Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

TÌM HIỂU THỰC TRẠNG MỨC ĐỘ TƯỞNG TƯỢNG SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (696.33 KB, 112 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
---   ---

VÕ THỊ LINH CHI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH: TÂM LÍ GIÁO DỤC
TÌM HIỂU THỰC TRẠNG MỨC ĐỘ
TƯỞNG TƯỢNG SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC

HÀ NỘI – 2014

1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
---   ---

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH: TÂM LÍ GIÁO DỤC
TÌM HIỂU THỰC TRẠNG MỨC ĐỘ
TƯỞNG TƯỢNG SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC
Sinh viên thực hiện

: Võ Thị Linh Chi

Lớp

: K60A


Mã Sinh viên

: 605904007

Người hướng dẫn khoa học: TS Phan Thị Hạnh Mai
ThS Phan Hồng Sơn

HÀ NỘI – 2014

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
1.1 Cơ sở lí luận
Trong cuốn “Trí tưởng tượng sáng tạo ở lứa tuổi thiếu nhi” L.X. Vưgotxki
đã nói: “Trí tưởng tượng là cơ sở của bất kì hoạt động sáng tạo nào, biểu hiện
hoàn toàn như nhau trong mọi phương diện của đời sống văn hóa, nó làm cho
mọi sáng tạo nghệ thuật, sáng tạo khoa học kĩ thuật có khả năng được thực
hiện.” Như vậy, tưởng tượng sáng tạo (TTST) có vai trò rất lớn trong mọi lĩnh
vực của cuộc sống. TTST được thể hiện không chỉ trong các vấn đề liên quan
đến nghệ thuật (văn học, hội họa, biểu diễn, sân khấu điện ảnh…) mà còn trong
các lĩnh vực liên quan đến các ngành khoa học khác như toán học, kinh tế…
Thực tế đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về TTST của con người trong
các lĩnh vực khác nhau của đời sống, văn hóa, khoa học… có ý nghĩa quan trọng
đối với sự phát triển của con người cùng nền giáo dục hiện nay và sau này.
Giáo dục hiện nay đã và đang hướng đến việc hình thành và phát huy tối
đa năng lực của HS, trên cơ sở nhấn mạnh nâng cao tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của người học. Đặc biệt, trẻ em tuổi tiểu học - lứa tuổi bắt đầu tiến hành
hoạt động học tập, mang đầy tính tò mò, hiếu kỳ và những mơ ước. Chính vì thế,

đây là lúc khả năng TTST có điều kiện phát triển. Điều đó đòi hỏi người giáo
viên phải có những phương pháp giáo dục và dạy học phù hợp nhằm phát huy
tối đa khả năng của các em.
TTST tạo ra những hình ảnh mới tươi sáng, hoàn hảo mà con người ta
muốn vươn tới, làm giảm bớt những khó khăn, áp lực trong cuộc sống và làm
cuộc sống trở nên đẹp hơn, “hồng” hơn, hướng con người ta vươn tới những
điều tốt đẹp ở phía trước, hành động để đạt được những điều mình mong muốn.
Đối với trẻ em, tưởng tượng sáng tạo giúp cho nhận thức của trẻ trở nên sinh
động, phong phú, cuộc sống và học tập của trẻ cũng nhờ vậy mà đạt hiệu quả
cao hơn.
1.2 Cơ sở thực tiễn

3


Mặc dù TTST có ý nghĩa lớn đối với cuộc sống và học tập của HSTH,
những trên thực tế, nhận thức của GVTH và HSTH về tầm quan trọng, mức độ
cần thiết và sự biểu hiện khả năng TTST của HSTH chưa có sự đúng đắn và đầy
đủ.
Vì điều kiện có hạn nên chúng tôi chỉ điều tra nhận thức của GVTH về
TTST của HSTH nói chung và TTST trong phần môn Tập làm văn nói riêng để
làm nổi bật thực trạng mức độ TTST thông qua HĐSSVB.
Kết quả tìm hiểu của chúng tôi trên 100 GVTH cho thấy:
Nhận thức của GVTH về
SL
%
Vai trò của
Rất cần thiết
45
65,2

Cần thiết
24
34,8
việc giáo dục
Không hẳn cần thiết
0
0
trí TTST cho
Không cần thiết
0
0
HSTH
Khả
năng Tất cả HS hiện nay Đúng
14
45,16
Không hẳn
17
54,84
TTST
của đều có khả năng
Không đúng
0
0
HSTH
TTST
Biểu hiện mức độ
Đồng đều
0
0

Không đồng đều
31
100
TTST của HSTH
Bảng 1: Nhận thức của GVTH về khả năng TTST của HSTH
Nhìn vào bảng ta thấy:
- GV cho rằng việc giáo dục trí TTST cho HSTH là cần thiết và rất cần
thiết.
- Không có GV nào nhận thức “Tất cả HS hiện nay đều có khả năng
TTST” là không đúng, tuy nhiên, số lượng GV cho rằng nhận định trên là đúng
vẫn thấp hơn số lượng GV không chắc chắn về khả năng TTST của HSTH.
- 100% GV được điều tra đều khẳng định biểu hiện mức độ TTST của
HSTH là không đồng đều.
Các kết quả trên chứng tỏ:

4


- GVTH đã nhận thức được sự cần thiết của việc giáo dục trí TTST cho
HSTH.
- Nhận thức của GVTH về khả năng TTST của HSTH chưa đúng đắn và
đồng đều.
GVTH nhận định việc đưa tiêu chí TTST vào đánh giá trong quá trình học
tập của HS mang lại những lợi ích sau:
T
T
1
2
3
4

5

6

Lợi ích

I

Đánh giá và kích thích được khả năng
sử dụng ngôn ngữ của HS
Giúp phát triển các khả năng tư duy,
nhận thức của HS trong nhiều lĩnh vực
Khai thác được tối đa ý tưởng của HS

Mức độ xếp hạng giảm dần
II
III
IV
V

VI

SL

45

12

12


0

0

0

%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL

65,2
21
30,4
21
30,4
27
39,0
33
47,9
21

17,4
15

21,7
18
26,1
18
26,1
21
30,4
9

17,4
12
17,4
21
30,4
9
13,1
15
21,7
24

0
3
4,4
6
8,7
9
13,1
0
0
12


0
15
21,7
0
0
6
8,7
0
0
0

0
3
4,4
3
4,4
0
0
0
0
3

HS được tự do mở rộng ý tưởng,
không gò bó theo khuôn mẫu
Giúp HS phát triển vốn sống, khả năng
quan sát, chọn lọc chi tiết
Rèn luyện kỹ năng lập dàn ý, chú ý
đến tính sáng tạo, đầu tư thời gian cho
% 30,4 13,1 34,7 17,4

0
suy nghĩ
Bảng 2: Nhận thức của GVTH về lợi ích của TTST trong học tập của HS

4,4

Nhìn vào bảng ta thấy, theo nhận thức của GVTH thì:
- Đánh giá và kích thích được khả năng sử dụng ngôn ngữ của HS được
GVTH đánh giá đem lại lợi ích cao nhất với 65,2% xếp ở mức độ I, và lợi ích
này được đánh giá mang lại hiệu quả ở mức I, II, III.
- Xếp thứ hai là lợi ích Giúp HS phát triển vốn sống, khả năng quan sát,
chọn lọc chi tiết với 47,9% GVTH nhận thức lợi ích ở mức cao nhất, và lợi ích
này được đánh giá có tầm quan trọng ở mức I, II, III.

