Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH Ở XÃ, THỊ TRẤN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.49 KB, 28 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH Ở XÃ,
THỊ TRẤN
I. VAI TRÒ, VỊ TRÍ CỦA CHÍNH QUYỀN VÀ TƯ PHÁP XÃ, THỊ TRẤN
TRONG HOẠT ĐỘNG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
1. Vị trí, vai trò của chính quyền cấp xã trong xử lý vi phạm hành chính
Chính quyền xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) có vai trò rất
quan trọng trong hoạt động xử lý vi phạm hành chính (bao gồm xử phạt hành chính và
áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác), vì đây là cấp cơ sở, là nơi chủ yếu diễn
ra các hành vi vi phạm hành chính. Do đó, cấp xã chính là nơi phát hiện, lập biên bản
vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính theo thẩm quyền hoặc lập hồ sơ, biên
bản và chuyển đến cấp có thẩm quyền xử lý…
2. Vai trò của tư pháp cấp xã trong hoạt động xử lý vi phạm hành chính
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì chức danh tư pháp cấp xã không có
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, không tham gia trực tiếp trong việc áp dụng
các biện pháp xử lý hành chính khác. Tuy nhiên, tư pháp xã cần thiết nắm vững những
nguyên tắc và nội dung cơ bản của hoạt động xử lý vi phạm hành chính để tư vấn cho
chính quyền cấp xã trong hoạt động này, bảo đảm việc xử phạt hành chính cũng như
áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác tại cấp xã được thực hiện hiệu quả và
đúng pháp luật.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TẠI CẤP XÃ
1. Khái niệm hành vi vi phạm hành chính
Khi đề cập đến vấn đề xử phạt vi phạm hành chính thì trước tiên cần hiểu thế
nào là vi phạm hành chính.
Vi phạm hành chính là hành vi vi phạm pháp luật do cá nhân, tổ chức thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà
không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành
chính (Điều 1 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính - sau đây gọi tắt là Pháp lệnh
XLVPHC).
Như vậy, theo định nghĩa trên, chúng ta thấy có 5 dấu hiệu cơ bản để nhận biết
vi phạm hành chính:


Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi vi phạm là cá nhân hoặc tổ chức.
Thứ hai, đó là hành vi có lỗi, cố ý hoặc vô ý.
Thứ ba, hành vi đó là trái pháp luật, tức là đã vi phạm các quy định của pháp luật
về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực (ví dụ vi phạm các quy định của pháp luật
trong lĩnh vực an toàn giao thông, bảo vệ rừng v.v).
Thứ tư, hành vi vi phạm đó không phải là tội phạm, tức là mức độ xâm hại của
hành vi chưa nguy hiểm đến mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự.


Thứ năm, hành vi đó phải được quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt
vi phạm hành chính (văn bản pháp luật ở đây được hiểu là từ mức độ nghị định trở lên
đến luật, pháp lệnh. Bởi vì, theo quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính thì
chỉ Chính phủ mới có thẩm quyền quy định một hành vi là vi phạm hành chính; ở cấp
độ cao hơn, một số Luật, Pháp lệnh cũng quy định hành vi vi phạm hành chính).
Khi đề cập đến hành vi vi phạm hành chính thì cần phân biệt hành vi vi phạm
hành chính với tội phạm hình sự.
Nhìn chung, vi phạm hành chính hay tội phạm hình sự đều là hành vi vi phạm
pháp luật, vi phạm hành chính bị xử lý bằng các chế tài (biện pháp) hành chính, còn
tội phạm hình sự bị xử lý bằng các chế tài (biện pháp) hình sự. Điều phân biệt rõ rệt
giữa vi phạm hành chính và tội phạm hình sự là mức độ nguy hiểm của hành vi đó gây
ra cho xã hội. Ví dụ: đều là hành vi vi phạm trật tự an toàn giao thông như phóng xe
quá tốc độ giới hạn cho phép, nếu không gây hậu quả cho người hoặc tài sản thì là vi
phạm hành chính, nhưng cũng hành vi đó mà gây chết người hoặc huỷ hoại tài sản của
tổ chức, cá nhân khác thì là tội “vi phạm quy định về điều khiển giao thông đường bộ”
(Điều 202 Bộ luật Hình sự).
Một ví dụ khác: Một người có hành vi phá rừng, đốt rừng, vi phạm các quy định
về bảo vệ rừng… gây thiệt hại ở mức độ nhẹ thì chỉ bị xử phạt hành chính, nhưng nếu
gây thiệt hại mức độ lớn thì không còn là vi phạm hành chính nữa mà là tội phạm hình
sự (ví dụ: theo quy định tại Điều 7 của Nghị định số 139/2004/NĐ-CP thì hành vi phá
rừng, xâm hại rừng, phát rừng trái phép, gây cháy rừng từ trên 10.000 m2 rừng sản

xuất hoặc 7.500 m2 rừng phòng hộ hoặc 5.000 m2 rừng đặc dụng thì không thuộc
phạm vi xử phạt vi phạm hành chính mà chuyển sang truy cứu trách nhiệm hình sự).
Một điểm phân biệt nữa giữa vi phạm hành chính và tội phạm hình sự là vi phạm
hành chính được quy định trong các văn bản pháp luật về xử phạt hành chính, còn tội
phạm hình sự chỉ được quy định trong Bộ luật Hình sự.
Như vậy, khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật, người có thẩm quyền phải
xem xét, đối chiếu với các văn bản pháp luật, ở đây là các nghị định của Chính phủ về
xử phạt hành chính trong từng lĩnh vực cụ thể và các quy định có liên quan của Bộ
luật Hình sự, để từ đó nhận định đó là hành vi vi phạm hành chính hay là hành vi có
dấu hiệu của tội hình sự để quyết định xử phạt hành chính hoặc chuyển sang cơ quan
điều tra xử lý.
2. Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính, các chế tài xử phạt hành chính
Trước khi đi vào khái niệm “xử phạt vi phạm hành chính”, chúng ta cần tìm hiểu
khái niệm “xử lý vi phạm hành chính”.
Xử lý vi phạm hành chính là việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế của Nhà
nước (các chế tài hành chính) đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính.
Theo Pháp lệnh XLVPHC hiện hành thì xử lý vi phạm hành chính bao gồm xử phạt vi
phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác.


Xử phạt vi phạm hành chính bao gồm các chế tài chủ yếu đánh vào lợi ích kinh
tế, tinh thần của người vi phạm. Các chế tài xử phạt hành chính bao gồm hình thức xử
phạt chính, hình thức phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả.
2.1. Hình thức phạt chính
Hình thức phạt chính bao gồm cảnh cáo và phạt tiền (đối với người nước ngoài
vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng hình phạt trục xuất).
2.2. Hình thức phạt bổ sung
- Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc không
thời hạn, tuỳ thuộc vào tính chất, mức độ vi phạm (ví dụ tước giấy phép lái xe, tước
chứng chỉ hành nghề y dược tư nhân, tước giấy phép sử dụng súng săn, tước giấy phép

kinh doanh...).
- Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính. Ví dụ:
một người sử dụng cuốc, xẻng, cưa máy… để chặt phá rừng thì ngoài việc bị phạt tiền
còn bị tịch thu các phương tiện, vật dụng (cuốc, xẻng, cưa...) đã dùng để thực hiện
hành vi vi phạm.
- Trục xuất (đối với người nước ngoài) khi không áp dụng là hình phạt chính.
2.3. Các biện pháp khắc phục hậu quả
- Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây
ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép (ví dụ: buộc trồng lại khoảng rừng
đã bị đốt, bị chặt phá; buộc tháo dỡ nhà xây lấn chiếm đất công).
- Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất các hàng hóa, vật
phẩm, phương tiện. Biện pháp này được áp dụng chủ yếu trong quá trình xử phạt các
vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan hoặc các lĩnh vực có liên quan đến việc
xuất nhập khẩu hoặc có hàng hoá, vật phẩm, phương tiện được đưa từ nước ngoài vào
lãnh thổ Việt Nam như kiểm dịch thực vật, thuỷ sản... Ví dụ như hàng hoá, vật phẩm,
phương tiện được nhập khẩu trái với quy định của pháp luật hoặc hàng tạm nhập tái
xuất nhưng không tái xuất theo đúng quy định của pháp luật sẽ bị buộc đưa ra khỏi
lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất.
- Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường sống,
lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra (ví dụ: buộc thực hiện biện pháp khắc
phục tình trạng ô nhiễm nguồn nước đối với nhà máy sản xuất phân bón không thực
hiện các biện pháp xử lý chất thải gây ra tình trạng ô nhiễm).
- Buộc tiêu huỷ văn hóa phẩm độc hại, vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người
và vật nuôi, cây trồng.
- Ngoài những biện pháp khắc phục hậu quả nêu trên, các nghị định của Chính
phủ về xử phạt hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước còn quy định thêm
các biện pháp khắc phục hậu quả khác mà người có thẩm quyền được áp dụng khi xử
phạt vi phạm hành chính.
2.4. Nguyên tắc áp dụng hình thức, biện pháp xử phạt vi phạm hành chính
- Đối với mỗi hành vi vi phạm chỉ được áp dụng một hình thức xử phạt chính.



