Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu Luận Công Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa Trong Quá Trình Đi Lên XHCN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.73 KB, 29 trang )

A. Phần mở đầu

Ta đã biết đất nớc ta bớc vào thời kì quá độ lên CNXH khi mà nền sản xuất
cha vận động theo con đờng bình thờng của nó. Lịch sử đã để lại cho
chúng ta một nền sản xuất nghèo nàn và lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá
nặng nề, lực lợng sản xuất rất thấp kém. Nhng ngày nay khi độc lập dân tộc
gắn kiền với CNXH là một xu thế tất yếu của lịch sử, khi giai cấp công nhân
đã nắm quyền lãnh đạo cách mạng thì kết thúc cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ cũng là lúc bắt đầu cuộc cách mạng XHCN. Cách mạnh XHCN ở nớc ta
là một quá trình biến đổi cách mạng toàn điện, sâu sắc và triệt để. đó là một
quá trình vừa xoá bỏ cái cũ, vừa xây dựng cái mới từ gốc đến ngọn. Phải tạo ra
cả cơ sở kinh tế lẫn kiến trúc thợng tầng mới, tạo ra của cải đời sồng vật chất
mới lẫn đời sống tinh thần và văn hoá mới. Do đó, trong quá trình đi lên
CNXH chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nớc.theo
quan điểm của ban chấp hành trung ơng Đảng khoá VII đã khẳng địnhCông
nghiệp hoá-hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công nghệ, phơng tiện và phơng pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển
của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng suất lao động xã
hội cao. Quan điểm này đã gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá đồng thời
đã xác định vai trò khoa học-công nghệ là then chốt đẩy mạnh công nghiệp
hoá. Trong điều kiện giao lu kinh tế giữa các nớc cha đợc mở rộng, quá trình
chuyển giao công nghệ giữa các nớc cha phát triển mạnh mẽ phảitự lực cánh
sinh thì đó chính là một trình tự hợp lí để tiến hành công nghiệp hoá. Song
hiên nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang tác động một cách sâu
rộng trên phạm vi toàn thế giới khoảng thời gian để phát minh mới ra đời thay
thế phát minh cũ ngày càng đợc rút ngắn lại, xu hớng chuyển giao công nghệ
giữa các nớc ngày càng trở thành đòi hỏi cấp bách, không chỉ đối với các nớc
lạc hậu, mà ngay cả đói với các nớc phát triển. Thực tế cho thấy có thể chuyển
giao một cách có hiệu quả cho các nớc đi sau khi mà các nớc đi sau đã có sự


chuẩn bị kĩ càng để đón nhận. Vấn đề đặt ra là các nớc đi sau trong đó có nớc
ta cần phải làm ngững gì đẻ iếp nhận một cách có hiệu quả nhất những thành
tựu mà các nớc đi trớc đã đạt đợc. Bài học thành công trong quá trình công
nghiệp hoá của các nớc NIC đã chỉ ra rằng: việc xây dựng một cơ cấu kinh tế
1


theo hớng mở cửa với bên ngoài ngằm tiếp nhận một cách có chọn lọc những
thành tựu của các nớc đi trớc kết hợp với việc đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại, đó chính là con đờng ngắn nhất, có hiệu quả nhất
quyết định sự thành công của quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá
B. Nội dung chính
I. cở sở lý luận

1.

Nội dung khoa học công nghệ

Hiện nay cuộc cách mạng khoa học- công nghệ có nhiều nội dung phong
phú, trong đó có thể chỉ ra những nội dung nổi bật sau:
Một là, cách mạng về phơng pháp sản xuất: đó là tự động hoá. Ngoài
phạm vi tự động nh trớc đây, hiện nay tự động hoá còn bao gồm cả việc sử
dụng rộng rãi ngời máy thay thế con ngời trong quá trình vận hành sản xuất.
Hai là, cách mạng về năng lợng: bên cạnh những năng lợng truyền thống
mà con ngời sử dụng trớc kia nh nhiệt điện, thuỷ điện thì ngày nay con ngời
càng tạo ra nhiều năng lợng mới và sử dụng chúng rộng rãi trong sản xuất nh
năng lợng nguyên tử, năng lợng mặt trời.
Ba là, cách mạng về vật liệu mới : ngày nay ngoài việc sử dụng các vật
liệu tự nhiên, con ngời ngày càng tạo ra nhiều vật liệu tự nhiên, con ngời ngày
càng tạo ra nhiều vật liệu nhân tạo mới thay thế có hiệu quả cho các vật tự

nhiên khi mà các vật liệu tự nhiên đang có xu hớng ngày càng cạn dần .
Bốn là, cách mạng về công nghệ sinh học, các thành tựu của cuộc cách
mạng này đang đợc áp dụng rông rãi trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp,
y tế, hoá chất, bảo vệ môi trờng sinh thái.
Năm là, cách mạng về điện tử và tin học : đây là lĩnh vực hiện nay loài ngời đang đặc biệt quan tâm trong đó phải kể đến lĩnh vực máy tính điện tử.
Nh vậy, khoa học công nghệ ngày nay bao gồm một phạm vi rộng, nó
không chỉ là các phơng tiện, thiết bị do con ngời sáng tạo ra mà còn là các bí
quyết biến các nguồn lực có sẵn thành sản phẩm. Với ý nghĩ đó khi mói tới
công nghệ thì sẽ cũng bao hàm cả kỹ thuật. đặc biệt là trong giai đoạn hiện
nay khoa học, kĩ thuật luôn nắn bó chặt chẽ với nhau : khoa học là tiền đề trực
tiếp của công nghệ và công nghệ lại là kết quả của khoa học.
2


2.

Vai trò của khoa học công nghệ

Trong thời đại ngày nay, có lẽ không còn ai không nhận thức đợc rằng
khoa học và công nghệ có vai trò rất quan trọng về nhiều mặt đối với sự phát
triển. Khoa học và công nghệ là cái không thể thiếu đợc trông đời sống kinh tế
văn hoá của một quốc gia. Vai trò này của khoa học và công nghệ càng trở
lên đặc biệt quan trọng đối với nớc ta đang trên con đờng rút ngắn giai đoạn
phát triển để sớm trở thành một xã hội hiện đại. Ngay từ khi bắt đầu tiến hành
công cuộc đổi mới đất nớc, Đảng ta đã xác định khoa học và công nghệ là cái
giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển lực lợng sản xuất và nâng cao trình
độ quản lý, bản đảm chất lợng và tốc độ phát triển của nền kinh tế. Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc vì mục tiêu dân giàu nớc mạnh xã hội công
bằng, văn minh, khoa học và công nghệ phải trở thành quốc sánh hàng đầu.
Nớc ta đang bớc vào một thời kỳ phát triển mới- thời kỳ đẩy mạnh CNHHĐH. Nghị quyết Trung ơng hai của Ban chấp hành Trung ơng Đảng khoá

VIII đã xác định rõ :CNH- HĐH đất nớc phải bằng và dựa vào khoa học và
công nghệ khoa học và công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho
CNH- HĐH. Chỉ bằng con đờng CNH- HĐH, phát triển khoa học và công
nghệ mới có thể đa nớc ta từ nghèo nàn lạc hậu trở thành một nớc giàu mạnh
văn minh. Việc đa khoa học và công nghệ, trớc hết là phổ cập những tri thức
khoa học và công nghê cần thiết vào sản xuất và đời sống xã hội là một nhu
cầu cấp thiết của xã hội ta hiện nay. Nghị quyết trung ơng II cũng đã nhấn
mạnh phải thật sự coi Sự phát triển khoa học và công nghệ là sự nghiệp cách
mạng của toàn dân, phát huy cao độ khả năng sáng tạo của quần chúng. Bởi lẽ
dù chúng ta có tiến hành cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, có đa trang
thiết bị kỹ thuật tân tiến nhất, những quy trình công nghệ hiện đại nhất vào nớc ta thì cũng không có gì để có thể bảo đảm đẩy mạnh đợc CNH- HĐH. Nếu
không có đợc những con ngời am hiểu và sử dụng chúng. Do đó, xã hội hoá tri
thức khoa học và công nghệ là một trong những nhu cầu thiết thực và cấp bách
nhất để đẩy mạnh sự nghiệp CNH- HĐH đất nớc.
Phát triển công nghiệp hoá hiện đại hoá là quá trình phát triển và nâng cao
trình độ công nghiệp. Việc nâng cao trình độ công nghệ đợc thực hiện trong
quá trình điện khí hoá, cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá, hoá học hoá và
sinh học hoá. Trong các ngành lĩnh vực kinh tế quốc dân, các thành phần kinh
tế, các vùng kinh tế của đát nớc trong đó cần u tiên đa ngành công nghệ hiện

3


đại thích hợp vào các ngành, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế, các vùng
lãnh thổ mũi nhọn trọng điểm, đạt hiệu quả kinh tế cao, tích luỹ nhanh và lớn.
Có nh vậy mới tạo khả năng thu hút và thúc đẩy CNH- HĐH các ngành, các
lĩnh vực và các thành phần kinh tế.
II. cơ sở thực tiễn
1 .Sự cần thiết phải phát triển KH- CN


