Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Mô hình bài viết sách giáo khoa lịch sử ở trường THCS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và khả năng vận dụng vào Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.85 MB, 120 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước vào thế kỷ XXI, thế giới có những biến đổi không ngừng. Cuộc
chạy đua giữa các quốc gia, khu vực diễn ra mạnh mẽ trên tất cả mọi lĩnh vực.
Yêu cầu “Phải có một “thế giới phẳng”, có những “công dân toàn cầu””
(Thomas Friedman) đặt ra ngày càng cấp thiết. Thành quả đó chỉ có thể được
đem lại bởi giáo dục. Thực vậy, với những thời cơ và thách thức mới, đòi hỏi
Việt Nam – quốc gia ven bờ biển Đông cần phải tỉnh táo trong từng bước đi,
từng hành động để xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
tránh được những hệ lụy xã hội; xây dựng một nền kinh tế hùng mạnh, tự chủ,
đủ sức vượt qua mọi sóng gió, đưa con thuyền Việt Nam cập bến đỗ tương lai.
Đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với tình hình hiện nay là vấn
đề luôn được quan tâm trong công tác giáo dục ở nhà trường phổ thông. Nhưng
thực tế kết quả đem lại trong những năm gần đây chưa đáp ứng được yêu cầu đặt
ra của đất nước. Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020 đã định hướng: “Phát triển và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao là một đột phá
chiến lược”. Quyết định cũng nêu rõ: “Trên cơ sở đánh giá chương trình giáo
dục phổ thông hiện hành và tham khảo chương trình tiên tiến của các nước,
thực hiện đổi mới chương trình và sách giáo khoa từ sau năm 2015 theo định
hướng phát triển năng lực học sinh, vừa đảm bảo tính thống nhất trong toàn
quốc, vừa phù hợp với đặc thù mỗi địa phương”.
Bộ môn Lịch sử ở trường PTTH nói chung, THCS nói riêng với tư cách là
bộ môn khoa học xã hội có nhiều ưu thế góp phần tích cực vào thực hiện mục
tiêu giáo dục. Lịch sử là linh hồn của dân tộc, học Lịch sử giúp học sinh biết:
“Ứng xử với quá khứ thế nào và vận dụng quá khứ đó đối với cuộc sống hôm
nay và sau này. Lịch sử là cuộc đối thoại liên tục giữa quá khứ và hiện tại” (GS
Phan Huy Lê). Và hơn bao giờ hết, đã là người Việt Nam thì “Dân ta phải biết
sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” (chủ tịch Hồ Chí Minh). Tuy
1



nhiên, trong thời gian gần đây, chất lượng giáo dục nói chung, chất lượng dạy
học Lịch sử nói riêng lại đang là bức xúc lớn của xã hội. Muốn khắc phục và
giải quyết vấn đề trên, công việc hàng đầu là phải nâng cao chất lượng đào tạo
giáo viên Lịch sử trong các trường sư phạm và đổi mới chương trình, sách giáo
khoa. Từ đó, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các
nước phát triển trong khu vực và thế giới.
Sách giáo khoa là tài liệu cơ bản trong học tập của học sinh, là thước đo
phản ánh trình độ văn hóa, khoa học của một nước. Sách giáo khoa Lịch sử ở
trường phổ thông Việt Nam đã qua nhiều lần biên soạn, sửa chữa và đã có
những ưu điểm cả về nội dung và hình thức. Song sách giáo khoa hiện nay nhìn
chung vẫn còn những hạn chế. Do vậy, đổi mới chương trình, sách giáo khoa
đang là ưu tiên hàng đầu trong chương trình cải cách giáo dục của nước ta. Làm
thế nào để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, khắc phục tình trạng học
tập nặng nề, học thuộc lòng, học máy móc căng thẳng của học sinh, làm cho các
em trở nên yêu thích lịch sử, có hứng thú với môn học đang là cái đích hướng
đến của sách giáo khoa Lịch sử ở nước ta.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn vấn đề: “Mô
hình bài viết sách giáo khoa lịch sử ở trường THCS nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa và khả năng vận dụng vào Việt Nam ” làm đề tài luận văn cao
học của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Tài liệu nước ngoài
Thông qua nguồn tài liệu dịch, chúng tôi đã tiếp cận được một số công
trình sau:
Trên thế giới, văn hóa đọc sách xuất hiện từ rất sớm. Ngay từ thời cổ trung đại, con người đã biết sử dụng sách như một phương tiện học tập, nghiên
cứu, trau dồi kiến thức, rèn luyện tư tưởng. Sách giáo khoa ra đời trên cơ sở sự
phát triển của hệ thống trường học và sự đa dạng của các hình thức, phương
2



pháp dạy học. Sự có mặt của sách giáo khoa vào cuối thời kỳ cận đại đã tạo ra
một bước ngoặt quan trọng đối với sự tiến bộ giáo dục của nhân loại.
Từ những năm 20 của thế kỉ XX, “sách giáo khoa” đã bắt đầu thu hút sự
quan tâm của các nhà nghiên cứu. Đặc biệt ở Liên Xô, vào thời gian này, các
nhà khoa học giáo dục đã cố gắng điều chỉnh, chọn lọc để biên soạn những
“sách để làm việc” (sách giáo khoa) cho từng huyện, tỉnh và trong nước để đáp
ứng sự phát triển của đất nước. Nhưng phải đến những năm 50 của thế kỉ XX,
“sách giáo khoa” mới thực sự trở thành đề tài nhận được sự quan tâm lớn từ giới
nghiên cứu giáo dục. Đi đầu trong công cuộc này là các nhà giáo dục học và lý
luận dạy học Xô Viết như: E. Ia. Gôlan, I. A. Cairôp, B. P. Êxipôp, L. P.
Arictôva, N. G. Đairi, I. F. Kharlamôp,…
Năm 1957, Giáo sư E. Ia. Gôlan đã xuất bản cuốn sách “Những phương
pháp dạy học trong nhà trường Xô Viết” tại Mátxcơva. Trong cuốn sách này, tác
giả đã khẳng định vai trò quan trọng của việc sử dụng đa dạng các phương pháp
dạy học trong nhà trường Xô viết. Ngoài ra, tác giả còn nhấn mạnh tới ảnh
hưởng của việc sử dụng sách giáo khoa đối với việc chuẩn bị các bài tập ở nhà
của học sinh. Vấn đề mà E. Ia. Gôlan nghiên cứu tiếp tục được giải thích rõ hơn
phần nào trong một số cuốn giáo trình “Giáo dục học” thời đó.
Trong cuốn “Giáo dục học” do I. A. Cairôp chủ biên (xuất bản tại
Matxcơva, 1956) đã đề cập đến một số hình thức dạy học, trong đó có việc sử
dụng sách giáo khoa trong giờ lên lớp. Tuy nhiên, tác giả cho rằng sách giáo
khoa giống như một phương tiện hỗ trợ bài giảng của giáo viên đối với những
phần khó tiếp thu và chưa coi đó là một tài liệu cơ bản trong dạy học.
Trong bài viết “Hãy mở sách giáo khoa ra!” đăng trên “Báo giáo viên”,
tác giả B. P. Êxipôp và L. P. Arictôva đã chỉ ra những hạn chế trong việc sử
dụng sách giáo khoa trước đó: “gập sách giáo khoa lại trong mỗi giờ học”. Các
tác giả cho rằng: chỉ có thể phát triển “công tác tự lực của học sinh”, phát huy
tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh, khi các em phải mở sách