- Hình thức phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả chỉ áp dụng kèm theo
hình phạt chính, không áp dụng độc lập (ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt pháp
luật quy định không xử phạt do hết thời hiệu xử phạt) nhưng vẫn áp dụng các biện
pháp khắc phục hậu quả để bảo đảm trật tự công cộng, vì lợi ích chung của cộng đồng.
- Đối với mỗi hành vi vi phạm phải căn cứ vào các nghị định về xử phạt vi phạm
hành chính trong từng lĩnh vực cụ thể để xác định xem hành vi đó được quy định ở
điều nào, khoản nào, bị áp dụng những hình thức, biện pháp gì, mức phạt bao nhiêu
v.v.
3. Các nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính
Việc xử phạt hành chính đối với tổ chức, cá nhân phải tuân theo những nguyên
tắc pháp luật quy định, cụ thể là:
- Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời và phải bị đình chỉ ngay;
- Việc xử phạt vi phạm hành chính phải do người có thẩm quyền tiến hành theo
đúng quy định của pháp luật;
- Việc xử phạt vi phạm hành chính phải được tiến hành nhanh chóng, công minh,
mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục. Ví dụ: hành vi đào
đường bị xử phạt và buộc phải làm lại đoạn đường đó; hành vi xây nhà lấn chiếm đất
công bị xử phạt và buộc tháo dỡ công trình vi phạm, không được “phạt cho tồn tại”.
- Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính
do pháp luật quy định (xem thêm Khái niệm vi phạm hành chính).
- Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần (Ví dụ: Hành vi chặt
phá một số cây rừng đã bị Chủ tịch xã lập biên bản, xử phạt 100.000 đồng thì sau đó
không được xử phạt nữa, trừ trường hợp người vi phạm lại tiếp tục chặt phá cây rừng
thì đây được coi là hành vi mới, sẽ bị xử phạt nặng hơn (có tình tiết tăng nặng là tái
phạm).
- Nhiều người cùng thực hiện hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi phạm
đều bị xử phạt (Ví dụ: Một nhóm người cùng có hành vi đập phá, gây rối trật tự công
cộng thì mỗi người vi phạm đều bị xử phạt).

- Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm thì bị xử phạt về từng hành vi vi
phạm. Ví dụ: Một người gây rối trật tự công cộng, khi Công an tới can thiệp lại có
hành vi chống đối sẽ bị xử phạt về 2 hành vi gây rối trật tự công cộng và chống người
thi hành công vụ.
- Việc xử phạt phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân và những
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để quyết định hình thức, mức xử phạt thích hợp.
- Không xử lý vi phạm trong trường hợp thuộc tình thế cấp thiết, phòng vệ chính
đáng, sự kiện bất ngờ hoặc vi phạm trong khi đang mắc bệnh tâm thần, các bệnh khác
làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
Người có thẩm quyền khi tiến hành xử phạt phải tuyệt đối tuân thủ các nguyên
tắc xử phạt hành chính đã được pháp luật quy định. Việc tuân thủ các quy định này là


bắt buộc để bảo đảm tính pháp lý của quyết định xử phạt và bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của Nhà nước và mọi tổ chức, cá nhân.
4. Đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính
Đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính bao gồm:
- Cá nhân người Việt Nam:
+ Người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt về mọi hành vi vi phạm hành chính do
mình gây ra, kể cả lỗi cố ý hoặc vô ý. Khi áp dụng phạt tiền đối với người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi thì mức phạt tiền áp dụng không quá 1/2 mức phạt đối với người
thành niên có cùng hành vi vi phạm;
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ bị xử phạt về vi phạm hành chính do
cố ý (hình phạt áp dụng đối với họ chỉ là cảnh cáo, không áp dụng hình thức phạt tiền
trong mọi trường hợp);
+ Người dưới 14 tuổi không bị xử phạt vi phạm hành chính.
- Tổ chức Việt Nam: Tổ chức ở đây bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội,
tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị và các tổ chức khác có hành vi vi phạm hành chính,
ví dụ một cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội… không chấp hành chế
độ báo cáo thống kê hoặc có hành vi vi phạm quy tắc xây dựng, không chấp hành quy

tắc phòng cháy, chữa cháy… đều bị xử phạt hành chính.
- Cá nhân, tổ chức nước ngoài: Cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm hành chính
trên lãnh thổ Việt Nam thì bị xử phạt theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ
trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
Thông thường, những trường hợp mà người nước ngoài được miễn trừ trách nhiệm
hành chính được quy định trong các điều ước quốc tế, đặc biệt là Công ước Viên về
miễn trừ ngoại giao năm 1961.
5. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính
Thời hiệu xử phạt hành chính là khoảng thời gian mà pháp luật quy định người
có thẩm quyền được áp dụng xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm,
quá thời hiệu này thì không được xử phạt nữa. Thời hiệu thông thường là 1 năm, kể từ
ngày vi phạm hành chính xảy ra. Đối với một số lĩnh vực như tài chính, chứng khoán,
sở hữu trí tuệ, xây dựng, môi trường, an toàn và kiểm soát bức xạ, nhà ở, đất đai, đê
điều, xuất bản, xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, sản xuất, buôn bán hàng
giả... thì thời hiệu là 2 năm kể từ ngày vi phạm hành chính xảy ra (Điều 10 Pháp lệnh
XLVPHC).
Cần lưu ý rằng, mặc dù pháp luật quy định thời hiệu xử phạt khá dài, nhưng điều
đó không có nghĩa là khi người có thẩm quyền phát hiện thấy hành vi vi phạm có thể
“treo” vụ việc đó, không xử lý. Theo quy định của pháp luật thì khi phát hiện thấy vi
phạm, người có thẩm quyền phải đình chỉ ngay hành vi vi phạm và lập biên bản để xử
phạt, nếu thiếu trách nhiệm để quá thời hiệu mà không xử phạt thì tuỳ theo mức độ vi
phạm sẽ bị xử lý trách nhiệm kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.


6. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các chức danh ở xã, thị
trấn
6.1. Thẩm quyền xử phạt
Một trong những nguyên tắc cơ bản trong xử phạt hành chính là chỉ có những
chức danh được pháp luật quy định có thẩm quyền xử phạt mới được tiến hành việc
xử phạt hành chính.

Tại cấp xã, những chức danh sau đây có thẩm quyền xử phạt: Chủ tịch UBND
cấp xã, Trưởng Công an cấp xã, Chiến sỹ Công an nhân dân thuộc công an cấp xã,
Đội trưởng, Trạm trưởng của Chiến sỹ Công an đóng tại xã, phường, thị trấn.
a. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm
trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Uỷ ban nhân dân cấp xã, đặc
biệt là trong các lĩnh vực như bảo vệ trật tự, trị an, giữ gìn vệ sinh môi trường, quản lý
và bảo vệ rừng, lâm sản, quản lý đất đai v.v.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 1 Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của
Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính (năm 2008), Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã có
thẩm quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền đến 2.000.000 đồng: thẩm quyền phạt tiền này là thẩm quyền áp dụng
đối với một hành vi vi phạm, ví dụ nếu một người thực hiện 2 hành vi vi phạm khác
nhau, mức phạt đối với mỗi hành vi vi phạm là 2.000.000 đồng thì vẫn thuộc thẩm
quyền xử phạt của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã.
- Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính có giá trị
đến 2.000.000 đồng;
- Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây
ra (Ví dụ: Buộc trồng lại cây rừng đã bị chặt phá, buộc làm lại đoạn đường đã bị đào
bới…).
Ở đây, cần phân biệt biện pháp “Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu” với biện
pháp “Buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép”. Theo quy định, thì Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân cấp xã không có thẩm quyền áp dụng biện pháp “Buộc tháo dỡ công
trình xây dựng trái phép”. Tuy nhiên, khi xử phạt hành chính trong lĩnh vực xây dựng,
lấn chiếm đất đai thì 2 biện pháp này về cơ bản có nhiều nét giống nhau, nên khi áp
dụng cũng không thể máy móc mà phải xác định từng trường hợp cụ thể. Ví dụ: một
người lấn chiếm đất công, dựng hàng rào, lều, quán trên đất đó hoặc người xây dựng
trái phép chỉ mới đổ móng, xây tường (chưa đổ mái, chưa làm kiên cố thành một
“công trình”) thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã có thể áp dụng biện pháp “buộc

khôi phục lại tình trạng ban đầu”. Còn “buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép”
được hiểu là biện pháp áp dụng đối với một công trình đã được xây dựng tương đối
kiên cố (trong trường hợp này có thể hiểu là công trình đã được xây tường, đổ mái
xong).


- Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan
dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra (ví dụ: buộc thực hiện các biện pháp làm
trong sạch nước bị gây ô nhiễm);
- Buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, vật nuôi và cây trồng,
văn hoá phẩm độc hại (ví dụ: buộc tiêu hủy tài liệu bói toán, mê tín dị đoan; buộc tiêu
hủy các thực phẩm ôi thiu, gây hại cho sức khoẻ...);
- Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
b. Trưởng Công an cấp xã
Trưởng Công an cấp xã được áp dụng các hình thức xử phạt hành chính như Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã đã nêu tại điểm a trên đây, trừ quyết định áp dụng biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
c. Chiến sỹ Công an nhân dân đang thi hành công vụ có quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền đến 200.000 đồng.
d. Trạm trưởng, Đội trưởng của Chiến sỹ Công an nhân dân có quyền:
- Phạt cảnh cáo;
- Phạt tiền đến 500.000 đồng.
Cần lưu ý rằng, ở xã, phường, thị trấn, chỉ có những chức danh nói trên được
pháp luật trao thẩm quyền xử phạt hành chính, còn già làng, trưởng bản, trưởng thôn,
trưởng xóm, tổ trưởng dân phố v.v. không có thẩm quyền xử phạt hành chính.
6.2. Xác định và phân định thẩm quyền xử phạt hành chính
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được xác định, phân định dựa trên
những nguyên tắc cơ bản sau đây:
a. Việc xác định thẩm quyền xử phạt phải căn cứ vào quy định của nghị định về

xử phạt hành chính trong từng lĩnh vực cụ thể để xem mức phạt đối với một hành vi
nhất định thuộc thẩm quyền xử phạt của chức danh nào (hiện nay có khoảng gần 60
nghị định của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính). Về nguyên tắc,
thẩm quyền phạt tiền đối với hành vi vi phạm được căn cứ vào mức tối đa của khung
tiền phạt quy định đối với hành vi đó. Ví dụ: theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị
định số 60/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp thì
hành vi “Có điều kiện thi hành án nhưng cố tình trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ thi
hành án” sẽ bị phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng. Như vậy, mức phạt tiền
tối đa đối với hành vi này là 500.000 đồng.
b. Thẩm quyền xử phạt của một chức danh đối với một hành vi vi phạm không
chỉ căn cứ vào thẩm quyền phạt tiền mà còn phải căn cứ vào thẩm quyền áp dụng các
hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả theo nguyên tắc: nếu cả
hình phạt chính, hình phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối
với hành vi vi phạm đều thuộc thẩm quyền của chức danh đó thì họ mới có thẩm
quyền xử phạt đối với hành vi đó.


c. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp (bao gồm cả cấp xã) có thẩm quyền xử phạt
vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương (theo địa bàn
lãnh thổ). Như vậy, Chủ tịch xã có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi xảy ra trên
địa bàn xã mình quản lý.
d. Các chức danh thuộc các cơ quan quản lý chuyên ngành (ví dụ: thanh tra
chuyên ngành, kiểm lâm, thuế vụ, quản lý thị trường, công an nhân dân...) chỉ có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực thuộc ngành mình quản lý.
đ. Trong trường hợp vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều
người thì việc xử phạt do người đầu tiên thụ lý thực hiện. Ví dụ: hành vi săn bắn động
vật rừng trái phép thuộc thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã và
Trạm trưởng Trạm Kiểm lâm; nếu Chủ tịch xã là người phát hiện ra hành vi này và đã
lập biên bản thì việc xử phạt sẽ do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã thực hiện.
6.3. Uỷ quyền xử phạt vi phạm hành chính

- Nguyên tắc uỷ quyền: Về nguyên tắc, cấp trưởng có thể ủy quyền cho cấp phó
của mình thực hiện quyền xử phạt hành chính. Tại cấp xã, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
cấp xã có thể uỷ quyền cho Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã; Trưởng Công an
cấp xã có thể uỷ quyền cho Phó Trưởng Công an cấp xã thực hiện quyền xử phạt hành
chính của mình. Việc uỷ quyền chỉ được thực hiện trong trường hợp Chủ tịch cấp xã
hoặc Trưởng Công an cấp xã vắng mặt (đi công tác, ốm, nằm viện...). Người được uỷ
quyền có thẩm quyền xử phạt và phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Người
được uỷ quyền không được uỷ quyền tiếp theo cho bất kỳ chức danh nào khác.
- Hình thức uỷ quyền: Việc uỷ quyền phải bằng văn bản (có thể bằng một văn
bản độc lập hoặc uỷ quyền dưới dạng văn bản phân công công việc).
6.4. Các nguyên tắc xử lý trong trường hợp vụ vi phạm không thuộc thẩm
quyền
Trên thực tế, nhiều khi, người thi hành công vụ phát hiện ra các hành vi vi phạm
pháp luật nhưng không thuộc thẩm quyền xử lý của mình, đó là các trường hợp:
- Vụ vi phạm hành chính vượt quá thẩm quyền xử phạt của người phát hiện vi
phạm hành chính;
- Vụ vi phạm không còn là vi phạm hành chính mà có dấu hiệu tội phạm.
Trong các trường hợp này, người thi hành công vụ phải tiến hành lập biên bản
với đầy đủ các tình tiết, nội dung, sự kiện, người chứng kiến... Nếu cần thiết thì báo
cáo cấp trên để có biện pháp hỗ trợ.
Nếu vụ vi phạm hành chính vượt quá thẩm quyền xử phạt của người đó (về mức
tiền phạt, về thẩm quyền áp dụng hình phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả, về
thẩm quyền theo địa bàn, theo lĩnh vực quản lý...), thì người đang thụ lý phải chuyển
vụ vi phạm đến cấp có thẩm quyền để xử phạt. Tại xã, phường, thị trấn, thông thường,
nếu vụ việc không thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, Trưởng
Công an cấp xã thì phải chuyển hồ sơ vụ vi phạm lên cấp trên tức là chuyển tới Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Trưởng Công an cấp huyện hoặc tuỳ theo đặc điểm,


tính chất từng vụ việc mà chuyển sang các cơ quan quản lý chuyên ngành đóng trên

địa bàn (hải quan, kiểm lâm, thuế vụ, quản lý thị trường...).
Khi xem xét thấy vụ việc vi phạm có tính nghiêm trọng, có dấu hiệu tội phạm thì
cơ quan (người) đang thụ lý phải báo cáo cấp có thẩm quyền để chuyển sang cơ quan
xử lý hình sự theo quy định của pháp luật, không được giữ lại các vụ vi phạm có dấu
hiệu tội phạm để xử phạt hành chính.
6.5. Thẩm quyền của cấp xã trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn và
bảo đảm việc xử phạt hành chính
Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 quy định một số biện pháp nhằm
ngăn chặn kịp thời vi phạm hành chính tiếp tục diễn ra hoặc để bảo đảm việc xử lý vi
phạm hành chính có hiệu quả. Theo quy định của pháp luật thì một số chức danh
thuộc cấp xã cũng có thẩm quyền áp dụng một số biện pháp nhất định.
a. Thẩm quyền của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn, Trưởng Công an
phường: các chức danh này được áp dụng các biện pháp tạm giữ người; tạm giữ tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính; khám người và khám phương tiện vận tải, đồ vật
theo thủ tục hành chính. Cấp phó được ủy quyền của các chức danh nói trên có thẩm
quyền áp dụng các biện pháp này trong trường hợp cấp trưởng vắng mặt. Cần lưu ý là
chỉ áp dụng các biện pháp này khi cần thiết và theo đúng quy định của pháp luật (về
biện pháp, thẩm quyền, thời hạn, trình tự,…).
- Tạm giữ người vi phạm hành chính:
Căn cứ: Tạm giữ người chỉ được áp dụng trong trường hợp cần ngăn chặn, đình
chỉ ngay hành vi gây rối trật tự công cộng, gây thương tích cho người khác hoặc cần
xác minh, thu thập những tình tiết quan trọng làm căn cứ để quyết định xử phạt.
Thời hạn tạm giữ: không quá 12 giờ, kể từ thời điểm bắt đầu giữ người vi phạm;
trong trường hợp cần thiết có thể tạm giữ tới 24 giờ. Đối với vi phạm quy chế biên
giới (như xuất nhập cảnh trái phép...) hoặc vi phạm ở vùng núi, vùng xa xôi hẻo lánh,
thời hạn tạm giữ có thể dài hơn nhưng cũng không được quá 48 giờ.
Thủ tục tạm giữ: phải có quyết định tạm giữ người bằng văn bản và giao cho
người bị tạm giữ một bản. Phải thông báo cho gia đình người bị tạm giữ biết nếu họ
yêu cầu hoặc nếu tạm giữ người chưa thành niên trên 6 giờ.
Nơi tạm giữ: tại cấp xã, nơi không có nhà tạm giữ có thể tạm giữ người vi phạm

ở nơi làm việc hoặc trụ sở Uỷ ban nhân dân. Trường hợp tạm giữ qua đêm thì phải bố
trí giường hoặc sàn nằm và phải có chiếu, chăn màn cho người bị tạm giữ. Pháp luật
nghiêm cấm việc giữ người vi phạm hành chính ở những nơi không bảo đảm an toàn,
vệ sinh; nghiêm cấm việc xâm phạm sức khoẻ, thân thể, tài sản, danh dự, nhân phẩm
của người bị tạm giữ. Các quy định cụ thể về tạm giữ người theo thủ tục hành chính
thực hiện theo quy định tại Nghị định số 162/2004/NĐ-CP của Chính phủ ban hành
Quy chế tạm giữ người theo thủ tục hành chính và Nghị định số 19/2009/NĐ-CP ngày
19 tháng 02 năm 2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế tạm
giữ người theo thủ tục hành chính ban hành kèm theo Nghị định số 162/2004/NĐ-CP
của Chính phủ.


- Tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính:
Căn cứ: áp dụng trong trường hợp cần giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính để xác minh tình tiết làm căn cứ để quyết định xử phạt hoặc cần ngăn chặn ngay
vi phạm hành chính. Ví dụ: cần tạm giữ xe ô tô vận chuyển hàng lậu để xác minh chủ
hàng, chủ xe, tạm giữ xe máy vi phạm giao thông mà người điều khiển phương tiện
không có giấy tờ, tạm giữ gậy gộc, cuốc xẻng người vi phạm dùng để đánh nhau, gây
rối trật tự….
Thủ tục: phải lập biên bản về việc tạm giữ, trong biên bản phải ghi rõ tình trạng,
số lượng, chủng loại... tang vật và phải có chữ ký của người vi phạm.
Thời hạn tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm: trong thời hạn 10 ngày kể từ
ngày tạm giữ, người có thẩm quyền phải ra xử lý tang vật theo các biện pháp ghi trong
quyết định xử phạt (ví dụ: tịch thu tang vật, phương tiện hoặc buộc tiêu huỷ đối với
vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, văn hóa phẩm đồi trụy...); nếu không có
căn cứ để áp dụng các biện pháp đó thì phải trả lại phương tiện hoặc những vật đã tạm
giữ. Trong trường hợp đặc biệt, thời hạn tạm giữ tang vật có thể được kéo dài theo
thời hạn ra quyết định xử phạt đã được gia hạn nhưng tối đa không quá 60 ngày (Xem
thêm Thời hạn ra quyết định xử phạt).
- Khám người theo thủ tục hành chính:

