Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

ĐẠO VỢ CHỒNG TRONG TỤC NGỮ, CA DAO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.62 KB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

NGUYỄN THỊ THU

ĐẠO VỢ CHỒNG
TRONG TỤC NGỮ, CA DAO VIỆT NAM
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Toan

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin gửi lời cảm ơn
chân thành nhất tới các thầy cô trong khoa Triết học - Trường
Đại Học Sư phạm Hà Nội, đặc biệt là sự giúp đỡ chỉ bảo tận
tình của cô giáo – TS. Nguyễn Thị Toan.
Qua đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thư viện: thư
viện trường Đại học Sư phạm Hà Nội, thư viện trường Đại học Hải
Dương và nhiều bạn bè đã giúp đỡ tôi trong việc tìm kiếm tài liệu
để hoàn thành luận văn. Đặc biệt tôi xin cảm ơn gia đình, cơ quan
– Trường Đại học Hải Dương và bạn bè đã động viên giúp đỡ, tạo
điều kiện cho tôi hoàn thành công trình nghiên cứu này.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài còn nhiều thiếu sót, tôi
rất mong nhận được sự góp ý và bổ sung của quý thầy cô và các


bạn!
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, tháng 6 năm
2015
Tác giả

Nguyễn Thị Thu


MỤC LỤC
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu........................................................................65


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử phát triển của mỗi dân tộc là lịch sử của sự văn minh tiến hóa về
ý thức xã hội, trong đó có vấn đề đạo đức. Đây là một hình thái ý thức tồn tại
để duy trì và tổ chức đời sống xã hội. Mỗi dân tộc có nét riêng về đạo đức để
phù hợp với cộng đồng mình. Việt Nam là một quốc gia có nét riêng về đạo
đức gia đình, đặc biệt là đạo vợ chồng. Gia đình là tế bào, là nền tảng của xã
hội, là xã hội thu hẹp, vì vậy, trong ấm ngoài êm, gia đình tốt, xã hội tốt, gia
đình hòa thuận hạnh phúc là cơ sở tạo nên xã hội ổn định. Hạt nhân gia đình
chính là quan hệ vợ chồng, đạo vợ chồng là những ứng xử hợp chuẩn mực đạo
đức có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn, ổn định, bảo đảm cho quan hệ vợ
chồng tốt đẹp, cho gia đình đầm ấm, hạnh phúc tránh khỏi nguy cơ tan vỡ.
Có thể nói rằng, đạo vợ chồng trong văn hóa Việt Nam là một trong
những giá trị căn bản của văn hóa dân tộc, được hun đúc nên từ trong lịch sử,
phản ánh thực tiễn cuộc sống gia đình của con người Việt Nam. Đó là sự kết
tinh lối sống, phẩm chất đạo đức tốt đẹp, cách cư xử truyền thống của người
Việt Nam. Đạo vợ chồng là nét bản sắc văn hóa riêng của dân tộc Việt, làm

nên sức mạnh trường tồn của dân tộc. Đạo vợ chồng trong văn hóa Việt Nam
là những chuẩn mực đạo đức luân lý, cách ứng xử của người vợ với người
chồng và người chồng với người vợ được mọi người thừa nhận, trở thành mực
thước để xem xét, đánh giá, điều chỉnh hành vi vợ chồng, giữ gìn nề nếp gia
phong. Đạo vợ chồng trong quá trình hình thành và phát triển có tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại trên cơ sở giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc, do vậy
nó mang giá trị nhân văn sâu sắc. Đạo vợ chồng đã đóng vai trò quan trọng
trong văn hóa Việt Nam, nó không những đã đóng góp phần làm thành hệ giá
trị cốt lõi của đạo làm người của dân tộc ta. Nó là nền tảng nhân sinh quan để
hình thành nên lối sống, cách cư xử của người vợ, người chồng Việt nói riêng

1


và của con người Việt Nam nói chung. Đồng thời, đạo vợ chồng là nét văn
hóa riêng của người Việt, là nét riêng để bảo đảm cho dòng chảy văn hóa Việt
có sức sống trường tồn.
Tục ngữ, ca dao là sản phẩm được sáng tạo bởi quần chúng nhân dân,
nội dung gần gũi với tập quán sinh hoạt của con người. Được thử thách qua
không gian, thời gian và lòng người, được gọt giũa, chau chuốt bởi hàng vạn
nhà thơ dân gian vô danh, tục ngữ, ca dao đã trở thành những viên ngọc quý
trong kho tàng văn hóa dân gian dân tộc. Cha ông ta đã sử dụng tục ngữ, ca
dao để bày tỏ tâm tư, tình cảm và những quan niệm sống của mình. Có rất
nhiều hình thức khác nhau để chuyển tải đời sống tinh thần của con người,
nhưng không có hình thức nào lại gần gũi và dễ đi vào lòng người như tục
ngữ, ca dao. Tư tưởng triết học và tính lí luận về đạo vợ chồng được tục ngữ,
ca dao Việt Nam đề cập và truyền tải, truyền tụng một cách dễ dàng cho các
thế hệ người Việt. Tục ngữ, ca dao về đạo vợ chồng đã góp phần hình thành,
phát triển nhân cách, cách ứng xử trong quan hệ vợ chồng người Việt Nam từ
hàng nghìn năm nay và trong giai đoạn hiện nay nó vẫn còn nguyên giá trị sâu

sắc cả về tư tưởng, đạo đức, lối sống, thuần phong mĩ tục. Tuy nhiên, các đề
tài hiện nay chủ yếu nghiên cứu về đạo làm người, đạo hiếu còn đạo vợ
chồng chưa được đề cập nghiên cứu nhiều. Vì vậy, xuất phát từ những điều
trên tôi thấy vấn đề nghiên cứu đạo vợ chồng trong tục ngữ, ca dao Việt Nam
là cần thiết. Với ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài “Đạo vợ chồng trong tục ngữ, ca
dao Việt Nam" để nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về đạo vợ chồng:
"Quan niệm Nho giáo về các mối quan hệ xã hội. Ảnh hưởng và ý
nghĩa của nó đối với xã hội ta ngày nay" của TS. Nguyễn Văn Bình đã tìm
hiểu quan niệm Nho giáo về các mối quan hệ xã hội, ảnh hưởng và ý nghĩa

2


của nó đối với xã hội ta ngày nay nhằm rút ra những kết luận khoa học có ý
nghĩa lí luận và thực tiễn, góp phần xây dựng và làm lành mạnh hóa các mối
quan hệ xã hội hiện nay. "Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với đạo đức
người phụ nữ ở nông thôn Việt Nam hiện nay" của TS. Doãn Thị Chín đã đề
cập đến một số vấn đề chung về đạo đức Nho giáo và đạo đức người phụ nữ
trong Nho giáo ở Trung Quốc và ở Việt Nam. Ảnh hưởng của đạo đức Nho
giáo đối với đạo đức người phụ nữ nông thôn hiện nay - thực trạng và những
vấn đề đặt ra (qua thực tế ở đồng bằng sông Hồng). Phương hướng và một số
giải pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu
cực của đạo đức Nho giáo đối với việc xây dựng đạo đức người phụ nữ ở
nông thôn Việt Nam hiện nay. “Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Nghĩa Dân đã đề cập đến nội dung đạo làm người
trong tục ngữ, ca dao trong đó có quan hệ vợ chồng. Theo tác giả, quan hệ vợ
chồng chủ yếu là tình yêu và hòa thuận. Quan hệ trai gái bắt đầu từ tình yêu
còn quan hệ vợ chồng có thể bắt đầu từ tình hay nghĩa. Tác giả có đề cập đến