Cách mạng KH- CN đã và đang diễn ra mạnh mẽ ở các nớc phát triển, tức
là ở những nớc đã trải qua thời kì cách mạng công nghệ, đã xác lập đợc nền
sản xuất cơ khí hoá đã có nền KH và CN tiên tiến. Tuy nhiên, nó không chỉ
hạn chế trong ranh giới của các nớc phát triển mà ảnh hởng của nó đang lan ra
tất cả các nớc trên thế giới . Có thể nói cách mạng KH- CN là một hiện tợng
toàn cầu, hiện tợng quốc tế sớm hay muộn nó sẽ đến với tất cả dân tộc và các
quốc gia trên trái đất
Là một hiện tợng toàn cầu, cuộc mạng KH- CN mang trong bản thân nó
những qui luật chung, phổ biến, chúng tác động vào tất cả các loại hình cách
mạng KH- KT. Nhng mặt khác, mỗi nớc tiến hành cuộc cách mạng này trong
những điều kiện riêng của đất nớc mình cho nên cách mạng KH- KT ở những
nớc khác nhau cũng mang những màu sắc, những đặc điểm khác nhau. Do đó,
khi xem xét cuộc cách mạng KH- KT ở nớc ta cần phải đặt nó trong bối cảnh
chung của cách mạng KH- KT trên thê giới.
Sau khi giành đợc độc lập về chính trị, nớc ta có nguyện vọng sử dụng
những thành tựu của cuộc cách mạng KT- CN hiện đại, muốn tiến hành cuộc
cách mạng đó để phát triển kinh tế, văn hoá, khoa học và kỹ thuật để đa đất nớc ta khỏi tình trạng nghèo nàn và lạc hậu. Nguyện vọng đó là hoàn toàn
chính đáng. Tuy nhiên, việc tiến hành cách mạng KH- CN ở nớc ta gặp phải
những khó khăn lớn, do nhiều nguyên nhân
Trớc hết, nớc ta còn ở tình trạng lạc hậu về mặt kinh tế, khoa học và công
nghệ. Nông nghiệp và công nghiệp cha hết hợp thành một cơ cấu thống nhất,
sự mất cân đối trong các ngành kinh tế quốc dân trở nên trầm trọng
Về mặt văn hoá, khoa học và công nghệ thì số đông dân c nớc ta vẫn ở
tình trạng mù chữ, thiếu lực lợng lao động có trình độ chuyên môn cao, thiếu
cán bộ văn hoá và kỹ thuật. Thêm vào đó, sự tăng dân số quá nhanh đã gây ra

4


những khó khăn cho việc bảo đảm lơng thực, giải quyết công ăn việc làm cho

những ngời lao động
Ngoài những khó khăn trong nớc, nớc ta còn phải chịu những di sản nặng
nề do sự nô dịch của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân để kại, đồng
thời các cờng đế quốc lại đang thực hiện chính sách kìm hãm sự phát triển
khoa học và kỹ thuật nhằm duy trì tình trạng bất bình đẳng của họ trong sự
phân công lao động quốc tế
Nếu nớc ta sau khi đã đợc giải phóng khỏi sự nô dịch của chủ nghĩa đế
quốc, lại chọn con đờng phát triển t bản chủ nghĩa hoặc đứng giữa ngã ba đờng trong việc lựa chọn phơng hơng phát triển xã hội dù chúng ta có sự cố
gắng nh thế nào đi nữa trong việc sử dụng những thành tựu KH- CN hiện đại
thì chúng ta cũng không thoát khỏi địa vị phụ thuộc vào các nớc đế quốc về
mặt KH- CN và do đó phụ thuộc về mặt kinh tế, không thể khắc phục đợc
những mâu thuẫn xã hội do tiến bộ khoa học và kỹ thuật gây ra, không thể
tiến hành thành công cuộc cách mạng KH- CN
Do đó, điều kiện kiên quyết để tiến hành cách mạng KH- CN ở nớc ta là
phải tiến hành cải tạo xã hội sâu sắc, chống chủ nghĩa đế quốc, chống chủ
nghĩa thực dân mới và các thế lực phản động để đi lên CNXH.
Sau 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới, khoa học và công nghệ nớc ta bớc đầu có sự chuyển biến tích cực. Tuy nhiên cho đến nay, nền khoa học và kỹ
thuật nớc ta vẫn đang trong tình trạng lạc hậu, chậm phát triển cha đáp ứng đợc yêu cầu của đất nớc
Về trình độ kỹ thuật- công nghệ, so với các nớc tiên tiến nhất trên thế giới,
chúng ta lạc hậu từ 50 đến 100 năm, so với các nớc tiên tiến ở mức trung bình
ta lạc hậu từ 1 đến 2 thế hệ
Với thực trạng đó, việc tiến hành cuộc cách mạng khoa học công nghệ
ở nớc ta không chỉ đợc coi là tất yếu khách quan, mà còn là một đòi hỏi bức
xúc để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là đến năm 2020 về cơ bản nớc ta trở thành nớc công nghiệp. Khác với các nớc đi đàu, công nghiệp hoá nớc ta đòi hỏi phải thực hiện rút ngắn. chỉ có nh thế, chúng ta mới có thể sớm
rút ngắn đợc khoảng cách và tiến tới đuổi kịp các nớc phát triển. Công nghiệp
hoá phải gắn liền với hiện đại hoá

5



Cùng với đó, yêu cầu đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trờng cũng đòi hỏi
chúng ta phải phát triển khoa học và công nghệ. Để chuyển sang nền kinh tế
thị trờng hiện đại từ điểm xuất phát thấp, nớc ta không thể đi theo các bớc
tuần tự nh các nớc đi trớc đã làm, mà phải phát triển theo kiểu nhảy vọt,rút
ngắn. Đây vừa là cơ hội để tận dụng lợi thế của nớc phát triển sau, vừa là
thách thức đòi hỏi phải vợt qua. Muốn phát triển nhanh kinh tế thị trờng theo
cách thức nh vậy, nhất thiết phải đẩy mạnh phát triển khoa học- công nghệ.
Đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ đối với nớc ta không chỉ bắt
nguồn từ đòi hỏi bức xúc của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và quá trình phát triển kinh tế thị trờng, mà còn bắt nguồn từ yêu cầu phát
triển đất nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Phát triển theo định hớng xã
hội chủ nghĩa, về bản chất, là một kiểu định hớng tổ chức nền kinh tế- xã hội
vừa dựa trên nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trờng, vừa dựa trên nguyên
tắc và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Định hớng này không chỉ đòi hỏi nền
kinh tế tăng trởng ở mức cao mà còn đòi hỏi phải xây dựng một xã hội công
bằng, dân chủ và văn minh.ở đó, phát triển con ngời và phát triển xã hội bền
vững đợc coi là trung tâm. Đâu là con đờng phát triển chacó tiền lệ. Muốn đạt
tới đó, chúng ta phải có nỗ lực và sáng tạo rất cao, phải biết vận dụng những
thành tựu mới nhất của nhân loại, tránh những sai lầm mà các nớc khác đã vấp
phải. Nếu không đủ trình độ trí tuệ, không đủ năng lực nội sinh thì khó có thể
thành công. Do vậy, đẩy mạnh phát triển khoa học và kỹ thuật càng trở nên rất
quan trọng và bức thiết.
2.Về hớng tác động của KH- CN
a. Tập trung nỗ lực tiến hành cải tạo, đồng bộ, hoá và hiện đại hoá có
chọn lọc các cơ sở sản xuất hiện có
Tuy cơ sở vật chất- kỹ thuật có của nớc ta còn nhỏ bé, trình độ công nghệ,
kỹ thuật vào loại lạc hậu, hệ số sử dụng thiết bị và công suất còn thấp. Bởi vậy,
nguồn dự trữ còn khá lớn và dới nhiều góc độ, đây thật sự đang là nguồn vốn
quý của đất nớc và phải bắt đầu từ đây để đi lên

b. Chủ động sử dụng có chọn lọc một số hớng công nghệ tiên tiến phù hợp
với thế mạnh của đất nớc nhằm chuẩn bị điều kiện phát triển các ngành có
hàm lợng công nghệ cao

6


ở nớc ta, cùng với việc tập trung nỗ lực KH- CN khai thác có hiệu quả cơ
sở vật chất- kỹ thuật hiện có, cũng cần phải chăm lo, dành một số phần tiềm
lực d lớn cho việc thử nghiệm, lựa chọn một sồ hớng công nghệ cao phù hợp
để một mặt, hỗ trợ cho việc giải quyết có hiệu quả hơn, mặt khác thúc đẩy
việc hình thành một số lĩnh vực sản xuất công nghệ cao với quy mô phù hợp
để tạo ta các sản phẩm thay thế nhập và tạo chỗ đứng trên thị trờng quốc tế.
Trong số những hớng công nghệ cao, cần quan tâm đầy đủ tới khâu tin học
hoá một số lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội. Cần có quyết tâm trong việc đầu
t phát triển một số lĩnh vực sản xuất gắn với các hơng u tiên của chơng trình
tổng hợp tiến bộ KH- CN. Đó là dịp tốt để VN tham gia vào phân công lao
động quốc tế về một số sản phẩm có hàm lợng khoa học cao
c. Thúc đẩy việc nâng cao trình độ kỹ thuật và công nghệ của các xí nghiệp
nhỏ, của khu vực tiểu thủ công nghệp cả ở thành thị và nông thôn.
Kinh nghiệm thực tiễn chỉ ra rằng để có thể thực hiện có hiệu quả chiếm
lợc này, việc nhanh chóng khắc phục sự lạc hậu về công nghệ, sự yêú kém về
năng lực quản lý, sự thiếu hụt về lực lợng lao động có kỹ thuật là yêu cầu bức
bách phải giải quyết .Bởi vậy việc giành một phần nỗ lực đủ mạnh hớng vào
việc giải quyết các nhu cầu khoa học và công nghệ phục vụ phát triển công
nghiệp nông thôn có tầm quan trọng đặc biệt
Những phân tích nêu trên đã tới gợi ý quan trọng là chiến lợc phát triển
khoa học và kỹ thuật không thể không quan tâm đến việc nâng cao trình độ kỹ
thuật và công nghệ ,cải tiến .. và nên coi đây là một hớng có ý nghĩa chiến lợc
cả trớc mắt và lâu dài .

