Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG lực CẠNH TRANH của NGÂN HÀNG TMCP sài gòn – hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.62 KB, 80 trang )

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
……………..................

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Đề tài :

GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN – HÀ NỘI

Sinh viên thực hiện

: Lại Ngọc Linh

Lớp

: K45/31.02

Đơn vị thực tập

: Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội

Hà Nội , năm 2011


LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Toàn cầu hóa và khu vực hóa là một xu thế tất yếu trong tiến trình phát
triển kinh tế thế giới. Đối với ngành tài chính ngân hàng, hội nhập kinh tế
quốc tế tạo động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách hệ thống ngân
hàng Việt Nam; mở rộng cơ hội trao đổi hợp tác quốc tế giữa các ngân hàng
thương mại trong hoạt động kinh doanh tiền tệ; đồng thời các ngân hàng


Việt Nam có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và
phát huy lợi thế so sánh của mình để theo kịp yêu cầu cạnh tranh quốc tế và
mở rộng thị trường ra nước ngoài. Tuy nhiên, các ngân hàng Việt Nam cũng
gặp phải thách thức to lớn trong cạnh tranh với các ngân hàng trong nước và
với ngân hàng nước ngoài.
Qua 16 năm hình thành và phát triển, ngân hàng thương mại cổ phần Sài
Gòn – Hà Nội hiện nay đã xây dựng cho mình một vị trí quan trọng và một
thương hiệu trong hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam . Đứng trước
những áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt với các ngân hàng trong nước và
ngân hàng nước ngoài, ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội
vẫn còn tồn tại một số hạn chế về năng lực cạnh tranh, hiệu quả hoạt động
vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế .
Xuất phát từ thực tiễn trên, việc nghiên cứu đánh giá năng lực cạnh tranh
của ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và ngân hàng thương mại cổ
phần Sài Gòn – Hà Nội nói riêng là một đòi hỏi cấp thiết. Vì vậy đề tài
“Nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại cổ Sài Gòn –
Hà Nội” được chọn để nghiên cứu nhằm đưa ra những phương hướng, giải
pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần


Sài Gòn – Hà Nội , góp phần phát triển và khẳng định vị thế của ngân hàng
này trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt .
Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài tập trung vào:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương
mại
- Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương
mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội .
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng
thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội .

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là năng lực cạnh tranh của Ngân hàng
thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội dựa trên các chỉ tiêu cơ bản: năng lực
tài chính, khả năng ứng dụng công nghệ, nguồn nhân lực, trình độ quản lý và
cơ cấu tổ chức, uy tín và thương hiệu .
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là NHTMCP Sài Gòn – Hà Nội .
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp:
phương pháp thống kê, phương pháp phân tích- tổng hợp, phương pháp đối
chiếu so sánh, phương pháp logic, phương pháp mô tả và khái quát hóa đối
tượng nghiên cứu.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Một số lý luận cơ bản về năng lực cạnh tranh của ngân hàng
thương mại .
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ
phần Sài Gòn – Hà Nội .


Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương
mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội .
CHƯƠNG 1 : MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Các khái niệm cơ bản :
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh :
Cạnh tranh được hiểu bằng nhiều cách khác nhau. Từ “cạnh tranh” được
giải thích là sự cố gắng giành phần hơn, phần thắng về mình giữa những
người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như nhau . Trong tác
phẩm “Quốc phú luận” của Adam Smith, tác giả cho rằng cạnh tranh có thể
phối hợp kinh tế một cách nhịp nhàng, có lợi cho xã hội. Vì sự cạnh tranh

trong quá trình của cải quốc dân tăng lên chủ yếu diễn ra thông qua thị
trường và giá cả, do đó, cạnh tranh có quan hệ chặt chẽ với cơ chế thị
trường. Theo Smith, “Nếu tự do cạnh tranh, các cá nhân chèn ép nhau, thì
cạnh tranh buộc mỗi cá nhân phải cố gắng làm công việc của mình một
cách chính xác”, “Cạnh tranh và thi đua thường tạo ra sự cố gắng lớn nhất.
Ngược lại, chỉ có mục đích lớn lao nhưng lại không có động cơ thúc đẩy
thực hiện mục đích ấy thì rất ít có khả năng tạo ra được bất kỳ sự cố gắng
lớn nào”.
Trong lý luận cạnh tranh của mình, trọng điểm nghiên cứu của Các Mác
là cạnh tranh giữa những người sản xuất và liên quan tới sự cạnh tranh này
là cạnh tranh giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Những cuộc cạnh
tranh này diễn ra dưới ba góc độ: cạnh tranh giá thành thông qua nâng cao
năng suất lao động giữa các nhà tư bản nhằm thu được giá trị thặng dư siêu
ngạch; cạnh tranh chất lượng thông qua nâng cao giá trị sử dụng hàng hoá,
hoàn thiện chất lượng hàng hoá để thực hiện được giá trị hàng hoá; cạnh


tranh giữa các ngành thông qua việc gia tăng tính lưu động của tư bản
nhằm chia nhau giá trị thặng dư.
Các góc độ cạnh tranh cơ bản này diễn ra xoay quanh sự quyết định giá
trị, sự thực hiện giá trị và sự phân phối giá trị thặng dư, chúng tạo nên nội
dung cơ bản trong lý luận cạnh tranh của Các Mác.
Đến nửa cuối thế kỷ XIX, các nhà kinh tế học thuộc trường phái cổ điển
mới xây dựng lý luận cạnh tranh trên cơ sở tổng kết sự phát triển lý luận
kinh tế ở nửa đầu thế kỷ ấy nhằm vạch ra nguyên lý cơ bản về sự vận động
của chế độ tư bản chủ nghĩa để chỉ đạo cạnh tranh, kết quả là họ đã cho đời
tư tưởng về thể chế kinh tế cạnh tranh hoàn hảo, lấy thị trường tự do hoặc
chế độ trao đổi làm cốt lõi. Cạnh tranh hoàn hảo là một trong những giả
thiết cơ bản của lý luận kinh tế này.
Ngược với tư tưởng xem cạnh tranh là một quá trình tĩnh của các nhà

