là tình trạng vi phạm pháp luật trong thanh thiếu niên gia tăng.
Theo thống kê chưa đầy đủ, có trên 60% người phạm tội trong độ tuổi từ 1530. Cá biệt có một số vụ án nghiêm trọng mà người phạm tội dưới 15 tuổi.
Nguyên nhân của tình hình vi phạm pháp luật trong thanh, thiếu niên
trước hết là do thiếu hiểu biết về pháp luật; do vốn sống và hiểu biết xã hội
của thanh, thiếu niên còn hạn chế; khả năng tiếp nhận thông tin nhanh nhưng
ít chọn lọc và dễ bị lôi kéo, lợi dụng. Mặt khác, tình trạng thanh niên khó
khăn trong cuộc sống, thất nghiệp, chưa có việc làm…; quá trình đô thị hóa
phát triển nhanh nhưng không đồng bộ ở nhiều nơi; quá trình hội nhập, giao


2

lưu kinh tế - văn hóa - xã hội không ngừng được tăng cường nhưng chưa có
sự chuẩn bị kỹ càng về mọi mặt đã có tác động xấu đến lối sống của một bộ
phận thanh, thiếu niên trong việc chấp hành pháp luật... Tất cả những vấn đề
đó đang trở nên bức xúc, đòi hỏi sự quan tâm nhiều hơn nữa của các cấp, các
ngành, toàn xã hội và mỗi gia đình trong nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp
luật cho thanh, thiếu niên.
Trong những năm qua, cùng với cả nước và các địa phương trong tỉnh
Thừa Thiên Huế, Đảng bộ và chính quyền thành phố Huế đã huy động toàn

bộ sức mạnh hệ thống chính trị vào cuộc để triển khai và thực hiện tốt các luật
của Quốc hội, Nghị định của Chính phủ, các đề án của Thủ tướng về phổ
biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên. Qua quá trình triển khai đảm
bảo, bước đầu đã thu được những kết quả nhất định; các cơ quan chuyên môn,
các phòng, ban và các đoàn thể chính trị - xã hội đã tích cực, chủ động triển
khai một cách đồng bộ từ thành phố đến cơ sở từ đó đã góp phần giáo dục ý
thức chấp hành pháp luật cho thanh thiếu niên. Trong đó, đáng chú ý là việc
triển khai thực hiện đề án tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho thanh, thiếu niên giai đoạn 2011 - 2015.
Ðây là đề án quan trọng đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
số 2160/QÐ - TTg phê duyệt vào ngày 26/11/2010.
Vụ trưởng Phổ biến, Giáo dục pháp luật (Bộ Tư pháp) Nguyễn Duy
Lãm cho biết: “Ðề án phấn đấu 80% số thanh, thiếu niên tự do, sinh sống,
lao động tại địa bàn cư trú được tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật
trong các lĩnh vực liên quan đến quyền, nghĩa vụ và đời sống, công việc của
từng đối tượng, từng địa bàn; 100% số thanh, thiếu niên trong trường học
được phổ biến chính sách, pháp luật trong các lĩnh vực liên quan trực tiếp
đến đời sống, công việc, học tập phù hợp với lứa tuổi của các em; 80% số
thanh, thiếu niên vi phạm pháp luật được tuyên truyền, phổ biến chính sách,
pháp luật nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật, hạn chế tái vi phạm pháp luật


3

và tạo điều kiện hòa nhập tốt với cộng đồng…” [19]. Ðây là những con số,
mục tiêu mà nếu đạt được một cách thực chất thì tình hình vi phạm pháp luật
trong thanh, thiếu niên sẽ được cải thiện rõ nét.
Tuy nhiên, để có thể đạt được những kết quả như mong muốn, công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh, thiếu niên cần nhận được sự quan
tâm, đầu tư và tham gia tích cực, chủ động của toàn xã hội. Các hoạt động

liên quan công tác này cần được triển khai thực chất, có kế hoạch riêng và
thước đo sự thành công phải được thể hiện bằng ý thức chấp hành pháp luật
của thanh, thiếu niên trong thực tế cuộc sống...
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài luận văn “Công tác quản lý nhà
nước về phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên trên địa bàn
thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Công tác quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật là một vấn
đề mang tính cấp thiết của Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đây là vấn
đề có rất nhiều nhà khoa học quan tâm. Nhiều công trình nghiên cứu đã được
công bố như:
Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính
phủ, đã có đặc san tuyên truyền pháp luật số tháng 3/2011 với chuyên đề
“Phổ biến giáo dục pháp luật cho học sinh sinh viên trong các nhà trường
thuộc hệ thống giáo dục quốc dân” do Thạc sỹ Phạm Thị Kim Dung – Vụ
phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp biên soạn và tổng hợp. Chuyên đề
này đã xác định một cách cụ thể về chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường. Cơ sở lý luận
và thực tiễn của phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường gắn với việc
yêu cầu nâng cao dân trí pháp lý, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý
xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ khi
chủ trương "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật" được nêu thành một