d.Kết hợp hữu cơ việc tập trung nỗ lực giải quyết các vấn đề trớc mắt và tiếp
tục tăng cờng tiềm lực khoa học và kỹ thuật nhằm đáp ứng những yêu cầu
mới của giai đoạn phát triển tiếp theo
3. Vai trò của KH- CN đối với một số lĩnh vực
a.
Với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn và phát
triển nông thôn
Gần 15 năm qua sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã đạt đợc
những thành tựu to lớn góp phần quan trọng ổn định và phát triển kinh tế xã
7


hội đa nớc ta bớc sang giai đoạn mới đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá
đất nớc.Tuy nhiên cho đến nay với gần 80% dân số của cả nớc sống ở nông
thôn, trong đó tỷ lệ đói nghèo vẫn còn trên 17%, có nơi nh ở một số huyện
miền núi còn trên 35%. Mặt khác cũng do nền kinh tế nớc ta mới bớc đầu
chuyển từ nền sản xuất theo cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh
tế thị trờng định hớng XHCN nên năng suất, chất lợng và sức cạnh tranh của
nông sản, hàng hoá còn rất thấp so với nhiều nớc trong khu vực và thế giới.
Điều đó làm cho thu nhập và tích luỹ của đại bộ phận dân c nông thôn còn bấp
bênh, sức mua có khả năng thanh toán về t liệu sản xuất và t liệu tiêu dùng
đều rất hạn chế, gây ảnh hởng lớn đến sự chuyển dịch cơ cấu của toàn bộ nền
kinh tế, đồng thời gây cản trở việc, phát triển công nghiệp và dịch vụ trên địa
bàn nông thôn
So với các giải pháp khác, thì giải pháp về khoa học và công nghệ yêu cầu
vốn đầu t không quá lớn mà đem lại hiệu quả cao. Theo đánh giá chung, trong
nông nghiệp ớc tính 1/3 giá trị tăng của sản xuất lơng thực thời gian vừa qua là
do ngời dân tiếp thu, ứng dụng các tiến bộ khoa học và kỹ thuật mới vào sản
xuất
Tuy nhiên, tiềm lực về KH- CN của nớc ta cha đợc phát huy đầy đủ cho sự

nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nhiều vấn đề bức xúc của sản xuất
nông nghiệp và kinh tế nông thôn đặt ra đối với các lực lợng KH- CN đến nay
cha giải quyết đợc, trong đó đáng lu ý hơn cả là :
- Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là nội dung quan
trọng trong quá trình thực hiên CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, mà sự
chuyển đổi đó phụ thuộc vào việc tổ chức áp dụng thành tựu KH- CN vào sản
xuất và các chính sách thúc đẩy phát triển sản xuất. Chỉ trên cơ sở có đủ giống
tốt và các tiến bộ kỹ thuật khác, kết hợp với việc phát triển các quan hệ thị trờng đúng hớng mới có thể chuyển cơ cấu sản xuất nông nghiệp từ thuần nông,
độc canh sang đa dạng hoá cây trồng. Hiện nay việc chuyển đổi kinh tế nông
thôn từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ mới chỉ xuất hiện ở một số ven
vùng có cơ sở hạ tầng kỹ thuật, có trình độ dân trí cao, có khả năng tiếp thu
các tiến bộ kỹ thuật
-Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng nông, lâm, thuỷ sản hàng năm tuy
chiếm gần 40% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nớc, nhng nhìn
chung, năng suất, chất lợng và sức cạnh tranh của nông sản hàng hoá còn thấp
so với các nớc trong khu vực và trên thế giới, khiến cho các sản phẩm làm ra
8


tiêu thụ khó khăn, ảnh hởng bất lợi đến thu nhập của ngời sản xuất. KH-CN
cha có sự tác động cần thiết và hiệu quả bản đảm tính ổn định, bền vững của
nông sản hàng hoá khi gặp phải rủi ro của thiên tai và thị trờng
- Phát triển công nghệ chế biến là nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình thực
hiện CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn, nhng phát triển công nghiệp, chế
biến nh thế nào lại là vấn đề bức xúc đang đòi hỏi nghiên cứu và làm rõ
- Gần đây, Nhà nớc tiếp tục tăng cờng đầu t xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật cho nông nghiệp, nông thôn. Hiện có rất nhiều vấn đề về kỹ thuật để bảo
đảm hiệu quả vốn đầu t của nhà nớc cha đợc giải quyết tốt. Do đó, nông
nghiệp, nông thôn đang rất cần có sự tác động của lực lợng KH- CN
Tình hình trên khẳng định vai trò của KH- CN trong quá trình thực hiện

CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nớc ta hiện nay và đó cũng chính là
những yêu cầu bức xúc đặt ra đối với các nhà khoa học vì sự phát triển của
nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, để huy động đợc các lực lợng KH- CN
phục vụ nông nghiệp, nông thôn, chú ý các vấn đề về tổ chức bộ máy, cơ chế
vận hành và các chính sách tác động, trong đó cốt lõi là giải quyết hợp lý lợi
ích cho ngời làm nghiên cứu, triển khai các thành tựu của KH- CN
Việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật, công nghệ, áp dụng các tiến bộ kỹ
thuật phục vụ kinh tế nông nghiệp và nông thôn là một việc làm hiệu quả, đã
khẳng định vai trò, động lực chủ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp và chuyển
đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, cần tổ chức, vận động thành phong trào rộng lớn
đa KH- CN về phục vụ CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn nhằm tạo ra bớc chuyển biến rõ rệt về năng suất chất lợng, hiệu quả và sức cạnh tranh của
nông sản hàng hoá, chủ động hội nhập cới khu vực và quốc tế, góp phần
chuyển đổi nhanh cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn thực hiện đa dạng
hoá cây trồng vật nuôi để có cơ sở lựa chọn, nhân giống các sản phẩm có u thế
ở từng vùng, từng địa phơng, phát triển công nghiệp, công nghệ chế biến, ứng
dụng các công nghệ sau thu hoạch nhằm hạn chế tổn thất, duy trì chất lợng
nông sản, khai thác các tiềm năng cha phát huy hết, tăng cờng luận cứ khoa
học để bảo đảm hiệu quả đầu t cho khu vực nông nghiệp và nông thôn.
b.

Mối quan hệ giữa KH- CN với sản xuất vật chất

Khoa học có nguồn gốc, bản chất, chức năng sứ mạng từ đời sống thực tiễn
của xã hội, con ngời. Nó không phải là bản thân công cụ lao động và sức lao
9


động, nhng cũng không nằm ngoài thành tố quan trọng nhất là lực lợng sản
xuất. Nó không thay thế, nhng nó có thể làm thay đổi mạnh mẽ, nhanh chóng
tính năng hiệu lực của công cụ lao động, sức lao động và do đó, phơng thức

con ngời tác động đến giới tự nhiên theo chiều hớng ngày càng tăng cờng sức
mạnh, vai trò và tự do của con ngời trớc thiên nhiên. Tuy nhiên, với tính cách
là sản phẩm, giá trị đã đợc sáng tạo ra, đã có sẵn, thì khoa học không còn là
kết quả, mà lại dóng vai trò nh một trong những nguyên nhân, động lực bên
trong, trực tiếp thúc đẩy mạnh nhất sự phát triển lực lợng sản xuất
Trong điều kiện thông tin hoá , toàn cầu hoá của đời sống xã hội và
kinh tế thế giới ngày nay, nhiều thành tựu của cuộc cách mạng KH- CN có thể
đợc chuyển giao tiếp nhận tơng đối nhanh chóng, dễ dàng, tạo ra cơ hội khách
quan thuận lợi cho sự phát triển đột biến, nhảy vọt và bứt phá về kinh tế ở
những dân tộc, quốc gia, hay khu vực nhất định trong những thời điểm, thời
kỳ hay giai đoạn nhất định. Nhng để tranh thủ tân dụng và phát huy đợc hết
tiềm năng của cơ hội bên ngoài này thì điều kiện tất yếu và tối thiểu là ở bên
trong phải chuẩn bị xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và bồi dỡng nhân tố con
ngời lao động ở một nức độ tơng ứng, thích đáng. Kinh nghiệm thế giới về
việc giải quyết mối quan hệ con ngời- t kiệu sản xuất- khoa học một cách
cân đối, hài hoà để tạo ra hiệu quả tổng hợp tối đa và tối u về kỹ thuật là khá
toàn diện và
phong phú
Việc xây dựng rõ vị trí tơng quan vai trò và ảnh hởng của KH- CN trong hệ
thống các thành tố lực lợng sản xuất nh trên đã đồng thời làm sáng tỏ giới hạn
tác động của nó về mặt xã hội. Sự phát triển của khoa học không trực tiếp dẫn
tới sự thay đổi quan hệ sản xuất và chế độ sở hữu. Trái lại, vai trò cách mạng
hoá của khoa học đối với việc thúc đẩy sự tăng trởng của lực lợng sản xuất
lại bị chế ớc bởi một quan hệ sản xuất và kiến trúc thợng tầng xã hội nhất
định. Nói cách khác, tiềm năng thúc đẩy lực lợng sản xuất phát triển của khoa
học là vô tận, nhng mức độ, giới hạn hiện thực hoá tiềm năng này lại phụ
thuộc khuôn khổ của quan hệ sản xuất thống trị
Tuy nhiên, sự phát triển nh vũ bão của cách mạng KH- CN hiện đại đang
diễn ra từng ngày, từng giờ ở khắp mọi nơi trên thế giới đã có tác dụng cụ thể.
Sức tiến công vũ bão của phong trào giải phong dân tộc, giai cấp t sản đã chủ