kinh tế học thuộc trường phái cổ điển của thế kỷ XIX, các nhà kinh tế học
của trường phái Áo cho rằng: “Một chỉ tiêu quan trọng về sự ra đời của lý
luận cạnh tranh hiện đại là vứt bỏ việc lấy cạnh tranh hoàn hảo làm giáo
điều của lý luận cạnh tranh hiện thực và lý tưởng, cạnh tranh được xem xét
ở góc độ là một quá trình động, phát triển chứ không phải là quá trình tĩnh”
Như vậy, cạnh tranh là một công cụ mạnh mẽ và là một yêu cầu tất yếu cho
sự phát triển kinh tế của mỗi doanh nghiệp và mỗi quốc gia.
Cạnh tranh giúp khai thác một cách hiệu quả nguồn lực thiên nhiên và tạo
ra các phương tiện mới để thoả mãn nhu cầu cá nhân ở mức giá thấp hơn và
chất lượng cao hơn. Từ đó, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của con
người. Nhờ cạnh tranh đã thúc đẩy đổi mới công nghệ và gia tăng năng
suất, tạo ra những thành tựu mới trên nhiều lĩnh vực.
Do sự phát triển của thương mại và chủ nghĩa tư bản công nghiệp cùng
với ảnh hưởng của tư tưởng kinh tế, cạnh tranh ngày càng được xem như là


cuộc đấu tranh giữa các đối thủ. Trong thực tế đời sống kinh tế, cạnh tranh
ngày càng được xem là một cuộc đấu tranh giữa các đối thủ với mục đích
đánh bại đối thủ. Đặc biệt, trước xu thế hội nhập như hiện nay, cạnh tranh
ngày càng trở nên khốc liệt và phức tạp hơn, trở thành một vấn đề sống còn
của doanh nghiệp, doanh nghiệp nào không thể cạnh tranh được với đối thủ
sẽ nhanh chóng bị đào thải ra thương trường.
1.1.2. Khái niệm năng lực cạnh tranh :
Cạnh tranh là quy luật tất yếu, là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Để
tồn tại trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh
tranh như là lựa chọn duy nhất. Cạnh tranh chỉ xuất hiện trong nền kinh tế
thị trường, nơi có sự cung ứng hàng hóa, dịch vụ của ít nhất hai doanh
nghiệp (người kinh doanh) trong cùng một điều kiện giống nhau. Trong bối
cảnh đó, các doanh nghiệp phải bằng mọi biện pháp khác nhau để sử dụng
tối đa các nguồn lực (khả năng) mà mình có để vượt lên trên đối thủ cạnh

tranh cùng loại để khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế.
Michael Porter, một giáo sư của trường kinh doanh Harvard, trong các
tác phẩm của mình, ông cho rằng để có thể cạnh tranh thành công, các
doanh nghiệp phải có được lợi thế cạnh tranh dưới hình thức hoặc là có
được chi phí sản xuất thấp hơn hoặc là có khả năng khác biệt hóa sản phẩm
để đạt được những mức giá cao hơn trung bình. Để duy trì lợi thế cạnh
tranh, các doanh nghiệp cần ngày càng đạt được những lợi thế cạnh tranh
tinh vi hơn, qua đó có thể cung cấp hàng hóa hay dịch vụ có chất lượng cao
hơn hoặc sản xuất có hiệu suất cao hơn. Quan niệm của Porter đã đề cập
đến vấn đề năng lực cạnh tranh còn bao hàm cả việc doanh nghiệp phải liên
tục duy trì lợi thế cạnh tranh của mình. Năng lực cạnh tranh ở đây cần phải
được gắn liền với khái niệm phát triển bền vững, sử dụng hiệu quả các
nguồn lực của xã hội.


Ở giác độ vĩ mô, khái niệm năng lực cạnh tranh của một quốc gia cũng
chưa có được một đáp án thống nhất. Báo cáo về đánh giá năng lực cạnh
tranh toàn cầu định nghĩa năng lực cạnh tranh của một quốc gia là khả năng
của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống,
nghĩa là đạt được các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao được xác định bằng thay
đổi của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên đầu người theo thời gian.
Báo cáo đầu tiên về Năng lực cạnh tranh của Công nghiệp Châu Âu (CEC
1996a) cũng chỉ ra rằng “năng lực cạnh tranh của một quốc gia là khả năng
quốc gia đó tạo ra mức tăng trưởng phúc lợi cao và gia tăng mức sống cho
người dân của nước mình”.
1.1.3. Khái niệm năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại :
* Khái niệm :
Đối với lĩnh vực ngân hàng, tài chính, năng lực cạnh tranh của các ngân
hàng thương mại có thể được tóm lại như sau: “Năng lực cạnh tranh của
một ngân hàng là khả năng ngân hàng đó tạo ra, duy trì và phát triển những

lợi thế nhằm duy trì và mở rộng thị phần; đạt được mức lợi nhuận cao hơn
mức trung bình của ngành và liên tục tăng đồng thời đảm bảo sự hoạt động
an toàn và lành mạnh, có khả năng chống đỡ và vượt qua những biến động
bất lợi của môi trường kinh doanh”.
Nhìn chung năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại đều được
xem xét thông qua khả năng tạo và duy trì lợi nhuận thị phần nhất định trên
thị trường. Mỗi ngân hàng thương mại phải duy trì được các lợi thế so
sánh của mình với các đối thủ cạnh tranh trong việc cung cấp các sản phẩm
dịch vụ ngân hàng nhằm thỏa mãn tốt nhất các yêu cầu của khách hàng và
giành thắng lợi trong quá trình cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh của ngân
hàng thương mại thể hiện thành các lợi thế so sánh với đối thủ cạnh tranh
khác nhưng các lợi thế đó không phải là bất biến. Điều đó phụ thuộc vào