giáo khoa ra và áp dụng các hình thức làm việc khác nhau với sách. Quan điểm
3


này đã đánh dấu một bước ngoặt trong việc sử dụng rộng rãi sách giáo khoa và
hoàn thiện phương pháp làm việc với sách giáo khoa trong quá trình học tập ở
lớp tại Liên Xô trước đây.
Trong cuốn sách “Phát triển tư duy học sinh” của tập thể các tác giả M.
Alêchxêep – V. Onhisuc – M. Crugliac – V. Zabotin – X. Vacxcle (NXB Giáo
dục, 1976), tác giả M.Crugliac đã chỉ ra mối quan hệ mật thiết giữa tri thức và tư
duy. Ông cho rằng kiến thức cơ bản có trong sách giáo khoa chính là nền tảng
cho việc phát triển tư duy tích cực của học sinh dưới sự hướng dẫn của giáo viên
để phân tích và khái quát tài liệu có nội dung sự kiện cụ thể và rút ra được
những kết luận cần thiết đối với một bài học.
I. F. Kharlamôp trong cuốn “Phát huy tính tích cực học tập của học sinh
như thế nào” tập II (NXB Giáo dục, 1979) đã cho rằng việc sử dụng sách giáo
khoa và các tài liệu học tập giữ “một vị trí đáng kể” trong việc nắm vững kiến
thức nói chung và trong việc phát huy tính tích cực hoạt động trí tuệ của học
sinh nói riêng. Thông qua việc tóm lược quan điểm của các nhà nghiên cứu về
sách giáo khoa, tác giả đã chỉ ra bản chất của việc sử dụng sách giáo khoa và đề
xuất những yêu cầu cơ bản cần đảm bảo khi tổ chức làm việc với sách giáo khoa
trong quá trình lên lớp.
Tại Trung Quốc, các nhà giáo dục học luôn quan tâm tới việc biên soạn và
xuất bản những cuốn sách giáo khoa có giá trị tri thức, thẩm mĩ và tư tưởng.
Trong cuốn sách “Triết học giáo dục hiện đại” của Lương Vị Hùng, Khổng
Khang Hoa (NXB Chính trị, 2008), các tác giả đã nhấn mạnh tới đặc điểm của
giáo dục Trung Quốc là “…mọi chế độ giáo dục của quốc gia chỉ có một mục
tiêu là đào tạo những công dân phục tùng tuyệt đối lợi ích quốc gia”. Do đó,
sách giáo khoa – tài liệu bắt buộc, mang tính chất quốc gia cũng phải tuân thủ
nghiêm ngặt yêu cầu đó.

Năm 1969, tiến sĩ giáo dục Liên Xô N. G. Đairi đã xuất bản cuốn sách
“Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào?”, NXB Giáo dục Hà Nội đã dịch và phát
hành năm 1973. Trong cuốn sách này, ông đã trình bày những yêu cầu cụ thể
4


nhất và các công việc quan trọng phải làm trong việc chuẩn bị một giờ học lịch
sử theo hướng đổi mới của lý luận dạy học Xô viết: chuẩn bị giờ học nhằm phát
huy óc suy nghĩ độc lập và tính tích cực trong hoạt động nhận thức của học sinh.
Trong cuốn sách này, ông dành phần nhiều nội dung cho việc nghiên cứu về vai
trò của sách giáo khoa và cách sử dụng sách giáo khoa nhằm nâng cao hiệu quả
dạy học.
Cho đến nay, “nghiên cứu về sách giáo khoa” vẫn là đề tài thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, “đi tìm cuốn sách giáo khoa hoàn hảo” vẫn
là mơ ước của nền giáo dục Việt Nam.
2.2. Tài liệu trong nước
2.2.1. Tài liệu giáo dục học
Từ những năm 50 của thế kỉ XX, đã có nhiều công trình nghiên cứu về
sách giáo khoa ở nước ta với mục đích: phát huy tính tích cực, độc lập trong nhận
thức của học sinh, trang bị cho các em một phương tiện học tập tối ưu nhất.
Tác giả Trần Bá Hoành trong cuốn “Đổi mới phương pháp dạy học,
chương trình và sách giáo khoa” ( NXB Đại học Sư phạm, 2006) đã trình bày
cụ thể về việc tổ chức biên soạn, tiến độ triển khai, xuất bản và phát hành sách
giáo khoa. Ngoài ra, tác giả còn đưa ra những phân tích, đánh giá cá nhân về
chương trình, sách giáo khoa hiện nay với những mặt tiến bộ và hạn chế.
Trong cuốn “Giáo dục học 1” (NXB đại học sư phạm, 2007), do tác giả
Trần Thị Tuyết Oanh làm chủ biên cùng một số nhà nghiên cứu đã đưa ra và
phân biệt giữa các khái niệm: chương trình, sách giáo khoa và các tài liệu học
tập khác dùng chung trong các trường học do Nhà nước quy định. Đồng thời,
cuốn sách cũng trình bày cụ thể chức năng của sách giáo khoa đối với quá trình

dạy học và đưa ra những yêu cầu cơ bản đối với một cuốn sách giáo khoa.
Trong cuốn “Bài học là gì” (NXB Giáo dục, 2010), tác giả Hồ Ngọc Đại
đã sơ lược về sự ra đời, phát triển và khẳng định vai trò quan trọng của sách giáo
khoa trong lịch sử nền giáo dục của Việt Nam. Trên cơ sở đó, ông đưa ra những
yêu cầu, nguyên tắc xây dựng một bộ sách giáo khoa “không ai cảm thấy thừa”
[17; 244] cho mọi thời đại.
5


Trong “Báo cáo tổng hợp đánh giá quy trình, tính khoa học và tính sư
phạm của chương trình, sách giáo khoa mới cấp tiểu học và THCS” của đề tài
Khoa học Công nghệ độc lập cấp Nhà nước ĐTĐL – 2004/23 (Bộ GD&ĐT,
Viện chiến lược và chương trình giáo dục, 2006), chủ nhiệm đề tài là GS. TS
Nguyễn Hữu Tăng. Trong báo cáo này, các tác giả đã phân tích những ưu điểm
và nhược điểm của sách giáo khoa hiện nay, so sánh sách giáo khoa với những
giai đoạn trước đó ở từng môn học cấp tiểu học và THCS (lớp 6,7,8,9). Từ đó,
báo cáo đã đề xuất những kiến nghị cho quá trình xây dựng chương trình và sách
giáo khoa mới.
Cuốn sách “Xã hội với sách giáo khoa” tập V, do nhà xuất bản Giáo dục
phát hành năm 2007, là tập hợp các bài viết về việc đổi mới chương trình, sách
giáo khoa và công tác biên soạn, xuất bản sách giáo khoa trong nước được đăng
tải trên nhiều tạp chí của các tác giả khác nhau. Nhìn chung, các bài viết đều
nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của sách giáo khoa và tính cấp thiết của việc
đổi mới sách giáo khoa trong giai đoạn hiện nay.
Dưới sự chỉ đạo của Bộ Khoa học – Công nghệ, Viện chiến lược và
chương trình giáo dục đã tổ chức nghiên cứu đề tài độc lập cấp Nhà nước
“Nghiên cứu đánh giá chất lượng và hiệu quả triển khai đại trà chương trình
sách giáo khoa mới bậc Tiểu học và THCS trong phạm vi cả nước” (Báo cáo của
đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước mã số ĐTĐL-2004/23, 2007). Báo cáo
đã khẳng định tầm quan trọng của công tác tổ chức triển khai chương trình, sách

giáo khoa mới (2002 - 2012). Từ việc đánh giá chung về công tác chỉ đạo, quản
lý, triển khai chương trình, sách giáo khoa mới bậc tiểu học và THCS, các tác
giả đã chỉ ra một số nguyên nhân của những tồn tại, rút ra bài học kinh nghiệm
và hướng khắc phục trong công tác chỉ đạo, quản lí để nâng cao chất lượng, hiệu
quả triển khai chương trình, sách giáo khoa mới trong những năm tới.
Trong báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu Khoa học – Công nghệ cấp Bộ
“Thực trạng đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS theo chương trình và
sách giáo khoa mới” (mã số B2006 – 37 - 13), chủ nhiệm đề tài PGS. TS.
6