động ra sức đẩy mạnh cuộc cách mạng KH- KT, sử dụng các thành quả của nó
để phát triển lực lợng sản xuất, phát triển kinh tế một cách thành công
10


Tuy không lạc quan đến mức vội vã và ngộ nhận mà cho rằng, cuộc cách
mạng KH- CN hiện đại sẽ tự động và trực tiếp đa ngay đến một xã hội thực sự
là hậu TBCN , nhng chúng ta vẫn có thể ghi nhận những thành tựu lớn lao
của cuộc cách mạng này và có đủ cơ sở để tin tởng rằng, những thành tựu ấy
trong hôm qua, hôm nay và ngày mai đều góp phần thiết thực thúc đẩy CNTB
đi nhanh hơn tới điểm kết thúc không thể tránh khỏi.
c.
Khoa học công nghệ đã nhanh chóng trở thành lực lợng sản xuất
trực tiếp ở nớc ta
Việc khoa học trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp là dự đoán thiên tài của
C.Mác. Dựa trên cơ sở phân tích rõ vai trò của khoa học trong sự phát triển
của công nghiêp, ông đã kết luận : Việc biến khoa học thành lực lợng sản xuất
trực tiếp là một quy luật khách quan của sự phát triển xã hội. Ngày nay dự
đoán ấy đang trở thành hiện thực trong nhiều nớc công nghiệp phát triển
Khoa học là một hệ thống tri thức đợc tích luỹ trong quá trình lịch sử và đợc thực tiễn kiểm nghiệm, phản ánh những quy kuật khách quan của thế giới
bên ngoài cũng nh hoạt động tinh thần của con ngời, giúp con ngời có năng
lực cải tạo thế giới
Nh vậy, khoa học là văn hoá biết, còn sản xuất, kỹ thuật, công nghệ là
văn hóa làm . Từ biết đến làm có một khoảng nhất định nhng không hề
có bức tờng nào ngăn cản tuyệt đối cả. Khoảng cách ấy có thể bị rút ngắn và
đợc rút ngắn đến đâu là tuỳ thuộc ở trình độ phát triển của lực lợng sản xuất,
của kỹ thuật, công nghệ và khoa học
Khoa học là kết quả nghiên cứu của quá trình hoạt động thực tiễn, nhng
đến lợt mình nó lại có vai trò to lớn tác động mạnh mẽ trở lại hoạt động sản
xuất. Do đó con ngời hoàn toàn có khả năng biến khoa học thành lực lợng sản

xuất trực tiếp.
Trong thực tế, sự phát triển của khoa học đã giúp con ngời tăng cờng sức
mạnh trong quá trình chinh phục tự nhiên, sử dụng có hiệu quả những sức
mạnh của nó. Nếu không có sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, làm sao con
ngời có thể tạo ta năng lợng hạt nhân, phóng tàu vũ trụ lên thám hiểm các
hành tinh, hay sản xuất ra máy tính điện tử và ngời máy công nghiệp thay thế
nhiều hoạt động phức tạp của mình.

11


Khi còn ở trình độ thấp, khoa học tác động tới kỹ thuật và sản xuất còn rất
yếu, nhng đã phát triển đến trình độ cao nh ngày nay thì nó tác động mạnh mẽ
và trực tiếp tới sản xuất. Kỹ thuật và công nghệ là kết quả sự vận dụng những
hiểu biết, tri thức khoa học của con ngời để sáng tạo, cải biến các công cụ, phơng tiện phục vụ cho hoạt động sản xuất và các hoạt động khác của xã hội.
Khoa học trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp thì dứt khoát phải gắn liền với
kỹ thuật và công nghệ. Song nh thế cha đủ. Khoa học còn phải đợc ngời lai
động tiếp thu vận dụng để nâng cao kỹ năng, kỹ xảo lao động, phát triển t duy
kinh tế nhanh nhạy, trau dồi đạo đức, lối sống, v..v, mới có thể trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp và mạnh mẽ. Ngời lao động là chủ thể sử dụng các phơng tiện kỹ thuật. Do đó họ không thể sử dụng đợc các phơng tiện hiện đại để
lao động tốt nếu có trình độ học vấn thấp và không đợc đào tạo, hay đào tạo
kém.
Có thể nói, khoa học trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp vì mấy lẽ sau:
1. Nền sản xuất hiện nay đang phát triển mạnh mẽ, ngày càng có tính chất
quốc tế cao, biến động mau lẹ, phức tạp đang đặt ra nhiều vần đề, mà thiếu
khoa học thì không thể giải quyết và phát triển nhanh chóng đợc. Đồng thời
bản thân nền khoa học hiện đại cũng đã phát tiển đến mức có đủ điều kiện để
có thể giải quyết đợc những vấn đề của sản xuất.
2.Ngày nay các máy móc kỹ thuật, công nghệ ngày càng hiện đại, tinh vi
và có hàm lợng trí tuệ cao, thị trờng mở rộng, phong phú, phức tạp và đầu biến
động, hợp tác giao lu nhng cạnh tranh giữa các quốc gia cũng gay gắt. Muốn

sản xuất đạt chất lợng và hiệu quả cao, ngời lao dộng không thể chỉ dừng lại ở
những kinh nghiệm cảm tính, mà còn rất cần có nhiều tri thức khoa học, kỹ
thuật và kinh tế. Mặt khác, khoa học phải đợc con ngời vận dụng vào hoạt
đông thực tiễn sản xuất, hình thành nên những thao tác công nghệ, kỹ năng,
hợp thành năng lực sáng tạo mới trở thành một lực lợng vật chất.
3. Kỹ thuật công nghệ hiện đại phải có khoa học định hớng, dẫn đờng và
làm cơ sở lý thuyết mới có thể phát triển nhanh. Đồng thời các lý thuyết khoa
học phải đợc vật chất hóa thành các phơng tiện kỹ thuật, công nghệ hiện đại
mới tác động trực tiếp tới lực lợng sản xuất.
4.Trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật- công nghệ
hiện đại, thời gian để một lý thuyết khoa học đi vào thực tế sản xuất, trực tiếp
tạo tra sản phẩm hàng hoá đang ngày càng đợc rút ngắn

12


4. Các nguồn lực để phát triển KH- CN
a. Chăm lo phát triển nguồn nhân lực KH- CN
Nhân tố con ngời
Nhân tố con ngời, đã và đang là điều kiện quyết định trong sự nghiệp phát
triển KH- CN của nớc ta. Thành công của chúng ta là ở chỗ đã tạo ta một lực
lợng cán bộ KH- CN ban đầu tơng đối đông đảo. Mặt khác, chính lĩnh vực này
cũng là nơi đang đặt ta những vấn đề bức thiết, mà việc giải quyết chúng, về
thực chất, sẽ quyết định tính hiện thực của những bớc tiếp theo
Đối với KH- CN vấn đề không chỉ là những nhà khoa học, các kỹ s, kỹ
thuật viên với nghề nghiệp chính thức của họ là làm công tác KH- CN, mà trớc hết phải nói đến cả phong trào quần chúng nhân dân đang tham dự vào hoạt
đông công nghệ trong sản xuất xã hội. Bất cứ hoạt động gì trong thực tiễn đời
sống và sản xuất đều có quan hệ tới KH- CN.
Yếu tố quan trọng hàng đầu cho tiến bộ khoa và công nghệ là phải tạo ra
một mội trờng xã hội thuận lợi cho khoa học và công nghệ phát triển. ở một

mức độ đáng kể, môi trờng đó đợc tạo nên bởi nhận thức của con ngời ở mọi
tầng lớp xã hội về vai trò của khoa học và công nghệ
Thấy đợc ý nghĩa của môi trờng khoa học và công nghệ dân chúng là để từ
đó cần chú trọng các biện pháp tác động về mọi mặt : giáo dục, đào tạo, tuyên
truyền, phổ biến, kích thích kinh tế và các biện pháp khác
Đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học
Đào tạo là khâu đầu tiên của một chu trình hình thành và sử dụng nguồn
nhân lực quốc gia về mặt khoa học và công nghệ. Nói đến đào tạo đối với
nguồn nhân lực này trớc hết phải kể đến toàn bộ hệ thống giáp dục các cấp, từ
phổ thông cơ sở, phổ thông trung học, giáo dục chuyên nghiệp đến đại học và
trên đại học.
Tuy nhiên, so với yêu cầu chuẩn bị cán bộ khoa học và công nghệ để đẩy
mạnh công nghệ hoá trong giai đoạn sắp tới thì đội ngũ cán bộ ấy vẫn thiếu về
số lợng và yếu về chất lợng. Không thể vì một số khó khăn trớc mắt mà hạn
chế qui mô và tốc độ đào tạo. Con ngời luôn luôn là vốn quý nhất và đào tạo

13


nhân lực lao động khoa học là vấn đề chiến lợc trọng yếu mà bất cứ nớc nào
muốn phát triển thành công cũng đều phải hết sức quan tâm
Hệ thống giáo dục phổ thông, khâu đầu của đào tạo khoa học và công
nghệ của chúng ta hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn. Và hệ thống giáo
dục đại học và chuyên nghiệp còn nhỏ bé, cha cân đối với các bậc học trong
hệ thống giáo dục quốc dân. Về cơ bản, cách giáo dục của ta còn nặng về
trang bị kiến thức, nặng về lý thuyết, nhẹ về bồi dỡng kỹ năng thực hành, ít
chú trọng phơng pháp tự đào tạo trong hoạt động thực tiễn. Đó cũng là nhợc
điểm phổ biến của hệ thống giáo dục của nhiển nớc xã hội chủ nghĩa mà một
bộ phận quan trọng cán bộ khoa học và công nghệ của chúng ta đã đợc đào
tạo qua .