mỗi ngân hàng trong việc thường xuyên duy trì và tăng cường năng lực
cạnh tranh. Có những ngân hàng thương mại gần như không có lợi thế hoặc
lợi thế chỉ ở dạng tiềm năng tuy nhiên do biết cách khai thác và sử dụng
một cách hợp lý hiệu quả các lợi thế tiềm năng đó đã nâng cao được năng
lực cạnh tranh của mình trên thương trường.
* Ý nghĩa của việc nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương
mại :
Cạnh tranh là động lực cho phát triển của ngân hàng và toàn bộ nền kinh
tế. Cạnh tranh thúc đẩy các ngân hàng nâng cao chất lượng dịch vụ ngân
hàng phục vụ nhu cầu khách hàng, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả
sử dụng nguồn lực. Theo ông Michael Fairbanks1 - một chuyên gia nghiên
cứu và tư vấn về năng lực cạnh tranh, thì cạnh tranh tạo động lực tối đa hoá
hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nền kinh tế. Ngoài ra, cạnh tranh của
ngân hàng mang lại lợi ích cho khách hàng vì được sử dụng dịch vụ rẻ hơn,
chất lượng cao hơn, hậu mãi tốt hơn. Nâng cao năng lực cạnh tranh để phát
triển và khẳng định vị trí, thu hút khách hàng. Nếu sức cạnh tranh thấp,

ngân hàng sẽ bị thôn tính, sát nhập hoặc phá sản.
Tài chính – ngân hàng là một trong những lĩnh vực được mở cửa mạnh
nhất ngay sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO). Theo cam kết giữa Việt Nam và các nước thành viên , các ngân
hàng nước ngoài sẽ được phép thực hiện hầu hết các dịch vụ ngân hàng
như một ngân hàng trong nước (trừ dịch vụ tư vấn và cung cấp thông tin
ngân hàng). Đây là thách thức, nhưng cũng là cơ hội để mỗi ngân hàng
không ngừng tự hoàn thiện mình, trong đó có việc nâng cấp cơ sở hạ tầng
công nghệ thông tin, mở rộng dịch vụ ngân hàng theo hướng tiện ích, tăng
cường khả năng phòng chống rủi ro nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh .


1.2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương
mại :
1.2.1. Năng lực tài chính :
Năng lực tài chính là thước đo sức mạnh của một ngân hàng tại một thời
điểm nhất định. Năng lực tài chính thể hiện qua các chỉ tiêu:
1.2.1.1. Vốn chủ sở hữu và mức độ an toàn vốn:
* Tiềm lực vốn của ngân hàng thương mại được đánh giá cao hay thấp là
phụ thuộc vào quy mô vốn chủ sở hữu và hệ số an toàn vốn. Chỉ tiêu này
phản ánh sức mạnh tài chính của một ngân hàng và khả năng chống đỡ rủi
ro. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tùy
theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự
phát triển của thị trường.
- Nguồn vốn hình thành ban đầu:
Tùy theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn gốc hình thành vốn ban
đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước, ngân sách Nhà
nước cấp (vốn của Nhà nước). Nếu là ngân hàng cổ phần, các cổ đông đóng
góp thông qua mua cổ phần thoặc cổ phiếu. Ngân hàng liên doanh do các
bên liên doanh góp; ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu tư nhân.

- Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn chủ sở hữu theo nhiều
phương thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện có thể. Nó bao gồm :
nguồn từ lợi nhuận , nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm,
cấp thêm …
- Các quỹ :
Ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có mục đích riêng. Trước tiên là quỹ
dự phòng tổn thất. Quỹ này được trích lập hàng năm và được tích lũy lại
nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra. Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao


mòn của vốn dưới tác động của lạm phát. Quỹ thặng dư là phần đánh giá
lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu
khi phát hành cổ phiếu mới. Tùy theo qui định cụ thể của từng nước, các
ngân hàng còn có thể có quỹ phúc lợi, khen thưởng, quỹ giám đốc…
Các quỹ của ngân hàng thuộc sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình thành
các quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên khả năng sử dụng các
quỹ này vào hoạt động kinh doanh tùy thuộc vào mục đích sử dụng quỹ.
- Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng thương mại mà có khả
năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận vốn sở
hữu của ngân hàng (vốn bổ sung) do nguồn này có một số đặc điểm như sử
dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn
trả khi đến hạn.
* Vai trò của vốn chủ sở hữu :
- Vốn chủ sở hữu tuy chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn huy
động kinh doanh của một ngân hàng nhưng đóng vai trò rất quan trọng.
Vốn là điều kiện tiên quyết để thành lập ngân hàng, đây là nguồn vốn khởi
đầu tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, cung cấp năng
lực tài chính cho quá trình tăng trưởng như mở rộng quy mô, mua sắm

trang thiết bị, phát triển các sản phẩm dịch vụ mới, là cơ sở để huy động
các nguồn vốn khác, tạo lập uy tín của ngân hàng thương mại với khách
hàng và nhà đầu tư, tăng sức cạnh tranh cho ngân hàng.
- Vốn chủ sở hữu để chống đỡ, bù đắp rủi ro: vốn chủ sở hữu có chức năng
bảo vệ ngân hàng thương mại, giúp ngân hàng thương mại chống lại rủi ro
phá sản, bù đắp những thua lỗ về mặt tài chính và nghiệp vụ. Vốn chủ sở
hữu càng lớn thì ngân hàng thương mại càng có điều kiện để đa dạng hóa
các nghiệp vụ ngân hàng tăng lợi nhuận đồng thời tăng sức chịu đựng của