Nguyễn Thúy Hồng đã mô tả thực trạng đổi mới phương pháp dạy học ở trường
THCS Việt Nam gắn với chương trình và sách giáo khoa THCS hiện hành. Từ
đó, đề tài tập trung đi sâu vào nguyên nhân những thành tựu và bất cập trong
chương trình, sách giáo khoa THCS hiện hành và đề xuất những giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả đối mới phương pháp dạy học các môn học theo định hướng
tích cực hóa hoạt động học tập của người học ở trường THCS, minh họa qua 3
môn: Ngữ văn, Toán, Vật lí.
2.2.2. Tài liệu giáo dục lịch sử
Nghiên cứu về việc sử dụng sách giáo khoa trong dạy học lịch sử xuất
hiện khá sớm. Sự ra đời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (2/9/1945) sau thắng
lợi của cách mạng tháng Tám (1945), đã đặt cơ sở quan trọng cho việc nghiên
cứu sách giáo khoa lịch sử ở nước ta.
Trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử” (NXB Giáo dục, 1992), tái
bản có sửa chữa, bổ sung được xuất bản vào các năm: 1998, 1999, 2000, 2001
do giáo sư Phan Ngọc Liên và Trần Văn Trị chủ biên đã đề cập đến việc xây
dựng chương trình và biên soạn sách giáo khoa ở trường THPT.
Các nhà giáo dục lịch sử như: Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn
Thị Côi, trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử” tập 1, tập 2, NXB Đại học
Sư phạm Hà Nội, 2002 (tái bản có sửa chữa bổ sung năm 2009), đã xác định tầm

quan trọng của việc xây dựng chương trình và phương pháp biên soạn và sử
dụng sách giáo khoa. Qua đó, khẳng định vai trò của sách giáo khoa lịch sử
trong quá trình dạy học bộ môn.
Trong “Báo cáo thẩm định chương trình sách giáo khoa mới” của đề tài
“đánh giá quy trình, tính khoa học và tính sư phạm của chương trình, sách giáo
khoa mới môn lịch sử cấp THCS” - đề tài Khoa học Công nghệ độc lập cấp Nhà
nước ĐTĐL – 2004/23 (Bộ GD&ĐT, Viện chiến lược và chương trình giáo dục,
2006), chủ tịch hội đồng: GS Đinh Xuân Lâm; các tác giả đã tập trung đi sâu
phân tích những vấn đề chung của chương trình THCS, mục tiêu của bộ môn và

7


nội dung của chương trình. Từ đó, đưa ra những kiến nghị cho việc xây dựng
chương trình và sách giáo khoa môn lịch sử bậc THCS (lớp 6,7,8,9).
Bộ Giáo dục – Đào tạo vừa đưa vào thí điểm cuốn giáo trình “Hướng dẫn
dạy học các khóa trình lịch sử ở trường THCS” (Dự án đào tạo giáo viên THCS
– LOAN NO 1718 – VIE (SF)), chủ biên PGS. TS Nguyễn Hữu Chí. Trong
cuốn sách này, các tác giả đã khẳng định sự cần thiết phải thay đổi chương trình,
sách giáo khoa lịch sử THCS. Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa chương
trình, sách giáo khoa THCS Việt Nam với sự thay đổi của thế giới, sự phát triển
của dân tộc, các tác giả đã đưa ra những định hướng phát triển mới trong việc
xây dựng chương trình và biên soạn sách giáo khoa lịch sử THCS.
Ngày 10/5/2013, Hội thảo chuyên gia về sách giáo khoa Lịch sử ở trường
phổ thông đã được tổ chức tại Hà Nội. Hội thảo có 17 tham luận đều tập trung
giải mã các vấn đề như: quan niệm về sách giáo khoa, phân bổ môn Lịch sử theo
các cấp học của hệ thống giáo dục phổ thông, cấu trúc sách giáo khoa Lịch sử,
bố cục và trình bày sách giáo khoa, tổ chức biên soạn sách giáo khoa sau năm
2015. Kết thúc hội thảo, các chuyên gia đều thống nhất với việc thời gian tới sẽ
viết lại một số bài học theo quan điểm mới để thử nghiệm ở trường phổ thông.

Qua đó đánh giá tính hiệu quả cũng như đưa ra sự điều chỉnh cần thiết cho việc
xây dựng chương trình, sách giáo khoa mới.
Bên cạnh đó, vấn đề này còn được nêu lên trong nhiều tài liệu nội bộ, bài
đăng trên tạp chí chuyên ngành:
- “Các tiêu chí đánh giá sách giáo khoa” Tài liệu từ hội nghị chuyên đề
về soạn thảo sách giáo khoa do UNESSCO tổ chức tại Học viện Giáo dục DAR
– ES – SALAAM, Tanzania, tháng 12/1978 (Nguyễn Quế Sơn dịch, Nguyễn
Ngọc Nhị hiệu đính).
- “Kinh nghiệm Đairi với việc dạy môn sử” của hai tác giả Lương Ninh và
Nguyễn Thị Côi đăng trên Tạp chí nghiên cứu giáo dục, số 8, 1988.
- “Vấn đề đặt câu hỏi trong sách giáo khoa” của Nguyễn Đình Chỉnh (Vụ
giáo dục, Bộ Giáo dục – Đào tạo).
8


- “Về sách giáo khoa Lịch sử ở phổ thông trung học (chương trình cải cách)”
của tác giả Nguyễn Thị Côi đăng trên Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 3, 1993.
- “Một số vấn đề lí luận và thực tiễn biên soạn sách giáo khoa lịch sử
THCS” của tác giả Nghiêm Đình Vỳ đăng trên tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số
98, 2004.
- “Một vài kinh nghiệm về đổi mới biên soạn sách giáo khoa lịch sử” của
tác giả Phan Ngọc Liên đăng trên tạp chí Giáo dục, số 7, 2004.
- “Một số yêu cầu về xây dựng chương trình và biên soạn sách giáo khoa
lịch sử” của tác giả Phan Ngọc Liên đăng trên tạp chí giáo dục, số 126, 2005.
- “Bàn về sách giáo khoa lịch sử” của tác giả Vũ Dương Ninh đăng trên
tạp chí Xưa & Nay, số 223, 2004.
- “Triết lí giáo dục Trung Quốc” của thạc sỹ Bùi Đức Thiệp (Việc chiến
lược và Chương trình giáo dục) đăng trên tạp chí khoa học giáo dục số 14, tháng
11/2006.
- “Vấn đề phân hóa trong giáo dục phổ thông Trung Quốc” của ThS. Bùi

Đức Thiệp (Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục), đăng trên tạp chí Khoa
học Giáo dục số 23 - tháng 8/2007, số 24 – tháng 9/2007.
- “Dạy học dựa vào đặc điểm tiếp nhận thông tin của người học” của TS.
Đinh Thị Kim Thoa – Lê Thái Hưng (Đại học Quốc gia Hà Nội) đăng trên tạp
chí khoa học giáo dục số 23, tháng 8 – 2007.
- “Cải cách giáo dục – phương thức cơ bản của phát triển giáo dục trong
thế giới hiện đại” của PGS. TS Đặng Thành Hưng (Viện Chiến lược và Chương
trình giáo dục) đăng trên tạp chí khoa học giáo dục số 23, tháng 8/2007.
- Kỷ yếu “Hội thảo khoa học quốc gia về dạy - học Lịch sử ở trường phổ
thông Việt Nam” tại Đà Nẵng, 8/2012.
Ngoài ra, trong một số luận văn thạc sỹ của các học viên, LATS của các
nghiên cứu sinh khoa lịch sử (trường Đại học Sư phạm Hà Nội), đề tài Khoa học
– Công nghệ cấp Nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã đề cập đến các

