Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Xây dựng và sử dụng bài tập sáng tạo trong dạy học chương từ trường vật lý 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1001.58 KB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN VĂN ĐÔNG

XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG
BÀI TẬP SÁNG TẠO TRONG DẠY HỌC
CHƯƠNG “TỪ TRƯỜNG” - VẬT LÍ 11 THPT

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

HÀ NỘI, 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

NGUYỄN VĂN ĐÔNG

XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG
BÀI TẬP SÁNG TẠO TRONG DẠY HỌC
CHƯƠNG “TỪ TRƯỜNG” - VẬT LÍ 11 THPT
Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học bộ môn Vật lí
Mã số: 60 14 01 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TẠ TRI PHƯƠNG

HÀ NỘI - 2014



LỜI CẢM ƠN

Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn:
- PGS.TS Tạ Tri Phương - người đã trực tiếp hướng dẫn tận tình và động viên
khuyến khích để tác giả hoàn thành luận văn thạc sĩ này.
- Quý thầy cô trong tổ phương pháp giảng dạy, khoa vật lí và Phòng Sau Đại
học trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện giúp đỡ tác giả hoàn thành
khóa học và luận văn thạc sĩ.
- Ban giám hiệu và các thầy cô trong tổ vật lí trường THPT Yên Phong số
2 đã tạo điều kiện và góp ý chân thành cho tác giả trong khi làm luận văn này.

Hà Nội, tháng 12 năm 2014
Tác giả

Nguyễn Văn Đông


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung
thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự
giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn
trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tôi xin chịu trách nhiệm trước nhà trường về sự cam đoan này.
Hà Nội, tháng 12 năm 2014
Tác giả

Nguyễn Văn Đông



DANH MỤC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
Số TT

Kí hiệu viết tắt

Viết đầy đủ

1

BTST

Bài tập sáng tạo

2

BTVL

Bài tập vật lí

3

BT

Bài tập

4

CB


Cơ bản

5

DHVL

6

ĐC

7

ĐHSP

Đại học sư phạm

8

ĐHQG

Đại học quốc gia

9

GV

Giáo viên

10


HS

Học sinh

11

NLST

12

Nxb

Nhà xuất bản

13

SGK

Sách giáo khoa

14

SGV

Sách giáo viên

15

THPT


Trung học phổ thông

16

TDST

Tư duy sáng tạo

17

TN

18

TNSP

Thực nghiệm sư phạm

19

TRIZ

Lí thuyết giải bài toán sáng chế

20

VL

Dạy học vật lí
Đối chứng


Năng lực sáng tạo

Thực nghiệm

Vật lí


MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................ 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 3
4.Giả thuyết khoa học ............................................................................................... 3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................................ 3
6. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 4
7. Những đóng góp của nghiên cứu ......................................................................... 4
8. Cấu trúc của đề tài ................................................................................................ 5
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC RÈN LUYỆN
NĂNG LỰC SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ ...... 6
1.1.1. Khái niệm về năng lực sáng tạo ................................................................. 6
1.1.2. Những đặc điểm của quá trình sáng tạo của HS trong học tập .............8
1.1.3. Những biểu hiện NLST và các yếu tố cần thiết cho việc bồi dưỡng
NLST trong học tập của HS ..........................................................................9
1.2. Cơ sở lí luận về dạy học sáng tạo ................................................................ 11
1.2.1. Dạy học sáng tạo trong dạy học vật lí ................................................. 11
1.2.2. Cơ sở tâm lí học về dạy học sáng tạo. ................................................. 11
1.2.3. Cơ sở lí luận dạy học về dạy học sáng tạo........................................... 12
1.2.4. Các biện pháp dạy học sáng tạo trong môn vật lí ở trường phổ
thông .......................................................................................................... 12
1.3. Vai trò của bài tập trong dạy học sáng tạo ................................................. 15

1.4. Thực trạng việc xây dựng và sử dụng BTST.............................................. 16
1.4.1. Nhận thức của GV về BTST và việc sử dụng BTST trong DHVL ....... 16
1.4.2. Nguyên nhân thực trạng .................................................................... 17
1.4.3. Kết luận ............................................................................................. 17
CHƯƠNG 2. XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG CÁC BÀI TẬP SÁNG TẠO
TRONG DẠY HỌC CHƯƠNG “TỪ TRƯỜNG”-VẬT LÍ 11 THPT.............. 19
2. 1. Đề xuất các nguyên tắc xây dựng BTST ................................................... 19
2.1.1. Quan niệm BTST của Radumovxki. ................................................... 19


2.1.2. Quan niệm về STKH- KT theo lí thuyết TRIZ .................................... 19
2.1.3. Đề xuất các nguyên tắc xây dựng BTST chương “Từ trường” Vật lí
11. ............................................................................................................... 30
2.1.4. Đề xuất các tiêu chí của biểu hiện NLST. .......................................... 37
2.2. Xây dựng hệ thống BTST trong dạy học chương “Từ trường” vật lí 11
THPT .................................................................................................................... 41
2.2.1. Các mục tiêu dạy học chương “Từ trường” vật lí 11 THPT ............... 41
2.2.2.Xây dựng hệ thống bài tập sáng tạo chương “Từ trường” Vật lí 11
THPT.......................................................................................................... 49
2.2.3. Hướng dẫn giải các BTST đã xây dựng............................................ 51
2.2.4. Sử dụng hệ thống bài tập sáng tạo ................................................... 64
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ....................................................................................... 65
CHƯƠNG 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM......................................................... 66
3.1. Mục đích TNSP............................................................................................. 66
3.2. Đối tượng TNSP............................................................................................ 66
3.3. Tiến hành TNSP ........................................................................................... 66
3.3.1. Chọn trường thực nghiệm ................................................................. 66
3.3.2. Chọn giáo viên thực nghiệm .............................................................. 66
3.3.3. Chọn lớp thực nghiệm ....................................................................... 67
3.3.4. Thời gian thực nghiệm sư phạm ........................................................ 67

3.3.5. Quá trình tiến hành thực nghiệm sư phạm ........................................ 67
3.4. Kết quả TNSP ............................................................................................... 67
3.4.1. Kết quả định tính ............................................................................... 67
3.4.2. Kết quả định lượng ............................................................................ 68
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ....................................................................................... 74
KẾT LUẬN............................................................................................................... 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 76
PHỤ LỤC ......................................................................................................... 78


