Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Giáo trình tóm tắt bài giảng văn học xô viết phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (623.76 KB, 30 trang )

Tóm tắt bài giảng văn học Xô Viết

- 28 -

BÀI 4: VLIMIA MAI A KOVSKI (1893 – 1930)
Trong số các nhà thơ trưởng thành cùng với Cách mạng tháng Mười, V.
Maiacovski là một hiện tượng độc đáo. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của V.
Maiacovski gắn liền với sự nghiệp Cách mạng tháng Mười. Maia vào đảng
Bônsêvíts năm 15 tuổi, ba lần bò tù, là ủy viên thành uỷ Mátxcơva.
Thời đại với những biến chuyển dữ dội trong đời sống dân tộc Nga và nhân
loại đã in đậm nét trong tâm hồn và tư tưởng của nhà thơ. Hướng về lí tưởng của
cuộc cách mạng, say sưa ngây ngất với những biến chuyển của cuộc sống cách
mạng, với cái mới trong đời sống xã hội, Mai a đã chuyển cái không khí bi tráng
của thời đại vào trong thơ ca và đã trở thành người cổ vũ nhiệt thành nhất, trở thành
“cái ghềnh đá” trong nền văn học XôViết.
Bẩm sinh, con người nghệ só của Maia đã sẵn chất cách mạng. Cuộc sống
với tất cả sự ngưng đọng và những biểu hiện phàm tục, lố bòch của nó là kẻ thù của
Maia. Nhà thơ đã đi tìm cái mới với những biểu hiện cuồng phóng nhất (những năm
tháng Maia ở trong nhóm Vò lai). Cái hào phóng trong con người nghệ só tràn trề
sức sáng tạo bắt gặp sức vận động vũ bão của cách mạng đã làm xuất hiện một
phong cách thơ độc đáo- như là một sản phẩm tinh thần duy nhất của thời đại,
không thể lặp lại- với hai nét phong cách: sử thi và trào phúng trong thơ ca của ông.

I. Tính chất sử thi trong thơ Maia
+ Đọc thơ của Maia ta bắt gặp cái mãnh liệt, cái xô bồ, cái xù xì của cuộc
cách mạng (trong bài Cách mạng ). Tác giả say sưa, hào hứng hoà nhập vào đội
quân cách mạng vì ở đó lí tưởng của nhà nghệ só bắt gặp lí tưởng cách mạng: Tự do,
bình đẳng, bác ái mà cách mạng đã mang đến, thực tế nhà thơ đã chứng kiến:
Hỡi! những người công dân
Ngày hôm nay
cái trước đây vạn cổ đổ nhào


Ngày hôm nay
cơ sở những tinh cầu đem duyệt lại
Ngày hôm nay
ngay chiếc khuy cuối cùng trên áo
Cũng phải thay
Cuộc sống ta làm lại từ đầu.
+ Cái lớn lao, hào hùng của cách mạng cuốn hút tất cả: quảng trường,
đường phố, nhà cửa, người, ngựa, trại lính … Đội quân nghệ thuật hăng hái, ham hở
dốc hết tâm huyết phục vụ cách mạng:
Chúng tôi lấy phố phường làm bút vẽ
Quảng trường làm bảng màu
Thời gian ngàn vạn trang sách đã viết đâu
Ngày cách mạng vẫn chưa ai ca hát

Nguyễn Văn Kha

Khoa Ngữ Văn


Tóm tắt bài giảng văn học Xô Viết

- 29 -

Nào xuống đường bắt tay vào việc
Những người vò lai phường đánh trống, phường thơ.
(Nhật lệnh cho đội quân nghệ thuật )
Nhà nghệ só tự nguyện làm công việc cho cách mạng như mặt trời toả sáng.
(Một cuộc hội ngộ của V. Mai a covski ở thôn quê mùa hè).
+ Sức sống của nghệ thuật mà cách mạng mang lại không chỉ là khí thế hào
hùng, là gươm súng mà là sức sống của tự nhiên, ở kích thước của vũ trụ. Thơ ca

sánh cùng với mặt trời, nghệ só làm bạn với mặt trời, trò chuyện với tháp Ép phen.
Nhà thơ vận động cả nhà cửa, đường sá, phố phường theo cách mạng (Pari). Sự cổ
vũ nhiệt thành cho cách mạng đã giúp nhà thơ tìm được những hình thức biểu đạt
vừa gây sự ngỡ ngàng, choáng ngợp để chinh phục lòng người đúng như tầm cỡ của
ách mạng, vừa tận dụng mọi hình thức để tuyên truyền cổ động đã có sẵn trong
khung cảnh cách mạng lúc đó (Hành khúc cách mạng, Cửa sổ R. O. X. T. A .
Say sưa cổ vũ, động viên cách mạng là hướng tới lí tưởng, quy mô rộng lớn
của nó. Thực tế cuộc sống cách mạng là những công việc bình thường, đòi hỏi
những nỗ lực, những sự hi sinh. Con ngøi phải giành dật với thời gian, phải trả giá
cho nó mới có được những thành quả. Tác giả đã nhận thức điều này qua bài thơ
Đài kỉ niệm tạm thời, công trình của Vli mia Mai a covski:
Chủ nghóa cộng sản là việc rất bình thường
Ngày nay
đừng chiêng trống om sòm bằng lời nói
Phải nai lưng
gò cổ mà làm
Phải cướp thời gian, giành thời đại
Trên mặt trận âm thầm
đo tính từng phân.
Tác giả trân trọng những thành quả lao động trên đất nước vào thời kì mới. - Đó là những người Kuốc xkơ đào ra quặng sắt:
Người công nhân:
Ca ngợi các bạn
máy kéo chạy ầm ầm
Diễn giả này
hùng hồn hơn ai hết
Sách về các bạn
Ghidơ không đặt viết
Nhưng khói nhà máy
từng đám lớn ùn ùn
Tên họ các bạn

những chữ hoa loằn ngoằn
Hàng triệu cột khói
đem viết lên trời biếc
Cửa quang vinh xưa nay vốn hẹp

Nguyễn Văn Kha

Khoa Ngữ Văn


Tóm tắt bài giảng văn học Xô Viết

- 30 -

Hẹp đến đâu thì cũng mặc ai,
Các bạn bước vào bất tử đời đời
Những người Kuôc xkơ đào ra quặng sắt.
(Ca ngợi chiến công của hai mươi sáu người )
__
Đề cao vò trí người thầy trong xã hội mới (Mặt trận thứ ba)

II. Tính chất trào phúng trong thơ Maia
Trong sự vận động thần tốc của cách mạng, phơi bày bao nhiêu cái
phản động, cái bảo thủ, cái phàm tục. Với tất cả bầu nhiệt huyết của nhà nghệ
só cách mạng, Maia không hề dung tha một đối tượng nào cản trở con tàu cách
mạng.
– Phê phán những kẻ đầu cơ Cách mạng (Quân hèn mạt)
– Phê phán sắc sảo lối làm việc quan liêu, thủ tục hành chính phiền toái
(Những người loạn họp)
__