4

nguyên tắc – Nguyên tắc Hiến định, thì phổ biến, giáo dục pháp luật trở thành
một trong những nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan nhà nước, các đoàn thể
quần chúng, các tổ chức xã hội và được xã hội ngày càng quan tâm. Phổ biến,
giáo dục pháp luật được coi là một trong những việc làm quan trọng có ý

nghĩa đặc biệt trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, quản
lý xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Từ nhận thức chung, tác giả đã nêu và chứng minh được thực trạng phổ
biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường; những kết quả đạt được, những tồn
tại, hạn chế và nguyên nhân. Đồng thời đề xuất các phương hướng, nhiệm vụ
để nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong trường
học thời gian tới.
PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ (2014), Giáo dục nếp sống văn hóa cho học
sinh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật. Nội dung cuốn sách là
những phân tích cơ bản các vấn đề giáo dục nếp sống văn hóa cho học sinh và
trích một số quy định về pháp luật liên quan đến lứa tuổi học sinh trong Bộ
luật Hình sự, Luật Giáo dục, Luật Bảo vệ, giáo dục và chăm sóc trẻ em. Từ đó
cuốn sách đưa ra những biện pháp tốt cho các nhà quản lý, các thầy cô giáo,
các bậc cha mẹ học sinh, đặc biệt là các em học sinh trong việc giáo dục, rèn
luyện lối sống văn hóa, để các em ngày càng trưởng thành và hoàn thiện hơn
về cả tri thức và nhân cách lối sống.
Đề tài cấp bộ do TS. Lương Khắc Hiếu làm chủ nhiệm (2006), Tư
tưởng, phong cách Hồ Chí Minh về một số suy nghĩ về công tác tuyên truyền
hiện nay”. Đề tài đã nêu được một số nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác tuyên tuyền, làm rõ hơn phong cách sử dụng ngôn ngữ văn bản trong
khi nói, viết của Hồ Chí Minh và nêu ra một số giải pháp nhằm đổi mới công
tác tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay.
Luận án tiến sĩ của Dương Thanh Mai (1996), Công tác tuyên truyền
giáo dục pháp luật ở nước ta - Thực trạng và giải pháp. Tác giả đã đi sâu


5

phân tích công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật ở nước ta; đặc biệt là trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện

nay, công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật giữ vị trí quan trọng trong đời
sống xã hội đây là khâu đầu tiên rất quan trọng trong hoạt động thực thi pháp
luật, là cầu nối giữa hoạt động xây dựng pháp luật và thực thi pháp luật. Tác
giả đã đưa ra những mặt hạn chế trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật,
đặc biệt là trong việc xác định và phân công trách nhiệm của các bộ, ngành,
địa phương, chưa có các quy định rõ ràng về trách nhiệm của các cơ quan,
ban ngành trong việc phổ biến, tuyên truyền các đạo luật hoặc văn bản pháp
luật cụ thể dẫn đến cơ chế phối hợp và chịu trách nhiệm của các cơ quan, tổ
chức trong công tác này còn nhiều bất cập, đôi khi có sự chồng chéo hoặc
ngược lại tồn tại những “khoảng trống” trong công tác tuyên truyền phổ biến
pháp luật mà chưa có biện pháp hiệu quả để khắc phục. Từ đó, tác giả đã đưa
ra một số giải pháp nhằm làm tốt công tác giáo dục pháp luật ở nước ta.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thu Ba đã nghiên cứu “Nâng cao
chất lượng tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho công nhân tại các doanh
nghiệp ở Tỉnh Đồng Tháp giai đoạn hiện nay (2012)”. Tác giả đã đánh giá
thực trạng về chất lượng tuyên tuyền pháp luật cho công nhân tại các doanh
nghiệp ở Tỉnh Đồng Tháp; phân tích nguyên nhân của những ưu điểm, nhược
điểm và nhận thức những yêu cầu đặt ra trong các vấn đề nêu trên, đưa ra một
số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
cho công nhân tại các doanh nghiệp cho phù hợp với quy định của pháp luật
hiện nay ở nước ta.
Luận văn thạc sĩ của Hồ Quốc Dũng đã nghiên cứu “Một số vấn đề về
giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay (1997)”. Tác giả đã tiếp cận, tìm
hiểu công tác giáo dục pháp luật, từ đó thấy được những khó khăn, thách thức
trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật, từ đó nghiên cứu, phân tích đề
xuất một số giải pháp giáo dục pháp luật, nhằm nâng cao nhận thức của nhân
dân trong việc thi hành pháp luật trong giai đoạn hiện nay.