ngân hàng khi tình hình kinh tế và hoạt động kinh doanh ngân hàng trải qua
giai đoạn khó khăn.
- Vốn chủ sở hữu lớn sẽ thu hút được nhiều khách hàng, tăng giới hạn tín
dụng đối với khách hàng . Bên cạnh đó vốn chủ sở hữu cũng ảnh hưởng tới
giới hạn tín dụng đối với khách hàng. Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín
dụng đối với mỗi khách hàng không vượt quá 15% vốn chủ sở hữu. Tổng
mức cho vay và bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng
không được vượt quá 25% vốn chủ sở hữu. Tổng dư nợ cho vay của tổ
chức tín dụng đối với một nhóm khách hàng có 11ien quan không được
vượt quá 50% vốn chủ sở hữu. Tổng mức cho vay và bảo lãnh của tổ chức
tín dụng đối với một nhóm khách hàng có 11ien quan không được vượt quá
60% vốn chủ sở hữu. Nếu quy mô vốn chủ sở hữu nhỏ, ngân hàng không
thể đáp ứng những khoản vay lớn của khách hàng, làm mất cơ hội tăng lợi
nhuận và làm giảm sức cạnh tranh của ngân hàng.
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu: Theo Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày
20/05/2010 thì tổ chức tín dụng (trừ chi nhánh ngân hàng nước ngoài) phải
duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% giữa vốn chủ sở hữu so với tổng tài
sản có rủi ro.
1.2.1.2. Khả năng sinh lời :
Khả năng sinh lời phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

Một ngân hàng thương mại làm ăn kinh doanh tốt, khả năng sinh lời cao sẽ
có điều kiện trích lập các quỹ dự trữ, đầu tư mở rộng mạng lưới giao dịch,
đầu tư công nghệ, khách hàng cảm thấy yên tâm tin tưởng và gửi tiền, do
đó nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Đánh giá mức sinh lợi của
một ngân hàng thông qua chỉ tiêu như giá trị tuyệt đối của lợi nhuận sau
thuế; tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu ROE (return on equity), tỷ suất
sinh lời trên tổng tài sản có ROA (return on assets)…


ROA = (Lợi nhuận ròng sau thuế / Tổng tài sản) x 100
Chỉ tiêu này được coi là thước đo hiệu quả đầu tư của ngân hàng hay hiệu
quả khai thác tài sản có . ROA giúp ta xác định hiệu quả kinh doanh tốt,
ngân hàng có cơ cấu tài sản hợp lý, có sự điều động linh hoạt giữa các mục
tiêu trên tài sản có trước những biến động của nền kinh tế.
ROE = (Lợi nhuận ròng sau thuế / Vốn chủ sở hữu) x 100
Chỉ tiêu này được coi là một thước đo hiệu quả của một đồng vốn ngân
hàng bỏ ra thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. ROE đo lường hiệu quả sử
dụng một đồng vốn chủ sở hữu.
Trong cạnh tranh, nếu ngân hàng có năng lực cạnh tranh tốt thì hoạt động
và thu được lợi nhuận cao hơn các đối thủ khác. Chỉ tiêu ROA, ROE cũng
được các tổ chức tài chính quốc tế sử dụng đánh giá điều kiện hội nhập
quốc tế của ngân hàng. Theo thông lệ quốc tế, mức ROA tối thiểu phải đạt
trên 1% và tỷ lệ ROE tối thiểu phải đạt 15% mới bảo đảm mực hiệu quả
hoạt động kinh doanh ngân hàng.
1.2.1.3. Chất lượng tài sản có :
Phản ánh sức khoẻ của một ngân hàng. Chất lượng tài sản có được thể
hiện thông qua các chỉ tiêu như: tỷ lệ nợ xấu trên tổng tài sản có, mức độ
lập dự phòng và khả năng thu hồi các khoản nợ xấu, mức độ tập trung và
đa dạng hoá danh mục tín dụng, rủi ro tín dụng tiềm ẩn...
1.2.2. Khả năng ứng dụng công nghệ :

Trong lĩnh vực ngân hàng, công nghệ đang ngày càng đóng vai trò như là
một trong những nguồn lực tạo ra lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất của
mỗi ngân hàng. Vai trò của công nghệ đối với các hoạt động ngân hàng
được thể hiện:
- Cho phép lưu trữ và đẩy nhanh tốc độ xử lý các dữ liệu tạo điều kiện cho
công tác hạch toán kế toán, lưu trữ và báo cáo.


- Cho phép đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ và liên kết với các doanh nghiệp
khác trong việc bán chéo sản phẩm dịch vụ.
- Cho phép thiết lập hệ thống giao dịch trực tuyến, xóa bỏ giới hạn trong
hoạt động ngân hàng , góp phần quan trọng vào hoạt động thương mại điện
tử.
- Cho phép thiết lập hệ thống thông tin quản lý trực tiếp phục vụ hữu hiệu
cho công tác quản lý điều hành theo mô hình tập trung, nâng cao khả năng
quản lý, kiểm soát rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
Công nghệ ngân hàng không chỉ bao gồm những công nghệ mang tính tác
nghiệp như hệ thống thanh toán điện tử, hệ thống ngân hàng bán lẻ, máy rút
tiền tự động ATM… mà còn bao gồm hệ thống thông tin quản lý, hệ thống
báo cáo rủi ro…trong nội bộ ngân hàng . Năng lực công nghệ không chỉ thể
hiện ở số lượng, chất lượng công nghệ hiện tại mà còn bao gồm cả khả
năng mở (khả năng đổi mới) của các công nghệ hiện tại về mặt kỹ thuật
cũng như kinh tế. Đổi mới công nghệ ngân hàng là tin học hóa hoạt động
ngân hàng, tin học hóa các nghiệp vụ ngân hàng, mở rộng dịch vụ ngân
hàng hiện đại trên nền công nghệ mới gắn liền với việc thay đổi cơ chế
pháp lý phù hợp.
1.2.3. Nguồn nhân lực :
Con người luôn giữ vai trò trung tâm trong mọi hoạt động kinh tế xã hội.
Trong lĩnh vực ngân hàng, con người là một nguồn lực đặc biệt quan trọng,
là yếu tố mang tính kết nối các nguồn lực của ngân hàng và là nền tảng cho

mọi cải tiến và phát triển.
- Trình độ chuyên môn, năng lực, kinh nghiệm hoạt động ngân hàng của
những người tham gia công tác quản trị, kiểm soát, điều hành ngân hàng
quyết định tới chất lượng và tính khả thi của việc xây dựng và thực hiện