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Thế kỉ 21 được đặc trưng bằng một loạt các yếu tố quan trọng ảnh hưởng
trực tiếp đến sự phát triển của từng Quốc gia, điển hình nhất là sự bùng nổ tri thức,
thông tin, sự gia tăng các vấn đề, thách thức cần giải quyết đặt ra cho nhân loại…
Trước tình hình đó tổ chức UNESCO đã đề xuất phương hướng giải quyết là cần
thay đổi trật tự của ba mục tiêu giáo dục; Từ trật tự kiến thức – kĩ năng – năng lực
và thái độ chuyển thành năng lực và thái độ - kĩ năng – kiến thức. Tinh thần này đã
được thể hiện trong Nghị quyết TW8 Khóa XI của Đảng cộng sản Việt Nam vừa
qua, trong đó nổi bật lên vấn đề chú trọng đến chất lượng (thay vì số lượng) và năng
lực (thay cho kiến thức) trong chiến lược cải cách giáo dục 2015: “ Tạo chuyển biến
căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng
tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo
dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả
năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt
hơn và làm việc hiệu quả”..
Quả đúng như vậy, khi mà hiện nay khoa học, công nghệ không những có sự
thay đổi từng ngày mà còn từng phút, từng giây. Vì vậy nền giáo dục của chúng
ta phải được đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc, toàn diện để có thể đào tạo cho Đất nước
những người lao động sáng tạo biết áp dụng khoa học công nghệ vào trong sản

xuất, đạt hiệu quả cao trong lao động, đáp ứng được yêu cầu mà xã hội đặt ra.
1.2. Đất nước ta đang trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thời kì tri
thức và trí tuệ sáng tạo của con người được coi là yếu tố quyết định sự phát triển
của xã hội. Do đó, con người được coi là trung tâm trong xã hội, là chủ thể kiến
tạo xã hội. Đối với con người cá thể, tri thức là một cơ sở để xác định vị trí xã
hội và khả năng hành động. Để được như vậy giáo dục đóng một vai trò then
chốt trong việc đào tào con người và sự phát triển của xã hội.
Nhận thức rõ điêù đó Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tới giáo dục và coi
giáo dục là: “Quốc sách hàng đầu”. Giáo dục cần đạt được các mục tiêu: Cung
cấp nền học vấn cơ bản, giúp học sinh hướng nghiệp một cách hiệu quả; phát
triển năng lực nhận thức, hình thành nhân cách toàn diện; hình thành thế giới
quan duy vật khoa học, thái độ, xúc cảm, hành vi văn minh. Để đạt được mục
tiêu trên thì phương pháp giáo dục đóng một vai trò hết sức quan trọng, đòi hỏi
luôn phải đổi mới theo hướng dạy học tích cực. Điều 28 của Luật giáo dục nhấn
mạnh: “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm tình hình của từng lớp
1


học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm đem lại niềm vui hứng thú học tập cho
học sinh” . Đây là một phương pháp dạy học hoàn toàn phù hợp với xu thế hiện
nay.
1.3. Từ thực tế cho thấy khi áp dụng phương pháp dạy học tích cực sẽ đem lại
kết quả rất cao; sẽ nâng cao năng lực sáng tạo cho học sinh, đặc biệt phương
pháp đó được áp dụng trong các tiết dạy giải bài tập. Nhưng để tiết dạy gải bài
tập đó đạt được hiệu quả như mong muốn đòi hỏi mỗi người Thầy phải biết xây
dựng một hệ thống bài tập phù hợp mang tính sáng tạo cao cho người học. bài tập
là hết sức quan trọng và nó không thể thiếu khi hoạt động dạy và học diễn ra. Do
đó, người thầy luôn phải có sự nghiên cứu, tìm tòi trong việc bồi dưỡng nâng cao

năng lực sáng tạo của học sinh thông qua một hệ thống bài tập thích hợp có tính
sáng tạo. Nếu đạt được việc đó không những những phát triển năng lực sáng tạo
của học sinh mà còn giúp các em nhớ kiến thức cũ, nhận thức nhanh kiến thức
mới, mối liên hệ giữa kiến thức cũ và mới, đồng thời các em còn có khả năng vận
dụng kiến thức bài học vào thực tiễn cuộc sống.
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang đứng trước những thời cơ và thách
thức to lớn, để tránh được nguy cơ tụt hậu, việc rèn luyện năng lực sáng tạo
(NLST) cho thế hệ trẻ lại càng cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết. Trước hết
việc rèn luyện NLST cho học sinh phải được tiến hành ngay khi các em còn ngồi
trên ghế nhà trường được thông qua việc thực hiện các quá trình sư phạm, việc
dạy học các môn học khác nhau, trong đó có môn Vật lí theo nội dung và phương
pháp đổi mới phù hợp với thời đại. Quá trình dạy học vật lí ở trường phổ thông
số tiết bài tập chiếm tỷ lệ đáng kể trong nội dung chương trình. Hoạt động dạy
giải bài tập vật lí vừa gúp học sinh nắm vững các kiến thức vật lí, vừa phát triển
tư duy vật lí và năng lực sáng tạo. Nó có ý nghĩa to lớn trong việc giáo dục, giáo
dưỡng và rèn luyện kỹ năng tổng hợp cho học sinh ở trường phổ thông. Bài tập
vật lí là phương tiện dạy học được sử dụng ở mọi giai đoạn của quá trình dạy
học. Hoạt động sáng tạo chính là một phần của nội dung phát triển tư duy.
1.4. Hiện nay, việc sử dụng bài tập sáng tạo để bồi dưỡng năng lực sáng tạo
của học sinh ở trường phổ thông trong đó có môn vật lí các giáo viên thường gặp
rất nhiều khó khăn. Do tiêu chí cho khái niệm bài tập sáng tạo là chưa có, vì thế
việc sử dụng các bài tập sáng tạo trong các sách giáo khoa, sách bài tập, sách
tham khảo vẫn mang tính mò mẫm chưa có hệ thống. Chính vì vậy hiệu quả nâng
cao năng lực sáng tạo đối với học sinh còn có hạn chế. Thực tế các giáo viên chủ
yếu dành nhiều thời gian cho việc nhận diện các kiểu loại bài và cách giải nó
2


thường theo một mô tuýp, khả năng bồi dưỡng năng lực sáng tạo cho học sinh là
rất thấp.