6


Báo cáo tham luận “Coi trọng giáo dục pháp luật cho thanh, thiếu niên
trong bối cảnh toàn cầu hóa” của Thạc sỹ Đỗ Thanh Hương – Trường Đại
học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh tại hội thảo “Thực trạng và giải pháp
ngăn chặn bạo lực học đường” (2015) được tổ chức tại thành phố Hồ Chí
Minh trong tháng 6/2015. Tác giả đã nhấn mạnh đến vấn đề toàn cầu hóa hiện
đang là xu thế tất yếu, khách quan, tác động mạnh mẽ tới tất cả các quốc gia,
dân tộc, đến đời sống xã hội của cả cộng đồng nhân loại, cũng như cuộc sống
của mỗi con người; trong đó nó động khá mạnh mẽ đến đối tượng thanh thiếu
niên - là đối tượng “nhạy cảm” - cả về những cơ hội cũng như những thách
thức của quá trình toàn cầu hóa mang lại. Từ đó xác định vị trí, vai trò của
thanh thiếu niên; phân tích và chứng minh thực trạng về tình trạng vi phạm
pháp luật của thanh, thiếu niên; đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh
việc giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên, giảm tình trạng thanh thiếu niên
vi phạm pháp luật, giảm tình trạng bạo lực học đường. Đồng thời xác định
việc phổ biển giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên đòi hỏi sự quan tâm,
của tất cả các cấp, các ngành, đoàn thể và toàn xã hội, để từ đó phát huy các
phẩm chất tốt đẹp trong mỗi thanh thiếu niên.
Khóa luận tốt nghiệp Trung cấp Lý luận chính trị của Mai Bá Hoàng
“Xử lý vi phạm hành chính về trật tự an toàn giao thông đường bộ đối với
người chưa thành niên trên địa bàn Thành phố Huế”(2013). Tác giả đã
nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về xử lý vi phạm hành chính về trật tự
an toàn giao thông đường bộ đối với người chưa thành niên, từ đó đề xuất một
số giải pháp nhằm đề xuất giải pháp về xử lý vi phạm hành chính trên lĩnh
vực trật tự an toàn giao thông đường bộ đối với người chưa thành niên.
Những công trình khoa học trên đã cung cấp nhiều tư liệu quý báu về
cơ sở lý luận, kiến thức, kinh nghiệm đối với công tác quản lý nhà nước trên
nhiều góc độ. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên
cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về công tác quản lý nhà nước về phổ



7

biến, giáo dục pháp luật đối với thanh thiếu niên trên địa bàn thành phố Huế.
Vì vậy, đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu có hệ thống vấn đề này trên địa bàn
Thành phố Huế.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở lý luận về QLNN đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật cho thanh thiếu niên, đề tài đánh giá thực trạng công tác QLNN đối với
phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên trên địa bàn thành phố Huế
để từ đó có cơ sở đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLNN đối
với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên trên địa bàn
thành phố Huế
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
+ Phân tích cơ sở lý luận về QLNN đối với công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật cho thanh thiếu niên trên cơ sở hệ thống hóa quan điểm chủ nghĩa
Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng và quy định của Nhà nước ta.
+ Phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật cho thanh thiếu niên của thành phố Huế trong những năm gần
đây qua đó rút ra những hạn chế cần khắc phục và tìm ra những nguyên nhân
hạn chế đó
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên của thành
phố Huế trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quản lý nhà nước đối với công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên trên địa bàn thành phố Huế.



8

4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Công tác quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp
luật cho thanh thiếu niên trên địa bàn thành phố Huế.
- Về không gian: Đề tài nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về phổ
biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên trên địa bàn thành phố Huế, tỉnh
Thừa Thiên Huế.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu công tác quản lý nhà nước về phổ
biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên trên địa bàn thành phố Huế giai
đoạn từ năm 2010 đến năm 2014.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư
tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước
về công tác thanh thiếu niên; những quy định pháp luật về quản lý nhà nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Luận văn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu để làm sáng
tỏ, trong đó tập trung một số phương pháp sau:
+ Phương pháp khảo cứu tài liệu: Tài liệu được sử dụng chủ yếu để
nghiên cứu các tài liệu đã được giới thiệu tại Phần mở đầu, tình hình nghiên
cứu liên quan đến đề tài (mục 2, phần mở đầu) và được tác giả sử dụng để
thực hiện Chương 1 của luận văn. Phương pháp này cung cấp cơ sở lý luận,
những luận cứ cho việc đánh giá công tác quản lý nhà nước về phổ biến, giáo
dục pháp luật đối với thanh thiếu niên và cơ sở đề ra giải pháp cho việc quản
lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật đối với thanh thiếu niên trên địa
bàn Thành phố Huế.
+ Phương pháp chuyên gia: Tác giả đã trao đổi với đồng chí Phó chủ
tịch UBND thành phố Huế và đồng chí Trưởng phòng Tư pháp thành phố