chiến lược hoạt động kinh doanh cũng như chính sách quản lý, kiểm soát
rủi ro của ngân hàng.
- Trình độ chuyên môn cao, thao tác nghiệp vụ thành thạo, kinh nghiệm của
đội ngũ các nhân viên ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng sản
phẩm dịch vụ ngân hàng, có thể phục vụ khách hàng chu đáo, chính xác,
nhanh chóng, chất lượng công tác quản lý tốt và kiểm soát được rủi ro.
- Chính sách nhân sự, đào tạo và sử dụng, đãi ngộ hợp lý sẽ giữ được cán
bộ có trình độ, năng lực tận tâm phục vụ cho sự nghiệp ngân hàng đồng
thời xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên có trình độ, thu hút những người
có trình độ cao đến với ngân hàng. Nguồn nhân lực có trình độ cao, có
năng lực và kinh nghiệm trong hoạt động ngân hàng chính là nguồn tài sản
có giá trị của ngân hàng.
Ngân hàng là một ngành đòi hỏi người lao động phải có kinh nghiệm và
trình độ cao được tích lũy theo thời gian . Hiệu quả của các chính sách
nhân sự, đặc biệt chính sách tuyển dụng, cơ chế thù lao là một chỉ tiêu quan
trọng để đánh giá khả năng duy trì một đội ngũ nhana sự chất lượng cao
của một ngân hàng.
1.2.4. Trình độ quản lý và cơ cấu tổ chức :
Trình độ quản lý có vai trò quan trọng trong việc quyết định năng lực
cạnh tranh của mỗi ngân hàng. Nếu trình độ quản lý không tốt sẽ làm giảm
hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, bộ máy quản lý cồng kềnh gây lãng
phí, chất lượng nguồn nhân lực không cao… làm giảm năng lực cạnh tranh
của ngân hàng . Do đó các ngân hàng thương mại trong nâng cao phải nâng
cao trình độ quản lý trong đó đặc biệt quan tâm đến chất lượng nguồn nhân

lực.
Trình độ quản lý phản ánh năng lực điều hành của hội đồng quản trị cũng
như ban giám đốc của một ngân hàng. Năng lực quản lý thể hiện ở mức độ


chi phối và khả năng giám sát của hội đồng quản trị đối với ban giám đốc;
mục tiêu, động cơ, mức độ cam kết của ban giám đốc cũng như hội đồng
quản trị đối với việc duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân
hàng; chính sách tiền lương và thu nhập đối với ban giám đốc; số lượng,
chất lượng và hiệu lực thực hiện của các chiến lược, chính sách và quy
trình kinh doanh cũng như quy trình quản lý rủi ro, kiểm toán kiểm soát nội
bộ . Năng lực quản lý của hội đồng quản trị cũng như ban giám đốc cũng bị
chi phối bởi cơ cấu tổ chức của ngân hàng thương mại. Cơ cấu tổ chức là
một chỉ tiêu quan trọng phản ánh cơ chế phân bổ các nguồn lực của một
ngân hàng có phù hợp với quy mô, trình độ quản lý của ngân hàng; phù
hợp với đặc trưng cạnh tranh của ngành và yêu cầu của thị trường hay
không. Cơ cấu tổ chức của một ngân hàng thể hiện ở sự phân chia các
phòng ban chức năng, các bộ phận tác nghiệp, cac đơn vị trực thuộc…
Hiệu quả của cơ chế quản lý không chỉ phản ánh ở số lượng các phòng ban,
sự phân công, phân cấp giữa các phòng ban mà còn phụ thuộc vào mức độ
phối hợp giữa các phòng ban, các đơn vị trong việc triển khai chiến lược
kinh doanh, các hoạt động nghiệp vụ hàng ngày, khả năng thích nghi và
thay đổi của cơ cấu trước những biến động của ngành hay biến động môi
trường vĩ mô.
1.2.5. Khả năng mở rộng và phát triển sản phẩm dịch vụ :
* Khả năng cung cấp các dịch vụ trung gian thanh toán :
Nền kinh tế càng phát triển các dịch vụ ngân hàng cũng phát triển theo
đáp ứng yêu cầu ngày càng cao và đa dạng của khách hàng. Hoạt động này
mang lại thu nhập khá quan trọng cho ngân hàng và chứa đựng ít rủi ro. Ở
các nước phát triển, thu nhập từ nghiệp vụ trung gian mang tính dịch vụ

chiếm trên 50% thu nhập của ngân hàng. Đây là một tiêu chí đánh giá năng
lực hoạt động của ngân hàng thương mại, thể hiện ở:


- Ngân hàng có thể cung ứng nhiều các phương tiện thanh toán (séc, ủy
nhiệm chi, thu tín dụng, ủy nhiệm thu, thanh toán chuyển tiền, thẻ ngân
hàng…) do đó khách hàng có nhiều sự lựa chọn.
- Ngân hàng có thể thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước và thanh
toán quốc tế trên cơ sở tham gia thị trường thanh toán liên ngân hàng và
thiết lập các quan hệ đại lý thanh toán với các ngân hàng khác, đặc biệt là
quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài để đáp ứng nhu cầu thanh
toán, chi trả của khách hàng.
- Ngân hàng đảm bảo việc thanh toán, chi trả nhanh cóng, chính xác theo
nhu cầu của khách hàng.
- Ngân hàng có khả năng cung ứng các dịch vụ thanh toán trực tuyến thông
qua hệ thống công nghệ tin học, viễn thông như internetbanking,
phonebanking, homebanking…
- Ngân hàng có số lượng thẻ ngân hàng được phát hành lớn, doanh số giao
dịch qua thẻ ngân hàng cao, đặc biệt là có hệ thống máy ATM và thiết lập
hệ thống đơn vị đại lý chấp nhận thanh toán thẻ nhiều, có khả năng liên kết
với hệ thống thanh toán thẻ của nhiều ngân hàng trong và ngoài nước.
Sự phát triển đa dạng của đời sống xã hội cùng với sự tiến bộ về khoa
học công nghệ đòi hỏi các ngân hàng thương mại ngoài việc cạnh tranh về
giá còn phải không ngừng tìm tòi, phát triển những hình thức dịch vụ mới,
đa dạng hóa danh mục, chủng loại sản phẩm dịch vụ ngân hàng để đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, tăng thêm thị phần và lợi nhuận
cho ngân hàng.
* Khả năng đa dạng hóa sản phẩm trong từng dịch vụ ngân hàng và nhiều
loại dịch vụ ngân hàng, thể hiện :
- Có nhiều hình thức huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế như