9


khía cạnh khác nhau của việc sử dụng sách giáo khoa lịch sử vào việc nâng cao
hiệu quả dạy học. Có thể kể đến một số đề tài:
- “Sách giáo khoa của trường PTTH Việt Nam từ 1954 đến nay” (LATS
Giáo dục : 05.07.02), Phạm Thị Kim Anh, Đại học Quốc gia Hà Nội - Trường
Đại học Sư phạm, Hà Nội, 1998.
- “Nghiên cứu phương thức bồi dưỡng giáo viên tiểu học và THCS đáp
ứng chương trình SGK mới” (đề tài Khoa học – Công nghệ cấp Nhà nước mã số
B2001 – 49 - 04), chủ nhiệm PGS. TSKH Cao Đức Tiến, Hà Nội, tháng 4/2003.
- “Nghiên cứu những ưu tiên trong phát triển và cải cách giáo dục phổ
thông ở châu Á” (Luận văn thạc sỹ giáo dục) của tác giả Dương Thị Lan Hương,
Hà Nội, 2004.
- “Các giải pháp triển khai chương trình và SGK mới vào vùng dân tộc
thiểu số miền núi” của tác giả Nguyễn Anh Dũng (Viện chiến lược và chương

trình giáo dục), 2007.
Những công trình trên ít nhiều đã khái quát tầm quan trọng của sách giáo
khoa trong dạy học lịch sử nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
trong nhận thức của học sinh và đề xuất những định hướng mới cho sách giáo
khoa lịch sử THCS. Tuy nhiên, số lượng các công trình tập trung nghiên cứu về
bài viết trong sách giáo khoa lịch sử THCS mới vẫn còn rất ít. Cho nên những
tài liệu trên sẽ là nguồn tư liệu quý báu để chúng tôi thực hiện đề tài này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Quá trình tìm hiểu mô hình bài viết
sách giáo khoa lịch sử trường THCS nước CHND Trung Hoa và khả năng vận
dụng vào Việt Nam thông qua mô hình bài viết sách giáo khoa Lịch sử 6 (THCS).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi, giới hạn của đề tài: do hạn chế về thời gian, trình độ bản thân; đề
tài không có tham vọng tìm hiểu các vấn đề về sách giáo khoa lịch sử THCS của
nước CHND Trung Hoa, mà chỉ tập trung nghiên cứu mô hình bài viết của sách
10


giáo khoa qua ví dụ lớp 7. Từ đó rút ra những kinh nghiệm có khả năng vận
dụng vào Việt Nam.
Để có cơ sở vận dụng những kinh nghiệm tốt từ mô hình bài viết trong
sách giáo khoa lịch sử THCS qua ví dụ lớp 7 (tương đương với lớp 6 ở Việt
Nam) của CHND Trung Hoa, đề tài còn tìm hiểu một số vấn đề cơ bản về
chương trình, cách biên soạn và nội dung sách giáo khoa lịch sử lớp 6 THCS của
Việt Nam để rút ra những ưu điểm và hạn chế.
Trên cơ sở học tập những kinh nghiệm tốt trong mô hình bài viết từ sách
giáo khoa lịch sử THCS của CHND Trung Hoa, đề tài đã đề xuất mô hình bài
viết trong sách giáo khoa lịch sử lớp 6 THCS của Việt Nam và tiến hành thực
nghiệm sư phạm ở trường THCS Hoàng Văn Thụ (thành phố Lạng Sơn, tỉnh

Lạng Sơn) để chứng minh tính khả thi của đề tài.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở khẳng định vai trò, ý nghĩa của sách giáo khoa lịch sử nói
chung của sách giáo khoa lịch sử nói riêng, đề tài đi sâu tìm hiểu mô hình bài
viết trong sách giáo khoa lịch sử lớp 7 ở trường THCS của nước CHND Trung
Hoa. Từ đó, rút ra những kinh nghiệm có thể vận dụng vào Việt Nam và đề xuất
mô hình bài viết trong sách giáo khoa lịch sử lớp 6 ở trường THCS Việt Nam.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, đề tài cần thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tìm hiểu những lý luận về việc xây dựng và biên soạn sách giáo khoa
lịch sử THCS ở Việt Nam.
- Điều tra thực tế việc sử dụng sách giáo khoa lịch sử nói chung, lớp 6 nói
riêng trong quá trình dạy học ở một số trường THCS để thấy được mặt ưu điểm
và hạn chế của sách giáo khoa hiện hành.
- Tìm hiểu mô hình bài viết trong sách giáo khoa lịch sử THCS ở CHND
Trung Hoa và rút ra bài học kinh nghiệm có khả năng vận dụng vào Việt Nam.

11


- Đề xuất mô hình bài viết trong sách giáo khoa lịch sử lớp 6 THCS Việt
Nam trên cơ sở học tập kinh nghiệm của CHND Trung Hoa.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi của những
đề xuất đưa ra.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là:
- Những quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênnin về nhận thức và
giáo dục; quan điểm đường lối của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác

giáo dục đào tạo nói chung, giáo dục lịch sử nói riêng.
- Lý luận về tâm lý học, giáo dục học, phương pháp dạy học lịch sử của
các nhà giáo dục và giáo dục lịch sử liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu các tác phẩm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh bàn về giáo dục, giáo dục lịch sử.
Nghiên cứu các công trình của các nhà tâm lí, giáo dục, giáo dục lịch sử
và những tài liệu lịch sử có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Điều tra thực tế ở trường THCS qua: dự giờ, quan sát, điều tra xã hội học,
trao đổi thảo luận với giáo viên, cán bộ quản lí giáo dục để thấy được thực tế
việc sử dụng sách giáo khoa lịch sử lớp 6 trong dạy học ở trường THCS.
Nghiên cứu nội dung chương trình, sách giáo khoa lịch sử lớp 6 THCS ở
Việt Nam và Trung Hoa. Đề xuất mô hình bài viết trong sách giáo khoa lịch sử
lớp 6 trên cơ sở học tập kinh nghiệm của nước Trung Hoa.
Soạn giáo án, tiến hành thực nghiệm sư phạm ở trường THCS để khẳng
định tính khả thi của mô hình bài viết đã đưa ra.
6. Giả thuyết khoa học
Chất lượng dạy học lịch sử ở trường THCS sẽ được nâng cao nếu xây
dựng mô hình bài viết trong sách giáo khoa lịch sử trên cơ sở học tập sáng tạo
kinh nghiệm của CHND Trung Hoa theo những yêu cầu đề tài đưa ra.
7. Đóng góp của đề tài

12


- Khẳng định rõ tầm quan trọng của việc biên soạn sách giáo khoa lịch sử
nói chung, bài viết trong sách giáo khoa nói riêng.
- Chỉ ra cấu trúc biên soạn bài viết trong sách giáo khoa lịch sử ở trường
THCS qua ví dụ lớp 7 THCS của CHND Trung Hoa và rút ra những kinh
nghiệm tốt có khả năng vận dụng vào Việt Nam. Từ đó, đề xuất mô hình bài viết

trong sách giáo khoa lịch sử ở trường THCS của Việt Nam qua ví dụ lớp 6 trên
cơ sở học tập kinh nghiệm của Trung Hoa.
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
8.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm phong phú lý luận dạy học bộ
môn về vấn đề biên soạn và sử dụng sách giáo khoa lịch sử ở trường phổ thông
nói chung, THCS nói riêng.
8.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài giúp bản thân nắm vững hơn thực tế giảng
dạy, nắm vững kiến thức lịch sử, kiến thức lý luận dạy học bộ môn, đặc biệt là
việc sử dụng sách giáo khoa trong dạy học bộ môn của bản thân sau này. Đồng
thời, kết quả nghiên cứu của đề tài cũng góp một ý kiến vào vấn đề đổi mới việc
biên soạn sách giáo khoa sau này.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài bao gồm 32
chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tìm hiểu mô hình bài viết
trong sách giáo khoa lịch sử THCS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Chương 2. Tìm hiểu mô hình bài viết trong sách giáo khoa lịch sử ở
trường THCS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Chương 3. Xây dựng mô hình bài viết trong sách giáo khoa lịch sử lớp 6
ở trường THCS Việt Nam trên cơ sở kinh nghiệm về việc biên soạn sách giáo
khoa ở trường THCS nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa

13


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÌM HIỂU
MÔ HÌNH BÀI VIẾT TRONG SÁCH GIÁO KHOA LỊCH SỬ Ở

TRƯỜNG THCS NƯỚC CỘNG HÒA NHÂN DÂN TRUNG HOA
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Quan niệm về sách giáo khoa Lịch sử ở trường THCS
1.1.1.1. Quan niệm về sách giáo khoa
Ngay từ thời cổ đại, con người đã biết sử dụng “sách” như một công cụ
học tập, nghiên cứu. Nhà văn Maksim Gorky đã từng viết: “Sách là kỳ công
phức tạp và vĩ đại nhất trong tất cả các kỳ công tuyệt diệu mà loài người sáng
tạo ra trên con đường tiến tới hạnh phúc và tương lai tươi sáng”. Sách trở thành
phương tiện không thể thiếu trong quá trình phát triển của xã hội loài người.
Sách giáo khoa ra đời là tất yếu khi giáo dục trở thành chìa khóa thành công của
nhiều quốc gia. Thuật ngữ “sách giáo khoa” bắt đầu xuất hiện từ đó.
Ở Liên Xô, thuật ngữ “Sách giáo khoa” lần đầu xuất hiện vào những năm
20 của thế kỉ XX với tên gọi “sách để làm việc”. Nhưng phải đến những năm 50
của thế kỉ XX, thuật ngữ “sách giáo khoa” mới chính thức được sử dụng rộng
rãi và trở thành đề tài nhận được sự quan tâm lớn từ giới nghiên cứu giáo dục
[25; 33 - 34]. Đi đầu trong công cuộc này là các nhà giáo dục học và lý luận dạy
học như: E. Ia. Gôlan, I. A. Cairôp, B. P. Êxipôp, L. P. Arictôva, N. G. Đairi, I.
F. Kharlamôp,… Tuy giữa các tài liệu nghiên cứu vẫn còn một số ý kiến chưa
thống nhất về nguyên tắc xây dựng, cách biên soạn, cấu tạo và nội dung cụ thể
của “sách giáo khoa”. Nhưng tất cả các công trình khoa học đó đều có chung
quan điểm: “Sách giáo khoa là loại sách cung cấp kiến thức, được biên soạn với
mục đích dạy và học” [28; 339]. Do đó, việc biên soạn sách giáo khoa phải đáp
ứng những yêu cầu riêng của từng quốc gia.
Trong cuốn “Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế nào” tập
II, I. F. Kharlamôp đã chỉ ra rằng: “Sách, tài liệu học tập và tài liệu khoa học là
14


nguồn vô tận các kiến thức nhiều mặt, là phương tiện quan trọng để nhận thức
thế giới xung quanh” [25; 55]. Trong đó, sách giáo khoa là “một trong những

nguồn kiến thức quan trọng đối với học sinh. Song nó cũng có tác động như một
phương tiện hiệu nghiệm để củng cố tài liệu học tập và phát huy tính tích cực
trong hoạt động trí tuệ của học sinh” [25; 34].
Trong luận án “Sách giáo khoa Lịch sử Nga cuối thế kỷ XX – đầu thế kỷ
XXI ở Nga” bảo vệ năm 2002, tác giả Aleksei Orlovsky Yakovlevich đưa ra
quan điểm về sách giáo khoa Nga như sau: sách giáo khoa “là nơi chuyển tải
không chỉ nội dung mà còn có cả hệ thống các phương pháp đào tạo. Nó là một
phương tiện để tổ chức quá trình giáo dục trong việc giáo dục công dân và giáo
dục lòng yêu nước, yêu quê hương mình” [1; 2].
Trung Quốc được biết đến là một trong những quốc gia đầu tiên phát
minh ra “sách”. Điều đó cho thấy: ngay từ sớm, quốc gia này đã có ý thức sâu
sắc về việc phát triển giáo dục. Cho đến nay, rất nhiều nước trên thế giới vẫn
chịu ảnh hưởng tư tưởng của văn hóa Trung Hoa, trong đó có Việt Nam. Tại
đây, các nhà giáo dục học, giáo dục Lịch sử cũng luôn quan tâm đến việc biên
soạn những bộ sách giáo khoa hay, có giá trị bền vững. Theo các nhà giáo dục
học Trung Quốc: “Sách giáo khoa theo nghĩa hẹp là tài liệu quan trọng để
giảng dạy trong một khóa học. Nó có ảnh hưởng sâu sắc đến việc nâng cao kiến
thức, kỹ năng và các hoạt động tư tưởng, đạo đức của con người” [37]. Và
“Sách giáo khoa nói chung là kết quả nghiên cứu, tổng hợp hệ thống kiến thức
khoa học đã được kiểm nghiệm, được thể hiện bằng ngôn ngữ dễ hiểu, ngắn
gọn” [37]. Sách giáo khoa là tài liệu mang tính chất quốc gia, vì thế: “Việc lựa
chọn sách giáo khoa trong dạy học phụ thuộc vào quan điểm, điều kiện của
từng trường, từng địa phương, nhưng đều phải đảm bảo tính toàn diện, hệ thống
và chính xác. Sách giáo khoa trước khi được phát hành rộng rãi trong xã hội
cần phải thông qua xác nhận của ngành giáo dục; sau khi thử nghiệm, sửa đổi,
sẽ được chính thức đưa vào sử dụng” [37]. Mỗi cấp học, cách biên soạn và yêu
cầu đối với sách giáo khoa cũng có sự khác nhau: “ Sách giáo khoa tiểu học và
15



trung học thường nhấn mạnh các định mức, tiêu chuẩn và thống nhất ”[37].
Biên soạn và xuất bản những cuốn sách giáo khoa có giá trị tri thức, thẩm mĩ và
tư tưởng luôn là cái đích hướng đến của ngành giáo dục Trung Hoa.
Vào đầu thế kỉ XIX, thuật ngữ “sách giáo khoa” bắt đầu được sử dụng ở
Việt Nam. “Sách giáo khoa” xuất hiện đồng thời với quá trình xâm lược của
thực dân Pháp đối với nước ta. Với kinh nghiệm của một nước thực dân nhà
nghề, Pháp hiểu rõ sức mạnh của giáo dục và họ đã sử dụng giáo dục như một
công cụ đắc lực để cai trị Đông Dương. “Quốc văn giáo khoa thư” được xem
như bộ sách giáo khoa đầu tiên do người Việt biên soạn có hệ thống trong thời
kì này. Bộ sách giáo khoa gồm ba tập, dùng cho lớp đồng ấu (tập I), lớp dự bị
(tập II), lớp sơ đẳng (tập III), xuất bản năm 1928 được “Nha Học Chính Ðông
Pháp” giao cho ông Trần Trọng Kim (trưởng ban Văn Học của Hội Khai Trí
Tiến Ðức), ông Nguyễn Văn Ngọc (phụ trách Tu Thư Cục của Nha Học Chánh),
ông Ðặng Ðình Phúc (ban Tu Thư của Phủ Thống Sứ) và ông Ðỗ Thận (hiệu
trưởng trường Tiểu Học kiêm bị ở Quảng-Yên (Bắc Việt)) biên soạn [42].
“Quốc văn giáo khoa thư” ra đời đã đánh dấu sự thắng lợi lớn của tiếng Việt
trước sức chèn ép lần lượt của chữ Hán và tiếng Pháp. Thắng lợi của cách mạng
tháng Tám năm 1945 mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc – nước
Việt Nam độc lập ra đời, đánh dấu bước phát triển mới của giáo dục. Tuy nhiên,
vào thời điểm đó, sự tồn tại hai chính quyền đối lập giữa hai miền Nam – Bắc đã
tạo ra sự khác biệt về giáo dục, biểu hiện cụ thể là sách giáo khoa. Có thể kể đến
một số tác giả đã có đóng góp lớn trong việc biên soạn sách giáo khoa ở nước ta
thời kì này: Hoàng Xuân Hãn, Dương Quảng Hàm,… Năm 1975, “Mỹ cút, Ngụy
nhào”, non sông thu về một mối, đây là điều kiện thuận lợi để thống nhất giáo
dục quốc gia. Việc xây dựng và phát triển nhà nước mới đặt ra yêu cầu cấp bách
phải có bộ sách giáo khoa hoàn chỉnh cho các cấp học. Cũng từ đây, thuật ngữ
“sách giáo khoa” ngày càng thu hút đông đảo các nhà giáo dục nói chung, các
nhà giáo dục lịch sử nói riêng tham gia nghiên cứu. Đến nay, “sách giáo khoa”
nói chung, “sách giáo khoa Lịch sử” nói riêng vẫn là trung tâm chú ý của dư
16