Huế về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn Thành phố Huế.


9

+ Phương pháp phỏng vấn trực tiếp: Thông qua lĩnh vực công tác trực
tiếp của mình, tác giả đã trực tiếp trao đổi với các đồng chí Bí thư Đoàn thanh
niên cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội LHTN Việt Nam, giáo viên Tổng
phụ trách Đội cấp cơ sở về nội dung, những thuận lợi và khó khăn trong việc
tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên.
+ Phương pháp kiểm tra, khảo sát: Thông qua chương trình công tác
hàng năm, tác giả đã xây dựng chương trình công tác để định kỳ cuối năm
tiến hành kiểm tra, khảo sát để đánh giá việc tổ chức triển khai phổ biến, giáo
dục pháp luật cho thanh thiếu niên trên địa bàn thành phố.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp phần vào hệ thống hoá cơ sở lý luận về QLNN đối với công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật trong thanh thiếu niên trên địa bàn thành phố
Huế; hệ thống hoá và xây dựng các tiêu chí đánh giá chất lượng phổ biến,
giáo dục pháp luật trong thanh thiếu niên; làm rõ những đặc điểm của thanh
thiếu niên và điều kiện khách quan của việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật trong thanh thiếu niên trên địa bàn thành phố Huế trong thời kỳ
mới.
- Qua phân tích, so sánh, đánh giá thực trạng, rút ra những mặt mạnh;
những hạn chế và nguyên nhân của thực trạng. Từ đó, làm tiền đề để đẩy
mạnh công tác, phổ biến, giáo dục pháp luật trong thanh thiếu niên trong
những năm tiếp theo.
- Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên cứu
liên quan sau này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ

lục, thì đề tài gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận của quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp
luật cho thanh thiếu niên.


10

Chương 2: Thực trạng công tác quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục
pháp luật cho thanh thiếu niên trên địa bàn thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp tăng cường công tác quản lý nhà nước
về pháp luật đối với thanh thiếu niên trên địa bàn thành phố Huế, tỉnh Thừa
Thiên Huế.


11

Chương 1
LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO THANH THIẾU NIÊN
1.1. Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên
1.1.1 Quan niệm về phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên
1.1.1.1. Khái niệm, mục đích về phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên
* Khái niệm về phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên
Theo cách hiểu chung nhất về phổ biến, giáo dục pháp luật có hai nghĩa:
- Theo nghĩa hẹp: Phổ biến, giáo dục pháp luật là giới thiệu tinh thần
văn bản pháp luật cho người có nhu cầu; theo đó phổ biến, giáo dục pháp luật
là việc truyền bá pháp luật cho đối tượng nhằm nâng cao tri thức, tình cảm,
niềm tin pháp luật cho đối tượng từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật,
nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng.
- Theo nghĩa rộng: Phổ biến, giáo dục pháp luật là một khâu của hoạt

động tổ chức thực hiện pháp luật, là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ
định thông qua các hình thức giáo dục, thuyết phục, nêu gương... nhằm mục
đích hình thành ở đối tượng tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi xử sự phù
hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành với các hình thức,
phương tiện, phương pháp đặc thù.
Phổ biến, giáo dục pháp luật là quá trình hoạt động thường xuyên, liên
tục và lâu dài của chủ thể tuyên truyền lên đối tượng, là cầu nối để chuyển
tải pháp luật vào cuộc sống. Trong công tác quản lý nhà nước, phổ biến, giáo
dục pháp luật được hiểu theo nghĩa rộng và được xác định là một công việc
trọng tâm và thường xuyên của các cơ quan nhà nước, các cấp, các ngành
[17]. Việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên là một quá trình
triển khai và áp dụng các quy trình của phổ biến, giáo dục pháp luật cho
thanh thiếu niên.