phát hành trái phiếu, giấy tờ có giá, nhận tiền gửi nội, ngoại tệ, hoặc gửi


vàng tiết kiệm với nhiều hình thức khác nhau (có nhiều kỳ hạn huy động
vốn, trả lại trước hoặc sau, gửi một nơi, rút nhiều nơi, gửi tiền tiết kiệm
tích lũy…)
- Có nhiều hình thức cho vay, tài trợ thương mại khác nhau về kỳ hạn vay,
trả, loại đồng tiền, cách giải ngân, cách trả gốc và lãi, chiết khấu giấy tờ có
giá…
- Có nhiều hình thức thanh toán với nhiều loại phương tiện thanh toán tiện
ích, hiện đại như thẻ thanh toán, thanh toán điện tử (internetbanking,
telephonebanking, homebanking…)
- Có nhiều sản phẩm dịch vụ hỗ trợ khách hàng như tư vấn tài chính, các
sản phẩm phái sinh giúp khách hàng phòng rủi ro, môi giới bảo quản hiện
vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ, kinh doanh vàng bạc, ngoại
hối, nhận ủy thác và làm đại lý, kinh doanh dịch vụ bảo hiểm…
1.2.6. Danh tiếng, uy tín, hệ thống phân phối :
Uy tín là tài sản vô hình mà không phải bất cứ ngân hàng nào cũng có
được. Uy tín ngân hàng phải được xây dựng và củng cố trên cơ sở mạng lại
nhiều lợi ích cho xã hội và cho khách hàng. Uy tín ngân hàng là yếu tố
quan trọng, là cơ sở để doanh nghiệp có thể dễ dàng vươn lên trong cạnh
tranh với các ngân hàng khác. Uy tín ngân hàng được hình thành sau một
thời gian dài hoạt động trên thị trường và là tài sản vô hình mà doanh
nghiệp cần phát huy và sử dụng như một thứ vũ khí chủ lực trong điều kiện
cạnh tranh hiện nay.
Hệ thống kênh phân phối được thể hiện ở số lượng các chi nhánh và
phòng giao dịch và sự phân bố các chi nhánh theo địa lý lãnh thổ. Một
ngân hàng có mạng lưới chi nhánh hay phòng giao dịch rộng lớn dễ dàng
tiếp cận được với nhiều khách hàng ở nhiều vùng địa lý khác nhau, điều đó
cũng làm cho nhiều người biết đến ngân hàng hơn. số lượng khách hàng



giao dịch càng tăng đồng nghĩa với việc năng lực cạnh tranh của ngân hàng
tăng.
1.3. Các nhân tố bên ngoài ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của các
ngân hàng thương mại :
1.3.1. Môi trường kinh tế :
Sự phát triển của nên kinh tế trong nước và quốc tế có ảnh hưởng đến
năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. Sản xuất, kinh doanh,
thương mại và dịch vụ ngày càng tăng sẽ tác động đến khả năng thu hút
tiền gửi, khả năng cho vay đầu tư và phát triển các dịch vụ ngân hàng của
ngân hàng thương mại. Ngân hàng là một ngành chứa đựng nhiều rủi ro.
Mỗi một biến động bất lợi của môi trường kinh tế vĩ mô đều có thể ảnh
hưởng đến hoạt động bình thường của một ngân hàng. Một nước có nền
kinh tế phát triển ổn định, tốc độ tăng trưởng cao, các chỉ số về lạm phát,
lãi suất, tỷ giá phát triển ổn định, năng lực cạnh tranh cao sẽ là một điều
kiện hết sức thuận lợi cho sự phát triển của toàn bộ hệ thống ngân hàng,
giúp các ngân hàng thương mại trong nước có điều kiện mở rộng quy mô
kinh doanh, nâng cao chất lượng phục vụ từ đó nâng cao năng lực cạnh
tranh và hội nhập của mình. Và ngược lại, sự bất ổn định về kinh tế có thể
tạo ra sự dè dặt, co cụm của những nỗ lực đầu tư của các doanh nghiệp nói
chung và của các ngân hàng thương mại nói riêng.
1.3.2. Đối thủ cạnh tranh :
Trong phạm vi quốc gia, đối thủ cạnh tranh của các ngân hàng chính là
các ngân hàng khác, ngoài ra còn có các định chế tài chính phi ngân hàng
như công ty bảo hiểm, công ty tiết kiệm bưu điện, quỹ tín dụng nhân dân,
công ty tài chính. Trong điều kiện hội nhập, có nhiều ngân hàng quốc tế
vào đầu tư và ngược lại các ngân hàng thương mại mở rộng phạm vi kinh
doanh ra thị trường quốc tế . Số lượng các đối thủ cạnh tranh càng nhiều thì