Trong chương trình vật lí 11THPT chương “Từ trường” có nội dung đặc biệt
quan trọng, vì kiến thức được ứng dụng rất nhiều trong thực tế, song lại hết sức
trừu tượng. Do vậy việc áp dụng bài tập sáng tạo đúng cách có hệ thống ở
chương này sẽ phát triển cao năng lực sáng tạo của học sinh, tạo điều kiện thuận
lợi cho các em học sinh tiếp tục học tập, nghiên cứu và áp dụng kiến thức vào
thực tiễn sau nay. Mặt khác qua tìm hiểu đã có những luận văn đã đưa ra việc xây
dựng và sử dụng bài tập sáng tạo có hiệu quả cao nhưng chủ yếu ở các chương
khác mà chưa có ở chương này, hoặc có nhưng nghiên cứu ở khía cạnh khác như
luận văn thạc sỹ của Hoàng Thị Thanh Ngân với đề tài: Xây dựng và sử dụng bài
tập sáng tạo trong dạy học chương “Cơ học” SGK vật lí 6 THCS....
Từ những cơ sở trên chúng tôi lựa chọn đề tài: Xây dựng và sử dụng bài tập
sáng tạo trong dạy học chương “Từ trường”- Vật lí 11 THPT.
2. Mục đích nghiên cứu
Đưa ra các nguyên tắc xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập sáng tạo trong
dạy giải bài tập chương “Từ trường” vật lí 11 THPT nhằm rèn luyện năng lực
sáng tạo cho học sinh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Hoạt động dạy và học trong quá trình
dạy giải bài tập vật lí chương “Từ trường” Vật lí 11 THPT .
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Chương “Từ trường” Vật lí 11 THPT.
4.Giả thuyết khoa học
Việc đưa ra được các nguyên tắc để xây dựng BTST; Việc sử dụng
BTST có mục đích, phù hợp với quy luật nhận thức sẽ hình thành và phát triển
NLST, góp phần nâng cao chất lượng kiến thức của học sinh trong quá trình dạy
học chương “Từ trường” Vật lí 11 THPT.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về “sáng tạo”, “dạy học sáng tạo”, “bài tập vật
lí”
5.2. Phân tích nội dung, mục tiêu dạy học phần “Từ trường” vật lí
lớp 11THPT

3


5.3. Đề xuất các nguyên tắc xây dựng “bài tập sáng tạo” phần “Từ trường” vật
lí lớp 11THPT
5.4. Xây dựng một hệ thống bài tập sáng tạo dùng để dạy học phần “ Từ
trường” vật lí lớp 11 THPT
5.5. Đề xuất các tiêu chí để đánh giá được các biểu hiện “năng lực sáng tạo”.
5.6. Thực nghiệm sư phạm nhằm đánh giá hệ thống bài tập sáng tạo đã xây
dựng
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được các nhiệm vụ trên, đề tài sử dụng các phương pháp chủ yếu
sau:
6.1. Phương pháp lí luận được sử dụng để xác lập các quan điểm của chỉ đạo cơ
bản của nghiên cứu.
6.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Điều tra giáo dục, sử dụng phương pháp này để khảo sát tình hình dạy học vật lí
nói chung, dạy học bài tập vật lí nói riêng ở một trường THPT trong huyện Yên
Phong – Bắc Ninh thông qua hình thức phiếu hỏi giáo viên và học sinh.
- Quan sát sư phạm: phương pháp này được sử dụng trong quá trình dự giờ giáo
viên.
- Tọa đàm với giáo viên về phương pháp dạy học vật lí nói chung, dạy học bài tập
vật lí nói riêng.
- Thực nghiệm sư phạm: sử dụng phương pháp này để kiểm nghiệm tính khoa
học, khả thi, hiệu quả của hệ thống bài tập vật lí được xây dựng.
6.3. Sử dụng thống kê toán học để xử lí số liệu điều tra thực tế và thực nghiệm
sư phạm.
7. Những đóng góp của nghiên cứu
7.1. Đóng góp về mặt lí luận
- Luận văn góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề liên quan đến khái niệm

“sáng tạo” và “ dạy học sáng tạo”.
- Đề xuất các nguyên tắc xây dựng bài tập sáng tạo vào chương “Từ trường” vật lí
11 THPT.
7.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Khả năng sử dụng hệ thống bài tập sáng tạo vào dạy học.

4


8. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm
3 chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc rèn luyện năng lực sáng tạo
cho học sinh trong dạy học vật lí.
Chương 2. Xây dựng và sử dụng các bài tập sáng tạo trong dạy học chương
“ Từ trường” Vật lí 11 THPT.
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm.

5


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC RÈN LUYỆN
NĂNG LỰC SÁNG TẠO CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC VẬT LÍ
1.1. Những đặc điểm về NLST của HS trong học tập
1.1.1. Khái niệm về năng lực sáng tạo
* Khái niệm về năng lực:
Theo tâm lí học, “năng lực là tổng hợp những thuộc tính độc đáo của cá nhân phù
hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định, nhằm đảm bảo việc hoàn thành
có kết quả tốt trong lĩnh vực hoạt động ấy” [22, tr.87]
Vậy, năng lực là những thuộc tính tâm lí riêng của cá nhân, nhờ những thuộc tính

này mà con người hoàn thành tốt đẹp một loại hoạt động nào đó mặc dù phải bỏ
ra ít sức lao động nhưng vẫn đạt kết quả cao.
Sự hình thành và phát triển năng lực của con người chịu sự tác động của nhiều
yếu tố trong đó có yếu tố sinh học, yếu tố hoạt động của chủ thể và yếu tố giao lưu
xã hội. Con người sinh ra chưa có năng lực, chưa có nhân cách. Năng lực được
hình thành và phát triển trong quá trình hoạt động tích cực như rèn luyện, học tập,
giáo dục,…của con người. Năng lực của HS- xét cho cùng là mục đích cuối cùng
của việc dạy học. Do đó những yêu cầu về phát triển năng lực HS cần được đặt
đúng chỗ của chúng trong mục đích dạy học. Năng lực gắn liền với kĩ năng, kĩ
xảo trong lĩnh vực hoạt động tương ứng. Song kĩ năng, kĩ xảo liên quan đến sự
phân biệt đến mức thành thạo, tự động hóa, máy móc, còn năng lực chứa đựng
yếu tố mới mẻ, linh hoạt trong hoạt động, trong việc giải quyết trong nhiều tình
huống trong một lĩnh vực rộng lớn hơn.
* Khái niệm về sáng tạo:
“Sáng tạo là một loại hoạt động mà kết quả của nó là một sản phẩm tinh thần hay
vật chất có tính cách tân, có ý nghĩa xã hội, có giá trị giúp giải quyết một khó khăn,
bế tắc nhất định” (Bách khoa toàn thư Liên Xô, Tập 42, tr.54). Trong từ điển Tiếng
Việt, tr.847 thì “sáng tạo là tìm ra cái mới, cách giải quyết mới, không bị gò bó,
phụ thuộc vào cái đã có”.
Theo từ điển triết học, “Sáng tạo là quá trình hoạt động của con người tạo ra
những giá trị vật chất, tinh thần mới về chất. Các loại hình sáng tạo được xác
định bởi đặc trưng nghề nghiệp như khoa học kỹ thuật, tổ chức quân sự. Có thể nói
sáng tạo có mặt trong mọi lĩnh vực của thế giới vật chất và tinh thần.
Theo Phan Dũng [5], “sáng tạo là hoạt động tạo ra bất kỳ cái gì có đồng thời tính
mới và tính ích lợi”.
+ “Tính mới” là sự khác biệt của đối tượng cho trước so với đối tượng tiền thân
của nó (đối tượng cùng loại ra đời trước đó về mặt thời gian).
6