Căn cứ: Chỉ được khám người khi có căn cứ cho rằng người đó cất giấu trong
người tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.
Thủ tục: có quyết định khám bằng văn bản và phải lập biên bản về việc khám
người; khi khám thì nam khám nam, nữ khám nữ và có người cùng giới chứng kiến.
- Khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính:
Căn cứ: chỉ được khám khi có căn cứ để cho rằng nơi đó có cất giấu tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính (có tin báo, tố giác hoặc qua công tác, nắm địa bàn
có căn cứ cho rằng nơi đó cất giấu hàng lậu, gỗ lậu...).
Thủ tục: phải có quyết định khám bằng văn bản; nếu nơi cất giấu tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính là nơi ở thì quyết định khám phải được sự đồng ý
bằng văn bản của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện trước khi tiến hành. Nơi ở là
địa điểm dùng để cư trú thường xuyên cho cá nhân, hộ gia đình có hộ khẩu thường trú
hoặc đăng ký tạm trú, hoặc tàu, thuyền là nơi cư trú thường xuyên của cá nhân, hộ gia
đình có đăng ký phương tiện (Điều 17 Nghị định số 128/2008/NĐ-CP).
Phải lập biên bản về việc khám và phải có mặt chủ nơi bị khám hoặc thành viên
trong gia đình họ và người chứng kiến. Nếu không có chủ nơi bị khám hoặc thành
viên trong gia đình họ mà việc khám không thể trì hoãn thì phải có đại diện chính
quyền và hai người chứng kiến.
Không được khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính vào
ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.
- Khám phương tiện vận tải, đồ vật:


Căn cứ: Việc khám phương tiện vận tải, đồ vật chỉ được tiến hành khi có căn cứ
cho rằng trong phương tiện vận tải, đồ vật đó có cất giấu tang vật vi phạm hành chính.
Thủ tục: Khi khám phải có chủ phương tiện vận tải, đồ vật đó và một người
chứng kiến; nếu không có mặt chủ phương tiện vận tải, đồ vật đó thì phải có hai người
chứng kiến. Mọi trường hợp khám đều phải lập biên bản.
b. Thẩm quyền của Thủ trưởng trực tiếp của Chiến sỹ Công an nhân dân
Thủ trưởng trực tiếp của Chiến sỹ Công an nhân dân (được hiểu là Đội trưởng,

Trạm trưởng của họ) có thẩm quyền ra quyết định tạm giữ tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính trong trường hợp khẩn cấp, tức là trường hợp khi thực hiện công vụ
của mình, họ có căn cứ để cho rằng nếu không ra quyết định tạm giữ ngay thì tang vật,
phương tiện vi phạm có thể bị tẩu tán, tiêu huỷ. Tuy nhiên, trong thời hạn 24 giờ kể từ
khi ra quyết định khám phải báo cáo Thủ trưởng của mình là những người có thẩm
quyền tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và phải được sự đồng ý bằng
văn bản của người đó. Nếu không được sự đồng ý của họ thì phải huỷ ngay quyết định
tạm giữ.
c. Thẩm quyền của Chiến sỹ Công an nhân dân
- Khám người trong trường hợp khẩn cấp:
Chiến sỹ Công an đang thi hành công vụ có quyền khám người trong trường hợp
khẩn cấp, tức là khi có căn cứ để cho rằng nếu không tiến hành khám ngay thì đồ vật,
tài liệu, phương tiện vi phạm hành chính có thể bị tẩu tán, tiêu huỷ và phải báo cáo kịp
thời bằng văn bản cho Thủ trưởng của mình là những người có thẩm quyền khám
người và phải được sự đồng ý bằng văn bản của người đó.
- Khám phương tiện vận tải, đồ vật:
Chiến sỹ Công an đang thi hành công vụ có quyền khám phương tiện, vận tải đồ
vật trong phạm vi thẩm quyền của mình. Phạm vi thẩm quyền ở đây được hiểu là
phạm vi chức trách, nhiệm vụ được giao. Việc khám phương tiện vận tải, đồ vật chỉ
được tiến hành khi có căn cứ cho rằng trong phương tiện vận tải, đồ vật đó có cất giấu
tang vật vi phạm hành chính. Ví dụ: khi có căn cứ (nhận được tin báo đáng tin cậy
hoặc qua hoạt động theo dõi, điều tra) cho rằng trong xe ô tô hoặc trong túi xách của
đối tượng cất giấu hàng cấm thì chiến sĩ công an đang thi hành công vụ có quyền
khám phương tiện vận tải, đồ vật đó. Khi khám phải có chủ phương tiện vận tải, đồ
vật đó và một người chứng kiến; nếu không có mặt chủ phương tiện vận tải, đồ vật đó
thì phải có hai người chứng kiến. Mọi trường hợp khám đều phải lập biên bản.
7. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
Các quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính là trình tự mà pháp luật quy
định mà người có thẩm quyền xử phạt, bao gồm cả người có thẩm quyền xử phạt ở
cấp xã phải nắm vững và tuân thủ triệt để khi tiến hành xử phạt vi phạm hành chính.

Có 2 loại thủ tục xử phạt hành chính cơ bản là thủ tục đơn giản và thủ tục xử phạt có
lập biên bản.
7.1. Đình chỉ hành vi vi phạm hành chính


Hành vi vi phạm hành chính phải bị đình chỉ ngay khi nó được phát hiện. Đây là
bước đầu tiên và bắt buộc trong quy trình xử phạt vi phạm hành chính, dù là trường
hợp áp dụng thủ tục xử phạt đơn giản hay thủ tục lập biên bản. Người có thẩm quyền
khi phát hiện ra vi phạm hành chính phải ra lệnh đình chỉ ngay hành vi vi phạm. Tùy
theo từng loại vi phạm mà lệnh đình chỉ có thể là lệnh miệng hoặc lệnh viết. Lệnh viết
thường được ban hành trong trường hợp pháp luật có quy định cụ thể hoặc bản thân
người có thẩm quyền xét thấy lệnh bằng văn bản là cần thiết, ví dụ: yêu cầu một
doanh nghiệp đình chỉ sản xuất thực phẩm không bảo đảm vệ sinh, an toàn hoặc đình
chỉ hoạt động của dây chuyền sản xuất gây ô nhiễm môi trường… thì không thể dùng
lệnh miệng.
7.2. Thủ tục đơn giản
Thủ tục đơn giản là thủ tục xử phạt hành chính không phải lập biên bản mà ra
quyết định xử phạt ngay, trừ trường hợp vi phạm hành chính được phát hiện nhờ sử
dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ. Thủ tục đơn giản được áp dụng trong
các trường hợp sau:
- Áp dụng đối với việc xử phạt một hành vi vi phạm mà mức xử phạt là cảnh cáo
hoặc phạt tiền từ 10.000 đồng đến 200.000 đồng.
- Áp dụng đối với việc xử phạt nhiều hành vi vi phạm mà mức xử phạt đối với
mỗi hành vi là cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 10.000 đồng đến 200.000 đồng.
Thủ tục đơn giản áp dụng đối với các vi phạm hành chính nhỏ, rõ ràng, không
cần lập biên bản, không có tình tiết phức tạp cần xác minh thêm và được áp dụng
nhiều trong lĩnh vực an toàn giao thông. Ví dụ: vượt đèn đỏ, đi vào đường ngược
chiều… để nhằm giải quyết nhanh chóng các trường hợp vi phạm. Dù không lập biên
bản, nhưng mọi trường hợp xử phạt hành chính đều phải ra quyết định xử phạt. Quyết
định xử phạt theo thủ tục đơn giản thường được in sẵn theo mẫu chung do cơ quan có

thẩm quyền ban hành.
Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có thể nộp tiền phạt cho người có thẩm quyền xử
phạt và nhận biên lai thu tiền phạt (nộp phạt tại chỗ) để người có thẩm quyền nộp vào
Kho bạc nhà nước theo quy định. Nếu cá nhân không có tiền ngay tại chỗ thì cũng có
thể nộp tại Kho bạc nhà nước.
7.3. Thủ tục xử phạt có lập biên bản
a. Lập biên bản vi phạm hành chính: là bước bắt buộc khi tiến hành xử phạt đối
với các trường hợp không áp dụng thủ tục đơn giản. Khi phát hiện vi phạm hành
chính, ngưòi có thẩm quyền phải kịp thời lập biên bản. Theo quy định tại Nghị định số
128/2008/NĐ-CP thì người có thẩm quyền lập biên bản là những người có thẩm
quyền xử phạt và những người có thẩm quyền đang thi hành công vụ. Ví dụ: chiến sỹ
cảnh sát trong khi đi tuần tra hoặc cán bộ, công chức được giao thực thi công vụ thanh
tra, kiểm tra… Biên bản phải được người lập biên bản, người vi phạm ký, nếu có
người chứng kiến, người bị thiệt hại thì những người này cùng ký vào biên bản, trong
trường hợp người vi phạm hoặc những người có liên quan từ chối ký thì người lập


biên bản ghi rõ lý do và ký vào biên bản. Biên bản trong trường hợp này vẫn hợp pháp
và người lập biên bản phải chịu trách nhiệm về nội dung trung thực của biên bản.
b. Ra quyết định xử phạt hành chính
- Thời hạn ra quyết định xử phạt:
Sau khi tiến hành lập biên bản về vi phạm hành chính, người có thẩm quyền xử
phạt phải xem xét vụ việc và ra quyết định xử phạt trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày
lập biên bản; đối với vụ vi phạm hành chính có nhiều tình tiết phức tạp thì thời hạn ra
quyết định xử phạt là 30 ngày. Đây là thời hạn mà pháp luật quy định cho người có
thẩm quyền xử phạt phải tuân thủ, không được cố tình trì hoãn hoặc tắc trách làm việc
xử phạt bị dây dưa, kéo dài. Trong trường hợp đặc biệt, tức là khi thấy vụ việc có quá
nhiều tình tiết phức tạp cần có thêm thời gian xem xét, xác minh mà thời hạn 30 ngày
không đủ để xem xét, ra quyết định xử phạt thì người có thẩm quyền phải báo cáo thủ
trưởng trực tiếp của mình để xin gia hạn. Việc gia hạn phải bằng văn bản và thời hạn