Chúng ta không thể vừa lòng với tình trạng sử dụng cán bộ khoa học và
công nghệ không bình thờng nh hiện nay và càng không thể định con đờng
phát triển của ngành đào tạo đại học,mà không tính đến bớc phát mạnh mẽ
của nớc ta sau này. Dù có những khó khăn tạm thời ngày hôm nay, chúng ta
vẫn phải ra sức mở rộng quy mô và tốc độ đào tạo nhân lực nhân lực khoa học
và công nghệ cho những thập kỷ sắp tới. Đào tạo con ngời, nh kinh nghiệm
cho thấy không bao giờ là thừa đối với một nớc đang phát triển nh nớc ta.
Vấn đề sử dụng cán bộ khoa học- công nghệ
Nếu ngời cán bộ đợc sử dụng tốt, trong quá trình làm việc sẽ diễn ra sự
hiện đại hóa,đổi mới kiến thức do đào tạo trớc đó, sẽ không có sự hao mòn vô
hình và cán bộ khoa học, công nghệ đó sẽ trởng thành, phát triển với đà tiến
bộ chung.
Bức tranh sẽ hoàn toàn ngợc lại khi nhân viên đợc đào tạo ra không đợc sử
dụng kiến thức nghề nghiệp của mình một cách thoả đáng. Khối lợng kiến
thức ban đầu sẽ không có cơ hội trau dồi và hiện đại hoá, không đợc bổ xung
những nhân tố mới, giá trị sử dụng ngày càng kém đi. Nó sẽ bị sói mòn với tốc
độ cực kỳ nhanh chóng.
Từ đây phải thờng xuyên đánh giá lại năng lực đã có, không thể coi năng
lợng khoa học- công nghệ là bất biến.Sử dụng là tiền đề và điều kiện tiên
quyết cho phát triển nhân lực khoa học- công nghệ. Tiềm lực cán bộ chỉ có thể
phát triển trong điều kiện đợc phát huy năng lực của mình một cách thoả
đáng.

14


Không ít trờng hợp sự đánh gía tiềm lực khoa học- công nghệ của đất nớc
ta hiện nay tỏ ra lạc quan, khi chỉ nhìn vào số lợng cơ cấu, trình độ đào tạo
ban đầu của đội ngũ cán bộ. Chúng ta hầu nh đã có đủ tất cả các ngành nghề
với số lợng khá đông cho một nền kinh tế nh nớc ta. Song nhiều lĩnh vực

chúng ta không thể huy động đợc lực lợng cần thiết, mặc dù, trên danh nghĩa,
chuyên ngành nào đó đã có một đội ngũ cán bộ đợc đào tạo không nhỏ. Nh
vậy, năng lực thực tế kém xa năng lực trên danh nghĩa.
Nh vậy nếu đào tạo không đi đôi với sử dụng và phát huy trình độ đã có thì
không làm tăng thêm tiềm lực khoa học- công nghệ của đất nớc, trái lại còn có
thể giảm sút so với tích tụ ban đầu của nguồn nhân lực.
b. Bảo đảm nguồn vốn cho sự phát triển KH- CN
Bên cạnh nhân lực thì vốn là điều kiện quan trọng cho phát triển khoa họccông nghệ. Muốn cho sự nhiệp công nghiệp hoá, hiện đai hoá đợc tiến hành
với tốc độ nhanh cần phải có cơ chế, chính sách và biện pháp huy động đợc
nguồn vốn nhiều nhất, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả nhất.
Vấn đề huy động vốn cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá có ý
nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế nớc ta. Song song với việc huy động các
nguồn vốn, vấn đề sử dụng, bảo toàn và phát triển vốn cũng có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng. Yêu cầu bảo toàn vốn đợc thể hiện trớc hết trong công tác tổ chức
tài chính, có nghĩa là phải lựa chọn các phơng án tối u trong tạo nguồn tài
chính. Sự cần thiết của chế độ bảo toàn và phát triển vốn trớc hết xuất phát từ
yêu cầu của cơ chế quản lý kinh tế mới, phải hoạch toán kinh tế kinh doanh,
xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phải đảm
bảo tính hiệu quả kinh tế cao. Vì vậy, để quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và dản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao, để nền kinh tế phát triển
bền vững, tất yếu phải bảo toàn và phát triển vốn, phải nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn
III Thực trạng KH- CN Việt Nam

1.

Thành công

KH- CN đã tập trung vào sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ
môi trờng. Đã áp dụng các công nghệ và phơng pháp nghiên cứu tiên tiến :

viễn thám, địa vật lý vào công tác điều tra, thăm dò tài nguyên thiên nhiên.
Nhiều kết quả nghiên cứu môi trờng đợc đánh giá cao : nghiên cứu chính sánh

15


và biện pháp bảo vệ sự đa dạng sinh học, cân bằng sinh thái và xử lý ô nhiễm
nớc, không khí ở các khu công nghiệp tập trung, các thành phố lớn các biện
pháp trồng rừng, chống suy thái đất, cải tạo đất
KH- CN đã chú ý phát triển các ngành khoa học tự nhiên và công nghệ
cao. Nhiều thành tựu toán học, cơ học, vất lý của ta đợc đánh giá cả ở nớc
ngoài. Công nghệ thông tin đã phát triển và mở rộng ứng dụng trong hệ thống
ngân hàng, quản lý hành chính, sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, công nghệ
chế tạo vật hiệu mới, công nghệ sinh học, tự động hoá đã từng bớc đợc quan
tâm. Trong nông nghiệp. Nhờ áp dụng những tiến bộ KH- CN về giống cây
trồng, quy trình kỹ thuật thâm canh và chuyển đổi cơ cấu mùa vụ, chúng ta đã
tuyển chọn, lai tạo hàng chục giống lúa mới, phù hợp các vùng sinh thái khác
nhau, tạo mức tăng trởng quan trọng. Nghiên cứu và tạo nhiều loại giống gia
súc, gia cầm, có giá trị kinh tế cao, thúc đẩy chăn nuôi phát triển. Hơn 10 năm
qua, năng suất lúa bình quân đã tăng hơn 2 lần. Tổng sản lợng lơng thực 1998
đạt hơn 31 triệu tấn. Nhiều loại phân vi sinh, thuốc trừ sâu vi sinh, chất kích
thích tăng trởng thực vật đã đợc sử dụng vào sản xuất, bảo vệ, phát triển các
loại cây lơng thực. Cơ cấu cây trồng đã đợc thay đổi cơ bản. Trớc năm 1989,
từ chỗ còn thiếu lơng thực, Việt Nam đã trở thành nớc xuất khẩu gạo đéng thứ
3 thế giới, sau Thái Lan, Mỹ.
Về thuỷ sản, nhờ áp dụng kỹ thuật mới, nhiều năm nay, nuôi ba ba, sinh
sản đã thành nghề giàu có ở nông thôn. Đặc biệt, kỹ thuật nuôi tôm đã đợc
ứng dụng khắp nơi, tạo công ăn việc làm cho 350.000 ng dân ven biển góp
phần cải thiện và tăng kim ngạch xuất khẩu của ngành thuỷ sản, năm 1993 đạt
368 triệu USD, 1994 : 551,2 triệu, 1996 : 670 triệu, 1997 : 750 triệu và 2000 :

1000 triệu, tăng kơn 10 lần so với 1980. Việc nuôi trồng hải sản đã có sự đầu
t khoa học thích đáng trong việc tận dụng mặt nớc ao, hồ, nớc biển, nớc lợ, kết
hợp sản xuất nông nghiệp với nuôi tôm cá, phát triển nuôi trồng với giữ gìn
môi trờng, môi sinh, nuôi xen ghép, quảng canh, chọn giống tốt toàn ngành
hiện có 59 cơ sở đủ tiêu chuẩn sản xuất hàng xuất khẩu
Trong công nghiệp, hàng loạt kỹ thuật tiên tiến đợc áp dụng, tạo nhiều sản
phẩm chất lợng cao : hàng may mặc, thuốc lá, đồ nhựa, cao su, đồ điện máy,
điện tử nhất là trong chế tạo máy móc, thiết bị phụ tùng và đổi mới công
nghệ, kinh doanh sản xuất ô tô, xe máy, nhằm giải quyết nguyên vật kiệu,
thiết bị thay thế. Trong công nghiệp đầu khí đội ngũ cán bộ khoa học trong