5


- Với việc HS được tự do mở rộng ý tưởng, không gò bó theo khuôn mẫu,
lợi ích này được GVTH nhận thức có tầm quan trọng đứng ở vị trí thứ ba, không
có GV nào đánh giá lợi ích này có tầm quan trọng ở mức thấp nhất (mức VI).
- 3 lợi ích còn lại được GV nhận xét xếp ở vị trí thấp nhất với 30,4 %
đánh giá có tầm quan trọng ở mức I, những GV khác đánh giá tầm quan trọng
trải dài từ mức II đến mức VI.
- Độ chênh lệch về đánh giá tầm quan trọng của lợi ích được nhận thức
cao nhất Đánh giá và kích thích được khả năng sử dụng ngôn ngữ của HS và 3
lợi ích được đánh giá thấp nhất có số lượng chênh lệch là 34,8%.
Các kết quả trên chứng tỏ:
- Nhận thức của GVTH về lợi ích của việc giáo dục trí TTST cho HSTH
không đồng đều.
- GV mới chỉ tập trung chú trọng vào việc sử dụng ngôn ngữ chứ chưa tập

trung chú trọng vào phát triển những kĩ năng khác cho HS, nhất là các kĩ năng
thực tế như khai thác ý tưởng, khả năng tư duy nhận thức.
- Có thể phân tích, nguyên nhân dẫn đến phần lớn GV nhận thức lợi ích
Đánh giá và kích thích được khả năng sử dụng ngôn ngữ của HS có tầm quan
trọng và đem lại hiệu quả cao nhất do điều tra chủ yếu tập trung vào tìm hiểu
khả năng TTST trong HĐSSVB thông qua phân môn Tập làm văn. Tuy nhiên,
với biên độ chênh lệch lớn cho thấy GVTH có nhận thức chưa đầy đủ về tầm
quan trọng và những lợi ích đem lại từ việc đưa TTST vào trong quá trình học
tập của HS.
Việc đưa tiêu chí TTST vào đánh giá trong quá trình học tập mang lại
những lợi ích nhất định cho HS. Song, đánh giá những lợi ích mang lại cho
HSTH ở mức độ nào lại không giống nhau. Trong đánh giá lợi ích của TTST,
mỗi GVTH có những nhận xét đánh giá của cá nhân mình, và nhận xét đó khác
với những GV khác. Điều này thể hiện sự nhìn nhận không đồng nhất về đánh
giá lợi ích mà tiêu chí TTST mang lại cho HS của GVTH, hay thể hiện sự không
đồng đều trong nhận xét đánh giá.

6


Như vậy, trong thực tiễn dạy học, GVTH đã nhận thức được sự cần thiết
và tầm quan trọng của TTST đối với cuộc sống và học tập của HSTH. Tuy
nhiên, về lợi ích và cách thức đánh giá mức độ TTST của HSTH thì chưa có sự
đồng nhất.
Thực tiễn đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề TTST. Tuy
nhiên, còn có ít các nghiên cứu về tưởng tượng sáng tạo của học sinh tiểu học,
đặc biệt là các nghiên cứu hướng đến sự so sánh những khía cạnh khác nhau của
tưởng tượng sáng tạo ở HSTH.
Từ những lý do đó, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Tìm hiểu thực
trạng mức độ tưởng tượng sáng tạo của học sinh tiểu học”.

2. Mục đích nghiên cứu
Chỉ ra được thực trạng mức độ tưởng tượng sáng tạo của HSTH để đưa ra
một số khuyến nghị nhằm nâng cao mức độ TTST của HSTH.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Mức độ TTST của HSTH
- Khách thể nghiên cứu: Học sinh tiểu học
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Mức độ TTST của HSTH qua các hoạt động sản sinh văn bản và
vẽ tranh theo đề tài
- Về khách thể: 107 HS trong đó có 50 HS lớp 3, 6 HS lớp 4, 51 HS lớp 5.
- Về đối tượng điều tra: 100 giáo viên tiểu học
- Về địa bàn: Thành phố Hà Nội và Thành phố Hà Tĩnh.
5. Giả thuyết khoa học

7


- TTST của HSTH chủ yếu ở mức độ trung bình và được thể hiện không đồng
đều theo các yếu tố khác nhau: theo HĐ SSVB và VTTĐT, theo các tiêu chí,
theo giai đoạn, theo cá nhân và nhóm.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1 Tìm hiểu một số vấn đề lý luận Tâm lí học về TTST của HSTH.
6.2 Khảo sát thực trạng mức độ TTST của HSTH qua các hoạt động sản sinh
văn bản và vẽ tranh theo đề tài.
6.3 Thử phân tích nguyên nhân của thực trạng.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu
7.1.1 Mục đích
- Thu thập và xử lý thông tin nhằm xây dựng cơ sở lý luận định hướng
cho nghiên cứu đề tài.