“nghĩa” và “tình” trong quan hệ vợ chồng được xã hội ủng hộ, góp phần làm
lên thuần phong mỹ tục gia đình. Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập đến nội dung
thủy chung trong quan hệ vợ chồng, và chưa đi sâu, phân tích về nội dung đạo
vợ chồng. “Sự phản ánh quan hệ gia đình, xã hội trong tục ngữ, ca dao” của
tác giả Đỗ Thị Bảy là công trình nghiên cứu những qua niệm dân gian về
quan hệ gia đình, xã hội, góp phần làm sáng tỏ những phẩm chất cao đẹp,
cách cảm, cách nghĩ, cách sống của cha ông trong xã hội xưa. Từ đó đề cao
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, góp phần xây dựng nền tảng đạo đức mới
đậm đà bản sắc Việt Nam. Trong quan hệ vợ chồng, tác giả ngoài việc ca ngợi
tình cảm yêu thương, sắt son, thủy chung, sự chung sức, chung lòng để xây
dựng gia đình của vợ chồng còn thể hiện những hạn chế trong quan hệ vợ
chồng: sự gia trưởng của người chồng, thân phận thấp hèn của người vợ, tình

3


trạng tảo hôn, đa thê... Cuốn Kỷ yếu hội thảo khoa học “Đạo làm người trong
văn hóa Việt Nam” của Khoa Triết học – trường Đại học Sư phạm Hà Nội là
tài liệu hữu ích về văn hóa đạo đức, lối sống trong gia đình, nhà trường và xã
hội hiện nay. Trong cuốn kỷ yếu có nhiều bài viết đề cập đến quan hệ vợ
chồng, đặc biệt là đạo đức và thân phận người vợ trong xã hội. Bài viết “Phụ
nữ Việt Nam truyền thống trong tương quan với Nho giáo” của ThS Ngô Bích
Đào có viết về phận làm vợ của người phụ nữ quán xuyến, đảm đương công
việc nhà chồng, dành tình yêu thương, quý trọng chồng... Bài viết nhấn mạnh
vai trò làm vợ của người phụ nữ, và sự quan trọng của người vợ đối với
chồng. Bài viết “Từ quan niệm về hạnh trong tứ đức của Nho giáo suy nghĩ
về chữ Hạnh của người phụ nữ ở Việt Nam xưa và nay” của ThS Trần Thị Hà
Giang cho thấy sự ảnh hưởng mạnh mẽ của Nho giáo đến đạo đức vợ chồng.
Quan niệm về vai trò trụ cột gia đình, quyền “năm thê bảy thiếp” của người
chồng, quan niệm về việc giữ đức hạnh, lấy chăm lo gia đình làm trọng của

người vợ. Bài viết “Đạo làm người của người Công giáo Việt Nam – một
cách tiếp cận giá trị Công giáo ở Việt Nam” của PGS.TS Nguyễn Hồng
Dương đề cập sâu sắc đến nội dung thủy chung vợ chồng. Đây là một trong
những nội dung chủ yếu, quan trọng trong đạo vợ chồng người Việt. Bài viết
“Quan niệm về đạo làm người trong Kinh Thiện Sinh” của TS. Nguyễn Thị
Toan cho thấy ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo đến đạo làm người nói chung
và đạo vợ chồng nói riêng. Phật chỉ dạy cách đối nhân xử thế theo đúng đạo
làm người trong quan hệ vợ chồng, khuyên răn những điều lên làm của người
vợ, người chồng. "Đạo đức gia đình trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước
ta hiện nay" của TS. Nguyễn Thị Thọ đã phân tích những tác động của kinh tế
thị trường đối với đạo đức gia đình, từ đó đề xuất một số giải pháp định
hướng trong việc xây dựng đạo đức gia đình ở nước ta hiện nay. "Nghiên cứu
về quyền lực của vợ chồng trong gia đình nông thôn Việt Nam" của Phạm Thị

4


Huệ trong cuốn kỉ yếu khoa học của dự án nghiên cứu liên ngành "Gia đình
nông thôn Việt Nam trong chuyển đổi" nằm trong chương trình. Luận văn
Thạc sĩ "Học thuyết "tam tòng" "tứ đức" và ảnh hưởng của nó đối với người
phụ nữ Việt Nam hiện nay - thực trạng và giải pháp" của tác giả Nguyễn Thi
Vân năm 2005.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu về tục ngữ, ca dao Việt Nam:
Từ những năm 90 đến nay, các nhà nghiên cứu đã chú ý nghiên cứu về
tục ngữ, ca dao theo chuyên đề. Có những công trình được xuất bản hoặc tái
bản đáng chú ý như: “Thi pháp ca dao” của Nguyễn Xuân Kính, “Ca dao tục
ngữ với khoa học nông nghiệp” của Bùi Huy Đáp, “Tìm hiểu thi pháp tục ngữ
Việt Nam”của Phan Thị Đào, “Nghệ thuật chơi chữ trong ca dao người Việt”
của Triều Nguyên, “Tục ngữ Việt Nam, cấu trúc và thi pháp” của Nguyễn
Thái Hòa, “Tiếp cận ca dao bằng phương thức xâu chuỗi theo mô hình cấu

trúc” của Triều Nguyên, “Thi ca bình dân Việt Nam” của Nguyễn Tấn Long
và Phan Canh; “Tục ngữ, ca dao dân ca Việt Nam” của Vũ Ngọc Phan.
Tác phẩm “Tục ngữ Việt Nam cấu trúc và thi pháp” của tác giả
Nguyễn Thái Hoà (1997) đã nghiên cứu tục ngữ dưới góc độ thi pháp. Nhà
nghiên cứu đã khảo sát hơn 100 câu tục ngữ mới ghi được và đưa ra kết luận:
sự sáng tạo tục ngữ có thể quy về ba hình thức: mô phỏng các khuôn hình cũ,
triển khai các khuôn hình cơ bản và chuyển hoá tục ngữ. Những phân tích của
tác giả trên phương diện nghệ thuật gắn liền với thi pháp để đi đến sự khẳng
định “Tục ngữ mới vẫn đang phát triển”.
Tác giả Nguyễn Nghĩa Dân trong cuốn sách “Lịch sử Việt Nam trong
tục ngữ ca dao” ( 2010) đã sưu tầm các câu ca dao, tục ngữ phản ánh lịch sử
Việt Nam qua các thời kì để từ đó khẳng định vai trò to lớn của tục ngữ trong
việc phản chiếu những thời kì lịch sử của dân tộc, đó thực sự là những “pho
sử” được lưu truyền bằng miệng sinh động.