16


nớc, đã có khả năng tiếp thu và làm chủ công nghệ mới. CN chế biến nônglâm- hải sản cũng đợc đẩy mạnh một bớc
Trong lĩnh vực năng lợng, nhiều công trình, nghiên cứu KH- CN đã tập
trung vào công tác quy hoạch, sử dụng hợp lý các nguồn năng lợng. Đổi mới
CN xây dựng các nhà máy thuỷ điện, nhiệt điện, nghiên cứu các phơng pháp
giảm tổn thất năng lợng trong truyền tải điện và đổi mới CN. Hệ thống năng lợng đã phát triển nhanh chóng : 80% địa bàn xã ở khu vực nông thôn, hơn
50% hộ gia đình đã có điện sử dụng.
Trong giao thông vận tải, KH- CN đã góp phần quan trọng vào việc nâng
cấp và phát triển mạng lới, đờng bộ, đờng sắt, đờng thuỷ, đờng sông đã xây
dựng một số công trình quan trọng bằng việc áp dụng các CN mới : đóng tàu
biển trọng tải 3.000 tấn, công trình hạ tầng cất cánh sân bay Tân Sơn Nhất,
thắng thầu nhiều công trình giao thông ở Lào, Campuchia với việc áp dụng
CN mới trong gia cố nền móng và thi công mặt đờng.
Trong viễn thông, đã xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng thông tin hiện đại
bằng việc áp dụng kỹ thuật số, thông tin vệ tinh, cáp sợi quang đủ mạnh để
hoà nhập mạng thông tin quốc tế và khu vực. Viễn thông nớc ta hiện đợc xếp
vào một trong những nớc có tốc độ phát triển nhanh nhất thế giới. Bên cạnh

mạng lới hữu tuyến điện phát triển rộng khắp với các loại hình dịch vụ đa
dạng, các hệ thống thông tin di động, máy sóng ngắn, cực ngắn, cũng phát
triển mạnh, đợc các tổ chức kinh tế, cơ quan trong và ngoài nớc sử dụng. Thị
trờng tin học nớc ta những năm qua, có tốc độ tăng trởng trung bình hằng năm
khoảng 40-50%. Hiện các cơ quan Đảng, chính phủ đang sử dụng hàng vạn
chiếc máy vi tính, trong đó lu giữ nhiều thông tin, số liệu bí mật quan trọng.
Liên quan đến kinh tế, quốc phòng và an ninh quốc gia. Trên đà ấy, việc sử
dụng máy vi tính ở nớc ta bắt đầu chuyển từ giai đoạn sử dụng riêng lẻ, sang
hình thức sử dụng mạng cục bộ và mạng diện rộng
Trong y tế, hàng loạt các thành tựu chăm sóc sức khoẻ ban đầu, miễn dịch
học, cắt giảm, tỷ lệ mắc các chứng bệnh nguy hiểm : lao, phong, sốt rét, ho gà,
bại liệt, sởi Kết hợp y học truyển thống với y học hiện đại, sản xuất nhiều
mặt hàng thuốc mới. Nâng cao trình độ trong phòng và chuẩn đoán bệnh, ngăn
ngừa bệnh truyền nhiễm : viêm gan, viêm não Nhật Bản
Đến nay nớc ta đã có đội ngũ cán bộ KH- CN hơn 800.000 ngời trình độ đại
hoc, 8.775 phó tiến sĩ- tiến sĩ, gần 3.000 giáo s- phó giáo s, hơn 45.000 cán bộ
nghiên cứu triển khai thuộc hơn 300 viện nghiên cứu- trung tâm và hơn
17


20.000 nhà khoa học vừa nghiên cứu, vừa giảng dạy trong 105 trờng đại học,
cao đẳng, hơn 80 cơ sở đào tạo sau đại học. Đây thực sự là một vốn quý cho
sự nghiệp CNH, HĐH, đợc đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau .
2. Hạn chế
Đầu t cho khoa học công nghệ còn ở mức thấp
Việt Nam cha có chính sách khoa học dông nghệ nhất quán thể hiện bằng
hệ thống pháp luật nh các quốc gia khác. Thời gian qua Đảng và Nhà nớc đã
có nhiều cố gắng tạo nguồn tài chính để đầu t cho khoa học và công nghệ nhng cha thể đáp ứng đợc nhu cầu phát triển. Theo số liệu thống kê từ năm 1965
đến nay, mức đầu t tài chính từ ngân sách nhà nớc dành cho hoạt đông nghiên
cứu và triển khai chiếm từ 0,2% đến 0,82% thu nhập quốc dân. Trong 10 năm

đổi mới, nớc ta đạt đợc những thành tựu kinh tế đáng mừng, tổng kinh phí đầu
t cho khoa học và công nghệ đợc nâng lên dần, nhng do giá cả hàng hóa tăng
cho nên giá trị thực tế của vốn đầu t không tăng. Theo số liệu của Bộ KH- CN
và môi trờng thì đầu t tài chính cho kha học công nghệ cha vợt quá 1% ngân
sách tiêu dùng hằng năm. Chi phí bình quân hằng năm cho một cán bộ khoa
học công nghệ từ ngân sách nhà nớc khoảng 1.000 USD, rất thấp so với mức
bình quân của thế giới hiện là 55.324 USD và kếm các nớc trong khu vực châu
á . Mức đầu t thấp nhng lại phân tán và không ít trờng hợp sử dụng lãng phí.
Tuy Đảng và Nhà nớc đã có nhiều chủ trơng, nghị quyết sáng suốt, nhấn mạnh
vai trò của khoa học công nghệ và coi trọng nó không kém gì các quốc gia
khác trên thế giới, nhng mức đầu t cho khoa học vẫn rất thấp. Có 2 khả năng
lý giải tình hình trên. Thứ nhất, nếu huy động gấp đôi vốn cho nghiên cứu
khoa học và công nghệ thì việc nghiên cứu khoa học có mang lại hiệu quả
thiết thực hay không trong khi trình độ quản lý khoa học hiện tại còn yếu
kém. Thứ hai, ngân sách nhà nớc trong nhiều năm thâm hụt, phải bảo đảm chi
cho nhiều ngành cũng quan trọng, do đó mức đầu t kinh phí cho khoa học
nhiều khi lại phụ thuộc vào quan điểm của ngời lãnh đạo và các cơ quan quản
lý của Nhà nớc. Rốt cục quy định trong các văn bản và chỉ thị của Đảng dành
2% ngân sách hằng năm cho hoạt động khoa học và công nghệ vẫn không
thực hiện đợc.
Với mức đầu t nh vậy nên chỗ làm việc chật chội, thiết bị lạc hậu, phòng
thí nghiệm và cụng cụ thí nghiệm thiếu cơ quan khoa học và công nghệ chỉ
có thể hoạt động cầm chừng, chỉ giải quyết những vấn đề trớc mắt mà không
thể tạo ra đợc thành quả khoa học có tầm chiến lợc. Nếu không có các chính
18


sách điều chỉnh, các cơ quan nghiên cứu khoa học chắc chắn sẽ rơi vào tình
trạng tồi tệ hơn, đội ngũ cán bộ nghiên cứu có thể bị chia xẻ và giã từ những
công việc chuyên môn mà lâu nay họ tâm huyết.

Lực lợng cán bộ nòng cốt thiếu và già yếu
Kết quả điều tra 233 cơ quan khoa học công nghệ chủ yếu thuộc trung ơng
cho thấy : trong số 22.313 cán bộ công nhân viên thì số ngời có trình độ trên
đại học là 2.509 ngời, cao đẳng và đại học 11.447 ngời và dới cao đẳng là
8.357
Trong số các cán bộ có trình độ tiến sĩ và phó tiến sĩ chỉ có 15,1% là nữ,
cũng trong số các cán bộ có trình độ học vấn cao này chỉ có 19,9% giữ các
chức vụ lãnh đạo.
So với yêu cầu phát triển thì nhiều ngành còn thiếu lực lợng lao động có
trình độ khoa học- kỹ thuật. Trớc tình hình mở cửa nhiều công ty có vốn đầu t
nớc ngoài, công ty t nhân đã thu hút số lợng đáng kể lao động có trình độ
chuyên môn cao từ các cơ quan khoa học công nghệ của nhà nớc. ở tất cả các
đối tợng lao động, số trờng hợp ra đi nhiều hơn số trờng hợp đến, đặc biệt với
số cán bộ khoa học có học vị cao, số ra đi vợt hẳn số đến.
Tuổi trung bình của cán bộ khoa học có học vị, học hàm khá cao. Bình
quân chung là 57,2 tuổi trong đó giáo s là 59,5 tuổi và phó giáp s là 56,4 tuổi.
Số cán bộ cán học vị, học hàm cao ở tuổi 50 chỉ chiếm 12% trong khi đó tuổi
từ 56 trở lên là 65,7%, riêng giáo s chiếm tới 77,4% và phó giáo s chiếm 62%.
Khi phân chia theo lứa tuổi các cán bộ khoa học công nghệ có học hàm thì
phần đông giáo s có tuổi trên 60 và phó giáo s có tuổi từ 56 đến 60. Khi một
bộ phận lớn các cán bộ khoa học chủ chốt đang về già và sẽ không có khả
năng làm việc thì đội ngũ cán bộ trẻ thay thế lại cha đợc chuẩn bị bồi dỡng
đào tạo. Hẫng hụt đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ đầu ngành sẽ diễn ra
trong tơng lai rất gần.
Sự phân bố lực lợng lao động khoa học không hợp lý
Có thể nói sự phân bố lực lợng lao động mất cân đối giữa các ngành, các
khu vực giữa các vùng, giữa các thành phần kinh tế đã gây ra hậu quả xấu cho
quá trình phát triển, càng làm sâu sắc thêm sự chênh lệch và phát triển giữa
các vùng, các ngành.
Một điều mà nhiều ngời nhìn thấy rất rõ là trong nhiều năm, đặc biệt sau