- Xây dựng các vấn đề lý luận về tưởng tượng, sáng tạo, tưởng tượng sáng
tạo, học sinh tiểu học, tưởng tượng sáng tạo ở học sinh tiểu học.
7.1.2 Nội dung
- Sử dụng các phương pháp cụ thể như phân tích, so sánh, hệ thống hóa...
để đưa ra một số vấn đề tâm lí học về TTST.
7.1.3 Phương tiện
- Sách, tạp chí, luận văn...
7.2 Phương pháp thực nghiệm
7.2.1 Mục đích
- Khảo sát thực trạng mức độ TTST của HSTH thông qua hoạt động sản
sinh văn bản và hoạt động vẽ tranh.
7.2.2 Nội dung
- Tiến hành thực nghiệm phát hiện

8


- Đánh giá các sản phẩm (bài viết, tranh vẽ) của HSTH theo các tiêu chí
nhất định.
7.2.3 Phương tiện
- Phiếu thực nghiệm, biên bản quan sát.
7.3 Phương pháp điều tra
7.3.1 Mục đích
- Xin ý kiến đánh giá một số giáo viên về thực trạng tưởng tượng sáng tạo
của học sinh tiểu học.
7.3.2 Nội dung
- Xây dựng các câu hỏi có liên quan đến việc đánh giá TTST của HS và
nhận thức của GVTH về sự cần thiết, mức độ quan tâm, cách thức tổ chức và
một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng TTST của HSTH.
7.3.3 Phương tiện

- Phiếu điều tra dành cho giáo viên và học sinh tiểu học.
7.4 Phương pháp đàm thoại
7.4.1 Mục đích
- Thu thập thông tin về khách thể nghiên cứu
- Giải đáp các nghi vấn trong quá trình nghiên cứu
7.4.2 Nội dung
- Đưa ra câu hỏi phỏng vấn và ghi nhận ý kiến của HS ngay sau quá trình
thực nghiệm về quá trình làm bài.
- Lấy ý kiến của GV để biết được thực trạng nhận thức của GVTH về
TTST của HSTH.
7.4.3 Phương tiện
- Biên bản phỏng vấn, sổ tay.
7.5 Phương pháp thống kê toán học
7.5.1 Mục đích
- Tổng hợp và mô tả các kết quả điều tra, nghiên cứu.
9


7.5.2 Nội dung
- Sử dụng các công thức:
Tính tỉ lệ phần trăm:
a % = n : N x 100% trong đó n là số lượng cần tính tỉ lệ phầm trăm
N là tổng số
Tính trung bình cộng: X =

∑X
n

trong đó


∑X

là tổng số

n là số lượng cần tính trung bình
- Sử dụng các bảng biểu thống kê số liệu, sơ đồ để rút ra nhận xét.
7.5.3 Cách tiến hành
- Tùy theo mục đích, nhiệm vụ để thiết kế bảng biểu, sơ đồ.
- Dựa vào bảng thống kê, sơ đồ và các tiêu chí để đánh giá kết quả thu được.
8. Dự kiến đóng góp của đề tài
- Đánh giá được thực trạng mức độ TTST của học sinh tiểu học.
- Chỉ ra được nguyên nhân dẫn đến thực trạng mức độ TTST của HSTH.

10


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN TÂM LÝ HỌC
VỀ TƯỞNG TƯỢNG SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC
1.1 Vài nét về lịch sử nghiên cứu của vấn đề
Tưởng tượng sáng tạo nói chung và tưởng tượng sáng tạo của trẻ em nói
riêng luôn là vấn đề thu hút được sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu.
Được coi là người đặt nền móng cho tâm lý học về tưởng tượng sáng tạo, L.X
Vưgotxki đã đưa ra quan niệm về tưởng tượng của con người, khẳng định rằng
nguồn gốc của sự sáng tạo nghệ thuật chính là óc tưởng tượng của con người.
Tác phẩm “Trí tưởng tượng và sáng tạo ở lứa tuổi thiếu nhi” đã khẳng định và
làm rõ về trí tưởng tượng sáng tạo của trẻ.
Thế kỉ XX nhà Tâm lý học người Pháp T.Ribot đã xem xét tưởng tượng
như một quá trình xây dựng biểu tượng mới từ những cái gì đã có từ trước (xây
dựng cái mới trên cơ sở cái cũ). T.Ribot đánh giá rất cao vai trò của tưởng tượng
trong cuộc sống, ông khẳng định tuyệt đại đa số phát minh trước khi đi vào hiện

thực đều đi qua các giai đoạn tưởng tượng. Khi so sánh trí tưởng tượng của trẻ
em và người lớn, ông cho rằng trí tưởng tượng của trẻ em ngang hàng với trí
tưởng tượng của người lớn về tính chất thực tại của các yếu tố mà từ đó trí tưởng
tượng được xây dựng nên, và cơ sở cảm xúc thực sự của trí tưởng tượng của trẻ
em cũng biểu hiện mạnh mẽ như ở người lớn nhưng còn tính chất những kết hợp
gắn với tài liệu, chất lượng và sự đa dạng của những kết hợp ấy ở trẻ em không
bằng người lớn và phải phát triển dần cùng năm tháng.
Nhà Tâm lý học Thụy Sĩ, Jean Piaget khi nghiên cứu về sự phát triển các
chức năng kí hiệu, ông chỉ ra rằng những hình ảnh của tưởng tượng không chỉ là
sự sao chép hiện thực một cách đơn thuần mà đó là sự sao sao chép một cách
tích cực những bức tranh tri giác.
Nhà Tâm lý học E.P.Torrance đã soạn thảo ra một số Test về tưởng tượng
và tưởng tượng sáng tạo rất có giá trị, được sử dụng đến ngày nay. Test sáng tạo
và tưởng tượng sáng tạo của Torrance được dùng cho nhiều độ tuổi khác nhau từ

11


trẻ mầm non đến người trưởng thành, đánh giá dựa trên 4 tiêu chí: Tính linh hoạt
(Flexibility): thể hiện ở việc đưa ra nhiều phương án, nhiều cách khác nhau tạo
ra sản phẩm; Tính nhanh nhạy (Fluency): thể hiện ở việc nhanh chóng tạo ra sản
phẩm; Tính độc đáo (Orginality): thể hiện ở sản phẩm, cách giải quyết vấn đề
khác với người còn lại; Tính tỷ mỷ (Elaborality): thể hiện ở việc sản phẩm tạo ra
có nhiều chi tiết tỷ mỷ, công phu.
Ở Việt Nam, TTST là một vấn đề đã và đang được quan tâm. Rất nhiều
tác giả đã có những công trình nghiên cứu, những đóng góp trong việc nghiên
cứu về TTST nói chung và TTST của trẻ nói riêng như tác giả Nguyễn Quang
Uẩn, Phạm Minh Hạc, Đức Uy... Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu
như năm 1999, Luận án Tiến sĩ Tâm lý học của tác giả Trương Thị Bích Hà
nghiên cứu về Tưởng tượng sáng tạo của sinh viên khoa Diễn vên trường Đại