Chống sự bảo thủ (Trên tàu Xêbastôpôn ).
– Chống thói xu nònh (Bọn đặt điều nói nhảm , Đứa hèn nhát, Tài
liệu phổ thông cho những người học nònh ).
– Lối sống chạy theo thò hiếu tầm thường (Maruxia tự tử ).
– Phê phán thói bàng quan của giới trí thức trước sự đổi thay của cuộc
sống cách mạng (Bài thánh ca dâng nhà học giả)
__
Đặc biệt, lối sống phàm tục là kẻ tử thù của ông. Ngay từ hồi niên
thiếu, Mai a đã công khai chống lại lối sống phàm tục (Đây này -viết năm 1913 )

III. Một bộ phận trong thơ ca của V. Maiacovski gây ấn tượng
mạnh mẽ cho độc giả đó là chùm thơ Maiacovski viết về nước
ngoài
Trong cuộc đời của mình, Mai a đã từng di du lòch ở nước ngoài, đến các
nước châu Âu, châu Mỹ. Với nhãn quan sắc sảo, với tâm hồn nhạy cảm của nhà
nghệ só, Mai a đã phát hiện những nghòch lí, nhìn thấu tận bản chất những hiện
tượng trong đời sống chính trò, xã hội, trong quan hệ giữa người với người trong các
nước mà Mai a đã đặt chân đến.
__
Nghòch lí tương phản trong đời sống xã hội. Trong bài Pari, Mai a đã
phát hiện trên nước Pháp, một Pari trại lính và luật sư nhan nhản và một Pari kháckhông trại lính, không lũ He ri o. Tác giả thấy cô đơn giữa Pari.
Trong bài Tượng thần Tự do, Nhà chọc trời bổ dọc, Tác giả nhìn thấy bên
cạnh nền văn minh do khoa học kó thuật mang lại là những sự bất công, những tệ
nạn xã hội nhức nhối, sự tương phản tưởng như không thể có trong xã hội phát triển
như xã hội nước Mó.
__
Sự thối nát của chế độ chính trò: ở những nước kém phát triển như Mê hi cô,
Cu ba, tác giả chú ý đến nạn phân biệt chủng tộc, sự thất nghiệp dẫn đến tệ nạn xã
hội, sự nghèo nàn lạc hậu (Đen và trắng, Bệnh giang mai, Ở Cu Ba, Mê hi cô ).


Nguyễn Văn Kha

Khoa Ngữ Văn


Tóm tắt bài giảng văn học Xô Viết

- 31 -

__

Nhà thơ thông cảm sâu sắc với tình cảnh những con người bất hạnh (vì
nghèo đói, bệnh tật, vì tình cảnh bất công nhân phẩm bò chà đạp…), lên tiếng phê
phán kòch liệt lối sống tư sản phàm tục, sự ô trọc, trưởng giả đang nhan nhản trong
xã hội phương Tây và châu Mỹ, trên cơ sở tư tưởng xã hội chủ nghóa, hướng về một
xã hội bình đẳng tự do, không có người bóc lột người.

IV. Nghệ thuật thơ Mai a
1. Nhòp điệu trong thơ
V. Maiacovski làm thơ như thế nào? “Cái nhòp điệu xốn xang này - nhà thơ
viết – từ đâu đến – không rõ. Đối với tôi là một sự lặp lại, ở trong tôi một âm, một
tiếng động, một sự lắc lư hoặc nói chung đó là sự lặp lại một hiện tượng mà tôi diễn
ra được bằng âm thanh. Cái đem nhập lại có thể là tiếng rì rào của biển, tiếng
người vú già cứ mỗi sáng đóng sập cửa và lặp đi lặp lại, bước lệt sệt trong ý thức
của tôi, thậm chí quả đất xoay vần có thể đem lại nhòp điệu này, đối với tôi nó giống
như trong cửa hàng bán giáo cụ trực quan; đại khái cứ sè sè rồi tắt. Và nhất thiết
lồng với tiêng gió nổi lên và thổi rào rào.
Việc cố gắng tổ chức sự vận động, tổ chức âm thanh xung quanh mình, sự tìm
tòi tính chất và đặc điểm của những thứ này là một trong những công việc làm thơ có
tính chất thường xuyên và chủ yếu – công việc dự trữ nhòp. Tôi không biết là nhòp tồn

tại ở bên ngoài tôi hay chỉ có ở trong tôi, ở trong tôi thì đúng hơn. Nhưng để thức
tỉnh cần có sự va chạm – cũng như từ một tiếng rít không biết từ đâu đến, tiếng ngân
nga, tiếng u, u trong bụng chiếc dương cầm, cũng như chiếc cầu lắc lư có cơ sụp đổ
vì những bước đi đều đều của kiến.
Nhòp đó là sức mạnh cơ bản, năng lượng cơ bản của câu thơ. Không giải
thích được nó đâu, chỉ có thể nói về nhòp như nói về lực hoặc điện …
Nhà thơ chính là phải phát triển ở mình cái giác quan bắt nhòp này chứ
không phải đi học thuộc lòng những khổ âm luật …”. Maia đã kể lại về quá trình
hình thành thơ bậc thang của mình như vậy.

2. Sự kết hợp giữa chất trữ tình và tự sự
Chất tự sự trong thơ Maia hào hùng, kì vó và chất trữ tình sâu lắng, thể hiện
đúng cảm xúc nhà nghệ só trước biến cố trọng đại đang chi phối thân phận con
người.

3. Tính chất “khẩu ngữ” trong ngữ điệu và ngôn ngữ thơ
Thơ Maia viết chủ yếu để đọc to trước công chúng, do đó: “Trong toàn bộ
thấm nhuần khí chất của lời nói miệng mà chủ yếu là lời nói to tiếng” (G. Vinocur).
Trong thơ Mai a – như chính tác giả đã nói đến nhiều lần - sự phong phú của những
sắc thái ý nghóa chỉ có thể truyền đạt được bằng giọng nói, trên bản in khó thể hiện.
Ýù tưởng đó cũng thể hiện cả trong tiêu đề của một số bài thơ: Nói chuyện với
Puskin… , Nói chuyện với người thanh tra tài chính, Nói chuyện với Lênin, Thư
gửi đồng chí Kox trốp ,v.v…

Nguyễn Văn Kha

Khoa Ngữ Văn


Tóm tắt bài giảng văn học Xô Viết


- 32 -

4. Kết luận
Sinh ra từ thời đại bão táp, với tư chất bẩm sinh và sức sáng tạo phi thường
của nhà nghệ só chân chính, Mai a đã chân thành đứng về phía cách mạng, cổ vũ và
đấu tranh cho sự ra đời lý tưởng của cách mạng, chống lại những thế lực thù đòch,
bảo thủ, cản trở bước tiến của xã hội mới. Lý tưởng cách mạng chính là lẽ sống và
cương lónh sáng tác của Mai a. Những “vần thơ thép” của Mai a làm phong phú
nền văn học Nga thời kỳ XôViết, hoà nhòp cùng thời đại, tạo ra phong cách thơ độc
đáo có một không hai. Thơ của Maia là đài tưởng niệm mà nhà nghệ só tạc cùng
thời đại đầy biến động của ông.