5


Tác giả Ngô Thị Thanh Quý trong cuốn sách “Tìm trong tục ngữ
nét văn hoá Việt” (2010) đã thể hiện những nét văn hoá của người Việt
được khắc hoạ qua tục ngữ đặc biệt là những câu tục ngữ gắn với cuộc
sống và lao động sản xuất nông nghiệp.Sự sáng tạo những câu tục ngữ
mới được trình bày, lí giải khá hấp dẫn và đem đến cho người đọc rất
nhiều sự mở mang về tri thức.
Một số luận văn nghiên cứu về tục ngữ, ca dao như "Tục ngữ, ca dao
và việc phản ánh phong tục tập quán người Việt (trong quan hệ gia đình)
năm 2005" của TS. Phạm Việt Long đề cập đạo đức gia đình là những chuẩn
mực đạo đức của người Việt Nam duy trì từ thế hệ này sang thế hệ khác, nó là
nét riêng mang bản sắc dân tộc Việt. Đạo đức gia đình hay đạo làm người
được phản ánh qua tục ngữ ca dao một cách phong phú, nó ngấm sâu trong

tiềm thức người Việt. “Thái độ ứng xử cổ truyền với tự nhiên và xã hội của
người Việt câu thổ Bắc Bộ qua ca dao tục ngữ” năm 2008 của Trần Thúy
Anh là công trình thống kê, phân tích thông qua ca dao, tục ngữ nhằm soi
sáng thực tiễn lí luận về cách ứng xử của người Việt Nam trong hai chiều
quan hệ cơ bản của đời sống: tự nhiên và xã hội. “Đặc trưng kết cấu ca dao
trữ tình” năm 2012 của Nguyễn Thi Thu Hà nghiên cứu kết cấu ca dao một
cách hệ thống, đa diện hơn từ các phương diện, các góc độ khác nhau do đặc
trưng của đối tượng tạo nên. Nghiên cứu kết cấu ca dao từ góc độ hoàn cảnh
diễn xướng, góc độ các công trình truyền thống, dòng thơ, khổ thơ và các biện
pháp tu từ, ý nghĩa kết cấu trong ca dao.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu về đạo vợ chồng trong tục ngữ, ca
dao Việt Nam:
Những năm 1940, “Kinh thi Việt Nam” của Nguyễn Bách Khoa nói về
gia tộc phụ hệ và chống nam quyền để phân tích về gia đình Việt Nam thể
hiện qua ca dao. Năm 1960, ở tác phẩm “Chống hôn nhân gia đình phong

6


kiến trong ca dao Việt Nam”, tác giả Hằng Phương nêu lên những nội dung
có tính chất chống đối trong ca. "Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt
Nam” của TS. Nguyễn Nghĩa Dân (2011) đã phân loại tục ngữ, ca dao về đạo
làm người và sưu tầm, lựa chọn, giải thích nghĩa câu tục ngữ, ca dao. Tác giả
làm rõ phương thức thể hiện nội dung của tục ngữ, ca dao được kết hợp giữa
xây và chống, giữa nêu gương và phê phán bao quát mọi lĩnh vực có liên quan
đến tư tưởng, đạo đức, lối sống của người Việt Nam. “Sự phản ánh quan hệ
gia đình, xã hội trong tục ngữ, ca dao” của tác giả Đỗ Thị Bảy (2011) là
nghiên cứu sâu về tục ngữ, ca dao, mối quan hệ giữa tục ngữ, ca dao và gia
đình. Tác giả trình bày mạch lạc hai nội dung sự phản ánh quan hệ gia đình,
xã hội trong tục ngữ và sự phản ánh quan hệ gia đình, xã hội trong ca dao. Từ

đó, tác giả so sánh sự phản ánh quan hệ gia đình, xã hội trong tục ngữ và ca
dao người Việt để thấy được những điểm tương đồng, những điểm khác biệt.
Tác giả tổng hợp và liệt kê khá chi tiết những câu tục ngữ, những bài ca dao
về quan hệ vợ - chồng, cha mẹ - con cái, anh chị em, dâu - rể, họ hàng... “Tục
ngữ, ca dao về quan hệ gia đình” của Phạm Việt Long (2012) nghiên cứu tục
ngữ, ca dao bằng phương pháp tiếp cận văn hóa để tìm ra bản sắc văn hóa dân
tộc, phản ánh toàn diện, trực diện các mối quan hệ trong gia đình trong tục
ngữ, ca dao.
Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về đạo vợ chồng, về tục
ngữ, ca dao Việt Nam và đạo vợ chồng trong tục ngữ Việt Nam. Các công
trình nghiên cứu đã phân tích những chuẩn mực đạo đức được phản ánh qua
tục ngữ ca dao và phân tích đạo đức người phụ nữ Việt Nam cùng những ảnh
hưởng của Nho giáo, Phật giáo đến mối quan hệ gia đình người Việt. Tuy
nhiên, vấn đề đạo đức người phụ nữ - người vợ được đề cập rất nhiều, trong
khi đó đạo vợ chồng hay những đạo lí của người chồng chưa được đề cập đến
hoặc có đề cập đến nhưng chưa sâu sắc. Các đề tài chủ yếu nghiên cứu về đạo
Hiếu, đạo đức người phụ nữ Việt Nam, đạo đức gia đình hiện nay, quyền lực

7


của vợ chồng trong gia đình; chưa có đề tài nghiên cứu cụ thể về nội dung đạo
vợ chồng trong tục ngữ, ca dao Việt Nam. Vì vậy, tôi lựa chọn hướng nghiên
cứu của mình là đi cụ thể vào nội dung đạo vợ chồng trong tục ngữ, ca dao
Việt Nam. Và những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước sẽ là
nguồn tài liệu tham khảo quý giá để tác giả sử dụng trong quá trình thực hiện
luận văn của mình. Qua luận văn này, tác giả hi vọng đóng góp một phần
công sức của mình vào việc nghiên cứu đạo vợ chồng trong tục ngữ, ca dao
Việt Nam từ đó tìm hiểu những giá trị lịch sử và hạn chế về quan niệm đạo vợ
chồng trong tục ngữ, ca dao.

3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở phân tích cơ sở hình thành, vai trò của đạo vợ chồng trong
xã hội Việt Nam truyền thống, luận văn làm rõ những nội dung cơ bản của
đạo vợ chồng trong tục ngữ, ca dao Việt Nam. Từ đó, kế thừa những giá trị
lịch sử và chỉ ra những hạn chế về quan niệm đạo vợ chồng trong tục ngữ, ca
dao việt Nam làm cơ sở, định hướng cho việc xây dựng gia đình hạnh phúc
của người Việt Nam hiện nay.
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đạo vợ chồng trong tục ngữ, ca
dao Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu về đạo vợ chồng trong tục ngữ, ca dao
Việt Nam, đồng thời bước đầu có liên hệ tới đạo vợ chồng trong xã hội Việt
Nam hiện nay.
4. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
* Những luận điểm cơ bản:
- Đạo vợ chồng của người Việt chịu ảnh hưởng sâu sắc từ điều kiện
kinh tế - xã hội của xã hội Việt Nam truyền thống và tư tưởng của Nho giáo,
Phật giáo.