gia hạn không được quá 30 ngày. Quá thời hạn trên thì không được ra quyết định xử
phạt nữa nhưng vẫn có thể áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả và tịch thu tang
vật vi phạm hành chính thuộc loại cấm lưu hành.
- Nội dung quyết định xử phạt:
Quyết định xử phạt phải bằng văn bản, bao gồm đầy đủ các nội dung quy định
tại khoản 3 Điều 56 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Thông thường, quyết định
xử phạt được in sẵn theo mẫu chung và người tiến hành xử phạt chỉ phải điền vào các
mục có sẵn.
- Hiệu lực của quyết định, gửi quyết định xử phạt:
Quyết định xử phạt có hiệu lực kể từ ngày ra quyết định, tức là từ ngày người có
thẩm quyền ký quyết định xử phạt. Quyết định xử phạt cũng có thể có hiệu lực muộn
hơn, vào thời điểm nhất định ghi trong quyết định xử phạt và phải được gửi (trao) cho
người (tổ chức) bị xử phạt trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày ra quyết định. Nếu là
quyết định phạt tiền thì quyết định còn phải được gửi cho cơ quan thu tiền phạt.
- Chấp hành quyết định xử phạt, thu nộp tiền phạt:
Người bị xử phạt phải đến nộp phạt tại Kho bạc nhà nước trừ trường hợp đã nộp
tiền phạt tại chỗ theo thủ tục đơn giản và tại những vùng xa xôi, hẻo lánh, trên sông,
trên biển thì người có thẩm quyền có thể thu nộp tiền phạt tại chỗ và nộp lại vào Kho
bạc nhà nước theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
8. Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính và thẩm
quyền của cấp xã
8.1. Các biện pháp cưỡng chế
Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là việc cơ quan có
thẩm quyền áp dụng các biện pháp cần thiết mà pháp luật quy định để bắt buộc cá
nhân, tổ chức bị xử phạt hành chính phải thực hiện quyết định xử phạt, trong trường
hợp họ không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt.


Các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính bao
gồm:

- Khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập, khấu trừ tiền từ tài khoản tại
ngân hàng;
- Kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá;
- Các biện pháp cưỡng chế khác để thực hiện tịch thu tang vật, phương tiện vi
phạm (ví dụ: bắt buộc người vi phạm phải giao nộp tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính); các biện pháp bắt buộc cá nhân, tổ chức vi phạm thực hiện các biện pháp
khắc phục hậu quả vi phạm hành chính (ví dụ: nếu người vi phạm không tự nguyện
tháo dỡ công trình xây dựng trái phép thì tổ chức tháo dỡ và buộc người vi phạm phải
trả chi phí...).
8.2. Thẩm quyền của cấp xã trong việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt
hành chính
Tại cấp xã, chỉ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn là người có thẩm quyền ra
quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt. Các quyết định xử phạt do các
chức danh khác ở cấp xã ban hành như Trưởng Công an xã, Chiến sĩ cảnh sát nhân
dân thuộc Công an xã… nếu cần cưỡng chế phải báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
cấp xã để Chủ tịch xã ra quyết định cưỡng chế. Thủ tục cưỡng chế thực hiện theo quy
định của Nghị định số 37/2005/NĐ-CP.
8.3. Tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế
- Đối với quyết định cưỡng chế của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã:
+ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã khi ra quyết định cưỡng chế có nhiệm vụ tổ
chức cưỡng chế như lập kế hoạch, huy động và phân công nhiệm vụ cụ thể cho các cơ
quan, đơn vị có liên quan, chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện cưỡng chế.
+ Các cơ quan chức năng của Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thi hành
quyết định cưỡng chế của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp theo sự phân công của
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân.
+ Cơ quan Công an cấp xã có nhiệm vụ bảo đảm trật tự, an toàn trong quá trình
thi hành quyết định cưỡng chế của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã.
- Đối với quyết định cưỡng chế của các cơ quan nhà nước khác:
Trong việc thi hành quyết định cưỡng chế của các cơ quan nhà nước khác đối
với cá nhân, tổ chức đóng trên địa bàn xã, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã có trách

nhiệm phối hợp với các cơ quan đó. Lực lượng cảnh sát nhân dân có trách nhiệm bảo
đảm trật tự, an toàn trong quá trình thi hành quyết định cưỡng chế của các cơ quan nhà
nước khi được các cơ quan đó yêu cầu.
Ví dụ: Chi cục trưởng Chi cục kiểm lâm ra quyết định cưỡng chế tịch thu số gỗ
lậu đối với cá nhân vi phạm ở xã A thì khi nhận được văn bản đề nghị của Chi cục
kiểm lâm, Chủ tịch xã A và Trưởng Công an xã A có trách nhiệm phối hợp với Chi
cục kiểm lâm trong việc cưỡng chế.


III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ
HÀNH CHÍNH KHÁC TẠI CẤP XÃ
1. Giới thiệu chung về các biện pháp xử lý hành chính khác và thẩm quyền
của cấp xã
Theo quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 thì trong hệ
thống các chế tài hành chính có 5 biện pháp xử lý hành chính khác là Giáo dục tại xã,
phường, thị trấn (sau đây gọi là giáo dục tại cấp xã), Đưa vào trường giáo dưỡng, Đưa
vào cơ sở giáo dục, Đưa vào cơ sở chữa bệnh và Quản chế hành chính. Đây là các
biện pháp xử lý hành chính khác được phân biệt rõ rệt với các hình thức xử phạt hành
chính thông thường như phạt cảnh cáo, phạt tiền, tịch thu tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính v.v... vì các biện pháp này chỉ được áp dụng đối với những đối
tượng nhất định, khi áp dụng không chỉ căn cứ vào một hành vi vi phạm cụ thể mà
còn căn cứ vào cả quá trình vi phạm pháp luật có tính hệ thống của đối tượng.
Việc áp dụng các biện pháp này có liên quan chặt chẽ đến chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền của Uỷ ban nhân dân cấp xã, vì cơ sở chính là nơi chủ yếu phát hiện đối
tượng, lập biên bản, lập hồ sơ, trình cơ quan có thẩm quyền quyết định. Đối với biện
pháp Giáo dục tại cấp xã thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã còn chính là người ra
quyết định và tổ chức thực hiện biện pháp này.
2. Biện pháp Giáo dục tại xã, phường, thị trấn (Giáo dục tại cấp xã)
2.1. Khái quát chung về biện pháp Giáo dục tại cấp xã
Giáo dục tại cấp xã là biện pháp quản lý, giáo dục tại nơi cư trú đối với người có

hành vi vi phạm hành chính quy định tại Điều 23 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính
năm 2002. Đây là biện pháp xử lý hành chính không thiên về cưỡng chế mà mang tính
giáo dục cộng đồng, kết hợp sự giáo dục của chính quyền cơ sở với sự giáo dục của
các đoàn thể xã hội, cộng đồng dân cư ở địa phương và của gia đình đối với người có
hành vi vi phạm pháp luật. Người bị áp dụng biện pháp này phải chịu sự giáo dục của
chính quyền, đoàn thể, nhân dân địa phương tại nơi cư trú, không bị cách ly khỏi cộng
đồng xã hội. Các văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến biện pháp này là Pháp lệnh
XLVPHC năm 2002 (được sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008), Nghị định số
163/2003/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn, Thông tư số 22/2004/TT-BCA và một số văn bản hướng dẫn khác của Bộ Công
an.
2.2. Đối tượng áp dụng biện pháp Giáo dục tại cấp xã
Đối tượng áp dụng biện pháp Giáo dục tại cấp xã được quy định tại khoản 2
Điều 23 Pháp lệnh XLVPHC và được cụ thể hóa tại Điều 3 Nghị định số
163/2003/NĐ-CP. Theo đó, đối tượng bị áp dụng biện pháp này bao gồm:
a. Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi, thực hiện hành vi có dấu hiệu của một
tội phạm nghiêm trọng do lỗi cố ý được quy định tại Bộ Luật Hình sự
Điều cần lưu ý là khái niệm tội phạm nghiêm trọng ở đây phải được xác định
theo tiêu chí của Bộ luật Hình sự 1999. Đây là loại tội phạm mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội đó là đến 7 năm tù. Ví dụ: một người 14 tuổi, phạm tội lừa


đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị 50 triệu đồng (khung hình phạt từ 2 năm đến 7 năm
tù), nhưng không bị xử lý hình sự vì chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự về hành vi
này, thuộc đối tượng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
b. Người từ đủ 12 tuổi trở lên nhiều lần có hành vi trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ,
đánh bạc nhỏ, gây rối trật tự công cộng.
Trong trường hợp này, cần chú ý yếu tố “nhiều lần” tức là người đó phải có ít
nhất từ 2 hành vi vi phạm trở lên trong một năm; tuy nhiên, cũng không nên áp dụng
máy móc mà cần xem xét đến yếu tố vi phạm có tính hệ thống của đối tượng. Các

hành vi “trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, gây rối trật tự công cộng” ở đây
được hiểu là các vi phạm hành chính, tức là các vi phạm này chưa đến mức bị truy
cứu trách nhiệm hình sự.
c. Người nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên; người bán dâm có tính chất thường
xuyên từ đủ 14 tuổi trở lên có nơi cư trú nhất định. Đối với người bán dâm, yếu tố “có
tính chất thường xuyên” được hiểu là trường hợp người bán dâm có tính chuyên
nghiệp, vi phạm đã bị phát hiện nhiều lần.
d. Người trên 55 tuổi (đối với nữ) và trên 60 tuổi (đối với nam) thực hiện hành vi
vi phạm thuộc diện phải đưa vào cơ sở giáo dục nhưng quá tuổi đưa vào cơ sở giáo
dục (Xem thêm Đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục).
đ. Người có một trong các hành vi vi phạm pháp luật sau đây từ 2 lần trở lên
trong một năm nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự:
- Xâm phạm sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của công dân, của người nước ngoài;
- Xâm phạm tài sản của tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài;
- Chống người thi hành công vụ;
- Lợi dụng quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng để lôi kéo, kích động người
khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân;
- Tổ chức cưỡng ép, lôi kéo, dụ dỗ người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại
nước ngoài trái phép.
Cũng lưu ý thêm rằng, biện pháp Giáo dục tại cấp xã không áp dụng đối với
người dưới 12 tuổi. Đối với đối tượng này, cần lấy sự bảo ban, nhắc nhở, quản lý của
gia đình, của nhà trường đối với các em làm nền tảng, kết hợp với sự quan tâm của
chính quyền và tổ chức xã hội, tránh cho các em cảm giác bị ghét bỏ vì các em còn ở
lứa tuổi quá nhỏ, tâm hồn non nớt, dễ bị thương tổn.
2.3. Thẩm quyền và thời hạn áp dụng biện pháp Giáo dục tại cấp xã
- Thẩm quyền áp dụng:
Thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp Giáo dục tại cấp xã là Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân xã, thị trấn. Trong trường hợp Chủ tịch vắng mặt thì có thể ủy quyền
cho Phó Chủ tịch. Việc ủy quyền phải bằng văn bản theo đúng quy định tại Điều 41
Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính đã được sửa đổi, bổ sung năm 2008.

- Thời hạn áp dụng:


Thời hạn áp dụng biện pháp này từ 3 tháng đến 6 tháng. Việc quyết định thời
gian áp dụng dài hay ngắn cần căn cứ vào mức độ, tính chất, nhân thân và hoàn cảnh,
điều kiện, môi trường giáo dục người vi phạm.
2.4. Thủ tục áp dụng biện pháp Giáo dục tại xã, thị trấn
a. Đề nghị Giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Những người sau đây có thể đề nghị áp dụng biện pháp Giáo dục tại xã, thị trấn:
Trưởng Công an cấp xã; Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã; Đại diện cơ quan,
tổ chức, đơn vị dân cư ở cơ sở (ví dụ: Nhà trường, Đoàn thanh niên, Hội Phụ nữ, Tổ
dân phố...).
Bên cạnh những chủ thể nói trên, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã cũng có thể
chủ động trong việc quyết định áp dụng biện pháp này hoặc quyết định trên cơ sở hồ
sơ, biên bản vi phạm pháp luật về đối tượng do Công an cấp huyện, cấp tỉnh cung cấp.
Đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã phải bằng văn bản theo mẫu chung do
Bộ Công an ban hành.
b. Tổ chức cuộc họp để xem xét đề nghị Giáo dục tại xã, thị trấn và Quyết định
Giáo dục tại cấp xã
Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
cấp xã phải triệu tập và chủ trì cuộc họp để lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức hữu quan.
Thành phần tham gia gồm Trưởng Công an cấp xã, đại diện Tư pháp xã, đại diện Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã, đại diện đơn vị dân cư nơi đối tượng sinh sống. Tuỳ
theo từng đối tượng mà có thể mời thêm đại diện các cơ quan, tổ chức khác và đại
diện gia đình.
Trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày kết thúc cuộc họp nói trên, Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân cấp xã xem xét, quyết định việc áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã đối
với đối tượng. Khi ra quyết định, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã phải giao trách
nhiệm thực hiện giáo dục đối tượng cho cơ quan, tổ chức phù hợp (ví dụ đối tượng có
hành vi mại dâm thì có thế giao cho Hội Phụ nữ, đối tượng người chưa thành niên thì

giao cho gia đình, nhà trường, tổ chức xã hội giúp đỡ, giáo dục...).
Quyết định Giáo dục tại cấp xã thực hiện theo mẫu chung do Bộ Công an ban
hành tại Quyết định số 1522/2005/QĐ-BCA (V19).
c. Thi hành Quyết định Giáo dục tại xã, phường, thị trấn
- Tổ chức cuộc họp triển khai: Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày quyết định có
hiệu lực, cơ quan, tổ chức được giao trách nhiệm quản lý, giáo dục đối tượng phải tổ
chức cuộc họp tại đơn vị dân cư nơi người bị giáo dục cư trú để triển khai việc thi
hành quyết định. Tại cuộc họp, người bị giáo dục phải tự mình đọc bản kiểm điểm và
cam kết sửa chữa sai phạm của mình. Các đại biểu tham dự cuộc họp phân tích những
sai phạm của người được giáo dục và góp ý xây dựng để giúp người đó sửa chữa, tiến
bộ. Đối với người mại dâm thì cuộc họp nên giới hạn trong phạm vi người được giao
trực tiếp giúp đỡ, đại diện Hội Phụ nữ và gia đình người đó.
- Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức được giao trách nhiệm giáo dục:


+ Phân công người trực tiếp giúp đỡ người được giáo dục trong cuộc sống, trực
tiếp gặp gỡ, thông qua bạn bè, gia đình tìm hiểu nguyên nhân dẫn người đó đến vi
phạm pháp luật, tâm tư, nguyện vọng của người đó, tạo điều kiện để họ vươn lên, sửa
chữa sai lầm; giúp người bị giáo dục làm bản cam kết sửa chữa sai phạm và theo dõi
việc thực hiện quyết định giáo dục tại cấp xã đối với người đó.
+ Người đứng đầu tổ chức được giao trách nhiệm giáo dục phải thường xuyên
nắm tình hình về sự tiến bộ của người được giáo dục, kiến nghị với chính quyền các
hình thức giúp đỡ người đó trong cuộc sống như về công ăn, việc làm, trợ giúp công
cụ, phương tiện sinh sống… Đối với người chưa thành niên thì phải phối hợp với gia
đình, nhà trường, Ban Dân số, gia đình và trẻ em ở cơ sở để động viên, giáo dục, chăm
sóc các em, tạo điều kiện cho các em tiếp tục học tập hoặc học nghề, lao động phù
hợp.
+ Mỗi tháng một lần, cơ quan, tổ chức được giao trách nhiệm quản lý, giáo dục
đối tượng phải làm báo cáo gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã về việc thi hành
quyết định, đánh giá quá trình thực hiện và đề xuất biện pháp giáo dục tiếp theo. Nếu

người được giáo dục có tiến bộ rõ rệt thì làm văn bản đề nghị Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân cấp xã xem xét, miễn chấp hành phần thời gian còn lại của quyết định.
- Trách nhiệm của Trưởng Công an xã: Giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp
trong việc lập, quản lý hồ sơ theo dõi sự tiến bộ của người được giáo dục; phân công
cán bộ, chiến sĩ công an phối hợp với tổ chức được Chủ tịch cấp xã giao quản lý, giáo
dục đối tượng; giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã theo dõi thời hạn chấp hành
quyết định, việc vắng mặt của người được giáo dục và thực hiện việc quản lý hồ sơ về
người được giáo dục theo quy định của Bộ Công an.
- Trách nhiệm và quyền của người bị áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã:
Người bị áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã có trách nhiệm:
+ Chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia lao động,
học tập, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân tại nơi cư trú.
+ Làm bản kiểm điểm và cam kết để báo cáo với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp
xã và nghiêm chỉnh thực hiện cam kết đó.
+ Phải có mặt khi Uỷ ban nhân dân cấp xã yêu cầu; nếu vắng mặt mà không có
lý do chính đáng thì Uỷ ban nhân dân cấp xã triệu tập họ đến trụ sở để yêu cầu làm
bản kiểm điểm về hành vi vi phạm đó.
+ Hàng tháng phải báo cáo bằng văn bản với người được phân công giúp đỡ về
tình hình rèn luyện, tu dưỡng, kết quả sửa chữa sai phạm.
+ Nếu người bị giáo dục là người nghiện ma túy dẫn đến sự phát tán tài sản gia
đình thì có thể bị đề nghị Tòa án xem xét, hạn chế năng lực hành vi dân sự của người
đó.
Người bị áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã có quyền:
+ Được lao động, học tập, sinh hoạt tại nơi cư trú; được vắng mặt tại nơi cư trú
nếu có lý do chính đáng nhưng mỗi lần vắng mặt không quá 30 ngày và tổng số thời


gian vắng mặt không vượt quá 1/3 thời hạn áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã; nếu
vắng mặt đến 10 ngày thì phải báo cáo người giúp đỡ hoặc Uỷ ban nhân dân cấp xã
biết; vắng mặt từ trên 10 ngày đến 30 ngày phải làm đơn xin phép ghi rõ lý do và