khi chuyển sang kinh tế thị trờng thì các ngành khoa học cơ bản bị xem nhẹ và
19


dờng nh đang bị bỏ rơi. Đó là một cách nhìn rất thiển cận và hậu quả của nó
sau một số năm thấm dần sẽ gây tác hại nghiêm trọng. Khoa học công nghệ là
một hệ thống, cũng nh một nền kinh tế nếu không có hạ tầng cơ sở tốt thì
không thể phát triển đợc. Trong khoa học nếu chỉ coi trọng những ngành ứng
dụng có lãi nhanh mà coi nhẹ khoa học cơ bản rút cục sẽ đa khoa học đến chỗ
bế tắc và không có đủ năng lực tiếp thu làm chủ các lĩnh vực khoa học công
nghệ mới.
Những bất cập giữa KH- CN và hoạt động kinh tế ở VN
Mối quan hệ thống nhất giữa hoạt động khoa học công nghệ và hoạt động
kinh tế là cơ sở quan trọng bảo đảm cho sự phát triển của một quốc gia. Tuy
nhiên, ở VN hiện nay giữa hoạt động khoa học công nghệ và hoạt động kinh
tế lại bộc lộ những bất cập rõ rệt
1. Mặc dù tồn tại số lợng đáng kể các cơ quan nghiên cứu khoa học công
nghệ và dới nhiều dạng thực phong phú, nhng các viện nghiên cứu, các trờng
đại học thờng mạng nặng tính hàn lâm và ít gắn bó hữu ích với các tổ chức
kinh tế. Ngoài mối quan hệ lỏng lẻo giữa cơ quan nghiên cứu và các đơn vị
kinh tế còn một khía cạnh nữa là bản thân hệ thống cơ quan nghiên cứu vẫn
thiếu phơng pháp luận tiếp cận có hiệu quả tới hệ thống kinh tế. ở đây đòi hỏi
sự hợp tác, trao đổi qua lại nhiều vòng giữa các nhà khoa học và đại diện của
các khu vực sản xuất. Các hãng luôn đợc coi nh nhân vật trung tâm của đổi
mới khoa học công nghệ Đáng tiếc phơng pháp này còn xa lạ đối với VN.
Thiếu những định hớng rõ ràng, cụ thể đã làm cho các chơng trình nghiên
cứu khoa học công nghệ trở nên kéo hiệu quả
2. Cơ cấu của đội ngũ hoạt động khoa học công nghệ hiện mất cân đối
đáng kể so với cơ cấu nền kinh tế. Trong các lĩnh vực công nghệ tiên tiến, việc
khắc phục khoảng trống bằng cách chuyển các nhà nghiên cứu khoa học cơ

bản sang cũng cha đáp ứng đợc yêu cầu đòi hỏi tối thiểu.
Mặt khác, sự phân bố của lực lợng khoa học công nghệ không sát với địa
bản hoạt động kinh tế. Trên thực tế, có nhiều vùng kinh tế còn nh vùng trắng
của hoạt động khoa học công nghệ
3.Thực tế đổi mới vừa qua đã xuất hiện một nghịch lý và mở của mang lại sự
khởi sắc cho nền kinh tế thì nó lại làm cho vị thế của các nhà khoa học trong
nớc giảm xuống tơng đối. Một bộ phận không nhỏ đội ngũ các nhà khoa học
công nghệ buộc phải làm thêm nghề khác hoặc đổi hẳn nghề.
20


Sự lão hoá của đội ngũ khoa học cũng lý giải một phần cho hiện tợng này.
Tuổi trung bình của cán bộ khoa học công nghệ làm việc ở các viện nghiên
cứu là 45- 46 tuổi, tuổi trung bình của cán bộ nghiên cứu có trình độ cao vào
khoảng 55 và 60 có thể do nhiều lý do, trong đó một lý do quan trọng là :
coi giai đoạn hiện nay nh là quá độ chuyển đổi từ mô hình nghiên cứu khoa
học công nghệ kiểu cũ sang mô hình nghiên cứu kiểu mới. Đối với lớp trẻ,
hình mẫu các nhà nghiên cứu thế hệ trớc không còn mấy hấp dẫn, họ đang tìm
kiếm những con đờng khác, những phơng thức hoạt động khoa học khác
4. Chúng ta từng hy vọng có thể thông qua hoạt động đầu t nớc ngoài vào
VN để nhận đợc những công nghệ cần thiết tiến hành CNH, HĐH. Tuy nhiên
thực tế diễn ra không nh mong muốn. Trớc hết, luồng đầu t nớc ngoài đang có
xu hớng chững lại sẽ hạn chế khuôn khổ chuyển giao công nghệ. Thứ hai, cơ
cấu đầu t với 18,7% vào khách sạn dụ lịch là một nhân tố góp phần hạn chế
quy mô chuyển giao công nghệ tiên tiến. Thứ ba, ngay trong bản thân lĩnh vực
công nghiệp, các chủ đầu t nớc ngoài dờng nh chẳng hề sốt sắng du nhập các
công nghệ tiên tiến vào VN, thay vào đó, họ chú ý nhiều đến các công nghệ
thế hệ cũ cho phép thu lại lợi nhuận tức thì từ lao động rẻ, môi trờng đầu t dễ
dãi và miền đất đầu t mới mẻ.
3. Nguyên nhân của những thực trạng ấy

Do tỷ lệ cán bộ KH- CN trong các doanh nghiệp còn thấp ; cấu trúc và
phân bố đội ngũ cha hợp lý ; số cán bộ đợc đào tạo về các ngành KH và KT
chỉ chiếm 15,4% trong tổng số đội ngũ cán bộ KH- CN ; sự phân bố cán bộ
KH- CN theo vùng lãnh thổ còn mất cân đối lớn. Đội ngũ cán bộ KH đông nhng cha mạnh
Chất lợng đào tạo cán bộ KH- CN thấp. Về trình độ, cha cập nhật CN và
tri thức hiện đại của thế giới, bị hổng nhiều về CN cao, quản tri kinh doanh,
tiếp thị, ngoại ngữ Đội ngũ cán bộ KH- CN nớc ta có tiềm năng trí tuệ đáng
kể, tiếp thu nhanh tri thức mới, nhng còn thiếu tính liên kết cộng đồng, khó
hợp tác giữa cơ quan và cá nhân, thiếu cán bộ đầu đàn có khả năng tổ chức và
thực hiện những chơng trình nghiên cứu mang tính đột phá cao. Lực lợng
chuyên gia giỏi ở các ngành hiện nay rất mỏng, phần lớn chỉ nắm lý thuyết,
thiếu thực hành. Trớc sức hấp dẫn của các doanh nghiệp và các cơ sở liên
doanh với nớc ngoài, đa số hệ thống cơ quan nghiên cứu- triển khai không giữ
đợc đội ngũ cán bộ trẻ, có năng lực. Nhiều cán bộ KH- CN có kinh nghiệm và
21


trình độ, bỏ chuyên môn làm dịch vụ. Chính sách đối với cán bộ KH- CN
chậm đổi mới, nên không khuyến khích đội ngũ cán bộ làm KH phát huy hết
khả năng của mình trong nghiên cứu. Việc tổ chức sắp xếp lại các cơ quan
KH- CN triển khai chậm.
Có sự mất cân đối lớn trong phân bố theo vùng lãnh thổ mạng lới các cơ
quan nghiên cứu- triển khai. Nhiều cơ quan nghiên cứu có chức năng trùng
lắp, không đồng bộ. Việc sắp xếp và đầu t cho các cơ quan này không theo các
hớng u tiên trọng điểm. Cơ sở vật chất của cơ quan nghiên cứu- triển khai các
trờng đại học, nghèo nàn, lạc hậu : phần lớn đợc xây dựng và trang bị đã trên
30 năm trình độ thiếu bị thua kém ngay cả các cơ sở doanh nghiệp trong nớc.
Đầu t tài chính cho KH- CN từ ngân sách, nhà nớc ở nớc ta, hiện còn thấp.
Do vậy, nền khoa học của ta chỉ giải quyết những vấn đề trớc mắt, cha tạo đợc
kết quả KH lớn, tầm cỡ chiến lợc. Việc sử dụng tài chính cho KH- CN hiện

nay với một cơ chế thờng thúc ép chúng ta rơi vào thế phả chi, chia bị động,.
Số chơng trình và đề tà cấp nhà nớc, cấp bộ còn nhiều và dàn trải so với khả
năng kinh phí hiện có. Nguồn ngoại tệ viện trợ không điều chỉnh đợc trong
phạm vi quản lý nguồn vốn KH- CN, nên hiệu quả còn thấp. Việc huy động
các nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nớc cho hoạt động nông nghiệp gặp nhiều
khó khăn, cha có cơ chế và chính sách đồng bộ để khuyến khích các doanh
nghiệp, các tổ chức t nhân tự nguyện đầu t. Nhiều cơ quan nghiên cứu- triển
khai, hoạt đông KH- CN còn dựa chủ yếu vào ngân sách Nhà nớc. Thực tế trên
đã dẫn đến một nghịch lý: vốn cho KH-CN gần nh duy nhất từ nhà nớc lại bị
phân chia dàn trải.Trong khi đó, một số lĩnh vực cần đầu t thích đáng :giáo
dục y tế bảo vệ môi trờng hoặc những hớng nghiên cứu triển khách quan trọng
mang ý nghĩa chiến lợc lại bị hạn chế do thiếu vốn .Việc thực hiện một phần
vốn trong tổng giá trị dự án đầu t cho công tác nghiên cứu triển khai vẫn cha
đợc thực hiện, do nghiên cứu khoa học công nghệ cha đợc coi là một nội dung
chỉ trong cơ chế quản lý đầu t.Vai trò của khoa học công nghệ cha thể hiện
bằng biện pháp cụ thể về mức đầu t tài chính,chế độ cán bộ, cha tạo lập đợc hệ
thống chính sách thích hợp để thúc đẩy các nhà hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ phảI dựa trên KH- CN và hớng theo nhu cầu của sự phát triển
kinh tế- xã hội.
Sau khi đợc chuyển thành cơ quan quản lý nhà nớc về các hoạt động KHCN, Bộ KH- CN và môI trờng đã từng bớc phát huy vai trò quản lý nhà nớc
trong việc giám sát, kiểm tra các hoạt động KH- CN, quản lý nhà nớc về