8


- Đạo vợ chồng của người Việt Nam thể hiện sâu sắc và phong phú qua tục
ngữ, ca dao với nội dung chủ yếu là thủy chung, trọng nghĩa tình và hòa thuận.
- Kế thừa, phát triển đạo vợ chồng trong tục ngữ, ca dao Việt Nam là
cơ sở, định hướng cho việc xây dựng gia đình hạnh phúc của người Việt Nam
hiện nay.
* Đóng góp mới của luận văn:

- Làm rõ những nội dung cơ bản của đạo vợ chồng thể hiện qua tục
ngữ, ca dao Việt Nam.
- Đánh giá mặt tích cực, tiêu cực trong quan niệm về đạo vợ chồng của
người Việt truyền thống thể hiện qua tục ngữ, ca dao.
- Liên hệ tới xu hướng biến đổi của đạo vợ chồng trong xã hội Việt
Nam hiện nay (trong điều kiện kinh tế thị trường), bước đầu đề xuất một số
giải pháp xây dựng hạnh phúc gia đình nói chung và quan hệ vợ chồng nói
riêng trên cơ sở kế thừa những giá trị tích cực, hạn chế tiêu cực trong đạo vợ
chồng của người Việt Nam truyền thống.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ
thể như: logic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn dịch...
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.

9


NỘI DUNG
Chương 1. KHÁI QUÁT MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ ĐẠO VỢ
CHỒNG TRONG TỤC NGỮ, CA DAO VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.1.1. Đạo vợ chồng trong đạo làm người của người Việt Nam
"Đạo làm người" là khái niệm có liên quan trực tiếp đến cuộc sống của
mỗi con người, mỗi gia đoạn lịch sử của dân tộc, liên quan đến sự phát triển
của mỗi quốc gia và cả nhân loại. Bởi lẽ, từ khi có con người và xã hội loài
người thì những mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự
nhiên, con người với chính bản thân mình đã nảy sinh "Đạo làm người". Ngày

nay, khi xã hội càng phát triển, trình độ nhận thức của con người không
ngừng được nâng cao, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, xã hội và
chính bản thân mình nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp thì "Đạo làm người" lại
càng được chú ý hơn bao giờ hết. Đạo làm người là khái niệm khá rộng, ở
phương Đông, trong học thuyết của Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo đều lấy
đạo đức làm cơ sở trong đối nhân xử thế và tự rèn luyện bản thân của mỗi
người. Các học thuyết đó thường đề xuất các quy tắc, chuẩn mực, những ràng
buộc trong cuộc sống hàng ngày của con người; gồm rất nhiều chuẩn mực
trong các quan hệ, như: vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, làng xóm, bạn bè,
tu thân, dưỡng tâm... theo những định hướng nhất định. Vì thế, khái niệm đạo
ở phương Đông thường được hiểu là đạo làm người. Theo từ điển Tiếng Việt,
“đạo là phép tắc đối xử trong xã hội, ai cũng phải biết và phải tuân thủ, giữ
gìn” [50, 123] như đạo làm người, đạo vợ chồng, đạo hiếu... “Đạo làm người
được hiểu là đường lối, nguyên tắc đạo đức mà con người có bổn phận giữ
gìn và tuân theo trong đời sống, là đường sống của con người trong xã hội”.
[9, 203]

10


Tại sao lại gọi là

Đạo làm người? Đạo

là một phạm trù có nguồn gốc từ triết

học phương Đông mà người có công nêu ra là Lão Tử. “ Đạo"
chất quy luật hoạt động của vũ trụ.

Lão Tử nêu ra mang tính


Ở nước ta, tiếp nhận vũ trụ quan của Lão Tử, trong tác

phẩm “Vân đài loại ngữ” có nói về bản thể của Đạo theo Lê Quý Đôn: “Trong
khoảng trời đất, vốn vẫn có đạo lí. Đạo lí ấy bao la vô cùng. Bản thể của nó
rất là tinh vi. Công dụng của nó rất là rõ rệt” [14, 84]. Đạo làm người - đó là con đường,
là quy luật, là nguyên tắc mà con người có bổn phận phải giữ gìn và tuân theo trong quan hệ với chỉnh mình, với xã hội
và tự nhiên. Ngày xưa, dân gian thường nói:

“Cho con học dăm ba chữ của thánh hiền để làm

người”, do đó để làm người phải học, phải có tri thức, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong đó điều cơ bản của đạo làm
người là đạo đức.

Đạo đức nhân dân bắt nguồn từ lao động sản xuất, đời sống cộng

đồng. Kế thừa phát huy đạo làm người với những tinh hoa của nó từ ngàn xưa
để lại, từ sau Cách mạng tháng Tám, nhân dân ta được định hướng đạo làm
người gắn chặt với tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đó là tính lịch sử truyền
thống đồng thời cũng là tính hiện đại của đạo làm người. Như vậy, đạo làm
người không bó hẹp trong truyền thống dân tộc mà kết hợp truyền thống với
hiện đại, có khả năng tạo những giá trị mới tiếp nối và phát triển đạo làm
người truyền thống của nhân dân ta. Ngoài ra, đạo làm người còn có ý nghĩa
thiêng liêng gắn với đời sống tâm linh cùa nhân dân ta, cho nên nói đến đạo là
nói đến niềm tin vào chân lí, vào lẽ phải, điều nhân, điều thiện... Do đó, đạo
làm người có nội hàm xác định thành đạo làm cha mẹ, đạo làm con, đạo làm
anh, làm chị, làm em, đạo vợ chồng, đạo bạn bè, đạo làm dân (dưới thời
phong kiến có đạo làm vua, đạo làm tôi). Tỏ lòng biết ơn, “uống nước nhớ
nguồn”, nhân dân ta còn có đạo thờ phụng tổ tiên, ông bà, đạo thờ cúng các
anh hùng dân tộc đó là nét độc đáo trong đạo làm người của nhân dân ta.