học Sân khấu, tác giả Nguyễn Thị Mai Hương trong luận văn Thạc sĩ năm 2009
đã nghiên cứu về khả năng TTST trên khía cạnh Tưởng tượng sáng tạo của sinh
viên khoa Giáo dục mầm non trường Đại học Hùng Vương trong vẽ tranh. Dựa
vào những cơ sở đã được nghiên cứu và tạo dựng sẵn, hiện nay, có rất nhiều các
công trình nghiên cứu kế thừa và phát huy những thành quả đó, để từ đó thực
hiện những công trình nghiên cứu về tưởng tượng sáng tạo như tác giả Bùi Thị
Kim Trúc trong luận văn Thạc sĩ năm 2008 với đề tài Thực trạng mức độ tư duy
sáng tạo của học sinh lớp 4 qua học tập phân môn Tập làm văn; Khóa luận tốt
nghiệp năm 2012 của Nguyễn Thị Lý đã Tìm hiểu mức độ tưởng tượng sáng tạo
của học sinh tiểu học thông qua bộ trắc nghiệm sáng tạo TSD-Z...
1.2 Một số vấn đề lí luận tâm lí học về TTST của HSTH
1.2.1 Tưởng tượng và tưởng tượng sáng tạo
1.2.1.1 Tưởng tượng
Tưởng tượng là giai đoạn nhận thức lí tính mà kết quả của quá trình nhận
thức đó là con người tạo ra cái mới trên cơ sở những biểu tượng có sẵn, gắn liền
với hoạt động sáng tạo.
Hay có thể nói tưởng tượng là sự phản ánh cái mới, cái chưa từng có trong

12


kinh nghiệm cá nhân. Tưởng tượng là mức độ cao nhất của quá trình nhận thức,
nảy sinh trước những hoàn cảnh có vấn đề và lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn phản
ánh tính đúng đắn.
Ở đây, nghiên cứu của chúng tôi sử dụng khái niệm của L.X.Vưgôtxki:
Tưởng tượng là sự tái hiện những ấn tượng hoặc hành động đã có trong kinh
nghiệm và tạo nên những hình tượng hoặc hành động mới.
Tưởng tượng trong hoạt động sản sinh văn bản một cách tích cực là nghĩ
ra những ngôn ngữ mới hoặc sắp xếp các ngôn từ có sẵn thành những câu văn,
bài viết có ý nghĩa, có giá trị biểu đạt và phù hợp điều kiện hoàn cảnh sử dụng

ngôn ngữ.
Tưởng tượng trong hoạt động vẽ tranh một cách tích cực là hành động tạo
ra những hình ảnh mới đối với cá nhân dựa trên những hình ảnh có sẵn hoặc
những hình ảnh chưa từng có. Tưởng tượng không chỉ là việc vẽ ra một hình ảnh
mới, mà đó còn là sự mới mẻ trong sử dụng màu sắc, hình ảnh, trong khả năng
liên tưởng, khái quát hóa những hình ảnh đã từng trải qua trong kinh nghiệm của
cá nhân để tổng hợp thành một hệ thống những hình ảnh mới, sinh động, hấp
dẫn.
Như vậy, tưởng tượng sáng tạo rất cần thiết đối với cuộc sống nói chung
và cuộc sống học tập của HSTH nói riêng. TTST trên cở sở những ấn tượng cũ
để tạo ra cái mới. TTST trong HĐSSVB và HĐVTTĐT một cách tích cực tạo ra
những bài viết hoặc những bức tranh theo đề tài mới mang tính độc đáo, mới lạ,
hấp dẫn.
1.2.1.2 Sáng tạo và hoạt động sáng tạo
Sáng tạo là năng lực đáp ứng một cách thích đáng nhu cầu tồn tại theo lối
mới, tạo ra những cái mới mẻ đối với cá nhân và đối với xã hội.
Hoạt động sáng tạo được xuất phát từ nhu cầu tìm kiếm những cái mới
trong cuộc sống. Những tình huống có vấn đề mà các phương án sẵn có không
thể giải quyết được, lúc đấy khả năng sáng tạo của con người ta được kích thích
và người sáng tạo dựa trên những kinh nghiệm, tri thức đã được tạo ra trước đó

13


để tạo ra những cái mới độc đáo. Cho nên sản phẩm của quá trình sáng tạo vừa
mang tính cá nhân, vừa mang bản chất xã hội.
Có nhiều định nghĩa về sáng tạo đã được các nhà nghiên cứu đưa ra. Tác
giả Nguyễn Huy Tú đưa ra định nghĩa Sáng tạo là một thuộc tính tâm lí đặc
biệt, thể hiện khi con người đứng trước hoàn cảnh có vấn đề. Thuộc tính này là
tổ hợp các phẩm chất và năng lực mà nhờ đó con người trên cơ sở kinh nghiệm

của mình, và bằng tư duy độc lập tạo ra được ý tưởng mới, độc đáo, hợp lí trên
bình diện cá nhân hay xã hội. Ở đó, người sáng tạo gạt bỏ được các giải pháp
truyền thống để đưa ra giải pháp mới, độc đáo và thích hợp cho vấn đề đặt ra.
Trong Tâm lí học sáng tạo, tác giả Đức Uy đã đưa ra định nghĩa về diễn
trình sáng tạo là sự đột khởi thành hành động của một sản phẩm liên hệ mới mẻ,
nảy sinh từ sự độc đáo của một cá nhân, và những tư liệu, biến cố, nhân sự, hay
những hoàn cảnh của đời người ấy.
Như vậy, có thể hiểu Sáng tạo là năng lực đáp ứng một cách thích đáng
nhu cầu tồn tại theo lối mới, năng lực tạo ra cái gì đấy mới mẻ.
Theo quan điểm của Torrance: “Quá trình sáng tạo là quá trình tạo ra ý
tưởng hay giả thuyết, thử nghiệm ý tưởng này đi đến kết quả... Kết quả này có ít
nhiều mới mẻ, có chút ít cái gì đó mà con người trước đây chưa từng thấy, chưa
có ý thức về nó. Quá trình sáng tạo ở đây bao gồm tư duy, tưởng tượng bay
bổng, phát hiện, tò mò, thử nghiệm, thăm dò và đánh giá... Như vậy, quá trình
sáng tạo là một quá trình hoạt động được kết thúc ở một sản phẩm mới độc đáo,
được một nhóm người nào đó ở một thời điểm tương ứng công nhận là có ích.”
Hoạt động sáng tạo là hoạt động xuất phát từ động cơ cụ thể. Đó là mong
muốn tìm tòi, khám phá và tìm ra cái mới phụ vụ cho một nhu cầu nhất định.
Phương tiện của hoạt động sáng tạo không chỉ là ngôn ngữ mà còn là hình ảnh,
đường nét, màu sắc, âm thanh, hình khối... Ví dụ, phương tiện sáng tạo của nhạc
sĩ là âm thanh, kiến trúc sư sử dụng đường nét để tạo ra sản phẩm sáng tạo, họa
sĩ sử dụng màu sắc, hình ảnh, nhà điêu khắc sử dụng hình khối, nhà văn, nhà thơ
dùng ngôn ngữ, chữ viết... để tạo ra sản phẩm sáng tạo. Như vậy, với bất cứ
14