Nguyễn Văn Kha

Khoa Ngữ Văn


Tóm tắt bài giảng văn học Xô Viết

- 33 -

BÀI 5: BORIS PASTERNAK (1890 – 1960)
I. Tiểu sử và sự nghiệp của B. Pasternak
B. Pasternak là một hiện tượng lớn trong văn học Nga thời kì XôViết .
Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống về nghệ thuật. Từ nhỏ,
B.Pasternak say mê L. Tolstoi, Rainner Maria Rilke (nhà thơ Đức, 1876 – 1926),
Seriabine (nhạc só người Nga, 1871 – 1915). Ông chòu ảnh hưởng của A.Block, là
bạn thân của nhà thơ Maiacovski.
Đam mê đầu tiên của Pasternak là âm nhạc. Mười ba tuổi ông đã chuyên

tâm sáng tác nhạc (1903). Ông rất thích Seriabine (nhạc só Nga, sáng tác các đề tài
trữ tình cách mạng). Sau sáu năm miệt mài, ông bỏ hẳn âm nhạc. Năm 1909, ông
vào học trường Văn khoa thuộc viện đại học Matxcơva và học triết học. Để học tốt
hơn, ông sang đại học Marburg(Đức) học một học kỳ rồi du lòch qua Thụy Só, Ý.
+ Mười năm sáng tác thơ trữ tình (1913 – 1923).
Giai đoạn đầu trong sự nghiệp tìm kiếm thơ ca của ông được đánh dấu bằng
những ảnh hưởng của trường phái tượng trưng và trường phái vò lai. Hai tập thơ đầu
tay Sinh đôi trong mây (1914) và Bên kia những rào cản (1917) đã phản ánh sự
tìm kiếm một giọng văn riêng, cách nhìn riêng về cuộc đời và một phong cách độc
đáo trong những khuynh hướng văn học khác nhau lúc đó. Đáng lưu ý là tập Bên
kia những rào cản (1917). Người đọc nhận ra một giọng thơ rất ổn đònh. Nhưng
tập này cùng biểu hiện nhứng nhược điểm: lối diễn đạt sáo mòn, vay mượn của các
nhà thơ tượng trưng, ngôn ngữ trừu tượng “kêu vang, trống rỗng” kiểu các nhà thơ
vò lai …
Trong những năm 20, ông thuộc nhóm văn học L. E. F.( Nghệ thuật mặt trận
cánh tả). Khuynh hướng của L. E. F muốn đi tới một nghệ thuật có khuynh hướng
và khuấy động, rao giảng thuyết vò lai.
+ Một điều cần lưu ý là, Pasternak không bao giờ để ai tập hợp mình vào
một nhóm, và chưa bao giờ gia nhập một trường phái nào hoặc đi theo một cương
lónh văn học nào được xác đònh rõ ràng. Khi đi với trường phái vò lai, ông đã giải
thích lại thuyết của nhóm này (theo kiểu ấn tượng) và khó chòu vì sự hẹp hòi trong
cưng lónh sáng tác của họ. Ông đi theo nhóm L. E. F là vì tình bạn với Maia và
Aseiev, và mức độ nào đó là do sự nỗ lực làm mới vần luật và ngôn ngữ thơ của
nhóm này.
+ Một trong những biến cố quan trọng nhất trong sự nghiệp của B.
Pasternak là việc sáng tác tập thơ Chò tôi cuộc sống (1922). Sự ra đời của tập thơ
đã đặt B. Pasternak lên ngang hàng những bậc thầy lỗi lạc của thơ ca đương thời.
Từ tập thơ này, B. Pasternak đã thể hiện mình như một hiện tượng thơ độc đáo. Tập
thơ tiếp theo: Chủ đề và biến khúc, xét về nhiều mặt là sự tiếp tục tập thơ trên
(xuất bản 1923).

+ Thời kỳ tìm kiếm trong lónh vực sử thi (1923 - 1930)

Nguyễn Văn Kha

Khoa Ngữ Văn


Tóm tắt bài giảng văn học Xô Viết

- 34 -

Sáng tác sử thi của B.Pasternak được đánh dấu bởi tác phẩm Trọng bệnh,
những bài thơ lòch sử - cách mạng được tập hợp dưới tiêu đề: Năm 1905 và Trung
uý Smith, tiểu thuyết bằng văn vần: Spertorski.
+ Từ 1930 – 1955, ông trở lại với thơ trữ tình, say mê dòch thuật
Sau thời kỳ nỗ lực tìm kiếm trong lónh vực sử thi, ông quay lại với thơ trữ
tình. Nhưng ông viết ít hơn. Ông dành phần lớn cho dòch thuật. Ông dòch thơ của
các nhà thơ miền Grudia, thơ của Shackspiare, Goethe, Schiller, Rilke, Verlaine,
v.v… Trong lónh vực sáng tác thơ trữ tình, ông thay đổi giọng thơ, bút pháp mô tả
của mình, nhằm tìm đến sự sáng sủa, đơn giản một cách “cổ điển”. Đầu những năm
40, ông viết Trên những chuyến tàu rạng đông (1943).
+ Năm 1956, ông tuyên bố không thích bút pháp của mình trước năm 1940.
Kiểu đặt vấn đề trở lại như thế và không thỏa mãn với những gì mình đạt đựợc,
chính là do bản chất của nhà thơ không muốn lặp lại mình, mà trái lại trút bỏ
những tác phẩm thời quá khứ để tiếp tục khám phá, sáng tạo trong tương lai. Với
Pasternak cái quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật không phải là những thành quả,
mà là những khám phá.
+ Người ta biết đến B. Pasternak không chỉ là một nhà thơ lớn mà còn là
một cây bút văn xuôi nổi tiếng của thế kỷ XX. Trong lónh vực văn xuôi, ông cũng
có những truyện ngắn được xếp vào loại hay nhất thế giới. Đặc biệt sau ngày chiến

thắng phát xít Đức, ông đã bắt tay vào viết tiểu thuyết Bác só Zhivago và hoàn
thành nó năm 1955. Năm 1956, nhà xuất bản Văn học Quốc gia Liên Xô kí hợp
đồng in tác phẩm này, nhưng việc thực hiện hợp đồng ấy bò những người có thế lực
trong giới văn học phản đối. Giữa lúc đó cuốn tiểu thuyết bỗng nhiên được xuất bản
tại Ý. Sau đó, ngày 23 tháng 10 mười 1958, viện Hàn lâm Th Điển tuyên bố
tặng giải thưởng Nobel về văn chương năm 1958 cho B. Pasternak. Nội dung giải
thưởng có ghi “Vì sự đóng góp lớn lao vào nền thi ca trữ tình hiện đại của thế giới
cũng như vào lónh vực các truyền thống vó đại của các nhà văn xuôi Nga”. Nhân dòp
này bọn phản động đã lợi dụng tên tuổi và tiểu thuyết Bác só Zhivago của nhà văn
để chống Liên Xô. Sự việc này khiến nhà văn bò khai trừ khỏi hội nhà văn Liên Xô,
mặc dù lúc đó có những người chân chính không tán thành quyết đònh sai trái của
Hội. Từ đó, B. Pasternak phải sống những ngày buồn thảm cho đến cuối đời. Tuy
nhiên, tên tuổi và tác phẩm của ông không vì thế mà bò lãng quên theo năm tháng,
trái lại vẫn sống trong lòng người dân XôViết và độc giả khắp nơi trên thế giới,
những người yêu văn học, yêu văn hóa Nga.
Trong trào lưu cải tổ và dân chủ hóa (perestroika), danh dự và tác phẩm của B.
Pasternak đã được phục hồi. Ngày 18 tháng 2 năm 1987, ban thư kí Hội nhà văn
Liên Xô đã chính thức xóa bỏ quyết đònh bất công đó. Uỷ ban di sản B. Pasternak
được thành lập. Các tác phẩm của ông lần lượt được in lại. Tiểu thuyết Bác só
Zhivago nguyên tác đã ra mắt bạn đọc trên tạp chí văn học Thế giới mới vào đầu
năm 1988. Trong năm 1988, Liên Xô cũng đã xuất bản toàn tập B. Pasternak.