luận giáo dục và dư luận xã hội. Trong nhiều năm trở lại đây, bên cạnh lý luận
về: phương pháp dạy học, kế hoạch dạy học, chương trình dạy học,…của khoa
học giáo dục Lịch sử; lý luận về “sách giáo khoa” cũng được chú tâm và ngày
càng hoàn thiện.
Trong cuốn “Giáo dục học tập 1”, các nhà giáo dục học khi nghiên cứu
về vai trò và cách biên soạn sách giáo khoa đã chỉ ra rằng: “Sách giáo khoa là
hình thái vật chất của môn học, của nội dung học vấn mà môn học thể hiện” [78;
196]. Như vậy, sách giáo khoa là phương tiện quan trọng nhất trong quá trình
dạy - học. Tuy nhiên, sách giáo khoa khác với chương trình và các tài liệu học
tập khác: “Nếu chương trình dạy học quy định phạm vi dạy học của các môn
học; thì sách giáo khoa có nhiệm vụ trình bày nội dung của môn học một cách
rõ ràng, cụ thể và chi tiết với cấu trúc xác định” [60; 196]. Để đảm bảo nâng
cao hiệu quả trong dạy học trong nhà trường, sách giáo khoa phải đáp ứng yêu
cầu sau: “…phải trình bày những nội dung cơ bản, những thông tin cần thiết,
vừa sức đối với học sinh và theo một hệ thống chặt chẽ” [60; 196].
Còn theo tác giả Hồ Ngọc Đại trong cuốn “Bài học là gì?”: “Sách giáo
khoa là chứng cớ nói lên quá trình phát triển của mỗi em trong quá trình giáo
dục. Nó phản ánh được sự phân hóa, cá thể hóa quá trình giáo dục mà vẫn đảm
bảo được những yêu cầu cơ bản nhất của quá trình giáo dục nói chung” [17;
242]. Sách giáo khoa là tài liệu dạy – học cơ bản trong nhà trường, “sách giáo
khoa không có sẵn, nó được tạo ra trong quá trình giáo dục, là kết quả chung
của một quá trình thống nhất mà thầy giáo và học sinh mỗi bên có một vai trò
tất yếu như nhau” [17; 242].
TS. Hồ Thiệu Hùng trong bài viết “Đổi mới sách giáo khoa để chấn hưng
giáo dục” (TP. Hồ Chí Minh, 03/2012) cho rằng: sách dành cho học sinh, sinh
viên gồm hai loại: sách giáo khoa và sách tham khảo. Trong đó, “Loại thứ nhất sách giáo khoa là loại sách đúc kết các “chân lý” đã được thử nghiệm trong
lịch sử đấu tranh thiên nhiên, đấu tranh xã hội và đấu tranh với bản thân của
con người, đã đứng vững qua thử thách khắc nghiệt của cuộc sống, của thời

17


gian, được các thế hệ học giả sàng lọc, bổ sung, sửa đổi lại từ đời này qua đời
khác” [31]. Sách giáo khoa xuất hiện đã tạo ra một bước đột phá lớn trong nền
giáo dục của nhân loại. Bước vào thế kỉ mới, cùng với sự phát triển không
ngừng nghỉ của thế giới, sách giáo khoa dường như trở nên lạc hậu với thời
cuộc, chúng ta có thể thấy rõ qua đánh giá của tác giả: “Sách giáo khoa hiện
chiếm vai trò gần như độc tôn trong nhà trường phổ thông ở bậc thấp nhưng
càng lên cao, vị thế này càng yếu dần vì loại sách tham khảo bắt đầu đứng chân
vững vàng hơn do tính sống động, mới mẻ, linh hoạt và đa dạng hơn của nó”
[31]. Từ đó, tác giả khẳng định: việc xây dựng một bộ sách giáo khoa hay là
điều cần thiết để chấn hưng nền giáo dục Việt Nam.
Trong Luật Giáo dục nước ta có quy định rõ: “Sách giáo khoa do Bộ Giáo
dục và Đào tạo tổ chức biên soạn và duyệt trên cơ sở thẩm định của Hội đồng
Quốc gia thẩm định sách giáo khoa để sử dụng chính thức, thống nhất, ổn định
trong giảng dạy, học tập ở nhà trường và các cơ sở giáo dục khác” [51; 19]. Như
vậy, sách giáo khoa là tài liệu cơ bản trong dạy – học của thầy - trò, được biên
soạn theo chương trình và quán triệt mục tiêu đào tạo đã được xác định. Sách giáo
khoa phải thể hiện những yêu cầu, nội dung cụ thể của chương trình; tuy nhiên
trong quá trình biên soạn tác giả vẫn có thể điều chỉnh một cách hợp lý.
Sách giáo khoa là loại sách được dùng phổ biến nhất trong tất cả các loại
sách. Loại sách này có những đối tượng sử dụng riêng. Nếu không có sách giáo
khoa, những đối tượng này sẽ không thể thực hiện được nhiệm vụ học tập của
mình trong một thời kỳ nhất định. Trong quá trình lĩnh hội tri thức từ sách giáo
khoa, đối tượng phát triển được các năng lực của bản thân.
Sách giáo khoa là “tài liệu tiếp nối của chương trình, cụ thể hóa những
quy định của chương trình về mục tiêu môn học, về phạm vi, số lượng và mức
độ của các đơn vị kiến thức… Chính vì vậy, sách giáo khoa là tài liệu quan
trọng nhất trong nhà trường, được dùng trong việc học tập ở lớp, ở nhà của học

sinh, đồng thời được sử dụng trong quá trình chuẩn bị bài và tiến hành dạy học

18


của giáo viên” [68;18]. Quan niệm dạy học, quan niệm chương trình như thế nào
thì sẽ có sách giáo khoa tương ứng.
“Ở một ý nghĩa nào đó, sách giáo khoa Lịch sử ra đời sớm hơn các công
trình nghiên cứu sử học; bởi vì việc giảng dạy lịch sử xuất hiện trước khi khoa
học lịch sử hình thành và phát triển”[71; 52]. Chính vì vậy, sách giáo khoa Lịch
sử được đánh giá như một công trình nghiên cứu khoa học, chủ yếu về khoa học
giáo dục. Mục tiêu của sách giáo khoa Lịch sử không phải phát hiện những
điểm, những vấn đề mới về lịch sử dân tộc và lịch sử loài người như một công
trình sử học; mà giải quyết tốt nhất việc cung cấp những kiến thức cơ bản, hiện
đại cho học sinh, phù hợp với chương trình [69]. Từ sau cách mạng thánh Tám
(1945), nhất là từ sau Cải cách giáo dục lần thứ nhất (1950), cùng với việc cải
tạo và xây dựng chương trình lịch sử ở trường phổ thông, việc biên soạn sách
giáo khoa mới được chú trọng. Có thể kể đến những nhà nghiên cứu tiêu biểu:
Hoàng Xuân Hãn, Tạ Quang Bửu, Đào Duy Anh, Phan Ngọc Liên,…
Trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử tập 1” các nhà giáo dục Lịch
sử đã đưa ra khái niệm sau: “Sách giáo khoa là tài liệu cơ bản trong học tập (tự
học) của học sinh, nên được biên soạn theo chương trình và quán triệt mục tiêu
đào tạo đã được xác định” [48; 88]. Do đó, “Kiến thức trình bày trong sách
giáo khoa phải đạt yêu cầu chuẩn mực cho việc truyền thụ, giáo dục, cho các
hình thức đánh giá, kiểm tra học sinh”[48; 89]. Sách giáo khoa không chỉ là
công cụ học tập quan trọng của học sinh; mà còn là phương tiện chính trong
giảng dạy của người thầy. Vì vậy, người thầy cần hết sức chú ý khi khai thác nội
dung trong sách giáo khoa để đạt hiệu quả tối ưu; bởi “Sách giáo khoa không
phải là “giáo án”, “bài giảng” để thầy đọc cho học sinh chép mà là một
phương án đáng tin cậy để thầy soạn bài hướng dẫn khi học tập”[48; 89].