Khi bàn đến "Đạo làm người", Nho giáo nhấn mạnh đến “Đạo nhân”,
"Đạo làm người". Theo nghĩa đó, “Đạo làm người” được hiểu là nguyên tắc
chính trị, là quy phạm đạo đức và luân lý, là đạo lý trị quốc và xử thế của con

11


người. Nói cách khác, đạo làm người được hiểu là đường lối, nguyên tắc đạo
đức mà con người có bổn phận gìn giữ và tuân theo trong đời sống. Đó là
nhân sinh quan, là quan niệm sống trong sạch, thuận theo lẽ phải.
Đạo làm người là triết lý nhân sinh, phương châm sống của con người,
trả lời câu hỏi: con người phải sống như thế nào cho phải Đạo? Có thể khẳng
định rằng, bàn về đạo làm người là bàn về những giá trị đạo đức, những quy
tắc, chuẩn mực để điều chỉnh hành vi con người, giúp cho cuộc sống con
người ngày càng có ý nghĩa, con người sống ngày càng mang "tính người"
hơn. Đạo làm người liên quan đến cuộc sống của mỗi con người trong mỗi
giai đoạn của lịch sử dân tộc, liên quan đến sự phát triển của mỗi quốc gia và
cả nhân loại. Bởi vậy, mặc dù ra đời từ rất lâu nhưng cho đến nay luận bàn về
đạo làm người không phải là bàn về một điều đã cũ,cổ hủ mà vẫn rất cần thiết
cho hiện đại và cả tương lai. Để trở thành "Người" - con người viết hoa, loài
người đã không ngừng suy tư một cách sâu sắc về vấn đề "Đạo làm người".
Vấn đề này có vị trí đặc biệt rất quan trọng đối với lịch sử tư tưởng nhân loại
nói chung và lịch sử tư tưởng Việt Nam nói riêng. "Đạo làm người" là căn
cốt, nền tảng, trụ cột của xã hội loài người; là yếu tố quan trọng thiết lập lên
trât tự xã hội, là chuẩn mực đạo đức để con người hướng theo.
Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, đạo làm người đựợc coi là giá trị nền
tảng của mọi giá trị nhân văn. Tuy nhiên nhận thức về đạo làm người là một
quá trình, được bổ sung và phát triển liên tục qua các giai đoạn của lịch sử xã
hội. Quan niệm về đạo làm người chịu sự qui định của thực tiễn lịch sử. Quan
niệm về đạo làm người dựa trên đạo đức học mácxít và tư tưởng Hồ Chí Minh

đạt được giá trị khách quan và khoa học, là một trong những nhân tố góp phần
thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội trong thời đại ngày nay. Tiêu chí của đạo làm
người trong xã hội ngày nay đòi hỏi sự phát triển toàn diện về chính trị, tư
tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng

12


nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hệ hài
hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội.
Để có Đạo làm người, mỗi người phải hoàn thành bổn phận, nghĩa vụ,
trách nhiệm của mình đối với gia đình, nổi bật là giữa người vợ, người chồng,
đó là đạo vợ chồng. Tiêu chí của Đạo làm người trong xã hội đòi hỏi sự thủy
chung, gắn bó tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong
gia đình, cộng đồng và xã hội. Đạo vợ chồng không chỉ có đạo đức mà còn
bao hàm cả chính trị, văn hóa. Nó hàm chứa những triết lý nhân văn sâu sắc,
phản ánh trí tuệ và văn hóa nói chung của một thời đại , một dân tộc, Sự dung
dị ấy cũng không kém phần sâu sắc, nó là một kiểu thông thái và minh triết
của nhân dân, của dân gian.
Về quan hệ vợ chồng, các tác giả “Thi ca bình dân Việt Nam” viết:
"Trước nhất, chúng ta thường thấy trong ca dao Việt Nam, người bình dân
quan niệm sự sống chung giữa vợ chồng là một cái "đạo". [24, 491]. Các tác
giả đã phân tích khá tỷ mỉ các mối quan hệ của tình vợ chồng khi gần gũi, khi
sóng gió, khi xa cách, rồi đi đến kết luận: "Tóm lại, đối với tình vợ chồng,
người bình dân gọi là cái đạo. Cái đạo theo quan niệm của họ là bình đẳng,
tương thân và chung thủy, khác với đạo "tam tòng" của Khổng Mạnh. Trong
lúc đạo "tam tòng" tước đoạt hết quyền của người đàn bà, bắt người đàn bà
phải sống lệ thuộc vào đàn ông, tạo trong gia đình quý tộc sự bất bình đẳng,
thì đạo vợ chồng của người bình dân ngược lại dùng ý thức sinh hoạt làm
nghĩa vụ, khiến cho nền tảng bình đẳng được bảo vệ và duy trì. Và ý thức dân

chủ cũng chính là ý thức của gia đình bình dân thuở xưa." [24, 418]. Đối với
con người Việt Nam, đạo vợ chồng được hiểu là quy phạm đạo đức và luân
lý, là đạo lý xử thế của con người (người vợ và người chồng). Đạo vợ
chồng là nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức mà người vợ, người chồng có
bổn phận gìn giữ và tuân theo nhằm giữ gìn hạnh phúc gia đình; là triết lý,
lẽ sống, phương châm ứng xử của người vợ đối với người chồng và ngược

13


lại. Vợ chồng phải thủy chung, gắn bó, yêu thương, sống trọn nghĩa với
nhau và thậm chí là hi sinh vì nhau. Đó là nhân sinh quan, là quan niệm
sống trong sạch, lối sống văn hóa.
Đạo vợ chồng trong văn hóa Việt Nam là một trong những giá trị căn
bản của văn hóa dân tộc, phản ánh thực tiễn cuộc sống con người Việt Nam
nói chung, đời sống vợ chồng nói riêng. Cùng với Đạo làm người, Đạo vợ
chồng tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam, làm nên sức mạnh trường tồn của
dân tộc, mang giá trị nhân văn sâu sắc. Đạo vợ chồng trong văn hóa Việt Nam
đã đóng vai trò vô cùng quan trọng, là nền tảng nhân sinh quan để hình thành
nên nối sống, nhân cách văn hóa của con người Việt Nam. Đạo vợ chồng là
triết lý nhân sinh quan trọng là định hướng giá trị cho văn hóa gia đình nói
riêng và văn hóa dân tộc nói chung.
Gia đình là tổng hợp các mối quan hệ đan cài rất phức tạp. Nhưng suy
cho cùng mọi sự phức tạp ấy đều xoay quanh hai trục chính là quan hệ thuộc
huyết thống và quan hệ thuộc hôn nhân. Tạo được sự thống nhất hài hòa giữa
hai loại quan hệ đó thì gia đình hạnh phúc và ngược lại, thậm chí tan vỡ. Đạo
vợ chồng góp phần củng cố sự gắn bó này. Hôn nhân không chỉ được xây
dựng trên cơ sở tình yêu, mà hơn thế là tình thương, tình nghĩa làm nền tảng,
lấy thủy chung làm yếu tố quan trọng. Đã là vợ chồng nghĩa là đã nguyện gắn
bó suốt đời sướng vui cùng hưởng, đói khổ, hoạn nạn cùng chia sẻ, hòa thuận

với nhau. Đạo vợ chồng hướng con người nói chung, người vợ - người chồng
nói riêng đến chuẩn mực đạo đức, đến giá trị văn hóa dân tộc. Nó góp phần
giáo dục vợ chồng sống theo đạo lí, sống có đạo đức, góp phần xây dựng gia
đình hạnh phúc, xã hội văn minh.
1.1.2. Tục ngữ, ca dao
Đạo là người nói chung, đạo vợ chồng nói riêng của người Việt được
thể hiện qua nhiều hình thức văn học, nghệ thuật, trong đó có tục ngữ, ca dao.