phương tiện nào, con người đều có thể sử dụng để tạo ra những sản phẩm mới
mang tính sáng tạo. Đó là những sản phẩm của hoạt động sáng tạo.
1.2.1.3 Tưởng tượng sáng tạo
Tưởng tượng sáng tạo là sự kết hợp của tưởng tượng và sáng tạo. Nó tạo

ra cái mới hoặc giải quyết vấn đề đặt ra vừa dựa trên sự kết hợp các yếu tố, các
chi tiết, các đặc điểm khác nhau của sự vật, hiện tượng, đồng thời có sự vận
dụng hiểu biết cá nhân, kiến thức xã hội để tạo ra những cái mới. Tưởng tượng
sáng tạo sẽ tạo ra sản phẩm vừa mang tình cá nhân, vừa mang tính xã hội, đồng
thời chứa đựng trong đó sự khác lạ, mới mẻ mà con người chưa từng gặp trước
kia.
Các nhà tâm lí học định nghĩa Tưởng tượng sáng tạo là quá trình xây
dựng hình ảnh mới, độc lập với cả cá nhân lẫn xã hội, được hiện thực hoá
trong các sản phẩm vật chất độc đáo và có giá trị.
Từ khái niệm và các đặc điểm của tưởng tượng, sáng tạo, ta có thể thấy
rằng tưởng tượng sáng tạo dựa trên sự kết hợp các yếu tố, các chi tiết, các đặc
điểm khác nhau của sự vật, hiện tượng, đồng thời có sự vận dụng hiểu biết cá
nhân, kiến thức xã hội để tạo ra những cái mới mang tính cơ cấu, phù hợp với
yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Tưởng tượng sáng tạo dựa trên những kinh nghiệm cá
nhân đã có và những sản phẩm vật chất cũng như sản phẩm tinh thần của xã hội.
Cho nên sản phẩm của tưởng tượng sáng tạo là sản phẩm cá nhân, mang tính cá
nhân và có giá trị xã hội.
1.2.2 Học sinh tiểu học và tưởng tượng sáng tạo
1.2.2.1 Học sinh tiểu học
Học sinh tiểu học là trẻ em ở lứa tuổi từ 6 - 11 tuổi - giai đoạn đầu tiên trẻ
đến trường và làm quen với hoạt động học tập có quy định. Đây là giai đoạn
quan trọng trong cuộc đời mỗi con người. Ở lứa tuổi này, trẻ có nhu cầu nhận
biết và tiếp thu tất cả những điều mới mẻ và hấp dẫn. Trẻ có mong muốn tìm ra
những đặc điểm, công dụng và những mối quan hệ phức tạp của sự vật xung
quanh.

15


Trong giai đoạn lứa tuổi tiểu học, tri thức của trẻ chủ yếu có được do quá

trình học tập, lĩnh hội những tri thức khoa học, kinh nghiệm lịch sử của loài
người. Cho nên, những người xung quanh (gia đình, giáo viên, bạn bè…) thường
xuyên tiếp xúc với trẻ và những thứ thường xuyên xuất hiện, ảnh hưởng tới hoạt
động sống của trẻ (phim, truyện, sách vở, bài học…) chi phối rất lớn tới tri thức
lĩnh hội, hình thành nhân cách cá nhân của trẻ. Cũng trong giai đoạn này, tâm lí
của trẻ chuyển dần từ tính không chủ định chiếm ưu thể ở đầu lứa tuổi sang tính
có chủ định ở cuối lứa tuổi tiểu học.
1.2.2.2 Tưởng tượng sáng tạo của học sinh tiểu học
Tri thức có được ở lứa tuổi tiểu học là tri thức tiếp thu từ các môn học, từ
môi trường sống và môi trường học tập. Các em chịu ảnh hưởng rất lớn từ nền
giáo dục của gia đình, nhà trường và giao tiếp xã hội. Sự tiếp thu, lĩnh hội tạo
nên những biến đổi trong sự phát triển tâm lí của học sinh tiểu học bởi sự phát
triển ở lứa tuổi các em là sự phát triển hồn nhiên bằng phương thức lĩnh hội.
Bằng những kiến thức lĩnh hội được từ học tập và cuộc sống thường ngày, các
em sử dụng và biến thành tri thức của cá nhân. Đồng thời, lứa tuổi tiểu học là
lứa tuổi hồn nhiên, với những suy nghĩ hết sức đơn giản, các em sử dụng tri thức
lĩnh hội được để tạo ra những hình ảnh mới đơn giản mà độc đáo, hồn nhiên và
mới lạ.
Sản phẩm của TTST được biểu đạt không chỉ trong ngôn ngữ mà còn cả
trong âm thanh, màu sắc, đường nét, hình khối,... Vì thế, TTST thường đồng
hành với các hoạt động sáng tạo đặc trưng như nghiên cứu khoa học, nghệ thuật,
sáng chế,... Trong đó, với trẻ em, hoạt động sáng tạo được thể hiện rõ nhất ở HĐ
sản sinh văn bản và vẽ tranh theo đề tài .
Hoạt động ngôn ngữ được coi là một trong các hoạt động quan trọng nhất
của con người. Một con người bình thường sinh ra chưa biết chạy nhảy, làm việc
nhưng có thể cảm nhận được ngôn ngữ nói, sau đó là tập sản sinh ngôn ngữ nói.
Lớn lên chút nữa, con người sẽ tiếp xúc với ngôn ngữ viết. Khi trẻ muốn diễn
đạt những thứ mà trẻ muốn, phương tiện trước hết mà trẻ sẽ sử dụng là ngôn
ngữ. Dưới nhiều hình thức khác nhau, hoạt động ngôn ngữ sẽ theo con người