12

Vậy, Thanh thiếu niên là gì ? Thanh thiếu niên là cụm từ thông dụng ở
Việt Nam, trong các văn bản của Quốc Hội, của Đảng, Đoàn – Hội – Đội,
được ghép từ các từ “Thanh niên”, “Thiếu niên”, dùng để chỉ về một lực
lượng nhân khẩu – xã hội trẻ khá đông đảo, chiếm tỉ lệ lớn trong dân số.
Trong đó:
Thanh niên là khái niệm dùng để chỉ một nhóm nhân khẩu – xã hội với
một độ tuổi xác định, với những tâm sinh lý đặc thù và có một vai trò quan
trọng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Về độ tuổi: thông thường được tính từ 15 - 30 tuổi. Tuy nhiên cách
xác định độ tuổi thanh niên cũng không giống nhau ở các quốc gia, dân tộc
khác nhau vào những thời kỳ khác nhau. Hiện nay ở Việt Nam độ tuổi thanh
niên được xác định từ 16 - 30 tuổi. Theo Luật Thanh niên quy định trong Luật
này là công dân Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi. [25]

- Thanh niên là lớp người đang phát triển cả về chất, cả về tâm lý tinh
thần và cả về nhu cầu tình cảm, trí tuệ và tài năng, ước mơ và lý tưởng, tư duy
và tính cách. Đó cũng là thời kỳ hình thành những định hướng giá trị của cuộc
sống đang trưởng thành về nhân cách.
- Đặc điểm tâm lý nổi bật của thanh niên: yêu cái mới, chọn cái đẹp,
luôn hướng tới tương lai, nhạy cảm với thực tiễn, dễ tiếp nhận với các giá trị
cách tân và đổi mới, hăng hái xung phong, luôn đi đầu trong cuộc đấu tranh
chống lại những gì là cũ, lỗi thời, lạc hậu…
- Thanh niên là một nhóm nhân khẩu xã hội đặc thù, chiếm số đông
trong dân cư, đan xen trong các giai tầng, cơ cấu xã hội và cơ cấu nghề
nghiệp. Thanh niên không phải là một giai cấp nhưng lại thường xuyên chịu
ảnh hưởng của các quan hệ giai cấp, của dư luận xã hội, của lối sống cộng
đồng. Vì thế có người cho rằng thanh niên là tấm gương phản chiếu của hình
ảnh xã hội.


13

- Thanh niên là lực lượng lao động dự trữ của xã hội, là tài nguyên vô
giá của mỗi quốc gia, dân tộc, là lực lượng tích cực tham gia vào quá trình
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Chính vì vậy trong công cuộc cải tạo xã
hội, lực lượng chính trị nào nắm được thanh niên, lực lượng ấy sẽ dành phần
thắng trong tay. Lịch sử cách mạng của dân tộc Việt Nam đã chứng minh cho
chân lý đó.
“Thiếu niên”: là trẻ em ít tuổi hơn thanh niên, vào khoảng từ mười tuổi
đến mười lăm tuổi. Chỉ các đội viên thuộc tổ chức Đội Thiếu niên ở các nước
xã hội chủ nghĩa (Theo Tự điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 1994 do Văn Tân, Nguyễn Văn Đạm chỉnh lý, bổ sung)
- Điều 1, chương I của Điều lệ Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh
(Ban hành kèm theo Quyết định số 319 QĐ/ĐTN ngày 10/9/2013 của Ban
Chấp hành Trung ương Đoàn khóa X) quy định: Đội viên Đội Thiếu niên tiền

phong Hồ Chí Minh là thiếu niên Việt Nam từ 9 đến hết 15 tuổi thực hiện tốt
5 điều Bác Hồ dạy, phấn đấu học tập, rèn luyện và tu dưỡng để trở thành đoàn
viên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh
- Theo Tâm lý học lứa tuổi, tuổi thiếu niên là một giai đoạn phát triển
của đời người, giai đoạn giữa tuổi nhi đồng (học sinh tiểu học) và tuổi thanh
niên, thuộc trong độ tuổi vị thành niên. Có sự khác biệt đặc thù so với các lứa
tuổi khác trong sự phát triển về mọi mặt: thể chất, trí tuệ, đạo đức xã hội. Ở
tất cả các mặt này đều diễn ra sự phát triển mạnh mẽ nhưng thiếu cân đối.
Như vậy, Thanh thiếu niên là khái niệm dùng để chỉ một nhóm nhân
khẩu – xã hội với một độ tuổi xác định, với những tâm sinh lý đặc thù và có
một vai trò quan trọng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội; có độ tuổi từ 9
đến 30 tuổi.
Từ những đặc thù và phân tích trên ta có thể thấy rõ bản chất của
PBGDPL là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ thể
PBGDPL nhằm chuyển tải các tri thức về nhà nước và pháp luật đến đối