+ “Tính ích lợi” được tạo ra nhờ tính mới và rất đa dạng. Tính ích lợi chỉ thể
hiện ra khi đối tượng cho trước “làm việc” theo đúng chức năng và trong phạm vi
áp dụng của nó.
Theo định nghĩa này thì kết quả sáng tạo phải có đồng thời tính mới và tính ích lợi,
nếu chỉ có tính mới hoặc chỉ có tính ích lợi thì không được coi là sáng tạo.
Nhìn từ các góc độ khác nhau, sáng tạo của con người được xem xét ở nhiều
phương diện, khía cạnh khác nhau và nó có các mức độ cao, thấp khác nhau. Nếu
xuất phát từ nhu cầu cá nhân và nhằm thỏa mãn các nhu cầu cá nhân thì người ta
có thể chia sáng tạo của con người thành hai loại:
+ Sáng tạo nhằm nhận thức (biết, hiểu, giải thích…) hiện thực khách quan
cũng như chính bản thân mình; loại này thuộc khái niệm phát minh.
+ Sáng tạo nhằm biến đổi (cải tạo….) hiện thực khách quan cũng như chính bản
thân mình; loại này thuộc khái niệm sáng chế, có mức sáng tạo rất nhiều và được
bảo hộ độc quyền. Sáng tạo thường được hiểu là đề ra những ý tưởng mới, độc
đáo, hữu ích phù hợp với hoàn cảnh. Người ta thường nghĩ, sáng tạo là khả năng chỉ
có ở các nhà khoa học. Nhưng thực ra trong mọi lĩnh vực hoạt động và mọi
người đều có khả năng sáng tạo. Sáng tạo và luôn mong muốn sáng tạo là nhu cầu
của con người. Sáng tạo là hoạt động có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống con
người, tạo ra sự phát triển toàn diện của xã hội, tạo ra sự thay đổi từ lĩnh vực này
sang lĩnh vực khác. Có thể nói ai cũng đều đã từng sáng tạo trong cuộc đời mình.
Trong nhà trường, sáng tạo của học sinh hầu hết còn hẹp, chỉ mới và ích lợi đối với
bản thân học sinh mà thôi. Do vậy, dạy học nói chung và dạy học vật lí nói riêng
phải giúp học sinh rèn luyện sáng tạo để hướng tới mục tiêu cao hơn là đào tạo
những người có khả năng sáng tạo ra những công trình có tính mới và tính ích lợi ở
mức nhân loại.
* Khái niệm NLST:
NLST là khả năng tạo ra những giá trị mới về vật chất và tinh thần, tìm ra cái
mới, giải pháp mới, công cụ mới, vận dụng thành công những hiểu biết đã có vào
hoàn cảnh mới. Đối với HS, NLST trong học tập chính là năng lực biết giải quyết
vấn đề học tập để tìm ra cái mới ở một mức độ nào đó thể hiện được khuynh

hướng, năng lực, kinh nghiệm của cá nhân học sinh. HS sáng tạo cái mới đối với
chúng nhưng thường không có giá trị xã hội. Để có sáng tạo, chủ thể phải ở trong
tình huống có vấn đề, tìm cách giải quyết mâu thuẫn nhận thức hoặc hành động và
kết quả là đề ra được phương hướng giải quyết không giống bình thường mà có
tính mới mẻ đối với HS (nếu chủ thể là HS) hoặc có tính mới mẻ đối với loài người
7


(như thể là nhà nghiên cứu).
Như vậy có thể nói rằng: đối với HS, NLST trong học tập là năng lực tìm ra cái
mới, cách giải quyết mới, năng lực phát hiện ra điều chưa biết, chưa có và tạo ra cái
chưa biết, chưa có không bị gò bó phụ thuộc vào cái đã có. Năng lực nói chung và
NLST nói riêng không phải chỉ do bẩm sinh mà được hình thành và phát triển trong
quá trình hoạt động của chủ thể. Bởi vậy, muốn hình thành năng lực học tập sáng
tạo, phải chuẩn bị cho học sinh những điều kiện cần thiết để họ có thể thực hiện
thành công với một số kết quả mới mẻ nhất định hoạt động đó.
1.1.2. Những đặc điểm của quá trình sáng tạo của HS trong học tập
Để xác định những con đường cụ thể hơn nữa cho việc thực hiện các điều kiện
cần thiết nhằm rèn luyện NLST của HS trong học tập nói chung, trong học tập
VL nói riêng, ta cần phải xét tới một vài đặc điểm tâm lí của quá trình sáng tạo.
Một trong những đặc điểm quan trọng của hoạt động sáng tạo là vấn đề tính mới mẻ.
Trong thực tế, nếu chỉ coi là có tính sáng tạo những hoạt động nào mà kết quả của
nó là những sản phẩm mới một cách khách quan thì coi như không tổ chức được
loại hoạt động đó trong quá trình dạy học. Tuy nhiên, theo quan điểm tâm lí
học, sản phẩm mới mẻ có tính chất chủ quan đóng vai trò quan trọng đối với
hoạt động dạy học sáng tạo.
Tính chủ quan của cái mới được xem như dấu hiệu đặc trưng của quá trình sáng
tạo, cho ta khả năng định hướng hoạt động sáng tạo của HS. Cái mới và cái chưa
biết của HS có thể và cần phải là cái đã biết đối với GV, nhưng cũng có thể là
cái mà GV chưa biết. Chẳng hạn: lời giải độc đáo của một BT. Tuy nhiên đó là