16


đến suốt cuộc đời. Hoạt động vẽ tranh là một trong những hoạt động nghệ thuật
có ý thức đầu tiên mà con người khi sinh ra đã có thể làm được. Trẻ em biết vẽ,
biết nhảy, biết hát… trước khi biết viết, biết đọc (có thể từ rất sớm, khoảng 2,5-3
tuổi đã thể hiện được những khả năng trên). Ngôn ngữ của Mĩ thuật là ngôn ngữ
hình ảnh. Khi trẻ vừa sinh ra đã có thể nhìn và tri giác. Một đứa trẻ có thể chưa
biết nói, chưa biết đọc, viết nhưng khi cầm bút và giấy, nó sẽ có xu hướng vẽ lại
những gì mình nhìn thấy hoặc mình thích. Lớn hơn một chút nữa. Khi trẻ đi học
mầm non, trẻ sẽ được học nhiều hơn về các hoạt động nghệ thuật như hát, múa
và vẽ tranh. Nhìn tương quan có thể thấy hoạt động sản sinh ngôn ngữ và hoạt
động vẽ tranh không có điểm chung, một bên là dùng từ ngữ, một bên là dùng
đường nét. Tuy nhiên, hai hoạt động này diễn ra song song trong cuộc sống và
học tập của học sinh tiểu học, nó bổ sung và tương trợ cho nhau để phát triển
khả năng tưởng tượng sáng tạo của học sinh.
Tuổi tiểu học là tuổi của sự chuyển đổi hoạt động chủ đạo từ vui chơi
sang học tập, tìm kiếm tri thức nên vốn hiểu biết và suy nghĩ về các vấn đề trong
cuộc sống đối với các em còn đơn giản và hồn nhiên, các em hầu như không có
những vấn đề khúc mắc ngoài lề cần giải quyết, chi phối trong suy nghĩ. Mặt
khác lứa tuổi tiểu học có đầy đủ phẩm chất của một người có khả năng tưởng
tượng sáng tạo. Cho nên khả năng tưởng tượng sáng tạo của học sinh tiểu học sẽ
bộc lộ một cách tự nhiên, sinh động. Sau quá trình tưởng tượng sáng tạo của các
em, sản phẩm tạo ra nhằm đáp ứng duy nhất yêu cầu đặt ra.
1.2.2.3 Tưởng tượng sáng tạo với học sinh tiểu học
Tưởng tượng sáng tạo là yếu tố tâm lí cần thiết cho mọi lĩnh vực hoạt
động và cho mọi lứa tuổi. Học sinh tiểu học cũng không ngoại lệ. Tưởng tượng
sáng tạo là quá trình vô cùng cần thiết và hữu ích trong cuộc sống cũng như
trong học tập của học sinh tiểu học.
Trong cuộc sống, khả năng tưởng tượng sáng tạo giúp các em có những ý

tưởng hồn nhiên, phong phú, biểu hiện trí thông minh trong mỗi cá nhân. Khả
năng tưởng tượng sáng tạo bằng ngôn ngữ và tranh vẽ giúp học sinh tiểu học có
thể diễn đạt suy nghĩ của mình cho mọi người xung quanh một cách linh hoạt,

17


dễ hiểu. Nhờ tưởng tượng sáng tạo thông qua ngôn ngữ và thông qua tranh vẽ
mà các em có điều kiện thể hiện bản thân, thể hiện hiểu biết cá nhân, hình thành
tính tự tin trước đám đông, có khả năng giao tiếp tốt ngay từ khi bắt đầu làm
quen với giao tiếp cá nhân.
Trong học tập, nhờ khả năng tưởng tượng sáng tạo mà học sinh tiểu học
đưa ra những ý tưởng hay, mới lạ, những phương án mới để giải quyết các câu
hỏi đặt ra trong từng môn học. Bằng khả năng tưởng tượng sáng tạo qua ngôn
ngữ hoặc qua tranh vẽ, các em có thể trình bày, diễn giải những ý tưởng của bản
thân cho tất cả mọi người hiểu và công nhận. Nhờ đó, các em có thể có nhiều
cách để tự tin bày tỏ quan điểm của mình về các vấn đề.
Như vậy, có thể nói tưởng tượng sáng tạo có vai trò rất lớn đối với lứa
tuổi học sinh tiểu học cả trong cuộc sống cũng như trong học tập.

18


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
1.1 Tưởng tượng sáng tạo là quá trình xây dựng hình ảnh mới, độc lập với
cả cá nhân lẫn xã hội, được hiện thực hoá trong các sản phẩm vật chất độc đáo
và có giá trị. Tưởng tượng sáng tạo là quá trình vô cùng cần thiết và hữu ích
trong cuộc sống cũng như trong học tập của học sinh tiểu học.
1.2 Học sinh tiểu học là trẻ em ở lứa tuổi từ 6 - 11 tuổi. Đây là giai đoạn
đầu tiên đến trường, trẻ đang dần chuyển từ hoạt động chủ đạo là vui chơi sang

học tập. Tri thức của trẻ chủ yếu có được do quá trình học tập, lĩnh hội tri thức
khoa học, kinh nghiệm lịch sử loài người. Với HSTH, tưởng tượng sáng tạo và
hoạt động sáng tạo vô cùng cần thiết và hữa ích trong cuộc sống và học tập.
- HSTH bắt đầu tự mình giải quyết những vấn đề các em gặp phải, cho
nên đây là cơ hội, điều kiện để kích thích khả năng TTST ở trong mỗi HS.
- Nhờ có TTST, HSTH có thể tìm ra cách giải quyết vấn đề mới, nhờ đó,
các em vượt qua được những khó khăn trong học tập một cách dễ dàng hơn.

19


CHƯƠNG 2: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Vài nét về khách thể nghiên cứu
Với mục đích tìm hiểu thực trạng mức độ TTST của HSTH thông qua
HĐSSVB, nghiên cứu tiến hành thực nghiệm và lấy ý kiến trên 12 HS thuộc
trường Tiểu học Nguyễn Du, thành phố Hà Tĩnh và trường Tiểu học Thạch
Vĩnh, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Đây là hai ngôi trường nằm trên hai địa
bàn khác nhau thuộc tỉnh Hà Tĩnh. Trường Tiểu học Nguyễn Du là trường nằm
trong địa bàn thành phố, với kinh nghiệm nhiều năm đào tạo HS giỏi cho thành
phố, đội ngũ GV của trường nhiều kinh nghiệm và có bảng thành tích cao trong
giảng dạy. HS của trường khá đồng đều về học lực cũng như các điều kiện
khách quan bên ngoài. Trường Tiểu học Thạch Vĩnh nằm trên địa bàn huyện
Thạch Hà – một huyện lân cận thành phố, là ngôi trường có nhiều năm kinh
nghiệm trong giảng dạy. HS của trường phần lớn là con em nhà nông hoặc vùng
ngoại thành. Nhưng đây cũng là một trong những trường có chất lượng đào tạo
khá đồng đều và khá tốt. Tiến hành nghiên cứu HS ở các trường trên sẽ cho thấy
cái nhìn tương quan các đối tượng HS khác nhau, giúp cho kết quả nghiên cứu
được khách quan và toàn diện hơn.
Với mục đích tìm hiểu về mức độ TTST của HSTH thông qua
HĐVTTĐT, chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm trên 50 học sinh lớp 3A2