14

tượng được giáo dục pháp luật với mục đích hình thành ở họ những tri thức
pháp lý, tình cảm, lòng tin và ý thức tự giác tuân thủ pháp luật.
Như vậy, có thể hiểu, khái niệm PBGDPL cho thanh thiếu niên là hoạt
động có định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ thể PBGDPL tác động
lên thanh thiếu niên, với mục đích hình thành ở họ những tri thức pháp lý,
tình cảm, hành vi phù hợp với các yêu cầu của pháp luật hiện hành.
* Mục đích của việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên
Một là, nâng cao hiểu biết pháp luật cho thanh thiếu niên. Pháp luật của
Nhà nước không phải khi nào cũng được mọi người trong xã hội biết đến, tìm
hiểu, đồng tình ủng hộ và thực hiện nghiêm chỉnh. Tuy rằng bản chất pháp
luật của Nhà nước ta là rất tốt đẹp, nó phản ánh ý chí, nguyện vọng, mong

muốn của đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội. Những quy định pháp
luật đó dù tốt đẹp bao nhiêu chăng nữa mà không được nhân dân biết đến thì
vẫn là lý thuyết.
Pháp luật của Nhà nước có thể được một số người tìm hiểu, quan tâm
và nắm bắt xuất phát từ nhu cầu học tập, nghiên cứu hay từ nhu cầu sản xuất
kinh doanh của họ. Những người này luôn theo sát những quy định pháp luật
mới được ban hành để phục vụ trực tiếp cho công việc của mình, nhưng số
lượng đối tượng này không phải là nhiều. Trong điều kiện trình độ dân trí còn
chưa cao, đời sống kinh tế của đa số nhân dân còn gặp nhiều khó khăn cho nên
các đối tượng nằm trong sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật, nghĩa là số
đông nhân dân lao động trong xã hội chưa có điều kiện tiếp cận với pháp luật.
Phổ biến, giáo dục pháp luật chính là phương tiện truyền tải những
thông tin, những yêu cầu, nội dung và các quy định pháp luật đến với người
dân, giúp cho người dân hiểu biết, nắm bắt pháp luật kịp thời mà không mất
quá nhiều thời gian, công sức cho việc tự tìm hiểu, tự học tập. Đó chính là
phương tiện hỗ trợ tích cực để nâng cao hiểu biết pháp luật cho nhân dân.


15

Hai là, hình thành lòng tin vào pháp luật của thanh thiếu niên
Pháp luật chỉ có thể được mọi người thực hiện nghiêm chỉnh khi họ tin
tưởng vào những quy định của pháp luật. Pháp luật được xây dựng là để bảo
vệ cho quyền và lợi ích của nhân dân, đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng,
đảm bảo công bằng và dân chủ xã hội. Khi nào người dân nhận thức đầy đủ
được như vậy thì pháp luật không cần một biện pháp cưỡng chế nào mà mọi
người vẫn tự giác thực hiện. Tạo lập niềm tin vào pháp luật cho mỗi người và
cả cộng đồng đòi hỏi sự kết hợp của nhiều yếu tố. Một trong các yếu tố đóng
vai trò quan trọng là phổ biến, giáo dục pháp luật để mọi người hiểu biết về
pháp luật, hiểu biết về quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật, tuyên truyền

về những mặt thuận lợi và khó khăn phức tạp của việc thực hiện và áp dụng
pháp luật, những mặt ưu điểm và hạn chế của quá trình điều chỉnh pháp luật.
Pháp luật cũng như mọi hiện tượng khác trong xã hội bao giờ cũng có
hai mặt, không phải lúc nào nó cũng thoả mãn hết, phản ánh được đầy đủ
nguyện vọng, mong muốn của tất cả mọi người trong xã hội. Quá trình điều
chỉnh pháp luật sẽ lấy lợi ích của đông đảo nhân dân trong xã hội làm tiêu chí,
thước đo, do đó sẽ có một số ít không thoả mãn được. Chính các yếu tố hạn
chế và mặt trái của các quy định pháp luật càng tạo nên sự cần thiết của công
tác phổ biến, giáo dục pháp luật để mọi người hiểu đúng pháp luật, đồng tình
ủng hộ pháp luật. Có như vậy mới hình thành lòng tin vào pháp luật của đông
đảo nhân dân trong xã hội.
Ba là, nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của thanh thiếu niên
Ý thức pháp luật của người dân được hình thành từ hai yếu tố đó là tri
thức pháp luật và tình cảm pháp luật.
Tri thức pháp luật là sự hiểu biết pháp luật của các chủ thể có được qua
việc học tập, tìm hiểu pháp luật, qua quá trình tích lũy kiến thức của hoạt
động thực tiễn và công tác.