“Sách giáo khoa Lịch sử ở trường THCS” dành cho học sinh trong lứa
tuổi 12 – 15 (tuổi). Tuy sách giáo khoa ở bậc học này có những đặc điểm khác
so với bậc tiểu học và THPT. Nhưng đều phải tuân thủ những nguyên tắc sau:
sách giáo khoa phải đáp ứng mục tiêu của bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông;
19


về mặt kiến thức: phải đảm bảo nguyên tắc “hiện đại, cơ bản, phù hợp thực tiễn
Việt Nam”; về mặt phát triển: nội dung sách giáo khoa phải phù hợp với trình độ
nhận thức và đặc điểm tâm lý, lứa tuổi của học sinh cấp THCS, phải đảm bảo
việc phát huy tính tích cực, độc lập nhận thức của các em; về mặt giáo dục: sách
giáo khoa được biên soạn dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về lịch sử và nhận thức lịch sử,… Khi
biên soạn sách giáo khoa, người viết cần vận dung sáng tạo những quan điểm
trên, mặt khác, phải biểu lộ thái độ, tình cảm khách quan, đúng đắn của mình đối
với những sự kiện, hiện tượng và nhân vật lịch sử. Bởi lẽ “lịch sử là cô giáo của
cuộc sống”, “là bó đuốc soi đường đi tới tương lai”. Tri thức lịch sử không chỉ
có tác dụng giáo dục trí tuệ mà còn giáo dục cả tình cảm, tư tưởng, góp phần đào
tạo con người toàn diện.
Như vậy, sách giáo khoa nói chung, sách giáo khoa Lịch sử nói riêng là
tài liệu học tập và giảng dạy cơ bản không thể thiếu đối với học sinh và giáo
viên ở trường phổ thông. Dù sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ đã
đem đến cho chúng ta rất nhiều phương tiện, thiết bị hỗ trợ dạy – học. Nhưng
không một công cụ nào có thể thay thế hoàn toàn vị trí của sách giáo khoa. Qua
những ý kiến trên, chúng tôi thấy rằng: sách giáo khoa có vai trò đặc biệt quan
trọng trong dạy học nói chung, dạy học lịch sử nói riêng ở trường phổ thông.
Làm thế nào để “sách giáo khoa” trở thành “người bạn đồng hành” được yêu
thích của học sinh và giáo viên luôn là trăn trở và mục tiêu hướng đến của
những người viết sách.
1.1.1.2. Cấu tạo sách giáo khoa Lịch sử

Cho đến nay, vẫn có nhiều quan niệm khác nhau về cấu tạo sách giáo
khoa nói chung và sách giáo khoa Lịch sử nói riêng. Về cấu tạo sách giáo khoa
Lịch sử, hiện tại có hai quan niệm cơ bản sau đây:
Quan niệm thứ nhất: phân chia nội dung sách giáo khoa thành hai
phần – “kênh chữ” và “kênh hình”.

20


Kênh chữ “là những thông tin thành văn chủ yếu được dùng trong sách
giáo khoa để trình bày nội dung tri thức của môn học, chỉ dẫn về phương pháp
học tập về đánh giá, kiểm tra kết quả học tập của học sinh” [48; 90].
Kênh hình bao gồm những ảnh chụp, tranh vẽ, hình vẽ, sơ đồ, đồ thị,…
Theo chức năng hoặc mục đích sử dụng, kênh hình được chia thành 5 loại sau:
loại minh họa để cụ thể hóa nội dung một sự kiện quan trọng; loại cung cấp
thông tin; loại vừa cung cấp thông tin, vừa minh họa cho kênh chữ; loại dùng để
rèn luyện kĩ năng thực hành, kiểm tra kiến thức.
Cách phân chia theo quan niệm này nhấn mạnh ý nghĩa về mặt thông tin
để học sinh nhận thức, nhấn mạnh nội dung bài học, song chưa làm rõ chức
năng, nhiệm vụ của mỗi phần trong sách giáo khoa lịch sử.
Quan niệm thứ hai: phân chia nội dung sách giáo khoa thành hai phần
– “bài viết” và “cơ chế sư phạm”. Quan niệm này có tính chất “cổ điển”, song
thể hiện tính sư phạm của việc biên soạn và sử dụng sách giáo khoa.
Bài viết “…là nội dung cơ bản của chương trình được trình bày ngắn gọn
trong một số trang cho mỗi tiết học. Đây là bộ phận chủ yếu của sách giáo khoa
mà học sinh phải nghiên cứu, nắm vững các kiến thức cơ bản, được lựa chọn
phù hợp với yêu cầu học tập” [48; 91].
Cơ chế sư phạm “chỉ tất cả những thành tố trong sách giáo khoa, trừ bài
viết, dành cho một tiết học, bao gồm các câu hỏi, bài tập, tư liệu tham khảo, bài
đọc thêm, phần minh họa (tranh ảnh), bản đồ, các loại đồ dùng trực quan quy

ước khác (sơ đồ, biểu đồ, đồ thị)… Có thể xem đây là một nội dung của sách
giáo khoa không chỉ minh họa, hỗ trợ cho bài học mà còn là nguồn kiến thức
cung cấp cho học sinh trong học tập” [48; 91].
Dù phân chia theo cách nào cũng có thể thấy rằng tất cả các thành tố trong
sách giáo khoa nói chung, sách giáo khoa lịch sử nói riêng đều thực hiện nhiệm
vụ bồi dưỡng nhận thức, phát triển năng lực và giáo dục tư tưởng, tình cảm cho
học sinh, góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy học ở trường phổ thông.
Trên thực tế, cách phân chia theo quan niệm thứ hai có thể dễ được chấp nhận
21


hơn vì nó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa hai phần cơ bản của sách giáo
khoa với nhau, bài viết là bộ phận chủ yếu học sinh phải nắm vững, còn cơ chế
sư phạm giúp cho học sinh hiểu sâu sắc bài viết, kiểm tra nhận thức, kết quả học
tập của mình, phát triển năng lực tư duy độc lập, thông minh sáng tạo…
Tỉ lệ giữa “bài viết” và “cơ chế sư phạm” tùy thuộc rất nhiều vào lứa tuổi,
trình độ học sinh, yêu cầu của chương trình các cấp. Theo kinh nghiệm của một
số nước, trong sách giáo khoa Lịch sử ở các lớp cuối cấp tiểu học, đầu cấp
THCS, “bài viết” bao giờ cũng chiếm tỉ lệ ít hơn phần “cơ chế sư phạm” (kênh
hình, tư liệu, câu hỏi, bài tập,…). Dung lượng bài viết sẽ tăng dần đối với học
sinh lớp lớn hơn. Vì vậy, khi biên soạn sách giáo khoa cần phải cân đối, hợp lí
giữa “bài viết” và “cơ chế sư phạm” theo những nguyên tắc sư phạm nhất định.
1.1.1.3. Cấu tạo bài viết của sách giáo khoa Lịch sử
Bài viết là nội dung cơ bản của chương trình được trình bày ngắn gọn
trong một số trang cho mỗi tiết học. Đây là bộ phận chủ yếu của sách giáo khoa
mà học sinh phải nghiên cứu, nắm vững các kiến thức cơ bản, được lựa chọn
phù hợp với yêu cầu học tập.
Sách giáo khoa chia thành: phần, chương, bài, tiết. Dù phân chia như thế
nào, mỗi bài viết cũng phải tương ứng với một tiết học (45 phút). Do đó bài viết
thường rất cô đọng, súc tích, có lượng thông tin vừa đủ để học sinh nắm được

các kiến thức cơ bản.
Nội dung những thông tin được trình bày trong mỗi bài học thể hiện
những yêu cầu, hướng dẫn về phương pháp dạy học, nhằm tích cực hoá hoạt
động của học sinh, tạo điều kiện để các em suy nghĩ, nắm vững kiến thức. Qua
đó học sinh thực sự chiếm lĩnh được kiến thức, hình thành được kỹ năng, chứ
không phải chỉ học thuộc lòng một số sự kiện, nhân vật trong bài viết một cách
máy móc.
Số lượng, chất lượng và sự bố trí, sắp xếp các thông tin trong mỗi bài viết
phải vừa sức đối với học sinh, giúp các em có phương pháp tự học, tự nghiên