trường Tiểu học Thành Công B, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội và học sinh
trường Tiểu học Nguyễn Du thành phố Hà Tĩnh. Đây là 2 ngôi trường nằm ở 2
địa bàn khác nhau: trong nội thành Hà Nội và trong một tỉnh thuộc miền Trung.
Tuy nhiên, đây được coi là 2 ngôi trường có chất lượng học sinh của mỗi trường
khá đồng đều, nhà trường có đầy đủ cơ sở vật chất và chuyên môn để tiến hành
thực nghiệm. Chính vì vậy, việc tiến hành thực nghiệm diễn ra khả quan và ít bị
chi phối bởi những lý do bên ngoài.

20


Với mục đích so sánh mức độ TTST của HSTH thông qua HĐSSVB và
HĐVTTĐT, nghiên cứu tiến hành thực nghiệm trên 12 HS lớp 5D trường tiểu
học Dịch Vọng B, Cầu Giấy, Hà Nội. Trường tiểu học Dịch Vọng B là ngôi
trường nằm trên địa bàn thành phố Hà Nội với chất lượng dạy học tốt, HS trong
khu vực với nhiều điều kiện, hoàn cảnh gia đình khác nhau, số lượng và chất
lương HS trong các lớp khá đồng đều. Vì vậy Kết quả thực nghiệm được đánh
giá khách quan và tổng thể. Nghiên cứu lựa chọn HS lớp 5 làm đối tượng thực
nghiệm cho thực nghiệm so sánh vì HS lớp 5 là HSTH có sự phát triển toàn diện
nhất cả về mặt ngôn ngữ và hình ảnh. Lựa chọn HS lớp 5 sẽ giúp cho quá trình
thực nghiệm được tiến hành một cách tối ưu và thu được kết quả rõ ràng hơn.
Nghiên cứu cũng tiến hành thực nghiệm so sánh mức độ TTST theo nhóm và cá
nhân trên HS lớp 5D trường tiểu học Dịch Vọng B.Với mục đích khảo sát và lấy
ý kiến của GVTH về thực trạng mức độ TTST của HSTH thông qua
HĐVTTĐT, chúng tôi đã tiến hành điều tra và lấy ý kiến của giáo viên trường
tiểu học Thành Công B, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Đây là ngôi trường có
bề dày truyền thống và dạy học. Giáo viên trường Tiểu học Thành Công B là
những người có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm trong hoạt động giảng
dạy và giáo dục và thường xuyên làm việc trong môi trường có các hoạt động
ngoại khóa liên quan đến hoạt động vẽ tranh của học sinh. Những ý kiến nhận

xét, góp ý của tập thể giáo viên trường tiểu học Thành Công B sẽ khách quan, cụ
thể và giúp ích rất nhiều cho quá trình nghiên cứu.
Với mục đích tìm hiểu đúng thực trạng việc đánh giá mức độ TTST của
HSTH của GVTH, chúng tôi đã tiến hành điều tra, khảo sát thực nghiệm trên các
giáo viên ở 3 vùng với 3 đối tượng học sinh khác nhau. Chúng tôi lựa chọn 3
nhóm giáo viên ở 3 môi trường giáo dục khác nhau là: trường tiểu học Dịch
Vọng B, Quận Cầu Giấy, Hà Nội - là một trong những trường tiểu học đi đầu
trong công tác giáo dục của thành phố Hà Nội với đội ngũ cán bộ giảng dạy
được đào tạo chính quy, có trình độ chuyên môn cao; trường tiểu học Nguyễn
Du, TP Hà Tĩnh, Hà Tĩnh - là một trong những trường tiểu học trọng điểm đào
tạo cán bộ giáo viên và học sinh của thành phố Hà Tĩnh. Hầu hết giáo viên của

21


trường tiểu học Nguyễn Du là giáo viên có trình độ chuyên môn cao và có thâm
niên công tác, đào tạo học sinh giỏi; trường tiểu học Thạch Vĩnh, TP Hà Tĩnh,
Hà Tĩnh - nằm ở vùng ngoại thành thành phố Hà Tĩnh, đối tượng học sinh của
trường phần lớn là con em các gia đình làm nông hoặc gia đình lao động. Song,
đây cũng là một trong số những trường có chất lượng đào tạo tốt của tỉnh với
thành tích đạt học sinh giỏi hàng năm khá cao. Đạt được thành tích cao đó là
nhờ đội ngũ cán bộ giáo viên có chất lượng tốt của nhà trường. Làm việc với ba
nhóm giáo viên giảng dạy ở ba trường tiểu học thuộc ba địa bàn khác nhau với
ba mức độ phát triển kinh tế khác nhau, ba đối tượng học sinh khác nhau sẽ cho
kết quả đánh giá toàn diện, chính xác và khách quan nhất về đối tượng nghiên
cứu.
2.2 Nội dung nghiên cứu
Mức độ TTST của HSTH được nghiên cứu thông qua 2 hoạt động mang
tính sáng tạo là hoạt động sản sinh văn bản và vẽ tranh theo đề tài.
2.2.1 Tìm hiểu mức độ TTST của HSTH qua hoạt động SSVB và VTTĐT

2.2.1.1 Mức độ TTST qua các HĐ SSVB và VTTĐT
a) Mức độ TTST qua hoạt động sản sinh văn bản
Hoạt động sản sinh văn bản là hoạt động tạo lập lời nói, biểu đạt bằng
phương tiện là ngôn ngữ viết dưới dạng hệ thống các kí tự, dấu thanh và dấu
câu.
Tưởng tượng sáng tạo qua HĐSSVB là quá trình sử dụng ngôn ngữ viết,
sắp xếp các từ ngữ hình tượng mới, những sản phẩm mới được biểu đạt bằng
ngôn ngữ (bài văn, bài thơ, câu chuyện...) mang tính độc đáo, mới lạ.
Mức độ TTST của HSTH qua HĐSSVB được tìm hiểu qua việc tổ chức
cho HSTH tiến hành HĐSSVB. Ở đó, dưới sự hướng dẫn của nhà nghiên cứu,
HSTH được TTST với sản phẩm là những bài văn, câu chuyện. Mức độ TTST