được sự đồng ý của Trưởng Công an xã hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã. Nếu
vì các lý do chính đáng như thay đổi nơi đăng ký hộ khẩu, đi học hoặc đi làm việc ổn
định ở địa phương khác thì phải có đơn đề nghị để Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã
xem xét, giải quyết.
+ Có quyền đề đạt nguyện vọng, kiến nghị với tổ chức được giao trách nhiệm
quản lý, giáo dục hoặc chính quyền địa phương và quyền khiếu nại tố cáo về những
việc làm trái pháp luật của người có liên quan đến việc thi hành biện pháp Giáo dục
tại cấp xã theo trình tự, thủ tục của pháp luật khiếu nại, tố cáo
d. Kết thúc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã:
Khi hết thời hạn ghi trong Quyết định áp dụng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã
phải cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong cho người được giáo dục, lưu 1 bản tại
hồ sơ và thông báo cho tổ chức đã được giao quản lý, giáo dục và gia đình người vi
phạm biết.
3. Biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
3.1. Một số vấn đề chung về biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
a. Khái quát chung về biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng:
Đưa vào trường giáo dưỡng là một biện pháp xử lý hành chính khác do Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân cấp huyện áp dụng đối với người chưa thành niên có hành vi vi
phạm pháp luật. Những người này sẽ được đưa vào các trường giáo dưỡng do Bộ
Công an thành lập để học văn hóa, học nghề, giáo dục hướng nghiệp, lao động, sinh
hoạt tập trung dưới sự quản lý của Ban quản lý nhà trường, nhằm giúp các em từ bỏ
những hành vi vi phạm pháp luật, trở thành những công dân lương thiện, có ích cho xã
hội. Cả nước hiện có 4 trường giáo dưỡng được Bộ Công an thành lập theo khu vực. ở
miền Bắc có Trường giáo dưỡng số 2 ở Ninh Bình; miền Trung có Trường giáo dưỡng
số 3 ở Đà Nẵng; miền Nam có 2 trường là Trường giáo dưỡng số 4 tại Đồng Nai và
Trường giáo dưỡng số 5 tại Long An.
Các văn bản liên quan đến biện pháp này, ngoài Pháp lệnh XLVPHC còn có
Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày 24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định
việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, Nghị định số
118/2010/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2010 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số

điều của các Nghị định quy định về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục,
trường giáo dưỡng và một số văn bản hướng dẫn của Bộ Công an.
b. Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
Việc xác định đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng có ý
nghĩa rất quan trọng để bảo đảm áp dụng đúng người, đúng chế tài xử lý. Uỷ ban nhân
dân cấp xã là nơi lập hồ sơ ban đầu về đối tượng đề nghị áp dụng biện pháp này, do
đó, việc nắm vững các quy định của pháp luật về đối tượng áp dụng biện pháp đưa
vào trường giáo dưỡng là hết sức cần thiết.


Theo quy định tại khoản 2 Điều 24 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và
khoản 2 Điều 2 Nghị định 142/2003/NĐ-CP, thì đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào
trường giáo dưỡng bao gồm:
- Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi, thực hiện hành vi có các dấu hiệu của
một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Bộ Luật Hình
sự năm 1999.
Đây là đối tượng có hành vi phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm
trọng, nhưng do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên không xử lý hình sự mà áp
dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng. Đối với loại đối tượng này chỉ cần lần
đầu tiên thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng (mức cao
nhất của khung hình phạt đối với tội đó là đến 15 năm tù) hoặc đặc biệt nghiêm trọng
(mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội đó là trên 15 năm tù, tù chung thân
hoặc tử hình) là đủ điều kiện để lập hồ sơ đưa vào trường giáo dưỡng.
- Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có các dấu hiệu của một
tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng quy định tại Bộ luật Hình sự mà
trước đó đã bị áp dụng biện pháp Giáo dục tại cấp xã hoặc chưa bị áp dụng biện pháp
này nhưng không có nơi cư trú nhất định;
Ví dụ: Một người 14 tuổi, trước đây đã bị áp dụng biện pháp Giáo dục tại cấp xã
do nhiều lần có hành vi trộm cắp vặt, gây rối trật tự công cộng, nay lại có hành vi trộm
cắp 1 chiếc xe đạp trị giá 500.000 đồng (thuộc tội ít nghiêm trọng nên trong trường

hợp này họ chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự) là thuộc đối tượng đưa vào trường
giáo dưỡng.
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, nhiều lần có hành vi trộm cắp vặt, lừa
đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, gây rối trật tự công cộng mà trước đó đã bị áp dụng biện pháp
Giáo dục tại cấp xã hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú
nhất định.
Cần lưu ý xem xét kỹ để xác định đúng đối tượng cần đưa vào trường giáo
dưỡng, không áp dụng tràn lan biện pháp này, vì đây là biện pháp có tính chất cách ly
khỏi cộng đồng, do vậy, chỉ áp dụng khi cần thiết và trong những trường hợp pháp
luật quy định.
c. Thẩm quyền và thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
Thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện). Trong trường hợp Chủ tịch vắng mặt thì Phó
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện được uỷ quyền có thẩm quyền áp dụng biện
pháp này. Thời hạn áp dụng biện pháp này là từ 6 tháng đến 2 năm.
d. Các bước cơ bản trong thủ tục áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
- Khi phát hiện người thuộc đối tượng đưa vào trường giáo dưỡng, Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú lập hồ sơ gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp
huyện; trường hợp đối tượng không có nơi cư trú nhất định thì Chủ tịch Uỷ ban nhân


dân cấp xã nơi đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật có trách nhiệm lập biên bản,
báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
- Trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
cấp huyện giao cho Trưởng Công an cùng cấp.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, trưởng Công an cấp huyện
có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ và gửi hồ sơ đến thành viên Hội đồng tư vấn.
- Hội đồng tư vấn về biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng do Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân cấp huyện thành lập, gồm Trưởng Công an, Trưởng phòng Tư pháp, Chủ

nhiệm Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em cấp huyện; Trưởng Công an là thường trực
Hội đồng. Hội đồng tư vấn có trách nhiệm tổ chức cuộc họp để xét duyệt hồ sơ trong
thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ và làm văn bản trình Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân cấp huyện.
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định việc áp dụng biện
pháp này trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo của Hội đồng tư vấn.
- Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày ra quyết định, cơ quan Công an cấp huyện
có trách nhiệm đưa người có quyết định vào chấp hành tại trường giáo dưỡng.
Trong quy trình trên, trách nhiệm của chính quyền cấp xã tập trung chủ yếu vào
khâu đầu tiên, tức là khâu lập hồ sơ, biên bản về hành vi vi phạm pháp luật của đối
tượng.
3.2. Trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp xã và các cơ quan, tổ chức hữu
quan ở cơ sở trong quá trình áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
a. Trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp xã
Trong việc áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân cấp xã có quyền và trách nhiệm sau:
- Lập hồ sơ đề nghị đưa vào trường giáo dưỡng: đối với người chưa thành niên
thuộc đối tượng đưa vào trường giáo dưỡng thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi
người đó cư trú có trách nhiệm lập hồ sơ về đối tượng, gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
cấp huyện.
Trong hồ sơ gồm có bản tóm tắt lý lịch, tài liệu, biên bản về vi phạm pháp luật
của đối tượng, tài liệu về các biện pháp giáo dục đã áp dụng, nhận xét của cơ quan
Công an, ý kiến của nhà trường, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, Đoàn thanh niên, Hội Phụ
nữ, Ban Dân số, gia đình và trẻ em cấp xã, ý kiến của cha mẹ hoặc người giám hộ.
- Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật đối với người thuộc đối tượng đưa
vào trường giáo dưỡng không có nơi cư trú nhất định (không xác định được cư trú hay
tạm trú ở đâu, sống lang thang, vạ vật, nay đây mai đó…); trong trường hợp này, Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật của người đó lập
biên bản, báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện để thu thập tài liệu và lập hồ
sơ.



- Giám sát, quản lý chặt chẽ người đã có quyết định nhưng chưa được đưa đi
trường giáo dưỡng tại địa phương, phối hợp với Công an cấp huyện trong việc tổ chức
thi hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng.
- Xem xét, xác nhận các trường hợp thuộc diện hoãn hoặc miễn thi hành quyết
định đưa vào trường giáo dưỡng để trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện xem
xét, quyết định theo quy định tại Điều 80 Pháp lệnh XLVPHC như các trường hợp
người đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng nhưng chưa đi trường giáo dưỡng
thì gia đình xảy ra khó khăn đặc biệt (ví dụ: bị thiên tai, hỏa hoạn nặng, có việc
tang…); phụ nữ đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi; người được hoãn chấp hành
quyết định mà có tiến bộ rõ rệt hoặc lập công (cứu người, cứu tài sản, giúp chính
quyền truy bắt tội phạm…).
b. Trách nhiệm của cơ quan Công an cấp xã
Cơ quan Công an cấp xã có nhiệm vụ giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp:
- Thu thập tài liệu, lập hồ sơ các đối tượng cần đưa vào trường giáo dưỡng có
nơi cư trú (đối tượng có đăng ký hộ khẩu, đăng ký tạm trú hoặc đang sinh sống ổn
định tại địa phương);
- Đối với người không có nơi cư trú nhất định thì Công an cấp xã nơi người đó
có hành vi vi phạm pháp luật giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp lập biên bản,
thống kê hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng để báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân cấp huyện.
c. Trách nhiệm của các tổ chức xã hội ở cơ sở
Các tổ chức xã hội như Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên... ở cơ
sở có trách nhiệm làm bản nhận xét về đối tượng đề nghị đưa vào trường giáo dưỡng
theo yêu cầu của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã để bổ sung, hoàn chỉnh hồ sơ về
đối tượng.
4. Biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh
4.1. Một số vấn đề chung về biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh
a. Khái quát chung về biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh

Đưa vào cơ sở chữa bệnh là một biện pháp xử lý hành chính áp dụng đối với
người nghiện ma tuý, người mại dâm có tính chất thường xuyên. Cơ sở chữa bệnh là
nơi chữa trị, học tập, lao động, dạy nghề và hướng nghiệp đối với các đối tượng này.
Cơ sở chữa bệnh còn được gọi là Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội,
do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thành lập. Các văn bản quy định về vấn đề này ngoài
Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính còn có Luật Phòng, chống ma túy, Nghị định số
135/2004/NĐ-CP và Nghị định số 43/2005/NĐ-CP quy định việc đưa người nghiện
ma tuý, người mại dâm không có nơi cư trú nhất định vào lưu trú tạm thời tại cơ sở
chữa bệnh và các văn bản hướng dẫn của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ
Công an,…
b. Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh


Theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và
khoản 1 Điều 28 Luật Phòng, chống ma tuý, được cụ thể hóa tại Điều 2 Nghị định số
135/2004/NĐ-CP, thì đối tượng áp dụng biện pháp này bao gồm:
- Người nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về
việc sử dụng trái phép chất ma túy mà vẫn còn nghiện, đã được cai nghiện tại gia đình,
cộng đồng hoặc đã bị áp dụng biện pháp Giáo dục tại cấp xã mà vẫn còn nghiện;
- Người nghiện ma túy không có nơi cư trú nhất định;
- Người bán dâm có tính chất thường xuyên từ đủ 16 tuổi đến 55 tuổi, đã bị áp
dụng biện pháp Giáo dục tại cấp xã hoặc đã bị đưa vào cơ sở chữa bệnh nhưng tái
phạm;
- Người bán dâm có tính chất thường xuyên từ đủ 16 tuổi đến 55 tuổi chưa bị áp
dụng biện pháp Giáo dục tại cấp xã nhưng không có nơi cư trú nhất định;
Cần lưu ý: Biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh chỉ áp dụng đối
với người nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên (độ tuổi tối đa không xác định). Còn
người chưa thành niên từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi nghiện ma tuý đã được cai
nghiện tại gia đình, cộng đồng hoặc đã được giáo dục nhiều lần tại xã, phường, thị
trấn mà vẫn còn nghiện hoặc không có nơi cư trú nhất định thì bị cai nghiện bắt buộc

tại cơ sở riêng. Thủ tục lập hồ sơ và ra quyết định cai nghiện bắt buộc đối với những
người này áp dụng tương tự như đối với trường hợp áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở
chữa bệnh (Điều 25 Nghị định số 135/2004/NĐ-CP), tuy nhiên, việc cai nghiện bắt
buộc đối với họ không coi là áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính.
Đối với người nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên mà tái nghiện trong thời hạn 2
năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh (tức là tái nghiện
khi chưa được xóa quyết định xử lý hành chính) thì cần lập hồ sơ chuyển cơ quan điều
tra truy tố theo Điều 199 Bộ luật Hình sự về tội sử dụng trái phép chất ma túy.
c. Thẩm quyền và thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh
Thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh là Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Trong trường hợp Chủ tịch vắng mặt thì Phó Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân cấp huyện được uỷ quyền có quyền quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh.
Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh đối với người nghiện ma tuý là
từ 1 năm đến 2 năm, đối với người bán dâm là từ 3 tháng đến 18 tháng.
d. Các bước cơ bản trong thủ tục áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người thuộc đối tượng đưa vào cơ sở
chữa bệnh cư trú lập hồ sơ gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện; trường hợp đối
tượng không có nơi cư trú nhất định thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi đối
tượng có hành vi vi phạm pháp luật có trách nhiệm lập biên bản, báo cáo Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân cấp huyện.
- Trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ hoặc biên bản, Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân cấp huyện giao cho Trưởng phòng Lao động, Thương binh và Xã hội.


Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hoặc biên bản, Trưởng
phòng Lao động, Thương binh và Xã hội phối hợp với Trưởng Công an cấp huyện
thẩm tra hồ sơ, thu thập tài liệu, hoàn chỉnh hồ sơ và gửi hồ sơ đến thành viên Hội
đồng tư vấn.
- Hội đồng tư vấn về biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh do Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân cấp huyện thành lập gồm Trưởng phòng Lao động, Thương binh và Xã hội,

Trưởng phòng Tư pháp, Trưởng Công an, Chủ tịch Hội Phụ nữ cấp huyện; Trưởng
phòng Lao động, Thương binh và Xã hội là thường trực Hội đồng. Trong thời hạn 7
ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, Hội đồng tư vấn có trách nhiệm tổ chức cuộc họp
để xét duyệt hồ sơ và làm văn bản trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định việc áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo
của Hội đồng tư vấn.
- Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày ra quyết định, cơ quan Công an cấp huyện
có trách nhiệm đưa người có quyết định vào chấp hành tại cơ sở chữa bệnh.
Cần lưu ý: Người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi trở lên bị bắt quả tang sử dụng trái
phép chất ma túy mà không có nơi cư trú nhất định; người bán dâm từ đủ 16 tuổi đến
dưới 55 tuổi bị bắt quả tang thực hiện hành vi bán dâm hoặc người bán dâm có tính
chất thường xuyên mà không có nơi cư trú nhất định sẽ bị đưa vào lưu trú tạm thời tại
cơ sở chữa bệnh tối đa là 15 ngày. Đây là biện pháp ngăn chặn mới không được quy
định trong Pháp lệnh XLVPHC năm 2002, nhưng được quy định tại Nghị định số
43/2005/NĐ-CP của Chính phủ sau khi có sự đồng ý của Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội. Biện pháp đưa vào lưu trú tạm thời tại cơ sở chữa bệnh nhằm ngăn chặn, phòng
ngừa các đối tượng này bỏ trốn (vì không có nơi cư trú ổn định) trong thời gian cơ
quan có thẩm quyền lập hồ sơ và tiến hành các thủ tục ra quyết định đưa vào cơ sở
chữa bệnh.
4.2. Trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp xã và các cơ quan, tổ chức hữu
quan ở cơ sở trong việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh
a. Trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân cấp xã
- Lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở chữa bệnh: đối với người thuộc đối tượng đưa
vào cơ sở chữa bệnh thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú có trách
nhiệm lập hồ sơ về đối tượng, gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
Hồ sơ gồm có tóm tắt lý lịch, bệnh án (nếu có), tài liệu, biên bản về vi phạm
pháp luật của đối tượng, các biện pháp đã áp dụng, nhận xét của cơ quan công an, ý
kiến của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các các tổ chức xã hội cùng cấp có liên quan
(Đoàn thanh niên, Hội Phụ nữ cấp xã…)

- Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật đối với các đối tượng không có nơi
cư trú nhất định (không xác định được cư trú hay tạm trú ở đâu, lang thang các bến tàu
xe v.v) mà có hành vi sử dụng ma túy trên địa bàn thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp
xã, nơi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật của người đó lập biên bản về hành vi vi
phạm, xử phạt hành chính theo Nghị định số 150/2005/NĐ-CP quy định xử phạt vi


phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội (Điều 23 về xử phạt
hành chính đối với hành vi vi phạm các quy định về phòng, chống và kiểm soát ma
tuý), sau đó, gửi biên bản, báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện để cấp huyện
tổng hợp tài liệu, lập hồ sơ.
- Giám sát người đã có quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh tại địa phương trong
thời gian chưa đưa người đó đi chấp hành tại cơ sở, phối hợp với Công an cấp huyện
trong việc thi hành quyết định.
- Xem xét, xác nhận các trường hợp thuộc diện được hoãn hoặc miễn thi hành
quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh theo quy định tại Điều 98 Pháp lệnh XLVPHC.
b. Trách nhiệm của cơ quan Công an cấp xã
Cơ quan Công an cấp xã có nhiệm vụ giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp:
- Thu thập tài liệu, lập hồ sơ các đối tượng cần đưa vào cơ sở chữa bệnh có nơi
cư trú nhất định (có đăng ký hộ khẩu, đăng ký tạm trú hoặc đang sinh sống ổn định tại
địa phương).
- Đối với người không có nơi cư trú nhất định thì Công an cấp xã nơi người đó
có hành vi vi phạm pháp luật giúp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp lập biên bản,
thống kê hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng để báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân cấp huyện.
c. Trách nhiệm của các tổ chức xã hội ở cấp xã
Các tổ chức xã hội như Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên... ở cơ
sở có trách nhiệm phát hiện đối tượng, thông báo cho Công an cấp xã hoặc báo cáo
Chủ tịch xã, phối hợp với các cơ quan này trong công tác quản lý địa bàn và phòng
chống tệ nạn mại dâm, ma túy nói chung. Ngoài ra, có trách nhiệm làm bản nhận xét

về đối tượng đề nghị đưa vào cơ sở chữa bệnh theo yêu cầu của Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân cấp xã để bổ sung, hoàn chỉnh hồ sơ về đối tượng.
5. Biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục
5.1. Một số vấn đề chung về biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục
a. Khái quát chung về biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục:
Đưa vào cơ sở giáo dục là một trong những biện pháp xử lý hành chính khác
được quy định trong Pháp lệnh XLVPHC. Đối tượng bị áp dụng biện pháp này sẽ
được đưa vào các cơ sở giáo dục do Bộ Công an thành lập và quản lý để rèn luyện, tu
dưỡng, học văn hóa, học nghề, lao động dưới sự quản lý của cơ sở để trở thành những
công dân có ích cho xã hội. Hiện nay, có 10 cơ sở giáo dục trên phạm vi toàn quốc.
Các văn bản pháp luật liên quan đến biện pháp này bao gồm: Pháp lệnh
XLVPHC, Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 quy định và
hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, Nghị định số
125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 sửa đổi, sổ sung một số điều của Nghị
định số 76/2003/NĐ-CP, Nghị định số 118/2010/NĐ-CP, Thông tư số 02/2004/TTBCA hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP và một
số văn bản khác của Bộ Công an.


×