16

Tình cảm pháp luật chính là trạng thái tâm lý của các chủ thể khi thực
hiện và áp dụng pháp luật, họ có thể đồng tình ủng hộ với những hành vi thực
hiện đúng pháp luật, lên án các hành vi vi phạm pháp luật.
Ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân dân chỉ có thể được nâng
cao khi công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân được tiến hành
thường xuyên, kịp thời và có tính thuyết phục. Phổ biến, giáo dục pháp luật
không đơn thuần là tuyên truyền các văn bản pháp luật đang có hiệu lực mà
còn lên án các hành vi vi phạm pháp luật, đồng tình ủng hộ các hành vi thực
hiện đúng pháp luật, hình thành dư luận và tâm lý đồng tình ủng hộ với hành

vi hợp pháp, lên án các hành vi phi pháp.
Phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm hình thành, củng cố tình cảm tốt đẹp
của con người với pháp luật, đồng thời ngày càng nâng cao sự hiểu biết của
con người đối với các văn bản pháp luật và các hiện tượng pháp luật trong đời
sống, từ đó nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân dân.
1.1.1.2. Yêu cầu, nguyên tắc đối với việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh
thiếu niên
* Yêu cầu đối với việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh thiếu niên
Một là, đề cao tính Đảng trong phổ biến, giáo dục pháp luật.
Pháp luật và đường lối chính sách của Đảng có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Pháp luật bao giờ cũng là sự thể chế hoá đường lối chính sách của
Đảng, đường lối chính sách của Đảng là "linh hồn" của pháp luật. Do đó, phổ
biến, giáo dục pháp luật cũng chính là việc phổ biến, giáo dục đường lối,
chính sách của Đảng.
Thực hiện không đúng pháp luật hay vi phạm pháp luật đều làm tổn hại
tới Nhà nước và xã hội, tổn hại tới vai trò lãnh đạo của Đảng. Pháp luật được
thực hiện nghiêm minh, chính xác và đầy đủ thì uy tín lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước và xã hội được khẳng định. Do đó, công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật bao giờ cũng phải đề cao tính Đảng.


17

Phổ biến, giáo dục pháp luật có thể là phổ biến các văn bản quy phạm
pháp luật, có thể tuyên truyền về việc thực hiện và áp dụng pháp luật, phổ
biến từ cái chung đến cái cụ thể đều phải đề cao đến tính Đảng. Sự lơ là, coi
thường và không quán triệt đầy đủ tính Đảng sẽ rơi vào chủ quan duy ý chí,
phiến diện. Bởi vì đường lối chính sách của Đảng bao giờ cũng phản ánh quy
luật khách quan của quá trình vận động xã hội, nêu lên những yêu cầu, đòi hỏi
và đường lối phát triển kinh tế, văn hoá xã hội. Pháp luật cụ thể hoá đường lối

đó, nhưng không phải là cụ thể hoá tất cả, chi tiết hoá đầy đủ thành các quy
định để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mặt khác, các quan hệ xã hội luôn biến
đổi vận động, do đó việc thực hiện và áp dụng pháp luật và công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật phải lấy đường lối chính sách của Đảng là kim chỉ nam
cho các hoạt động đó.
Muốn đề cao tính Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật thì
phải hiểu biết, quán triệt đầy đủ đường lối chính sách của Đảng đối với từng
thời kỳ, từng vấn đề và đường lối chung xây dựng kinh tế, văn hoá, xã hội.
Đường lối chính sách của Đảng cũng như pháp luật là những hiện tượng
thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội, phản ánh cơ sở kinh tế, do đó nó cũng thường xuyên được sửa đổi, bổ sung và có quá trình vận động như các hiện
tượng khác. Chính vì thế, phổ biến, giáo dục pháp luật và tuyên truyền đường
lối chính sách của Đảng phải luôn bắt nhịp được với những thay đổi trong đời
sống chính trị - pháp luật của đất nước.
Hai là, bảo đảm tính khoa học, tính chuẩn xác, truyền đạt trung thành
văn bản.
Phổ biến, giáo dục pháp luật không giống với việc tuyên truyền phổ
biến về văn hoá văn nghệ. Khi tuyên truyền, phổ biến về văn hoá văn nghệ,
người ta có thể nhân cách hoá, hư cấu thành những hình tượng nghệ thuật để
phục vụ cho mục đích của họ.