điều kiện cần thiết nhưng chưa đầy đủ. Đặc trưng tâm lí quan trọng của sáng tạo
có bản chất hai mặt: chủ quan và khách quan.
Tính chủ quan xét theo quan điểm của người nhận thức mà trong đầu đang diễn
ra quá trình sáng tạo, thể hiện là: các sản phẩm sáng tạo còn mang tính chủ quan.
Tính khách quan xét theo quan điểm của người nghiên cứu quá trình sáng tạo đó
với tư cách là tác động qua lại của 3 thành tố: tự nhiên, ý thức con người và các
hình thức phản ánh của tự nhiên vào ý thức con người.
Có thể nói quá trình sáng tạo bao gồm những đặc trưng cơ bản sau:
Tính mới mẻ của sản phẩm, tính bất ngờ của phỏng đoán, tính ngẫu nhiên của
phát kiến, những cái làm cho quá trình sáng tạo có tính chất không nhận biết được,
không điều khiển được đều có tính chất tương đối. Bởi vậy đặc điểm quan trọng
của quá trình sáng tạo trong học tập nói chung và học tập VL nói riêng là tính mới
mẻ chủ quan của sản phẩm, tính bất ngờ chủ quan phỏng đoán, tính ngẫu nhiên
8


chủ quan của phát kiến.
NLST chỉ được phát triển qua hành động thực tế: trong chiếm lĩnh kiến thức VL,
vận dụng kiến thức để giải thích hiện tượng VL, làm thí nghiệm và giải các BTVL
trong các tình huống khác nhau. Tính tích cực sáng tạo và tốc độ diễn ra của quá
trình sáng tạo là những thông số có liên quan với nhau. HS càng được chuẩn bị cho
việc hoàn thành sự khám phá chủ quan tốt bao nhiêu thì hoạt động sáng tạo của
các em đó càng tích cực bấy nhiêu và quá trình sáng tạo càng nhanh hơn bấy
nhiêu.
1.1.3. Những biểu hiện NLST và các yếu tố cần thiết cho việc bồi dưỡng NLST
trong học tập của HS
1.1.3.1. Những biểu hiện NLST của HS trong học tập
Theo chúng tôi có thể nêu lên những biểu hiện NLST của HS trong học tập như
sau
1. Năng lực tự truyền tải tri thức và kĩ năng từ những lĩnh vực quen biết sang

tình huống mới, vận dụng kiến thức đã học trong điều kiện hoàn cảnh mới.
2. Năng lực nhận biết vấn đề mới trong điều kiện quen biết (tự đặt câu hỏi mới
cho mình và cho mọi người về bản chất các điều kiện, tình huống, sự vật). Năng
lực nhìn thấy chức năng mới của đối tượng quen biết.
3. Năng lực nhìn thấy cấu trúc của đối tượng đang nghiên cứu. Thực chất là: bao
quát nhanh chóng, đôi khi ngay lập tức, các bộ phận, các yếu tố của đối tượng trong
mối tương quan giữa chúng với nhau.
4. Năng lực biết đề xuất giải pháp khác nhau khi phải xử lí một tình huống.
Khả năng huy động các kiến thức cần thiết để đưa ra các giả thuyết hay các dự
đoán khác nhau khi phải lí giải một hiện tượng.
5. Năng lực xác nhận bằng lí thuyết và thực hành các giả thuyết (hoặc phủ nhận
nó). Năng lực biết đề xuất các phương án TN hoặc thiết kế các sơ đồ TN để kiểm tra
giả thuyết hay hệ quả suy ra từ lí thuyết, hoặc để đo một đại lượng vật lí nào đó
với hiệu quả cao nhất có thể được trong những điều kiện đã cho.
6. Năng lực nhìn nhận một vấn đề dưới những góc độ khác nhau, xem xét đối
tượng ở những khía cạnh khác nhau, đôi khi mâu thuẫn nhau. Năng lực tìm ra các
giải pháp lạ. Chẳng hạn: đối với BTVL, có nhiều cách nhìn đối với việc tìm
kiếm lời giải, năng lực kết hợp nhiều phương pháp giải BT để tìm một phương
pháp mới, độc đáo.

9


1.1.3.2. Các yếu tố cần thiết cho việc bồi dưỡng NLST của HS trong học tập
Nếu ở nhà trường HS được tập luyện làm những việc có tính chất sáng tạo thì
sau này trong công tác sản xuất và hoạt động xã hội họ mới có thói quen suy
nghĩ linh hoạt, nhạy cảm. Trước hết phải nói tới một yếu tố quan trọng để nảy
sinh sáng tạo và hứng thú. Cho nên ngay từ trên ghế nhà trường muốn rèn luyện
cho HS tính sáng tạo thì trước tiên GV giảng dạy, ra BT sao cho HS hứng thú học
tập. Hứng thú gây ra sáng tạo và sáng tạo lại thúc đẩy hứng thú mới, HS cần có

hứng thú nhận thức cao, cần có sự khao khát nhận thức cái mới và vận dụng cái
mới vào thực tế như áp dụng kiến thức để làm các BT vận dụng, khái quat hóa các
BT vận dụng để làm các dạng BT mới.
Yếu tố thứ hai cần thiết để sáng tạo là phải có kiến thức cơ bản, vững chắc. Một
quá trình sáng tạo bất kì đều bắt đầu từ sự tái hiện những cái đã biết. Tâm lí học
hiện đại không phủ nhận những vai trò của trí nhớ. Dĩ nhiên, chỉ ghi nhớ đơn
thuần, không biết suy nghĩ vận dụng sáng tạo thì đó là kiến thức chết, vô dụng.
Người HS phải vận dụng tri thức đã biết vào tình huống mới vào giải thích hiện
tượng VL, giải các BTVL trong các trường hợp khác nhau. L.X.Vưgôtxki đã phê
phán những quan điểm không đúng cho rằng sáng tạo là mảnh đất riêng của những
người có tài năng, thiên tài, còn con người bình thường thì tuyệt nhiên không có
khả năng đó. L.X.Vưgôtxki cho rằng ở những nơi con người biết phối hợp những
cái cũ, tạo ra cái mới đều là sáng tạo. Vì vậy kiến thức cơ bản vững chắc phải là
yếu tố cần thiết cho rèn luyện NLST.
Yếu tố thứ ba để sáng tạo là: HS cần có tính “Nghi ngờ khoa học”, luôn đặt câu
hỏi: “cách làm này hay phương án giải BT này đã tối ưu hay chưa?”, “có còn cách
khác không?”hay “BT này có thể mở rộng như thế nào?”.
Theo P.L capitxa: “giáo dục khả năng sáng tạo trong con người dựa trên sự
phát triển của tư duy độc lập”. Do đó một yếu tố nữa không thể thiếu của việc rèn
luyện NLST của HS là: HS cần phải có khả năng tư duy độc lập. Đó là khả năng
của con người trong việc tự xác định phương hướng hoạt động của mình trong
tình huống mới, tự phát hiện và nêu lên các vấn đề cần giải quyết và thực hiện
nó. Như vậy các điều kiện để hoàn thành các phát kiến càng được chuẩn bị tốt bao
nhiêu thì tính chủ động sáng tạo càng được nâng cao bấy nhiêu.