Nguyễn Văn Kha

Khoa Ngữ Văn


Tóm tắt bài giảng văn học Xô Viết

- 35 -


II. Quan niệm nghệ thuật của B. Pasternak
Với tài năng kiệt xuất, vốn sống, vốn văn hóa phong phú, B.pasternak đã tạo ra
sắc điệu thẩm mỹ riêng, một cá tính sáng tạo độc đáo trong nền văn học XôViết.
Dấu ấn đặc sắc này trong nghệ thuật, trước hết bắt nguồn từ tư tưởng sáng tạo nghệ
thuật của nhà văn.
Mỗi một nhà văn có một quan niệm nghệ thuật về con người và thế giới, đó là
cách nhìn, cách cảm nhận, đánh giá con người, cuộc sống theo một quan điểm xã
hội, thẩm mó nào đó, theo yêu cầu của cái đẹp, của lí tưởng thẩm mó.
Tìm hiểu con người và tác phẩm của B. Pasternak ở gốc độ quan niệm nghệ
thuật, chúng ta thấy nổi lên những điểm sau đây:

1. Thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống, nghệ thuật gắn bó với sự thụ cảm
cuộc sống
B.Pasternak đã kế thừa truyền thống các nhà mỹ học cổ điển Nga thế kỉ thứ
XIX như Bielinski, Secnưsevski, Đobroliubov, … Ông trở lại nguyên lý mỹ học của
Sécnưsepski: “cái đẹp là cuộc sống”, cái đẹp nảy sinh từ cuộc sống hiện thực:
“Nghệ thuật bắt nguồn không phải từ tư tưởng không thỏa mãn từ con người đối với
cái đẹp trong thực tế, mà bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống trước hết là đời sống con
người”[1]. Từ nguyên lý mỹ học của Sécnưsevski, B.Pasternak đã nhận thức nó, làm
cho nguyên lý ấy trở thành một bộ phận trong quan niệm nghệ thuật của mình.
B.Pasternak quan niệm, nghệ thuật phải thuần khiết, chân thật. Ông trở lại
quan niệm mỹ học của Bielinxki :“Ở đâu có cuộc sống ở đó có thơ ca”. Chính đời
sống là cội nguồn của thơ ca, nhà thơ là người cảm nhận và biểu hiện nó, tạo nên
trong thơ ca sự toàn vẹn, cụ thể, sinh động, truyền đạt được tình cảm, ý chí cũng
như các mối liên hệ của vũ trụ xung quanh mình. B.Pasternak cũng đã từng nói về
chủ nghóa hiện thực gắn với thơ ca trong ý nghóa sự nhậy cảm chân thành, truyền
đạt được thực tại trong tính toàn vẹn, tính phức tạp và tính nhân quả của nó. Ông đã
từng nói: “Người ta có khuynh hướng tin rằng, nghệ thuật giống như một cái giếng
nước trong khi thực ra nó là bọt biển. Họ quyết đònh rằng nghệ thuật phải làm cho

nước bắn tung tóe ra trong khi chính nó phải tự tát cạn, tự làm cho bảo hòa. Họ
tưởng tượng là nghệ thuật có thể chỉ còn là những phương cách biểu hiện trong khi
nó được tạo nên bằng những cơ quan của trí năng luôn luôn đại diện trong người
quan sát, nghệ thuật phải dễ cảm thụ và phải nhìn với sự thuần khiết và chân thật,
thế mà thời đại bây giờ nó chỉ làm quen với sự hóa trang và lô khán đài sân khấu và
hiện ra màn ảnh”[1].
Đối với B.Pasternak, một sự lónh hội trực tiếp không qua trung gian, sự mạnh
mẻ và trong sáng chính là điều kiện đầu tiên của nghệ thuật và khi phát hiện “cái
mới” phải cùng lúc trùng hợp với sự tìm kiếm cái tự nhiên và sự trung thực. Ông đề

[1]

Nguyễn Hải Hà, Đỗ Xuân Hà, Nguyễn Ngọc Ảnh, Lòch sử Văn học Nga thế kỉ XIX,Nxb
tr. 179
[1]
B.Pasternak con người và tác phẩm, NXB TP HCM, 1988, tr. 65

Nguyễn Văn Kha

Khoa Ngữ Văn


Tóm tắt bài giảng văn học Xô Viết

- 36 -

cao cảm xúc ban đầu và sự rung đông trước cái mới. Chính trong tinh thần này
trong một bài viết dành cho Chopin, B.Pasternak trình bày: “Tác phẩm của nhạc só
có một sự độc đáo tuyệt vời không phải vì nó không giống tác phẩm của những đối
thủ mà bởi vì nó giống như thiên nhiên mà ông nói tới”[2]. Quan niệm như vậy,

B.Pasternak đã có cái nhìn mới về thế giới xung quanh, điều đó tựa như người
nghệ siõ nhìn thấy thế giới ấy lần đầu tiên, cảm tưởng mọi sự vật hiện tượng trong
cuộc sống hàng ngày luôn luôn mới qua cái nhìn của nhà thơ. B.Pasternak cho
rằng, điểm bắt đầu của mọi quá trình sáng tạo là bắt đầu không nhìn nhận thực tại
nữa và cố gắng nói về thực tại ấy không phải giữ gìn ý tứ, không phải dùng sự khéo
léo mà tựa như là nhà thơ đầu tiên xuất hiện trên trái đất. Ông thích cái nhìn tươi
mát của buổi sớm mai: “Tôi thức dậy xung quanh tôi cái gì cũng nói”[3]. Trong biểu
hiện muôn hình vẻ của cuộc sống hàng ngày, người nghệ só luôn luôn nhìn cuộc
sống với cảm xúc mới. Ta bắt gặp trong thơ cũng như trong văn xuôi của
B.Pasternak thiên nhiên hiện lên hết sức sinh động và tươi mát. Tiểu thuyết trữ tình
Bác só Jhivago là một tác phẩm tiêu biểu nhất cho cái nhìn tươi tắn của nhà văn đối
với cuộc sống. Đời sống, thế giới tinh thần của Jhivago gắn liền với thế giới xung
quanh. Chàng luôn sống trong trạng thái tươi mát của cuộc sống. Jhivago đến miền
Uratin trong nỗi niềm cô đơn tuyệt vọng nhất nhưng khi nhìn vạn vật, thế giới xung
quanh mình giữa miền đất lạ, cảm xúc của chàng dâng trào và chàng suy ngẩm
miên man: “Ngoài trời đang là buổi chiều xuân, không khí được đánh dấu bằng các
âm thanh. Những giọng nói của bầy trẻ đang chơi đùa, tản mác ở những đòa điểm xa
gần khác nhau, tựa như muốn chứng tỏ rằng không gian đang tràn ngập sự sống. Và
cái phương xa này là nước Nga- người mẹ, người tuẫn giáo, kẻ ương ngạnh, kẻ điên
rồ lừng danh bốn biển năm châu không gì so sánh nỗi, muôn vàn đáng yêu của
chàng, nó cứ đùa giỡn bầy ra những trò tinh quái mãi mãi kì vó và bi thảm, mà người
ta không bao giờ có thể tiên liệu nỗi. Ôi! Tồn tại mới ngọt ngào làm sao.
Ôi! sống trên đời và yêu đời mới ngọt ngào làm sao, ôi! luôn luôn ta cứ muốn
nói lời cảm ơn chính cuộc sống, chính sự tồn tại, muốn nói thẳng điều đó vào mặt
nó”[1]. Đó chính là lời của B.Pasternak và cúng chính là lời của Jhivago đối với tình
yêu cuộc sống cũng như đối với tình yêu của nước Nga.
Với thiên nhiên, trong các tác phẩm của ông, thiên nhiên hiện lên hết sức
sinh động và hấp dẫn, tiềm ẩn một sức sống mảnh liệt. Đặc biệt trong thơ, những
vần thơ dạt dào sức sống, có một sự hấp thu mạnh mẽ đới với người đọc. Bài thơ
Mùa xuân đã trở lại là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách của ông. Tác giả