22


chuyển giao CN, trình độ CN trong sản xuất và bảo vệ môi trờng. Tuy nhiên,
công tác quản lý cha thể hiện đợc tính đồng bộ, cha gắn kết chặt chẽ với quản
lý kinh tế và xã hội, cha tạo lập thị trờng rộng rãi cho KH- CN. Nhiều công
trình KH khi áp dụng vào sản xuất, còn gặp trở ngại. Bởi sản xuất cha thực sự
có nhu cầu KH. Cạnh đó, nhiều viện nghiên cứu có khả năng đáp ứng nhu cầu

của sản xuất, lại không có đơn đặt hàng. Hiện tợng tách rời gữa KH và sản
xuất còn phổ biến.
Thành tựu KH, các tiến bộ CN, cha đợc áp dụng rộng rãi nên cha tạo
chuyển biến rõ nét về năng suất, chất lợng, hiệu quả trong sản xuất kinh doanh
và dịch vụ. Cha tạo đợc những ngành nghề mới xuất phát từ kết quả của hoạt
động KH- CN. Thị trờng cho KH- CN cha đợc hình thành. Trình độ CN nói
chung còn ở mức thấp. Trong các ngành công nghiệp, hệ thống máy móc thiết
bị hiện tại lạc hậu so với thế giới và hình thành từ nhiều nguồn chắp vá. Mẫu
mã hàng hoá đơn điệu, chất lợng sản phẩm thấp, khả năng cạnh tranh, xuất
khẩu kém. Quy mô dự án còn nhỏ, cha tơng xứng với tầm nhiệm vụ cấp nhà nớc, phần lớn chỉ dừng ở quy mô ngành, địa phơng, hoặc cấp cơ sở, ít có tác
dụng thúc đẩu sản xuất.
Công tác quản lý KH- CN tuy đã đợc đổi mới, nhng cha đồng bộ và hoàn
chỉnh. Cơ chế quản lý các chơng trình trọng đIúm cấp nhà nớc còn nhiều thủ
tục rờm ràc không chặt chẽ, cha bảo đảm tập trung các nguồn lực vào những
mục tiêu chủ yếu. Cơ chế chính sách hiện hành không khuyến khích và bắt
buộc các doanh nghiệp tiến hành nghiên cứu triển khai hoặc có chiến lợc lâu
dàI về đổi mới CN, đổi mới sản phẩm.
IV. Một số giảI pháp

Trớc hết, chúng ta cần đặt lên hàng đầu tính hiệu quả trong công tác
nghiên cứu khoa học, phát triển cân đối cả nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu
ứng dụng, nhng hiện nay cần u tiên tập trung hơn đến nghiên cứu ứng dụng.
Mọi phơng pháp dù mới, dù cũ, nhng nếu nó hớng khoa học vào phục vụ sản
xuất, hiện đạI hó nền kinh tế, nâng cao năng suất lao động và chất lợng sản
phẩm, đối với chung ta lúc này đều là phơng pháp tốt để phát triển khoa học.
Cả hai lĩnh vực này đều phảI nhằm hớng vào giảI quuết những đòi hỏi cấp
bách của sản xuất, kết hợp chặt chẽ với sản xuất. Mặt khác cần đề phòng tác
dụng tiêu cực của việc ứng dụng khoa học vào sản xuất chạy theo lợi nhuận
23



quá đáng đến mức gây ô nhiễm môI trờng và làm cạn kiệt tàI nguyên thiên
nhiên Khoa học có tính độc lập tơng đối trong sự phát triển của nó, luôn đợc
tích luỹ, có tính kế thừa, đợc truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ nớc này
qua nớc khác. Nhờ thế một nớc lạc hậu đI sau có thể đuổi kịp các nớc phát
triển nếu có những chính sách khôn ngoan, biết tiếp thu thành tựu khoa học
của nớc khác và biết vận dụng phù hợp với điều kiện nớc mình. Chúng ta cần
biết tranh thủ tiếp thu những thành tựu khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện
đại của các nớc phát triển bằng mọi cách có thể đợc, nếu việc làm ấy có hiệu
quả cao hơn, dỡ tốn kém hơn đầu t nghiên cứu trong nớc.
Các ngành mũi nhọn nh đIửn tử tin học và các công nghệ cao cấp cần đợc
tập trung u tiên phát triển hơn cả. Vì chính những ngành đó sẽ kéo toàn bộ nền
kinh tế tiến tới trình độ hiện đại, tự động hoá một cách nhanh chóng.
Mục tiêu lâu dài của chúng ta là tiến tới độc lập, tự chủ về khoa về học, kỹ
thuật và công nghệ hiện đại, nhng trong giai đoạn trớc mắt cũng nên đi bắt chớc, mô phỏng, làm thủ để rồi rút kinh nghiệm tiến tới cải tiến và phát minh
công nghệ mới.
Đồng thời chúng ta cần phải tạo vốn cho hoạt động KH- CN. Vốn là nguồn
lực để phát triển khoa học công nghệ. Không có vốn hoặc có nhng thấp hơn
mức cần thiết đều không có điều kiện thực hiện các mục tiêu KH- CN. Kinh
nghiệm ở các nớc cho thấy, vốn để phát triển khoa học- công nghệ thờng đợc
huy động từ hai phía nhà nớc và khu vực doanh nghiệp, trong đó phần nhiều là
từ các doanh nghiệp.
TạI Hội nghị Ban Chấp hành Trung ơng lần thứ hai (khóa VIII), khi một
lần nữa khẳng định công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc phải bằng và dựa
vào khoa học, công nghệ , Đảng ta đã đa ra chính sách đầu t khuyến khích,
hỗ trợ phát triển khoa học và công nghệ, theo đó, một phần vốn ở các doanh
nghiệp đợc dành cho nghiên cứu, đổi mới công nghệ và đào tạo nhân lực. Một
phần vốn từ các chơng trình kinh tế- xã hội và dự án đợc dành để đàu t cho
khoa học- công nghệ nhằm đẩy mạnh việc nghiên cứu- triển khai và đảm bảo
hiệu quả của dự án.

Tạo động lực, tạo vốn cho hoạt động khoa học- công nghệ phải đi đôi với
mở rộng quan hệ quốc tế về khoa học, công nghệ.
Có thể nói, đây là điều kiện rất quan trọng để phát triển khoa học- công
nghệ. Nếu không thực hiện có hiệu quả quan hệ hợp tác và trao đổi quốc tế về

24


nghiên cứu- triển khai thì không thể tiếp nhận đợc khoa học- công nghệ tiên
tiến của nhân loại, không thể tranh thủ nhân tố ngoại sinh hết sức cần thiết
làm biến đổi các nhân tố nội sinh, thúc đẩu năng lực khoa học- công nghệ
quốc gia. Để mở rông quan hệ quốc tế về khoa học- công nghệ, cần đa dạng
hoá phơng thức hợp tác đàu t với nớc ngoài, coi trọng hợp tác nhằm phát triển
các ngành công nghệ cao, u tiên hợp tác đầu t nớc ngoài vào phát triển khoa
học công nghệ, chỉ nhập khẩu và tiếp nhân chuyển giao những công nghệ tiên
tiến phù hợp với khả năng của chúng ta.
Cùng với việc tạo vốn, mở rộng quan hệ quốc tế, cần phải hết sức coi trọng,
tăng nguồn nhân lực khoa học- công nghệ.
Nguồn nhân lực khoa học công nghệ là lực lợng chủ chốt của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và triển khai khoa hoc- công nghệ. Thiếu nguồn lực này thì
không thể nói tới phát triển. Trong thời đại ngày nay, vai trò của nguồn lực
này lạI càng phải đặc biệt coi trọng. Để tăng nguồn lực này, chúng ta cần đẩy
nhanh việc đào tạo các cán bộ khoa học- công nghệ, nhất là cho các ngành
kinh tế trọng yếu và các ngành công nghệ cao, trẻ hoá đội ngũ cán bộ khoa
học- công nghệ trong các cơ sở nghiên cứu, các trờng học và các cơ sở kinh
doanh, đẩy nhanh tôc độ phát triển thị trờng nhân lực khoa học- công nghệ.
Nhà nớc cần tăng cờng phát triển giáo dục, quan tâm đào tạo nhân tài để
trong tơng lai không xa lắm tạo ra đợc một đội ngũ các tri thức giỏi, các nhà
khoa học lớn, các chuyên gia kỹ thuật, công nghệ có tầm cỡ thế giới, nhng cần
sắp xếp lại cho hợp lý, có chính sách thoả đáng để sử dụng có hiệu quả coa

hơn đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật hiện có. Chúng ta phảu làm sao để
những ngời có năng lực, có nhiệt tình và có tính thần trách nhiệm trong hoạt
đông xã hội xây dựng đất nớc có thể sống ổn định vững chắc bằng lợng mà
không phải làm thêm bằng những việc ngoài chuyên môn của mình. Những
chuyên gia giỏi phải có cuộc sống khá giả và sung túc bằng lao động trí tuệ tơng xứng với cống hiến của họ. Nh vậy mới đảm bảo công bằng xã hội và mới
toạ ra động lực trong hoạt đông khoa học sáng tạo.
Quan tâm hơn nữa, u tiên phát triển đội ngũ cán bộ khao học- kỹ thuật là
một việc làm cần thiết, nhng cha đủ làm cho khoa học trở thành lực lợng sản
xuất một cách nhanh chóng. Những tri thức khoa học, kỹ thuật và công nghệ
hiện đại còn phải đợc thâm nhập vào và làm giàu trí tuệ cho tất cả những ngời
lao động, nâng cao năng lực sản xuất của họ. Muốn vậy chúng ta phải tăng c-

25


×