10


1.2. Cơ sở lí luận về dạy học sáng tạo
1.2.1. Dạy học sáng tạo trong dạy học vật lí

Trong giới hạn đề tài này, dạy học sáng tạo được hiểu là dạy học nhằm bồi dưỡng
TDST cho học sinh.
Theo lí thuyết vùng phát triển gần của Vưgôtsxki thì có thể dạy được, bồi
dưỡng được TDST cho HS.
Trong khoa học, nếu phân loại theo sản phẩm sáng tạo, hoạt động TDST
được chia thành phát minh và sáng chế. Áp dụng vào DHVL ở trường phổ thông
được chia thành hai dạng: Dạy học sinh phát minh lại định luật, thuyết vật lí và
dạy HS sáng chế lại các thiết bị kĩ thuật. Việc dạy học những ứng dụng kĩ thuật
của VL ở trường phổ thông có thể diễn ra theo hai con đường :
- Con đường thứ nhất là quan sát cấu tạo của đối tượng kĩ thuật có sẵn, giải thích
nguyên tắc hoạt động của nó. Đây là bài toán “hộp trắng”: Biết cấu tạo bên trong
của hộp, biết tác động ở đầu vào và kết quả của đầu ra, giải thích nguyên tắc
hoạt động.
- Con đường thứ hai là dựa vào những định luật vật lí, những đặc tính vật lí của
sự vật, hiện tượng, thiết kế một thiết bị nhằm giải thích một yêu cầu kỹ thuật nào
đó. Con đường này thực chất là tìm tòi, phát minh lại một thiết bị, máy móc dùng
trong kĩ thuật, là một bài tập sáng tạo. Đây là bài toán “hộp đen”. Đã từ lâu, các nhà
khoa học đã biết sử dụng TRIZ để ứng dụng các định luật vật lí vào chế tạo nên
các thiết bị, máy móc có tính năng, tác dụng nhất định đáp ứng những yêu cầu của
kĩ thuật và cuộc sống. Chuyển dịch sang DHVL, có thể sử dụng TRIZ vào xây dựng
và hướng dẫn HS giải bài tập sáng tạo.
1.2.2. Cơ sở tâm lí học về dạy học sáng tạo.
Dạy học sáng tạo lấy lí thuyết thích nghi của Piaget và lí thuyết về vùng phát
triển gần của Vưgôtsxki làm cơ sở. Lí thuyết thích nghi của Piaget chỉ ra rằng
những phẩm chất mới của con người được phát triển từ chính những hoạt động
tích cực, tự lực của con người. Mặt khác, Vưgôtsxki trong lí thuyết về vùng phát
triển gần lại cho rằng: “Dạy học được cho là tốt nhất nếu nó đi trước sự phát triển
và kéo theo sự phát triển”. Lí luận dạy học đã chỉ ra rằng: “Dạy học phải có tác dụng
thúc đẩy sự phát triển trí tuệ của người học”. Thông qua hoạt động trí tuệ HS phát
triển dần từ thấp đến cao. Trình độ ban đầu của HS tương ứng với “vùng phát

triển hiện tại”. Trình độ này cho phép HS có thể thu được những kiến thức gần
gũi nhất với kiến thức cũ để đạt được trình độ mới cao hơn. Vưgôtsxki gọi đó là
“vùng phát triển gần nhất”. Khi HS đạt được vùng phát triển gần nhất, nghĩa là
11


các em ở “vùng phát triển hiện tại” nhưng ở trình độ mới cao hơn. Người giáo
viên tiếp tục tổ chức và giúp đỡ HS đưa các em tới “vùng phát triển gần nhất” mới
để sau đó lại trở thành “vùng phát triển hiện tại”. Cứ tiếp tục như vậy, sự phát triển
của HS đi từ nấc thang này đến nấc thang khác cao hơn. Nếu người thầy biết phát
huy tốt vai trò tổ chức điều khiển làm giảm nhẹ khó khăn cho HS trong quá trình
nhận thức, biết cách khuyến khích HS tham gia vào hoạt động nhận thức tích cực
trong dạy học thì trí tuệ của học sinh có thể được phát triển tốt. Mặt khác, đối với
học sinh để tự lực phát triển trí tuệ không có cách nào khác là phải tự mình hoạt
động, hoạt động một cách tích cực, tự giác trong sự tương tác với xã hội. DHST có
thể giải quyết được tất cả các vấn đề trên.
1.2.3. Cơ sở lí luận dạy học về dạy học sáng tạo.
Dạy học sáng tạo là biểu hiện sự thống nhất giữa chức năng giáo dục, giáo
dưỡng và phát triển. Trong dạy học sáng tạo, học sinh tự chiếm lĩnh được kiến
thức phỏng theo các giai đoạn nghiên cứu của nhà khoa học.
Khảo sát chu trình sáng tạo của V.G.Razumôpxki đã chỉ ra hai giai đoạn khó
khăn đòi hỏi sự sáng tạo là giai đoạn từ sự kiện khởi đầu tới xây dựng mô hình
giả thuyết trừu tượng và giai đoạn chuyển từ một tiên đề lí thuyết và những quy
luật nhất định của hiện tượng sang việc kiểm tra bằng thực nghiệm. Giai đoạn thứ
nhất đòi hỏi sự giải thích hiện tượng, trả lời câu hỏi “Tại sao”; giai đoạn thứ hai
đòi hỏi thực hiện một hiện thực, đáp ứng các yêu cầu đã cho, đòi hỏi trả lời câu hỏi
“Làm thế nào” Đó là cở sở ra đời loại BT nghiên cứu và BT thiết kế chế tạo trong
dạy học.
1.2.4. Các biện pháp dạy học sáng tạo trong môn vật lí ở trường phổ thông
Theo [13] [20], có một số biện pháp sau đây nhằm phát huy NLST của học

sinh trong DHVL:
1.2.4.1. Áp dụng phương pháp dạy học nêu và giải quyết vấn đề
Như ta đã biết, tư duy chỉ phát triển trong hoàn cảnh có vấn đề và sự sáng tạo
chỉ nảy sinh trong khi giải quyết vấn đề đó. Vì vậy, người giáo viên nên giải học
theo phương pháp dạy học nêu và giải quyết vấn đề. Tùy theo nội dung kiến thức
của bài học, trình độ của HS, điều kiện về thời gian và cơ sở vật chất nhà trường
mà có thể áp dụng dạy học nêu và giải quyết vấn đề theo các mức độ khác nhau.
- Mức thấp nhất: Trong một bài lên lớp, giáo viên đặt hệ thống câu hỏi phục vụ
trọng tâm, mục đích, yêu cầu của bài giảng.
- Mức độ cao: Giáo viên đặt đề tài nhỏ.
12