miêu tả cảnh vật như tỏa ra sự khỏe mạnh và tươi mát lạ lùng:
Tôi đã nghe ở đâu rồi nhỉ!
Những đoạn rời người ta nói năm trước?
A! hôm nay tôi nghó lần nữa.
[2]

SĐD tr. 66
SĐD tr. 66
[1]
B.Pasternak con người và tác phẩm, NXB TP HCM, 1988, tr. 840-841
[3]

Nguyễn Văn Kha

Khoa Ngữ Văn


Tóm tắt bài giảng văn học Xô Viết

- 37 -

Lần nữa con suối lại chảy ra khỏi khóm cây trong đêm
Lần nữa như vào những tháng năm đã qua
Sức nước của cối xay tràn bờ
Và đã ném trả lại những cục băng
Đây thật ra là một điều thần diệu mới
Như ngày xưa, mùa xuân một lần nữa đã trở lại
Điều thần diệu là thế đó[2] .

B.Pasternak lúc nào cũng cảm thấy ngạc nhiên trước vạn vật và nhà thơ như bò

mê hoặc bởi những điều khám phá này. Cảnh vật luôn tỏa ra sự khỏe khoắn và
mới mẻ trong thơ B.Pasternak:
Bình minh vung lên ngọn đuốc hung tợn
Và nung đốt con chim én
Tôi lục tìm trong kí ức mình và nói
Ôi! đời sống hãy cứ vẫn luôn luôn mới
Rạng đông là một phát súng trong đêm
Và thế là chết trên đường bay của mình
Ngọn lửa của viên đạn
Đời sống vẫn cứ luôn luôn mới [3]
Thiên nhiên đã trở thành nhân vật trữ tình của B.Pasternak. Với thiên nhiên, nhà
thơ có mặt khắp nơi nhưng đồng thời cũng không có ở đâu cả. Nhà thơ đã đồng
hóa cái tôi trữ tình của mình với thiên nhiên là một, tạo nên một tính cách mật
thiết và xác thực rất đặc biệt. Vì vậy, B.Pasternak đã đưa chúng ta đến với cái
nhìn mới về nghệ thuật: nghệ thuật bắt nguồn từ trong lòng thiên nhiên, chính
đời sống là cội nguồn, người nghệ só luôn luôn nhìn cuộc sống trong sự vận động
và tươi mát của chúng.
Trong cách viết và cái nhìn của B.Pasternak về thế giới, ông loại bỏ mọi
thứ mô phỏng trừ mô phỏng thiên nhiên. Tác giả đã nói lên nguyên tắc sáng tác
của mình trong một bài thơ tặng cho Ann Akhmotava:
Tôi tưởng chọn những chữ
[2]
[3]

SĐD tr. 52
SĐD tr. 53

Nguyễn Văn Kha

Khoa Ngữ Văn



Tóm tắt bài giảng văn học Xô Viết

- 38 -

Giống như sáng tác của chò
Nhưng tôi nhầm- cần gì
Tôi bền gan trong sự nhầm lẫn của mình[1]
Ông cho phép mình đánh liều nhưng không bao giờ rơi vào sự tầm thường
nhạt nhẽo. Những hình ảnh mang đậm tính cổ điển trong thơ B.Pasternak xuất
hiện nhiều nhưng không bao giờ rơi vào sự tầm thường lặp lại. Sở dó được như
vậy là do sự tươi mát của cái nhìn và sự mới mẻ trong phong cách của nhà văn.

2. Nghệ thuật là cơ quan trực giác, nhà thơ là nhân chứng, người
song hành cùng lòch sử
Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, người nghệ só luôn luôn có cách tiếp
cận riêng đối với đời sống. Mỗi một nhà văn có một cá tính sáng tạo riêng do
bản chất người nghệ só quy đònh. B.Pasternak cũng vậy, do bản chất của mình,
ông thích nhìn ngắm cuộc đời hơn là biến đổi nó. Đối với B.Pasternak, nghệ
thuật là cơ quan trực giác, nghệ só là nhân chứng nhạy cảm và chăm chú, không
phải là người tham gia tích cực vào các sự kiện lòch sử. Về phương diện này vừa
do chính kiến, vừa do tính cách của nhà văn quy đònh. B.Pasternak là một con
người, nói như nhà thơ Erenburg – người bạn cùng thời đánh giá về ông:
“B.Pasternak quả không sống cho bản thân mình bao giờ, vì anh chưa bao giờ là
con người ích kỉ, nhưng anh chỉ biết sống cho bản thân con người anh, với chính
anh và bằng tất cả tâm hồn anh”[2]. Từ bản tính như vậy, nó đưa nhà văn đến một
cái nhìn rất khác người, làm nổi bật tính cách riêng, tạo nên phong cách nghệ
thuật độc đáo nhưng trải qua không ít sóng gió trong cuộc đời.
Phải nói rằng, tính cách của B.Pasternak hoàn toàn trái ngược với tính cách

của người bạn chí thân cùng thời là Maiacovxki. Maiacovxki từng bảo rằng:
“B.Pasternak và tôi sống trong một ngôi nhà nhưng không ở cùng phòng” [1]. Đối
với B.Pasternak, thơ ca là cơ quan trực giác, tự nó có những nỗ lực thu nhận mọi
màu sắc của thiên nhiên sống. Những câu thơ đẹp nhất là những câu thơ miêu tả
về thiên nhiên hay nhất. Điều này hoàn toàn xa lạ với Maiacovski, nhà thơ này
hoàn toàn bò tác động bởi những biến cố lòch sử; khẳng đònh thơ ca tích cực của
mình trong cuộc đấu tranh khi Cách mạng tháng Mười nổ ra, và chỉ coi thiên
nhiên như một vật liệu để làm việc: “Nếu ngọn núi Kazbek làm vướng chân
chúng ta hãy cho nó nổ tung lên”[2]. Maiacovski nói về thiên nhiên với sự hạ cố
thậm chí là xem thường, ông chỉ coi trọng những gì do bàn tay con người sáng
tạo. Đối với ông, thơ ca là vũ khí, là cây súng, là sản xuất, là nhà máy, xí
[1]