mức độ cạnh tranh càng cao . Do đó, để đứng vững và giàn phần thắng
trong cạnh tranh, đòi hỏi mỗi ngân hàng không ngừng nâng cao năng lực
cạnh tranh của mình, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, nghiên cứu
điểm mạnh, điểm yếu, lợi thế cạnh tranh của đối thủ để có chiến lược kinh
doanh hợp lý.
1.3.3. Hệ thống luật pháp :
Hệ thống luật pháp trước hết tạo khuôn khổ pháp lý cho hoạt động kinh
doanh và cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. Hệ thống luật pháp tác
động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và cạnh tranh của ngân hàng
thương mại. Luật quy định những điều kiện cần thiết về mặt pháp lý để một
ngân hàng thương mại được phép kinh doanh, những lĩnh vực kinh doanh
hợp pháp, giới hạn về quy mô huy động vốn, khả năng cấp tín dụng, tỷ lệ
an toàn vốn tối thiểu, các quy định đảm bảo an toàn. Ngoài ra, những quy
định của luật cũng tác động đến khả năng tham gia cạnh tranh của các chủ
thể trên thị trường tài chính, gia tăng hay kìm hãm khả năng cạnh tranh của
các ngân hàng thương mại trên thị trường quốc tế. Hệ thống pháp luật là cơ
sở pháp lý xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng giữa
các chủ thể, đề ra các quy định và các nguyên tắc trong cạnh tranh, chi phối
đến việc mở rộng hay giới hạn quy mô cạnh tranh của thị trường, phát triển
môi trường cạnh tranh tạo động lực thúc đẩy các ngân hàng thương mại tự
nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Hệ thống luật pháp một mặt tạo
môi trường cạnh tranh bình đẳng, đảm bảo quyền lợi chính đáng và hợp
pháp của các ngân hàng thương mại nhưng mặt khác cũng thực hiện chức
năng ngăn ngừa và có chế tài xử phạt thích đáng đối với hoạt động tiêu
cực, cạnh tranh không lành mạnh.
1.3.4. Đặc điểm văn hóa xã hội :


Trước hết, những đặc điểm xã hội ảnh hưởng đến cầu đối với các dịch vụ

ngân hàng như lòng tin của dân chúng; thói quen tiêu dùng và tiết kiệm của
người dân; trình độ dân trí và khả năng hiểu biết về các dịch vụ của ngân
hàng; mức thu nhập của người dân . Thói quen tiêu dùng của người dân ảnh
hưởng lớn đến hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là thói quen sử dụng tiền
tệ. Nếu người dân sử dụng tiền mặt nhiều thì người dân mất đi cơ hội kinh
doanh. Mức tiết kiệm của người dân càng cao càng có ảnh hưởng đến nguồn
cung tín dụng cho các ngân hàng. Trình độ dân trí cũng là yếu tố quan trọng
ảnh hưởng nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng. Trình độ dân trí ở một quốc
gia càng cao thì khả năng phổ biến dịch vụ ngân hàng hiện đại càng thuận
tiền , cơ hội đổi mới của các ngân hàng cũng cao hơn. Mức thu nhập cũng
vậy, người dân có thu nhập càng cao càng có nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân
hàng nhiều hơn.
Ngoài ra, đặc điểm văn hóa xã hội ảnh hưởng đến nguồn nhân lực trong
lĩnh vực ngân hàng có thể kể đến như quan điểm về doanh nhân và kinh
doanh; quan điểm về sự giàu có; quan điểm về thăng tiến; về đạo đức nghề
nghiệp; quan điểm về học tập, tự đào tạo; quan điểm về sự gắn bó nghề
nghiệp hay quan điểm về rủi ro thất bại… Phải quan niệm rõ ràng, ngân
hàng trước hết là một doanh nghiệp, do đó được toàn xã hội coi trọng và
tạo điều kiện phát triển. Bên cạnh đó, ngân hàng là một ngành dịch vụ chất
xám và cần có những cá nhân xuất sắc, có tham vọng kinh doanh, làm giàu
và thăng tiến sẽ tạo nên thành công của ngân hàng . Ngân hàng là một
ngành có nhiều rủi ro, những người làm việc trong lĩnh vực ngân hàng phải
là những người có khả năng phát hiện và đánh giá được rủi ro, dám chấp
nhận rủi ro, đồng thời là người có sự thận trọng cần thiết, tôn trọng các yêu
cầu về đạo đức nghề nghiệp. Việc coi trọng đạo đức là cơ sở để ngân hàng
giữ chữ tín đối với khách hàng, gây dựng niềm tin của công chúng . Sự gắn


bó với nghề nghiệp cũng có ý nghĩa trong việc giúp người lao động có thời
gian và cơ hội tích lũy kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm, từ đó giúp ngân

hàng duy trì được đội ngũ nhân lực ổn định và có trình độ cao. Ngân hàng
là một ngành có tốc độ đổi mới và cải tiến rất cao, vì thế khả năng tự học,
tự đào tạo của các nhân viên có ý nghĩa lớn đối với việc duy trì và nâng cao
lợi thế cạnh tranh của mỗi ngân hàng. Một xã hội coi trọng việc học tập và
rèn luyện cũng mang lại thuận lợi đối với ngành ngân hàng.
1.3.5. Môi trường công nghệ :
Cuộc cách mạng công nghệ đang diễn ra như vũ bão trên toàn thế giới,
công nghệ quyết định đến sự thành công của một doanh nghiệp nói chung
và một ngân hàng nói riêng, nếu ngân hàng có công nghệ lạc hậu hơn đối
thủ cạnh tranh thì sớm muộn cũng sẽ bị đối thủ cạnh tranh đánh bật ra khỏi
thị trường . Một ngân hàng chú trọng đến công nghệ của mình sẽ làm cho
khách hàng tin tưởng và từ đó có thể dễ dàng thu hút khách hàng mới hay
lôi kéo khách hàng của đối thủ cạnh tranh.
1.3.6. Vai trò của nhà nước và NHTW :
Vai trò của Nhà nước là một yếu tố mang tính chất xúc tác rất quan trọng
với sự phát triển của bất kỳ ngành nào ở một nước. Đối với lĩnh vực ngân
hàng, Nhà nước lại càng đóng một vai trò quan trọng. Nhà nước tác động
đến sự phát triển của các ngân hàng trước hết với vai trò của người quản lý
và giám sát của toàn hệ thống thông qua vai trò của ngân hàng Nhà nước.
Sự hoạt động lành mạnh và an toàn của hệ thống ngân hàng thương mại là
điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế ở một quốc gia. Do những mối
liên kết rất chặt chẽ của toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại, sự đồ vỡ
của một ngân hàng thường gây ra những hậu quả rất to lớn và cớ khả năng
gây ra hiệu ứng lan truyền lên toàn hệ thống. Vì thế, hoạt động của các