22


cứu, khai thác nội dung sách giáo khoa, làm xuất hiện tình huống có vấn đề, sau
đó hướng dẫn quan sát, giải thích, tìm tòi cách giải quyết vấn đề một cách tối ưu.
Trong bài viết của sách giáo khoa thường phân ra các mục lớn, tiểu mục
để việc học tập của học sinh được dễ dàng và có kết quả. Đồng thời việc phân
phối khối lượng thông tin giữa các mục và tiểu mục thường cân đối với nhau.
Tên các đề mục vừa nêu được vấn đề cơ bản của mục vừa gợi sự tò mò, suy nghĩ
của học sinh về vấn đề sẽ học, có tác dụng gây hứng thú cho học sinh đi vào tìm
hiểu vấn đề.
Cấu tạo một bài viết sách giáo khoa có thể gồm các phần sau:
Phần trình bày các kiến thức về lịch sử theo chương trình, bao gồm “các
đơn vị kiến thức quan trọng nhất, cần thiết nhất như các sự kiện, các hiện tượng
cơ bản, các nhân vật lịch sử kết hợp với việc giải thích, phân tích một cách hợp
lý để học sinh hình dung và hiểu biết quá khứ một cách độc lập, sáng tạo” [48;
94]. Muốn được như vậy, việc trình bày các sự kiện, hiện tượng phải khoa học,
khách quan, sinh động, giàu hình ảnh, tránh đưa ra những quan niệm chủ quan,
không nên sử dụng những cụm từ mĩ miều, cao xa không phù hợp với trình độ
nhận thức của học sinh. Bài viết phải dựng lên trước mắt học sinh bức tranh

chân thực về lịch sử một thời kỳ, một giai đoạn, một sự kiện hoặc một nhân vật
đã qua. Sách giáo khoa cần phải hạn chế việc thông báo sự kiện, nhân vật một
cách khô khan mà tăng thêm những phần miêu tả, tường thuật, chân xác, có mức
độ và tuỳ thuộc vào yêu cầu của kiến thức cần cung cấp cho học sinh. Điều này
giúp cho học sinh khi đọc sách giáo khoa, nghe thầy giảng có thể hình dung
đúng được quá khứ, không hư cấu và hiện đại hóa lịch sử.
Để giảm bớt lượng chữ viết, việc trình bày nội dung các sự kiện ở bài viết
thường gắn liền với kênh hình để giảm bớt lượng chữ viết. Sự kết hợp như vậy sẽ
cung cấp được nhiều thông tin, ngắn gọn, gợi suy nghĩ và gây hứng thú học tập cho
học sinh. Thí dụ: khi tìm hiểu hai Bà Trưng trong bài 18 “Trưng Vương và cuộc
kháng chiến chống quân xâm lược Hán” (lớp 6 - THCS), nếu đưa hình ảnh hai Bà
Trưng cưỡi voi ra trận giúp các em có biểu tượng về hai nhân vật lịch sử này.

23


Phần tư liệu có tác dụng bổ sung kiến thức, cụ thể hoá, làm phong phú
nội dung các sự kiện lịch sử. Điều này giúp học sinh có điều kiện, phương pháp
phân tích, làm việc với các sử liệu gốc để nâng cao sự hiểu biết của mình. Qua
đó làm cho việc học tập không mang tính áp đặt, rèn luyện được năng lực trí tuệ
trong việc khám phá tri thức và các kỹ năng cho học sinh.
Trong sách giáo khoa cần phải có những sử liệu gốc, những phần tư liệu
cần đọc thêm, các trích đoạn trong các tác phẩm lịch sử, tiểu sử hồi ký, kể cả
những ý kiến bút tích của các nhân vật lịch sử, các nhân chứng lịch sử…Một số
tư liệu được trình bày kết hợp với nội dung bài viết. Thí dụ: trong bài 17 “Cuộc
khởi nghĩa hai Bà Trưng (năm 40)” (Lịch sử 6) có những tư liệu lịch sử như: 4
câu thơ trích trong “Thiên Nam ngữ lục” (Một xin rửa sạch nước thù, Hai xin
đem lại nghiệp xưa họ Hùng, Ba kẻo oan ức lòng chồng, Bốn xin vẻn vẹn sở
công lênh này), ý kiến của nhà sử học Lê Văn Hưu: “Trưng Trắc, Trưng Nhị là
phụ nữ, hô một tiếng mà các quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố

cùng 65 thành ở Lĩnh ngoại đều hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như
trở bàn tay, có thể thấy hình thế đất Việt ta đủ dựng được nghiệp bá vương”[46;
49],… Phần này thường được in chữ nhỏ để học sinh dễ phân biệt
Bên cạnh những phần cơ bản nêu trên, trong bài viết của sách giáo khoa
Lịch sử của một số nước còn có những phần sau: phần mở đầu mỗi chương, mỗi
bài, phần tóm tắt, lời khuyên học sinh sử dụng sách giáo khoa,… giúp học sinh
nắm được mục tiêu của từng chương trình, cấu tạo, nội dung của bài viết, các
yêu cầu về kiến thức và kỹ năng học tập, các gợi ý bổ sung kiến thức…
Lâu nay, chúng ta chưa thực sự quan tâm tới việc hướng dẫn học sinh sử
dụng sách giáo khoa.Trong tình hình hiện nay, sách giáo khoa là tài liệu chính,
đảm bảo việc cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức, kĩ năng phù hợp
với mục đích, yêu cầu dạy học bộ môn ở trường phổ thông.Với ý tưởng đó,
trang đầu của sách giáo khoa một số nước có bài “Hướng dẫn cách sử dụng sách
giáo khoa”. Tùy từng cấp học, lớp học, tùy nội dung cụ thể của từng cuốn mà có
những lời khuyên đối với học sinh về cách đọc sách giáo khoa; cách khai thác
24


những nội dung của sách giáo khoa (bài học, tư liệu, tranh ảnh…); cách ghi nhớ
những kiến thức, những khái niệm quan trọng và cả cách trả lời những câu hỏi,
làm các bài tập trong sách giáo khoa. Có lẽ đây là điều kiện cần thiết trước tiên
để giúp giáo viên và học sinh khai thác, tận dụng hết vai trò, chức năng của sách
giáo khoa. Thí dụ: bài 1 “Sơ lược về môn Lịch sử” và bài 2 “Cách tính thời gian
trong lịch sử” của sách giáo khoa lớp 6 đã cung cấp cho học sinh cái nhìn đầy
đủ hơn về vai trò, ý nghĩa và cách tính thời gian trong học tập bộ môn Lịch sử.
Tuy nhiên, đây chưa phải lời khuyên học sinh sử dụng sách giáo khoa Lịch sử
như chúng ta vẫn mong đợi.
Sách giáo khoa Lịch sử có thể thêm phần lời khuyên học sinh sử dụng
sách gồm các nội dung sau: vai trò, ý nghĩa của việc học tập lịch sử; sơ lược
những hiểu biết của học sinh có được về lịch sử dân tộc trong khóa học trước;

cấu tạo và cách sử dụng các phần trong bài viết (phần giới thiệu chung, bài viết,
phần tư liệu, phần tóm tắt,…); phần giới thiệu tài liệu tham khảo. Đây là phần có
vai trò quan trọng trong việc rèn luyện kĩ năng tự học cho các em.
1.1.1.4. Cơ chế sư phạm của sách giáo khoa
Cơ chế sư phạm chỉ tất cả những thành tố trong sách giáo khoa, ngoài bài
viết, dành cho một tiết học, bao gồm các câu hỏi, bài tập, tư liệu tham khảo, bài
đọc thêm, phần kênh hình (tranh, ảnh), bản đồ, các loại đồ dùng trực quan quy
ước khác (sơ đồ, biểu đồ, đồ thị)…có thể xem đây là một nội dung của sách giáo
khoa không chỉ minh hoạ, hỗ trợ cho bài học mà còn là nguồn kiến thức cung
cấp cho học sinh trong học tập.
Ở Việt Nam, các nhà giáo dục học nói chung, các nhà giáo dục Lịch sử
nói riêng, phân chia “phần cơ chế sư phạm” trong sách giáo khoa thành những
nội dung sau:
Thứ nhất, hệ thống kênh hình
Trong dạy học lịch sử, hệ thống kênh hình góp phần quan trọng tạo biểu
tượng cho học sinh, cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình trạng “hiện đại
hóa” lịch sử của học sinh. Thí dụ: hình 4 – săn ngựa rừng (Lịch sử 6) cung cấp

25


×