B.Pasternak con người và tác phẩm, NXB TPHCM, tr 67
B.Pasternak con người và tác phẩm, NXB TPHCM 1988, tr 32
[1]
B.Pasternak con ngưởi và tác phẩm, NxB TP HCM, tr 84
[2]
SĐD tr. 84
[2]

Nguyễn Văn Kha

Khoa Ngữ Văn


Tóm tắt bài giảng văn học Xô Viết

- 39 -


nghiệp, hầm mỏ,v. v … Ông tích cực tham gia vào các sự kiện, nhà thơ hòa mình
trong bão táp cách mạng. Đối với B.Pasternak, thơ ca có những thuộc tính phần
nào tự nhiên hơn, “đó là tiếng rít bò ngắt quãng khô khốc, đó là tiếng nứt nẻ của
băng”[3]. Maiacovski đặt nhà thơ ngang hàng với người thợ, người kó sư hay
người làm chính trò, trong khi đó, B.Pasternak phân biệt ở những người ấy, nếu
không nói là đặt họ đối lập nhau. Sự phân biệt giữa nhà thơ và người làm chính
trò, B.Pasternak đã trình bày rõ trong một bài viết trước cách mạng: Chiếc cốc
đen. Nhà thơ và người anh hùng, trữ tình và lòch sử, cái nhất thời và cái vónh
cửu, … nó là những phạm trù thuộc những loại khác nhau. Tuy nhiên, tác giả vẫn
dành cho thơ quyền không bò lôi kéo vào thực tại và không nhận trách nhiệm:
“Thực hiện lòch sử ngày mai ấy”.
Đây là quan niệm độc đáo của B.Pasternak thể hiện qua cái nhìn về cách
mạng, chiến tranh. Khác với các nhà văn cùng thời, ở đây người nghệ só là người
sắm vai đứng bên ngoài những biến cố lòch sử để quan sát. Nhà văn là người
song hành cùng lòch sử, là nhân chứng đối với các sự kiện lòch sử ấy.
Hướng tiếp cận đời sống theo cách nhìn riêng của B.Pasternak làm cho
sáng tác của ông khác với các nhà văn XôViết cùng thời như Gorki, Ostơrovski,
A.Tolstoi, Solokhov, v.v …
Tác phẩm Người mẹ là một sáng tác tiêu biểu cho quan niệm nghệ
thuật của Gorki. Paven Valasov cũng như người mẹ Nhilovna là những người
giác ngộ lý tưởng cộng sản, họ tham gia trực tiếp vào những biến cố xã hội nhằm
cải tạo và thay đổi nó. Nhà văn để cho nhân vật của mình hành động một cách
tích cực, họ xả thân vì lý tưởng, vì quyền lợi giai cấp, vì chân lý.
Cũng như trong sáng tác của Gorki, Ôtơrovski xây dựng hình tượng nhân
vật gắn với môi trường hoạt động cách mạng. Đó là những con người trưởng
thành và lớn lên trong sự tôi luyện nghiêm ngặt của thực tiễn cách mạng. Tác
phẩm Thép đã tôi thế đấy ca ngợi ý chí sắt đá của nhân vật Paven Corsaghin.
Paven Corsaghin là nhân vật điển hình cho phẩm chất của những thanh niên
trưởng thành trong Cách mạng tháng Mười. Mọi quan hệ đối với anh đều lấy
cách mạng làm thước đo, ngay cả tình yêu cá nhân giữa anh và Tônhia cũng

không ngoại lệ. Họ là những con người thực hiện sứ mệnh lòch sử: “Tất cả đời ta,
tất cả sức ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, sự nghiệp đấu
tranh giải phóng loài người”[1].
Cùng khuynh hướng trên nhưng Alêchxây Tolstôi có một cách thể hiện
con người trong chiến tranh, cách mạng khác các nhà văn cùng thời. Tác phẩm
Con đường đau khổ đã mô tả quá trình vật lộn của các nhân vật đi tìm chân lý.
Họ là những con người rất thực, không mang trong mình lý tưởng cách mạng cao
[3]
[1]

B.Pasternak con ngưởi và tác phẩm, Nxb. TP Hồ Chí Minh, 1988, tr. 85
Lòch sử văn học XôViết, tập 1( cuốn 2), tr. 190

Nguyễn Văn Kha

Khoa Ngữ Văn


Tóm tắt bài giảng văn học Xô Viết

- 40 -

cả như Paven Vlasov của Gorki hay Paven Corsaghin của Ostơrovski. Họ là
những con người bò cuốn hút vào dòng chảy cách mạng. Trận cuồng phong đã
ném những người con của dân tộc Nga ra khỏi cuộc sống bình yên và đẩy họ vào
dòng chảy đầy biến động của xã hội. Các nhân vật như Đasa, Têlêghin, Rôtsin,
Katya, trực tiếp tham gia vào cách mạng một cách hoang mang, thụ động nếu
không nói là có cả phần lầm lạc, cả những bước ngộ nhận và khờ dại.
Đối với B.Pasternak ông tiếp nhận sự kiện lòch sử như các hiện tượng tự
nhiên. Ông cảm nhận, nghe, thấy nhưng không nhận thức một cách logic, thậm

chí không muốn nhận thức. Ông tiếp nhận cuộc sống và lòch sử như nó đang tồn
tại. Tiểu thuyết Bác só Jhivago là một tác phẩm tiêu biểu cho quan niệm nghệ
thuật của B.Pasternak. Hình tượng Jhivago thể hiện quan điểm sáng tác của nhà
văn. Mọi tâm tư tình cảm, ước mơ nhà văn đều gởi trọn qua nhân vật này. Thái
độ của Jivago đối với cách mạng được biểu hiện ở trạng thái tâm lý không nhất
quán, có sự dao động, hoài nghi thậm chí thiếu vắng ý chí, đó là đặc trưng của
con người Jhivago. Điều này đúng với cách cảm nhận cuộc sống thời đại của
B.Pasternak. Như nhà văn Erenburg đã từng viết về con người của B.Pasternak:
“B.Pasternak cảm nhận được thiên nhiên, được tình yêu, được Goethe, được
Shakeprare, được âm nhạc, được nền triết học cổ điển Đức, được các tác phẩm
hội họa của trường phái Vơniz, anh cảm nhận được chính mình và có thời cả một
số bạn bè thân thiết của mình, nhưng còn lòch sử thì anh không tài nào cảm nhận
được. Anh nghe được cả những âm thanh mà nhiều người không nghe thấy, anh
nghe được cả nhòp đập của con tim lẫn tiếng cỏ cây đang lớn ngoài kia, ấy thế
nhưng bước chân thời đại đang đi thì anh không hề nghe thấy”[1].
Erenburg nhận xét như thế nhưng thực ra, dưới những hình thức khác nhau
ta vẫn tìm thấy những âm vang lòch sử trong sáng tác của ông, đặc biệt là giai
đoạn cuối đời. Về cuối đời ông sẳn sàng phong những danh hiệu cao quý nhất
cho lòch sử, cho người anh hùng hay cho một người hoạt động ở một lãnh vực
nào đó trong xã hội, thế nhưng không vì thế mà không tách riêng hẳn “vương
quốc của nhà thơ”.
Trong những quan hệ của mình với lòch sử cũng như trong quan hệ với tất cả
những hiện tượng thiên nhiên, nhà thơ là “bọt biển” cuốn hút tất cả những gì bao
quanh nó chứ không phải là “chiếc bùa” tán nghiền mọi thứ. “Bọt biển” cuốn
hút tất cả những gì đặc trưng của thời đại mình nhưng không bao giờ trở thành bộ
phận của đời sống xã hội, lòch sử với mức độ như nó nằm trong thiên nhiên.
Nghóa là trong cách trình bày lòch sử của ông, người ta cảm thấy B.Pasternak có
một cái nhìn mới, sáng suốt nhưng đó là sự sáng suốt của người quan sát ghi
chép tỉ mỉ những biến cố, ông không tham gia trực tiếp vào các biến cố xã hội.
B.Pasternak nói rằng “nghệ thuật là giới hạn tận cùng của một thời đại” [2]. Ông