ngân hàng thương mại phải chịu sự quản lý và giám sát hết sức chặt chẽ
của các cơ quan nhà nước nói chung và của ngân hàng Nhà nước nói riêng.
Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý Nhà nước cao nhất trong lĩnh vực
ngân hàng, có chức năng soạn thảo các dự thảo luật, ban hành các quy định

hướng dẫn về mặt pháp lý trong kinh doanh ngân hàng nhằm đảm bảo hoạt
động của các ngân hàng thương mại, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh
và bình đẳng giữa các ngân hàng thương mại… Với vai trò quan trọng như
vậy đòi hỏi ngân hàng Nhà nước phải có năng lực quản lý điều hành phù
hợp. Nếu năng lực quản lý điều hành của ngân hàng Nhà nước không tốt sẽ
ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh và hội nhập của các ngân hàng thương
mại. Ví dụ không đưa ra được các quy định pháp lý kịp thời hướng dẫn
hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, không có các biện
pháp cảnh cáo, ngăn chặn cần thiết đối với các hành vi tiêu cực, gian lận, vi
phạm những điều bị cấm hoặc không khuyến khích, hạn chế về năng lực
điều hành chính sách tiền tệ.


CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN – HÀ NỘI (SHB)
2.1. Tổng quan về Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội SHB :
2.1.1. Giới thiệu về ngân hàng :
Tên doanh nghiệp:

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN SÀI

GÒN – HÀ NỘI
Tên giao dịch :

SHB

Tên quốc tế :

SaHa


Điện thoại:

(04) 39423388

Fax:

(04) 39410844

Email:



Website:

www.shb.com.vn

Logo:
Vốn điều lệ:

3.500.000.000.000 đồng

Giấy phép hoạt động: Số 0041-NH/GP ngày 13/11/1993 của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam
Giấy CNĐKKD:

Giấy

chứng

nhận


đăng ký

kinh

doanh số

0103026080 do Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội cấp – sửa đổi lần
thứ 16 ngày 25/08/2009
Ngành nghề kinh doanh:
- Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của các thành phần kinh tế
và dân cư dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn; phát hành kỳ
phiếu có mục đích sau khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
- Tiếp nhận vốn uỷ thác đầu tư và phát triển của tổ chức và cá nhân
trongnước và ngoài nước khi được NHNN cho phép
- Vay vốn NHNN và các tổ chức tín dụng khác.


- Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn ñối với các tổ chức và cá nhân sản
xuất, kinh doanh trên địa bàn tuỳ theo tính chất và khả năng của nguồn
vốn.
- Chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá .
Khách hàng và sản phẩm : SHB tập trung cả vào khách hàng cá nhân và
khách hàng doanh nghiệp với các sản phẩm dịch vụ :
- Sản phẩm tiền gửi:
• Tiền gửi thanh toán cá nhân và doanh nghiêp
• Tiền gửi có kỳ hạn
• Tiền gửi không kỳ hạn
• Tiết kiệm dự thưởng
• Các chứng chỉ tiền gửi có liên quan

- Sản phẩm cho vay:
• Cho vay sản xuất kinh doanh cá nhân và doanh nghiệp
• Cho vay đầu tư
• Cho vay tiêu dung
• Cho vay mua bất động sản
• Cho vay du học
• Cho vay sổ tiết kiệm, giấy tờ có giá do SHB phát
• Cho vay phát triển kinh tế nông nghiệp
• Cho vay thấu chi
• Cho vay cán bộ - công nhân viên
- Dịch vụ chuyển tiền:
• Chuyển tiền trong nước : chuyển tiền trong cùng hệ thống , chuyển tiền
ngoài hệ thống , chuyển tiền ngân hàng liên kết dịch vụ .
• Chuyển tiền ra nước ngoài
• Chuyển tiền từ nước ngoài về Việt Nam


- Sản phẩm bảo lãnh: Là việc Ngân hàng cam kết thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách h àng với nhiều loại hình sau :
• Bảo lãnh thực hiện hợp đồng
• Bảo lãnh dự thầu
• Bảo lãnh thanh toán
• Bảo lãnh vay vốn
• Bảo lãnh nộp thuế nhập khẩu
• Bảo lãnh hoàn tạm ứng
• Bảo lãnh phát hành chứng từ có giá
• Ngoài ra, SHB còn tiến hành thực hiện bảo lãnh quốc tế: Thư tín dụng dự
phòng (Stand by L/C) và Thư bảo lãnh (Letter of Guarantee), SHB cam kết
với đối tác nước ngoài của doanh nghiệp về việc thực hiện hợp đồng, dự
thầu, thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ,… trong trường hợp doanh nghiệp

vi phạm các nghĩa vụ thỏa thuận .
- Dịch vụ thẻ : Sản phẩm thẻ hiện tại của Ngân hàng là Thẻ ghi nợ nội địa
có thấu chi. Thẻ bắt đầu phát hành từ 07/12/2007 . Từ nay đến năm 2015 ,
SHB sẽ tiếp tục triển khai dịch vụ thẻ Visa, Master và thẻ tín dụng .
- Dịch vụ thanh toán : Dịch vụ thanh toán trong nước , Dịch vụ thanh toán
quốc tế , Chuyển tiền bằng điện (T/T) , Nhờ thu , Tín dụng chứng từ,…
- Các sản phẩm dịch vụ khác :
• Kinh doanh ngoại tệ: nhận thu đổi các loại ngoại tệ của khách hàng vãng
lai, mua bán các loại ngoại tệ trên tài khoản của khách hàng khi có yêu cầu,
thực hiện mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối trong nước và quốc tế
• Chi trả lương cán bộ - công nhân viên: nhận tiền mặt hoặc trích từ tài
khoản tiền gửi thanh toán của tổ chức kinh tế để thanh toán tiền lương cho
CBCNV theo thời gian nhất định hàng tháng.


×