14


Trong những sáng tác dân gian, tục ngữ, ca dao là thể loại văn học dân gian
tiêu biểu và có một vị trí quan trọng trong đời sống xã hội. Tìm hiểu và
nghiên cứu ca dao tuc̣ ngữ , ta sẽ thấy cách thể hiện độc đáo và sâu sắc về đời
sống tâm hồn con người Việt Nam qua bao thế hệ. Bởi thế, đây là một thể loại
có sức sống lâu bền của sáng tác dân gian. Tục ngữ, ca dao là một kho tàng
quí báu của đất nước, đã vượt qua mọi thử thách của thời gian, trở thành một
thành tố quan trọng trong gia tài văn hóa của nước nhà. Thông qua nghệ thuật
ngôn từ, tục ngữ, ca dao đúc kết trí tuệ, tình cảm con người, phản ánh nhiều
mặt của xã hội, trong đó có các mối quan hệ trong gia đình nói chung và đời
sống vợ chồng nói riêng. Thông qua tục ngữ, ca dao về quan hệ vợ chồng
chúng ta sẽ thấy được những đặc trưng về đạo vợ chồng của người Việt.
Qua các thời đại, người Việt Nam đã dùng rất nhiều hình thức khác
nhau để đúc kết những quan niệm về đạo làm người. Những hình thức hiện
nay mà chúng ta được biết tới là tôn giáo, triết học, văn học, nghệ thuật, pháp
luật, phong tục tập quán, ca dao, tục ngữ, ... Mỗi người trong xã hội - tùy vào
thân thế, địa vị và thời đại lịch sử, qua những phương thức phù hợp họ thể
hiện quan niệm của mình về cuộc sống, về đạo đức. Ca dao, tục ngữ là một
hình thức văn học dân gian, truyền miệng rất giản dị, gần gũi với cuộc sống,
sinh hoạt đời thường. Vì thế từ ngàn xưa, cha ông ta đã lựa chọn ca dao, tục

ngữ làm phương thức để đúc kết những bài học sâu sắc, quý báu về cuộc
sống, lao động và đạo làm người. Những câu ca dao, tục ngữ rất giản dị, đời
thường nhưng lại chứa đựng những bài học nhân sinh, những quan niệm làm
người quý báu, là những giá trị vượt thời đại, vượt thời gian.
1.1.2.1. Tục ngữ
Đã có nhiều nghiên cứu đưa ra định nghĩa về tục ngữ, ca dao. Kế thừa
quan niệm của các nhà khoa học đi trước, chúng tôi nêu lên những định nghĩa

15


tiêu biểu như:
Theo từ điển Tiếng Việt: “Tục ngữ là câu nói ngắn gọn, có vần điệu,
lưu truyền trong dân gian, đúc kết tri thức, kinh nghiệm thực tiễn của con
người về tự nhiên, xã hội, cuộc sống, đạo lí ở đời” [50, 256].
Theo Phạm Việt Long:“Tục ngữ là một thể loại văn học dân gian,
được hình thành và sử dụng trong lời nói hàng ngày, đúc kết tri thức, kinh
nghiệm sống, thường ngắn, có vần điệu, thành câu hoàn chỉnh, có chức năng
thông báo, được phổ biến rộng rãi trong nhân dân” [26, 17].
Như vậy, tục ngữ là những câu nói được đúc kết từ kinh nghiệm, luân
lí, là những câu nói hoàn chỉnh, mang ba chức năng: nhận thức, giáo dục và
thẩm mỹ. Tục ngữ thường là những câu nói ngắn gọn, xuôi tai, diễn đạt những
kinh nghiệm lâu đời của nhân dân . Qua tục ngữ những kinh nghiệm, tri thức
của nhân dân được đúc kết dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích,
có nhịp điệu, dễ nhớ, dễ truyền. Nội dung tục ngữ thường phản ánh những
kinh nghiệm về lao động sản xuất, ghi nhận các hiện tượng lịch sử xã hội,
hoặc thể hiện triết lý dân gian của dân tộc.
Tục ngữ được hình thành từ cuộc sống thực tiễn, trong đời sống sản
xuất và đấu tranh của nhân dân, do nhân dân trực tiếp sáng tác; được tách ra
từ tác phẩm văn học dân gian hoặc ngược lại; được rút ra tác phẩm văn học

bằng con đường dân gian hóa những lời hay ý đẹp hoặc từ sự vay mượn. Giữa
hình thức và nội dung, tục ngữ có sự gắn bó chặt chẽ, một câu tục ngữ thường
có hai nghĩa: nghĩa đen và nghĩa bóng. Tục ngữ có tính chất đúc kết, khái quát
hóa những nhận xét cụ thể thành những phương châm, chân lý. Hình tượng
của tục ngữ là hình tượng ngữ ngôn được xây dựng từ những biện pháp so
sánh, nhân hóa, ẩn dụ...
Trong mục “Tục ngữ”, Chu Xuân Diên trình bày rất kỹ về nội dung,
đặc trưng của tục ngữ: “Tục ngữ là những nhận xét, phán đoán, kết luận về

16


các hiện tượng tự nhiên, xã hội và đời sống con người. (...) Phần lớn nội
dung tục ngữ đều là những kinh nghiệm được rút ra từ việc quan sát và thể
nghiệm các hiện tượng xảy ra trong đời sống thực tiễn. Những kinh nghiệm
sống ấy phần lớn là lối sống của nhân dân một dân tộc trong một thời đại
nhất định, phản ánh những cơ sở lịch sử- xã hội cụ thể, tức những phương
thức sản xuất, phương thức sinh hoạt và quan hệ xã hội của một thời kì lịch
sử nhất định. Tuy nhiên, những kinh nghiệm sống ấy cũng có khá nhiều phần
vượt ra khỏi phạm vi lối sống của một thời đại nhất định, ở các thời đại khác
nhau vẫn phản ánh được những quan niệm sống tích cực, hoặc vẫn giúp
người ta hiểu biết được sâu sắc các hiện tượng của đời sống. Giá trị lâu dài
về tư tưởng và nhận thức ấy trong tục ngữ của một dân tộc chính là những
truyền thống tốt đẹp trong lối sống và lối nghĩ của dân tộc đó.” [13, 1879]
Trong cuốn “Tục ngữ Việt Nam”, khi đề cập về nghĩa của tục ngữ, Chu
Xuân Diên viết: “Một câu tục ngữ thường có hai nghĩa: nghĩa đen và nghĩa
bóng” [13, 85], đây là quan niệm được nhiều người đồng tình. Các tác giả Lê
Chí Quế, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ trong giáo trình “Văn học dân
gian Việt Nam” thì khẳng định rằng: “ Tục ngữ bao giờ cũng có hai nghĩa:
nghĩa đen (hay là nghĩa gốc) và nghĩa bóng (trường nghĩa)” [29, 197]. Khi

khẳng định như thế, người ta cần chú ý đến bộ phận tục ngữ đúc kết những
kinh nghiệm, những quan niệm về triết lí nhân sinh. Nghĩa khái quát được Phan
Thị Đào đề cập trong công trình “Tìm hiểu thi pháp tục ngữ Việt Nam”. Theo
tác giả, tục ngữ có ba nghĩa: nghĩa đen, nghĩa bóng (nghĩa hình tượng) và nghĩa
khái quát. Về nét nghĩa khái quát này, tác giả viết: “Ta có những câu tục ngữ
mà ở đó mỗi vế tồn tại như một tiền đề mang ý nghĩa khái quát cao, còn kết đề
là một phán đoán mang ý nghĩa khái quát cao hơn, nhưng không phải tồn tại
trên văn bản mà được rút ra từ tư duy của người tiếp nhận” [11, 122]. Việc
nêu ra thêm nghĩa khái quát của tục ngữ cho thấy sự cố gắng của các nhà
nghiên cứu trong việc “giải mã” tục ngữ. Ngoài ra, còn cho chúng ta thấy,