[1]
[2]

B.Pasternak con người và tác phẩm, Nxb. TP Hồ Chí Minh, 1988 tr.32

B.Pasternak con người và tác phẩm, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1988, tr. 87

Nguyễn Văn Kha

Khoa Ngữ Văn


Tóm tắt bài giảng văn học Xô Viết

- 41 -

nối liền những sáng tác nghệ thuật với những biến cố lòch sử như là những hiện
tượng tương đồng tiến hành ở những mức độ khác nhau như thể Lep Tolstoi đi
song song với cuộc cách mạng Nga thế kỷ XIX. Cũng giống như vậy,
B.Pasternak cho rằng, tập thơ Chò tôi – Cuộc sống của ông đi song song với
cách mạng, mặc dù trong đó chẳng có vấn đề gì là cách mạng hay những đảo lộn
xã hội mà chỉ là những cơn bão hay những buổi mặt trời mọc. Dù sao chăng nữa,
lòch sử vẫn in đậm dấu ấn trong sáng tác của ông, và điều ấy xảy ra vào thời kỳ
ông công khai khước từ mọi liên hệ với nó và cho rằng, mình không hiểu:
“Những ngàn năm trước của chúng ta, các bạn ạ, là cái gì?”[1]. Phải thừa nhận
rằng, những bài thơ phong cảnh của ông và những phong cảnh thiên nhiên của
ông mang dấu ấn lòch sử, chẳng hạn như :“Dấu vết một toán kò binh xung kích
nằm trong tuyết”, “Bầu trời bãi công”, v.v… Đâu đó ta vẫn tìm thấy dấu vết lòch
sử trong sáng tác của B.Pasternak mặc dù nhà văn muốn hay không muốn.


3. Sự gặp gỡ giữa cái nhất thời và cái vónh cửu, sự thâm nhập của
thực tại lòch sử vào vũ trụ thiên nhiên qua cái nhìn của B. Pasternak
Như trên đã trình bày, B.Pasternak không tham gia trực tiếp vào các
biến cố lòch sử nhưng ông thích quan sát và ghi chép tỉ mỉ trước những biến cố
dữ dội của cách mạng. Vì vậy, trong sáng tác của ông ta vẫn bắt gặp bóng dáng
của những biến cố lòch sử. Đối với nhà thơ, sự thâm nhập của thực tại lòch sử vào
vũ trụ thiên nhiên là một hiện tượng tự nhiên.
Trong thời kỳ sáng tác sau Cách mạng tháng Mười, những phong cảnh
lòch sử của B.Pasternak thay đổi màu sắc, đôi khi chúng còn trở thành tượng
trưng cho phong cảnh nước Nga và cách mạng. Trong bài thơ Điện Kremlin
dưới tuyết năm 1918, trận bão tuyết ở đây trùng hợp với sự bùng nổ của cách
mạng trên những miền đất của nước Nga mênh mông. Những yếu tố lòch sử,
ngọn gió cách mạng được nhận thức với nhiệt tình của ngòi bút điêu luyện khi
miêu tả về thiên nhiên.
Đêm vừa qua điện Kremlin không gì so sánh được
Cung điện kì lạ phủ đầy bọt
Trong những buồm dây giăng của biết bao mùa đông
Đã trút cơn giận của mình lên mùa đông hôm nay
Và cung điện hùng vó phủ đầy quá khứ
Như những ảnh tượng của một vò ngôn sứ
Mù quáng xông lên thật khủng khiếp
Trong những gì còn lại của năm ấy, khoảng năm thứ 1919.

[1]

B.Pasternak con người và tác phẩm, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, 1988, tr. 87

Nguyễn Văn Kha

Khoa Ngữ Văn



Tóm tắt bài giảng văn học Xô Viết

- 42 -

Những hình ảnh mà B.Pasternak cho chúng ta về thời kì sôi động ấy với
những cơn mưa rào tẩy sạch, những cơn giông và cơn bão tuyết đều có mục đích
biểu hiện tính chất chung của sự đảo lộn cách mạng. Trong thơ của ông, thời kì
cách mạng thật khó mà sắp xếp vào một đề mục riêng viết về cách mạng. Chủ
đề ấy có mặt khắp nơi. Nó hiện diện nhưng khó nhìn thấy, giống như cuộc gặp
gỡ giữa cái nhất thời và cái vónh cửu, cuộc gặp gỡ xưa nay vẫn là nỗi bận tâm
của nhiều nhà nghệ só lớn.
Trong tác phẩm văn xuôi trữ tình: Bác só Jhivago, B.Pasternak đã kết
hợp tài tình giữa thực tại lòch sử và vũ trụ thiên nhiên cũng như cái nhất thời và
vónh cửu. Điều này được thể hiện xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Vũ trụ thiên
nhiên và thực tại lòch sử như hòa quyện trong từng nhân vật của B.Pasternak,
đặc biệt hoàn hảo nhất là hình tượng Jhivago và Lara. Jhivago đã suy nghó về
lòch sử như sau: “Chàng lại nghó rằng, chàng hình dung lòch sử cái được mệnh
danh là tiến trình lòch sử hoàn toàn khác với quan niệm chung của mọi người và
lòch sử được vẽ ra trước mắt chàng như đời sống của thế giới thảo mộc. Mùa đông
dưới tuyết, những cái cành trụi lá của cây thông khẳng khiu và đáng thương như
mấy sợi lông trên nốt ruồi của một cụ già. Mùa xuân chỉ trong vài ngày, rừng cây
thay hình đổi dạng vươn cao lên tận mây và người ta có thể ẩn mình hay lạc lối
trong cái mê cung rậm rạp của nó”[1]. Tình yêu của Jhivago và Lara là một mối
tình lý tưởng, một tình yêu vónh hằng. Thông qua mối tình này, B.Pasternak
muốn đưa đến một quan niệm về tình yêu và hạnh phúc của con người trong thời
chiến tranh, bom lửa. Nhà văn rút ra một triết lý nhân văn cao cả: “Những
khoảnh khắc, trong đó hơi hùng đam mê xen lẫn vào sự tồn tại của con người
trần tục nơi họ, như ngọn gió vónh cửu, chính là những giây phút họ linh nghiệm