22


qua HĐSSVB được đánh giá qua các chỉ số: tính linh hoạt, nhanh nhạy; tính độc
đáo, mới lạ; cấu trúc; khả năng diễn đạt.
Trong đó:
- Tính linh hoạt, nhanh nhạy: Khả năng tạo ra những ý tưởng mới, kết hợp
các yếu tố riêng, tổng hợp các ý tưởng đồng thời biến đổi những ý tưởng, thông
tin cần diễn đạt thành ngôn ngữ và truyền đạt cho người đọc, người nghe một
cách nhanh chóng, hiệu quả. Đánh giá khả năng này trong quá trình thực
nghiệm, hay là đánh giá cách thức tạo ra sản phẩm của quá trình tưởng tượng
sáng tạo. Bên cạch đó, còn phải đánh giá qua chất lượng và dung lượng bài thực
nghiệm của các em.
- Tính độc đáo, mới lạ: Được đánh giá qua những ý tưởng, hình ảnh mới
mẻ, khác lạ; khả năng liên tưởng, đưa ra những hình ảnh mới có tính chất hoang
đường, cổ tích, phiêu lưu, giàu chất suy tưởng; tạo ra những tình huống gay cấn
và phương pháp giải quyết các tình huống một cách nhanh chóng, hiệu quả, hấp
dẫn; về hệ thống nhân vật trong truyện. Đánh giá tính độc đáo, mới lạ cũng là

đánh giá khả năng nhận thức, phân tích và chọn lọc ý tưởng chính xác, độc dáo
của học sinh.
Các chỉ số TTST trong HĐSSVB được đánh giá qua các tiêu chí: bố cục,
cấu trúc, đặc điểm sử dụng ngôn ngữ, và các tiêu chí phụ: chính tả, dung lượng.
* Về bố cục
+ Mở đầu: Miêu tả, tái hiện hoàn cảnh xảy ra câu chuyện, hoàn cảnh
riêng của nhân vật chính.
+ Thắt nút: Là sự kiện mở đầu, báo hiệu một quan hệ hay một mâu thuẫn
được hình thành và phát triển.
+ Phát triển: Là phần chiếm dung lượng lớn nhất trong bố cục của truyện.
Bao gồm các sự việc tiếp theo miêu tả diễn biến của các quan hệ hoặc mâu
thuẫn.

23


+ Đỉnh điểm: Sự kiện có kịch tính cao nhất, đẩy quan hệ hoặc mâu thuẫn
lên đến đỉnh điểm, đòi hỏi phải được giải quyết.
+ Mở nút: Là sự kiện quyết định kề sau cao trào, là sự kiện xoá bỏ xung
đột.
+ Kết thúc: Đi đến một kết cục mới hoặc giải quyết dứt điểm mâu thuẫn.
* Về cốt truyện: Các tình tiết đặt ra trong quá trình thắt nút, phát triển câu
chuyện đến mở nút. Được đánh giá bởi các chi tiết đưa vào sử dụng: Chi tiết
sinh hoạt hằng ngày, chi tiết phiêu lưu mạo hiểm, chi tiết hoang đường, cổ tích.
* Về nhân vật: Là hình tượng con người được miêu tả trong truyện, bao
gồm nhân vật chính và hệ thống nhân vật phụ được thể hiện trong
* Về đặc điểm sử dụng ngôn ngữ (Ngôn ngữ): Là khả năng diễn đạt hệ
thống ngôn ngữ dẫn dắt tình huống, nhân vật; ngôn ngữ đối thoại của các nhân
vật; ngôn ngữ trực tiếp; ngôn ngữ gián tiếp; ngôn ngữ biểu đạt hình ảnh.
* Về tiêu chí phụ:

- Chính tả: Cách dẫn dắt, thể hiện ngôn ngữ, lỗi chính tả, tính logic của
nội dung thể hiện trong bài làm.
- Dung lượng của bài viết: Độ dài của bài viết phù hợp với sự thể hiện nội
dung truyện.
b) Mức độ TTST qua hoạt động vẽ tranh theo đề tài
HĐVT là hoạt động con người ta quan sát thế giới xung quanh và thể hiện
những thứ quan sát được qua cảm nhận cá nhân bằng hình ảnh, đường nét và
màu sắc.
Tưởng tượng sáng tạo qua HĐVTTĐT là hoạt động trong đó con người sử
dụng đường nét, hình khối, màu sắc... và sắp xếp các đường nét, hình khối, màu

24


sắc... đó theo một trật tự, để tạo nên một sản phẩm sáng tạo mang nội dung đề
tài nhất định.
Mức độ TTST qua HĐVTTĐT được tìm hiểu trên cơ sở tổ chức
HĐVTTĐT và phân tích các bức tranh vẽ của HS. Mức độ TTST của HSTH qua
HĐVTTĐT được đánh giá trên các tiêu chí:
(1) Liên tưởng: Đánh giá khả năng học sinh tạo ra hình ảnh và hình dung hình
ảnh cần vẽ, đồng thời thể hiện được hình ảnh trong tưởng tượng ra tranh vẽ một
cách sáng tạo và sinh động, chính xác và đánh giá về số lượng hình ảnh trong
tranh của học sinh.
(2) Liên kết các hình ảnh: Đánh giá khả năng học sinh liên kết các hình ảnh
rời rạc trong trí tưởng tượng của các em thành một hệ thống mạch lạc với bố cục
rõ ràng, chặt chẽ.
(3) Cảm thụ màu sắc: Đánh giá khả năng sử dụng và sắp xếp màu sắc mang lại
hiệu quả sử dụng màu sắc cho bức tranh. Nên lưu ý đặc tính tâm sinh lý của trẻ
được thể hiện qua màu sắc (màu được vẽ theo sở thích). Màu sắc thể hiện trong
bức tranh đáp ứng các tiêu chí: phong phú, phù hợp, linh hoạt, vui nhộn.

(4) Sát thực: Sự khác biệt trong tranh được thể hiện như thế nào khi cho trẻ vẽ
về môi trường đang sống và môi trường chưa trải nghiệm (có thể chỉ xem qua
phim ảnh, báo chí…).
2.2.1.2 So sánh mức độ TTST của HSTH qua HĐ SSVB và VTTĐT
Mục đích: Chỉ ra sự giống và khác nhau giữa TTST của HSTH trong
HĐSSVB và HĐVTTĐT
Để chỉ ra sự giống và khác nhau giữa mức độ TTST của HSTH trong
HĐSSVB và HĐVTTĐT, các chỉ số đánh giá đã được xây dựng, đó là: sát thực,
mềm dẻo và độc đáo.
Trong đó:

25


×