17


cùng một tư duy logic, cùng một nội dung biểu đạt nhưng có nhiều cách diễn
đạt khác nhau, những chất liệu tạo nghĩa khác nhau. Do vậy, dù đề cập đến một
triết lí nhân sinh nào đó, vốn khô khan nếu được diễn đạt bằng cách nói thông
thường, cách nói của tục ngữ vẫn tạo nên sự hấp dẫn đối với chúng ta.
Nội dung biểu đạt của tục ngữ cũng đồng thời phản ánh kinh nghiệm và
quan niệm của nhân dân ta trong nhận thức cuộc sống. Tục ngữ là những sản
phẩm kết tinh trong lời nói do nhu cầu truyền đạt và lưu giữ kinh nghiệm, do
đó tục ngữ là kho tàng chứa đựng các kinh nghiệm đó. Có thể nói, mỗi câu tục
ngữ là một kinh nghiệm nhất định. Tục ngữ có khả năng mở rộng nghĩa là
những câu nói về những quan niệm về xã hội, nhân sinh. Khi mở rộng nghĩa,
nghĩa của tục ngữ không còn mang tính cố định khi chỉ về một hiện tượng, sự
vật cụ thể nữa mà có thể đề cập đến nhiều sự vật, hiện tượng mà người ta có
thể đồng nhất hoá. Đến lúc này, nghĩa biểu trưng của tục ngữ không chỉ phản
ánh một sự vật, hiện tượng mà đã tiến đến khái quát hoá, trừu tượng hoá tức
đến gần tư duy khoa học. Nghĩa biểu trưng của tục ngữ được dùng để phản
ánh những quy luật chung nhất của thế giới khách quan, quy luật vận động và

phát triển của xã hội. “Nội dung của nhiều câu tục ngữ ấy có thể coi như là
những phạm trù nhận thức, những phạm trù triết học, được nhân dân dùng để
nhận thức thế giới trong bản chất, trong tính quy luật của nó.” [13, 144]
1.2.1.2. Ca dao
Ca dao là tiếng nói trung thực, phản ảnh rõ nét nhất trong văn chương
bình dân, miêu tả sự việc xảy ra hằng ngày giữa cuộc đời và trở thành những
câu hò, điệu hát của nhân gian như những bản tình ca bất diệt. Ca dao hàm
chứa ý nghĩa về giá trị tình yêu, đạo lí cuộc sống với một ẩn dụ tự nhiên làm
cho người ca ngâm cũng như người nghe có một cảm nhận gần gũi, giúp con
người yêu cuộc sống và làm theo cũng lời răn, những chuẩn mực đạo đức.
Thuật ngữ ca dao đã từng được dùng với nhiều nghĩa rộng, hẹp khác
nhau. Theo nghĩa gốc thì “ca là bài hát có khúc điệu, dao là bài hát không có

18


khúc điệu” [26, 26]. “Ca dao là danh từ chung chỉ toàn bộ những bài hát lưu
hành phổ biến trong dân gian” [26, 26].
Theo Từ điển Tiếng Việt, “ca dao là thể thơ dân gian được lưu truyền
dưới dạng câu hát”, “là thể loại văn vần thường bằng thơ lục bát, có dạng
như ca dao” [50, 88].
Theo Phạm Việt Long: “Ca dao là một thể loại văn học dân gian, có
tính trữ tình, có vần điệu, do nhân dân sáng tạo và lưu truyền qua nhiều thế
hệ, dùng để miêu tả, tự sự, ngụ ý và chủ yếu diễn đạt tình cảm. Nhiều câu ca
dao vốn là lời của những bài dân ca” [25, 17].
Đặc trưng của ca dao là ca hát, ca dao đã trở thành khúc hát đi vào
lòng và bày tỏ được nội tâm con người. Ngoài ra ca dao còn là một tâm lý đạo
đức, dạy làm người… Đôi khi văn thơ phải mượn ngôn từ của ca dao để nói
lên cái tình người, tình đời một cách chính xác hơn.Cao dao là những bài hát
ngắn lưu hành trong dân gian, là thể loại văn học truyền miệng, là sản phẩm

của những người bình dân trong quá trình họ tham gia lao động sản xuất. Nhẹ
nhàng nhưng cũng rất sâu sắc, cao dao Việt Nam chứa đựng nội dung vô cùng
phong phú, mang tính chất giáo dục cao, hướng tới xây dựng một con người
Việt Nam hoàn thiện, đặc biệt ca dao rất chú trọng giáo dục đạo vợ chồng –
lòng thủy chung, tình nghĩa vợ chồng, sự hòa thuận vợ chồng. Trong ca dao,
đạo vợ chồng được khai thác ở nhiều khía cạnh, góp phần cơ bản trong việc
hình thành và phát triển đạo đức vợ chồng nói riêng, đạo đức gia đình Việt
Nam nói chung từ hàng nghìn năm nay.
Ca dao có đặc trưng là cái tôi trữ tình, tính tập thể trong sáng tác và tính
truyền miệng trong lưu hành. Đặc trưng cái tôi trữ tình trong ca dao là thông
thường nội dung tác phẩm trữ tình được thể hiện gắn liền với hình tượng nhân
vật trữ tình, đó là hình tượng người trực tiếp thổ lộ suy nghĩ, cảm xúc, tâm
trạng trong tác phẩm. Nhân vật trữ tình không có diện mạo, hành động, lời