+ HS hoàn thành ở lớp, phòng thí nghiệm hay ở nhà rồi trình bày trước tổ hoặc
lớp. Có thảo luận, kết luận.
+ Giáo viên gợi ý cho HS tự đặt vấn đề rồi nghiên cứu giải quyết vấn đề.
Dạy học giải quyết vấn đề có tác dụng to lớn trong việc bồi dưỡng năng lực TDST
cho HS vì:
- Luôn đặt HS vào tình huống có vấn đề làm xuất hiện các nhu cầu giải quyết vấn
đề của HS (rèn luyện thói quen tự đặt câu hỏi hay thói quen phát hiện vấn đề cần
giải quyết của người học).
- Rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề.
1.2.4.2. Chuyển hóa phương pháp nhận thức của vật lí học thành phương pháp
dạy học vật lí
Khi người giáo viên biết chuyển hóa phương pháp nhận thức của vật lí học thành
phương pháp dạy học vật lí tức là dạy cho HS nghiên cứu khoa học.
Người GV đặt HS vào vị trí của nhà khoa học và hướng dẫn họ thực hiện các
hoạt động học tập phỏng theo các hoạt động của nhà khoa học, kết quả HS vừa
thu nhận được kiến thức vừa biết được con đường tạo ra kiến thức đó.
1.2.4.3. Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học

Các phương tiện dạy học gồm các thiết bị dạy học, phòng bộ môn, phòng thí
nghiệm, vườn thí nghiệm, bàn ghế, các phương tiện kĩ thuật.
Giáo án điện tử là phương tiện dạy học hiện đại, sử dụng hiệu quả khá cao. Sử
dụng các phương tiện dạy học một cách hợp lí không những giúp HS có điều kiện
nhận thức thế giới bên ngoài tốt hơn, rèn luyện TDST đồng thời giảm cường độ lao
động của giáo viên. Phương tiện trực quan không những cung cấp cho HS kiến thức
bền vững, chính xác, mà còn gây hứng thú học tập, tăng chú ý đối với bài học. Khi
tiếp xúc với các tình huống xẩy ra trong thực tiễn ở các bài thí nghiệm thực
hành, tư duy của HS luôn được đặt ở trước vấn đề mới buộc họ phải suy nghĩ, tìm
tòi, phát triển năng lực TDST của HS.
1.2.4.4. Rèn luyện trí tưởng tượng, tư duy không gian, tư duy lôgic cho học
sinh
Óc tưởng tượng, tư duy không gian, tư duy lôgic là ba năng lực rất cần thiết cho
người lao động sáng tạo.
Theo [31], tưởng tượng là xây dựng trong đầu những hình ảnh mới trên cơ sở các
biểu tượng đã có. Tượng tượng phong phú là yếu tố quan trọng nhất góp phần phát
13


triển TDST cho HS.
Tuy duy không gian phát triển tức là óc tưởng tượng không gian phong phú. Không
gian ở đây có thể là 3 chiều hoặc vô số chiều. Nói cách khác, tư duy không gian
giúp cho cách nhìn nhận vấn đề theo nhiều cách khác nhau và tùy từng bài toán, ta
chọn cách đi tới kết quả sớm nhất, hiệu quả nhất.
Bồi dưỡng tư duy không gian giúp cho việc nhìn nhận sự vật, hiện tượng
một cách tổng thể và toàn diện hơn, tránh cách nhìn cục bộ, phiến diện về một vấn
đề, sự vật. Tư duy không gian phát triển làm cho các quá trình tư duy trở lên khái
quát hơn, toàn diện hơn, sáng tạo hơn.
Một chuỗi suy luận dù có mang tính sáng tạo hay không thì đều có suy luận lôgic, vì
vậy, tư duy lôgic mà phát triển thì sẽ thúc đẩy được TDST phát triển, người có

TDST nhất định sẽ có suy luận lôgic tốt.
1.2.4.5. Đưa bài tập sáng tạo về vật lí vào dạy học
Để giải BTST, cần phải có sự nhạy bén trong tư duy, khả năng tưởng tượng, sự
vận dụng kiến thức một cách sáng tạo trong những tình huống mới, hoàn cảnh mới,
HS phát hiện ra những cái chưa biết, những điều chưa biết đầy đủ đối với HS. Loại
bài tập này yêu cầu HS có khả năng đề xuất, đánh giá theo ý kiến riêng của HS, vì
vậy sẽ bồi dưỡng được năng lực TDST của HS.
1.2.4.6. Bồi dưỡng phương pháp tự học
Qua những sáng tạo được thể hiện từ thời Thomas Edison đến thời Bill Gates,
giới khoa học kĩ thuật ngày càng nhận thấy giữa khả năng sáng tạo và việc tự học
có một mối liên hệ nhân quả. Tạp trí Science et Vie (Pháp) đã viết: “Ai tự học
mạnh nhất, người đó tích lũy được tiềm năng sáng tạo dồi dào nhất. Ngược lại, ai
có nhu cầu sáng tạo nhiều hơn, người ấy càng thôi thúc ý trí tự học cao hơn”.
Như chúng ta đã biết, tự học thì mới có thể hiểu sâu và nhớ lâu kiến thức được
vì đó là đặc điểm thu nhận thông tin của bộ não đa số con người. Thật vậy:
- Nếu chỉ nghe thì thu nhận tối đa được 20%
- Nếu chỉ nghe và nhìn thì thu nhận tối đa là 50%
- Nếu nghe, nhìn, thảo luận và tái hiện, vận dụng thì thu nhận tối đa được
90%
Nếu HS tự lực tìm kiếm được kiến thức mới dưới sự hướng dẫn của thầy giáo
thì phần trăm thu nhận còn cao hơn nhiều. GV không những dạy cho HS cách tự
học (tự tìm kiếm và xử lí thông tin) ngay trên lớp mà còn hướng dẫn HS cách tự
học ở nhà. Học ở mọi lúc, mọi nơi, mọi đối tượng.
14


Tự học là học sinh tự mình nghiền ngẫm, lật đi lật lại vấn đề, hình thành
những thắc mắc, những câu hỏi và cố gắng tự trả lời. Trong quá trình tự học đó, tư
duy độc lập, tư duy phê phán và TDST được hình thành nảy nở.
1.2.4.7. Giáo dục tính tích cực và sáng tạo của học sinh