18

Phổ biến, giáo dục pháp luật khác với các loại hình phổ biến, giáo dục
khác ở chổ nội dung được phổ biến, giáo dục là pháp luật, là những quy tắc
xử sự được Nhà nước ban hành, có cấu trúc chặt chẽ từ câu chữ tới nội dung
và yêu cầu của các quy định đó. Do đó, phổ biến, giáo dục pháp luật phải tuân
thủ các nguyên tắc nhất định, bảo đảm tính khoa học, tính chuẩn xác, truyền
đạt trung thành văn bản.
Phổ biến, giáo dục pháp luật không chỉ thông tin cho người nghe về

pháp luật, truyền đạt cho họ biết được các văn bản pháp luật và những điều
luật mới được ban hành mà còn phải giải thích về các văn bản pháp luật và
các điều luật đó. Một trong những yêu cầu đã trở thành nguyên tắc trong giải
thích pháp luật là phải bảo đảm tính khoa học. Tính khoa học trong giải thích
pháp luật trước hết đòi hỏi có trình độ pháp lý, chẳng hạn hiểu rõ thành phần
của quy phạm pháp luật để hiểu được quy phạm, hiểu nội dung quan hệ pháp
luật để phân biệt rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, từ đó nêu lên được ý
nghĩa của quy phạm trong việc điều chỉnh những quan hệ xã hội. Tính khoa
học trong giải thích pháp luật còn được thể hiện khi giải thích một văn bản
pháp luật hay một điều luật không chỉ đơn thuần giải thích về văn bản hay
điều luật đó, mà cần phải đặt một văn bản hay điều luật đó trong bối cảnh ban
hành pháp luật, những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội quy định nội dung,
hình thức pháp luật trong tổng thể của một hệ thống pháp luật hay của một
ngành luật, thấy được mối liên hệ giữa các văn bản pháp luật và các điều luật
với nhau. Phổ biến, giáo dục pháp luật bảo đảm tính lôgíc, tính chặt chẽ của
các văn bản pháp luật và các điều luật.
Ba là, bảo đảm tính đại chúng: phù hợp với đối tượng, dễ hiểu, dễ nhớ,
dễ áp dụng.
Phổ biến, giáo dục pháp luật không những phải xuất phát từ đối tượng
được phổ biến, họ đang thiếu và cần cái gì mà còn phải phù hợp với trình độ


19

văn hoá, nghề nghiệp, giới tính, lứa tuổi, dân tộc... và sử dụng ngôn ngữ đại
chúng, hành văn giản dị, ngắn gọn.
Bốn là, chọn được hình thức phù hợp.
Có nhiều hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật khác nhau, mỗi hình
thức có sự phù hợp với một hoặc một số đối tượng nhất định, do đó khi phổ
biến, giáo dục pháp luật phải xuất phát từ đối tượng được phổ biến, giáo dục

pháp luật để chọn hình thức tối ưu.
Ngoài ra, hình thức giáo dục pháp luật còn phải phù hợp với từng địa
bàn, điều kiện kinh tế xã hội nhất định, do đó khi phổ biến, giáo dục pháp luật
cũng phải xuất phát từ địa bàn, điều kiện kinh tế của nơi tiến hành phổ biến,
giáo dục pháp luật.
Bảo đảm tính liên tục, tính hệ thống trong việc phổ biến, giáo dục pháp
luật. Bảo đảm tính hệ thống tức là đặt văn bản vào vị trí của nó trong hệ thống
pháp luật, trong ngành luật hoặc lĩnh vực pháp luật có liên quan tới văn bản.
Điều đó giúp cho đối tượng hiểu vấn đề sâu sắc hơn. Bảo đảm tính liên tục nghĩa
là theo phương châm: mưa dầm thấm lâu; việc phổ biến, giáo dục pháp luật phải
được tiến hành liên tục, có hệ thống, tránh hình thức, làm theo phong trào.
Gắn việc phổ biến, giáo dục pháp luật với việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị trong địa bàn. Điều đó, một mặt phát huy tác dụng của phổ biến, giáo
dục pháp luật, mặt khác làm tăng hiệu quả của phổ biến, giáo dục pháp luật.
Tóm lại, trong rất nhiều hình thức như vậy khi tiến hành phổ biến, giáo
dục pháp luật cần chọn một hình thức phù hợp cho đối tượng được phổ biến
hoặc kết hợp đan xen các loại hình thức.
* Yêu cầu đối với người làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
Một là, có kiến thức pháp lý nhất định. Bởi vì hoạt động công tác phổ
biến giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của hoạt động thực thi pháp luật, là
cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống, quá trình đưa pháp luật vào
cuộc sống được bắt đầu bằng hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, bởi vì
thực hiện pháp luật dù bằng hình thức nào tuân theo pháp luật, thi hành


×