19


nói, quan hệ cụ thể như nhân vật tự sự và kịch nhưng nhân vật trữ tình cụ thể
trong giọng điệu, cảm xúc, trong cách cảm, cách nghĩ thể hiện được tâm hồn
người, tấm lòng người. Tập thể là một biểu hiện khác của những phương thức
sáng tác và lưu truyền văn học dân gian. Có những tác phẩm văn học dân gian
ngay từ nguồn gốc đã là sáng tác cá nhân nhưng lưu truyền bằng con đường
của trí nhớ. Dùng trí nhớ không thể giữ nguyên vẹn được cả nội dung và hình
thức của tác phẩm, vì thế mà sáng tác ấy mỗi người có thể thay đổi tùy ý ít
nhiều. Hơn nữa khi hát hoặc kể lại theo sở thích, mục đích của mình và của
người nghe, thế là dù cho lúc đầu có thể là do một cá nhân sáng tác, nhưng
trong khi lưu truyền qua những người khác nhau, tác phẩm văn học luôn luôn
có khả năng tiếp nhận những yếu tố sáng tác mới và trở thành sở hữu tập thể.
Truyền miệng là phương thức sáng tác và lưu hành của văn học dân gian. Văn
học truyền miệng ra đời từ khi dân tộc chưa có chữ viết. Tuy nhiên khi dân

tộc đã có chữ viết thì văn học truyền miệng vẫn tiếp tục phát triển. Một mặt
do đại đa số nhân dân không có điều kiện học hành để hưởng thụ thành tựu
văn học viết, mặt khác do văn học viết không thể hiện đầy đủ tư tưởng, tình
cảm, nguyện vọng, thị hiếu và tập quán sinh hoạt nghệ thuật của nhân dân. Vì
thế, những bài học đạo đức, những đạo lý về con người được truyền tải qua ca
dao một cách dễ hiểu, sâu lắng. Những bài ca dao về tình yêu, hôn nhân và
gia đình luôn đi sâu vào lòng , đặc biệt là qua những bài ca dao đó thể hiện
lòng thủy chung sắt son, tình nghĩa vợ chồng, sự hy sinh, cách ứng xử vợ
chồng... của người Việt. Nó góp phần làm phong phú triết lý về đạo làm
người nói chung, đạo vợ chồng nói riêng của con người Việt, là một trong
những nội dung của tư tưởng triết học Việt Nam.
Vì vậy, nói đến văn chương bình dân chúng ta không thể quên thi ca
bình dân mà ca dao nắm một vai trò chủ lực. Ca dao là thể loại không ước lệ,
không qui cách mà vẫn giữ đúng vần điệu, nhờ đó là ca dao dễ đi sâu vào lòng

20


người, nó góp phần đả thông tư tưởng, giáo dục đạo đức con người. Chính bởi
vậy, ngay từ xa xưa, cha ông ta đã rất chú trọng tới việc giáo dục đạo đức vợ
chồng qua những bài học đạo đức giản dị, gần gũi mà thiết thực được thể hiện
trong những câu tục ngữ, những vần ca dao.
Trong cuốn “Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt Nam” Nguyễn
Nghĩa Dân phân loại đạo làm người gồm:
- Tục ngữ, ca dao về lao động, học tập, tu dưỡng rèn luyện bản thân.
- Tục ngữ, ca dao về đạo làm người trong quan hệ gia đình.
- Tục ngữ, ca dao về đạo làm người trong quan hệ xã hội và tự nhiên.
- Tục ngữ, ca dao về đạo làm người chống thói hư tật xấu và hành vi
vô đạo đức.
Như vậy, đạo làm người được thể hiện trong các quan hệ cụ thể giữa

con người trong quan hệ trong gia đình, nếu là con cái thì đó là đạo hiếu đối
với bố mẹ, nếu là anh chị em thì đó là đạo đễ, nếu là vợ chồng là đạo vợ
chồng (đạo nghĩa). Tục ngữ, ca dao về quan hệ vợ chồng chính là những khúc
hát yêu thương tự ngàn xưa, được ông cha ta đúc kết lại. Đó là những lời
khuyên răn, những khúc hát mang âm hưởng của cả một dân tộc, một thời đại,
mang triết lý nhân văn sâu sắc về đạo vợ chồng. Trong kho tàng tục ngữ, ca
dao Việt Nam nội dung về đạo vợ chồng luôn được quan tâm, chú trọng với
số lượng lớn, nội dung phong phú, chất chứa nghĩa tình, đạo lý. Tục ngữ ca,
ca dao Việt Nam đã chứa đựng và truyền tải những bài học sâu sắc về chữ
tình, chữ nghĩa trong mỗi người vợ, người chồng Việt Nam.
Tục ngữ, ca dao là sản phẩm sáng tạo bởi quần chúng nhân dân, nội
dung mang những tính chất chung nhưng cũng rất riêng, gần gũi với tập quán
sinh hoạt của con người. Được thử thách qua không gian, thời gian và lòng
người, được gọt giũa, trau chuốt bởi hàng vạn nhà thơ dân gian vô danh, tục
ngữ, ca dao đã trở thành những viên ngọc quý trong kho tàng văn hóa dân tộc.

21


Tục ngữ, ca dao về đạo làm người đã góp phần cơ bản trong hình thành và
phát triển nhân cách con người Việt Nam từ hàng nghìn năm nay và trong giai
đoạn hiện nay nó vẫn còn nguyên giá trị sâu sắc cả về tư tưởng, lối sống,
thuần phong mĩ tục... Những kinh nghiệm lịch sử và triết lý giáo dục tưởng
chừng như rất sâu xa, song lại được đúc kết lại dưới những hình thức tinh
giản mang nội dung súc tích và gói gọn trong những câu chữ hết sức hàm súc,
dễ đọc, dễ hiểu và dễ nhớ. Tất cả những điều đó tạo nên cội nguồn vững bền,
sức mạnh tinh thần cho việc kế thừa và phát huy những tinh hoa tốt đẹp đạo
làm người của dân tộc Việt Nam ta. Vấn đề đạo làm người là một nội dung
quan trọng trong triết lý nhân sinh của người Việt, có quá trình hình thành,
ngày càng được bổ sung và phát triển qua các giai đoạn lịch sử dân tộc. Nếu

như đạo làm người được coi là giá trị nền tảng của các hệ giá trị trong đời
sống dân tộc thì đạo hiếu được xem như một thứ tình cảm thiêng liêng và cao
đẹp nhất trong các thứ tình cảm của loài người. Tục ngữ, ca dao cho ta thấy
rằng trong quan niệm của người Vỉệt, chung sống vợ chồng là một đạo lý. Vì
vậy quyền hạn giữa người chồng và người vợ không phải chỉ có một chiều mà
phải đặt trên tính chất tương ứng và bình đẳng. Quan hệ vợ chồng chủ yếu là
tình yêu và hòa thuận, là nghĩa vụ tương thân tương ái và bình đẳng xây dựng
trên ý thức đồng lao cộng lực, thủy chung.
Tóm lại, tục ngữ, ca dao là kho tàng văn học quý giá của đất nước, đã
vượt qua mọi thử thách của thời gian, trở thành một thành tố quan trọng trong
gia tài văn hoá nước ta. Thông qua nghệ thuật ngôn từ, tục ngữ, ca dao đúc
kết trí tuệ, tình cảm của nhân dân và phản ánh nhiều mặt của xã hội, trong đó
có các mối quan hệ trong gia đình, nổi bật là quan hệ vợ chồng. Việc đi sâu
nghiên cứu tục ngữ, ca dao đã phát hiện ngày càng nhiều những giá trị tiềm ẩn
trong đó, giúp cho con người của xã hội đương đại có cơ sở để thực hiện đạo
lý vợ chồng, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa gia đình. Đi sâu tìm

22


×