Giáo dục tính tích cực, sáng tạo cho HS tức là:
- Khơi gợi, mở rộng tiềm năng to lớn về học tập của HS bằng cách để họ tự đào
sâu suy nghĩ, tìm tòi, phát huy khả năng của mình, đồng thời nêu gương các nhà
khoa học hay HS, SV tiêu biểu trong quá trình học tập bộ môn sẽ kích thích được
tiềm năng sáng tạo và quyết tâm phấn đấu học tập theo những tấm gương đó.
- Giúp HS ham học, hứng thú học tập, biết cách tự học, khám phá thế
giới.
- Giúp HS rèn luyện để phát triển năng lực TDST, năng lực phát hiện và giải
quyết vấn đề.
1.3. Vai trò của bài tập trong dạy học sáng tạo
Theo [24] thì BTVL được định nghĩa “trong thực tiễn dạy học, người ta thường
gọi BTVL là một vấn đề không lớn mà trong trường hợp tổng quát nó được giải
quyết nhờ những suy luận lôgic, những phép toán và thí nghiệm trên cơ sở các
định luật và phương pháp vật lí,… thông thường, trong sách giáo khoa và tài liệu
lí luận và dạy học bộ môn người ta hiểu những BTVL là những bài tập được lựa
chọn một cách phù hợp với mục đích nghiên cứu các hiện tượng vật lí, hình thành
các khái niệm, phát triển tư duy vật lí của HS và rèn luyện kĩ năng vận dụng các
kiến thức của họ vào thực tiễn”.
Trong dạy học ở trường phổ thông BTVL có nhiều tác dụng như:
- Giúp cho việc ôn tập đào sâu, mở rộng kiến thức. Khi xây dựng kiến thức, học
sinh đã nắm được những cái chung, những khái niệm, những định nghĩa….là những
cái trừu tượng. Trong bài tập, HS phải vận dụng những kiến thức khái quát, trừu
tượng đó vào những trường hợp cụ thể rất đa dạng, nhờ thế mà học sinh nắm được
những biểu hiện cụ thể của chúng trong thực tế.
Ngoài những ứng dụng quan trọng trong kĩ thuật, BTVL sẽ cho HS thấy
những ứng dụng muôn hình, muôn vẻ trong thực tiễn của những kiến thức đã
học.
- BT có thể là điểm khởi đầu để dẫn dắt đến kiến thức mới. Trong chương trình
THPT có rất nhiều phần kiến thức được xây dựng nên thông qua BT. Với kiến thức
toán học và sử dụng BT một cách khéo léo thì phần kiến thức được xây dựng một

15


cách rất khoa học, đơn giản và dễ hiểu.
- Rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo vận dụng lí thuyết vào thực tế.
Các môn khoa học nói chung và môn vật lí nói riêng thì việc vận dụng lí thuyết
vào thực tế rất quan trọng. Việc HS được làm nhiều BT chính là giúp các em rèn
luyện kĩ năng, kĩ xảo đó.
- Giải BT là một trong những hình thức làm việc tự lực cao của HS. Khi làm
BT thì các em phải tự mình phân tích các điều kiện của đề bài, tự xây dựng lập luận,
tự kiểm tra hoặc phê phán những kết luận đã rút ra nên tư duy phát triển, năng lực
làm việc tự lực của họ được nâng cao, tính kiên trì được phát triển.
- Giải BTVL góp phần phát triển tư duy sáng tạo.
Trong các kiến thức VL nói chung và trong chương trình vật lí THPT nói riêng
thì có rất nhiều BT không chỉ dừng lại trong phạm vi vận dụng kiến thức đã học mà
còn giúp bồi dưỡng cho HS NLST. Đặc biệt là những BT thí nghiệm, BT giải thích
hiện tượng, BT thiết kế dụng cụ………..
- Giải BTVL để kiểm tra, đánh giá mức độ nắm vững kiến thức của HS
BTVL là một phương tiện khá hiệu quả để kiểm tra mức độ nắm vững kiến thức
của HS. Dựa vào BT được kiểm tra thì GV có thể phân loại được trình độ của HS
từ đó có phương pháp dạy học thích hợp tới từng đối tượng.
1.4. Thực trạng việc xây dựng và sử dụng BTST
1.4.1. Nhận thức của GV về BTST và việc sử dụng BTST trong DHVL
Thông qua việc tìm hiểu, nghiên cứu thực tế việc giảng dạy của giáo viên ở
một số trường THPT, chúng tôi nhận thấy:
- Đa số các GV cho rằng: Bài tập vật lí có vai trò quang trọng, tác dụng to lớn
trong dạy học vật lí. Ngoài việc cung cấp kiến thức cơ bản, luyện tập cho học sinh kĩ
năng vận dụng các công thức là kiểm tra, đánh giá kiến thức của học sinh.
- Nhiều GV thường đồng nhất hai khái niệm “độ khó của bài tập” và “mức
sáng tạo của bài tập”, tức là bài tập càng khó mức sáng tạo càng cao.

- Một số GV chưa hiểu về BTST, chưa biết soạn thảo BTST, thậm chí còn chưa
hiểu đã có sử dụng BTST vào dạy học hay chưa?
- Một số GV cho rằng không thể sử dụng BTST trong tiết học trên lớp được, vì
45 phút là quá ít.

16


1.4.2. Nguyên nhân thực trạng
Nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến việc GV ít dạy BTST là do:
- Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS chưa khuyến khích HS học tập sáng
tạo vì thi TNKQ không kích thích được sự sáng tạo.
- Nội dung kiến thức trong một bài quá nhiều, rất khó đưa thêm BTST vào các
tiết dạy lí thuyết trên lớp.
- Xây dựng BTST khá khó, mất rất nhiều thời gian. Số lượng BTST trong
sách giáo khoa, sách bài tập và trong sách tham khảo là không nhiều. Mặt khác,
rất ít GV có khả năng phát triển bài tập luyện tập thành BTST.

1.4.3. Kết luận
Từ kết quả trên, chúng tôi nhận thấy: Rất ít GV THPT có thể xây dựng BTST để
có thể sử dụng vào DHVL. Hơn nữa, số lượng BTST phần Từ trường có trong
SGK và SBT là quá ít. Vậy nên cần thiết phải xây dựng hệ thống BTST mà GV
có thể sử dụng vào dạy học nhằm phát triển TDST cho HS.

17


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trên đây chúng tôi đã trình bày cơ sở lí luận và thực tiễn của rèn luyện năng lực
sáng tạo cho học sinh trong dạy học vật lí, bao gồm những vấn đề cơ bản sau:

- Trình bày các quan niệm, những cách hiểu về NLST, sáng tạo của nhà khoa
học, của học sinh, những đặc điểm, biểu hiện và yếu tố cần thiết cho quá trình sáng
tạo.
- Trình bày cơ sở lí luận về dạy học sáng tạo.
- Trình bày vai trò của BT trong dạy học sáng tạo ở trường THPT.
- Thực trạng việc xây dựng và sử dụng BTST ở trường THPT.
Những nội dung trên sẽ là cơ sở quan trọng để chúng tôi đề xuất các nguyên
tắc xây dựng BTST cũng như đưa ra các tiêu chí đánh giá NLST.

18


×