và nhận biết những điều luôn luôn mới mẻ về bản thân mình và về cuộc sống”[2]
.Tình yêu của họ trải qua biết bao thăng trầm. Chiến tranh đã đưa họ đến gần
nhau và chính nó là thủ phạm chia rẽ tình yêu của hai người. Những ngày tháng
hạnh phúc nhất của Lara và Jhvago là những ngày tháng đầy biến động nhất của
lòch sử. Mỗi khi nhớ lại, Lara cảm thấy hãnh diện và hạnh phúc vô ngần: “Nàng
lại cảm thấy dạt dào hãnh diện và an ủi, cũng như mỗi lần nàng nhớ tới Jhivago
hoặc trong mấy khoảng thời gian ngắn ngủi chung sống với chàng, cái hơi thở tự
do, vô tư luôn toát ra từ chàng lúc này lại bao phủ lấy nàng” [3]. Thông qua mối
tình giữa Jhivago và Lara, ta bắt gặp cái vónh cửu của tình yêu và cái nhất thời
của các biến cố lòch sử. Nó đan xen vào nhau, làm cho tình yêu của họ trở nên
mong manh hơn và cũng chính vì vậy mà nó trở nên sống mãi với thời gian. Đây
cũng chính là cái nhìn độc đáo của B.Pasternak. Có thể nói, trong quá trình sáng
tạo, ông kiên trì thể nghiệm quan niệm riêng của mình về con người, lòch sử và
cuộc sống. Điều này làm cho nhà văn có một cái nhìn mới về thực tại khách
[1]

B.Pasternak con người và tác phẩm NXB TPHCM 1988, tr 939
SĐD tr. 847
[3]
B.Pasternak con người và tác phẩm NXB. TP. HCM 1988, tr 1009
[2]

Nguyễn Văn Kha

Khoa Ngữ Văn


Tóm tắt bài giảng văn học Xô Viết

- 43 -


quan. Ta dễ dàng nhận thấy rằng, trong thơ trữ tình cũng như trong văn xuôi của
B.Pasternak, lòch sử luôn chòu nhận một tính chất đặt biệt của vũ trụ thiên nhiên
và đây cũng là nét độc đáo của B.Pasternak trong phong cách biểu hiện nghệ
thuật của mình.

4. Quan niệm đạo đức thẩm mó của B.Pasternak
B.Pasternak gắn bó với những hiện tượng đạo đức phát xuất từ những miền
sâu thẳm của đời sống và nhà văn thể hiện thường là không nhìn thấy được trong
những biến cố bình thường của cuộc sống hàng ngày. Ông luôn bò lôi cuốn bởi
một đời sống “không hoa mỹ cũng không phi thường”. Ngay từ những năm 1930,
ông thích những đề tài bên lề cuộc sống xã hội nhưng không vì vậy mà không
chứa đựng một ý nghóa lòch sử. B.Pasternak phát biểu ý nghó của mình: “Tất cả
những gì được tận dụng một cách chăm chỉ và hoa mỹ đối với tôi đều có vẻ thứ
yếu vô ích và đôi khi còn đáng ngờ về mặt đạo đức”. Nhà thơ đặc biệt thích vẻ
đẹp của những ngôi làng nhỏ, những túp lều nông thôn và bến đò tỉnh lẻ Nga.
Ông yêu mến những tình cảm không kiểu cách của những con người giản dò làm
những công việc khiêm nhường. Ông thể hiện trong văn chương điều ông nhìn
thấy số phận và chỗ đứng của con người trong lòch sử. Con người mang những
giá trò đạo đức cao q nhất là con người ẩn lánh, khiêm tốn, xa rời những vẻ
tráng lệ và sự phô trương, mỗi người sống một cuộc sống nội tâm sâu sắc trong
cái “tôi” ẩn lánh để cho cuộc sống tiến lên. Thế giới thu nhỏ, thế giới phóng lớn
nối liền chặt chẽ và cá nhân có một ý nghóa, một giá trò tuyệt đối không phải với
tư cách là một thực thể tách khỏi đời sống mà là hòa hợp và liên kết với nó.
Trong suốt quá trình sáng tạo nghệ thuật, B.Pasternak luôn tìm đến một sự
đơn giản, cần thiết cho nghệ thuật. Điều này đã được tác giả thể hiện qua mơ
ước của nhân vật Jhivago: “Suốt đời chàng mơ ước đạt đến sự độc đáo thầm lặng
bề ngoài khó nhận ra vì được giấu kín dưới lớp vỏ hình thức thông dụng và quen
thuộc. Suốt đời chàng cố tình luyện một bút pháp dè dặt và giản dò, khiến người
đọc và người nghe thấu hiểu nội dung mà tự họ không nhận ra họ thẩu hiểu bàng

cách nào. Suốt đời chàng quan tâm đến một phong cách kín đáo không lôi cuốn sự
chú ý của bất kỳ ai, và chàng kinh hoảng khi thấy mình rất lâu mới vương tới lý
tưởng đó”. Đây không phải là điều dễ dàng đạt được trong một sớm một chiều
mà đòi hỏi một sự nỗ lực, một ý chí và bản lónh phi thường mới mong lột xác, đổi
mới bút pháp.
Trong thời kỳ đầu, sáng tác của B.Pasternak thiếu đi cái chất triết lý sâu
xa, tư tưởng nghệ thuật không hiện ra một cách cô đọng, tập trung, nó chìm
trong những hình ảnh, cách diễn đạt trừu tượng, khó nhận thấy những suy nghó
riêng tư thầm kín. Những tư tưởng của tác giả bò che mờ bởi rất nhiều ấn tượng
liên tưởng được nối liền bằng một mạng lưới dày đặc những ẩn dụ tượng trưng, …
Nói chung, B.Pasternak thời trẻ quá trung thành với những rung cảm, cảm xúc
cho nên những sáng tác đầu tay thiếu đi chiều sâu triết học. Nhưng càng về cuối
đời, tác phẩm của ông càng trở nên giản dò và gần gủi với cuộc sống hàng ngày.

Nguyễn Văn Kha

Khoa Ngữ Văn


Tóm tắt bài giảng văn học Xô Viết

- 44 -

Thơ ca B.Pasternak càng về sau càng trở nên phong phú hơn nhờ cách cảm nhận
độc đáo từ những biến cố ngày thường và khả năng phát hiện bởi ý nghóa tức
thời của sự vật, những sinh họat và những tập quán làm thành đời sống hàng
ngày. Điều này gắn với quan niệm đạo đức- thẫm mỹ về sau. Trong hơn nửa thế
kỷ hoạt động văn học của mình B.Pasternak có nhiều thay đổi nhưng cho đến
cùng ông vẫn trung thành với những tư tưởng riêng của mình, một trong những
xác tín ấy là: nghệ thuật chân chính luôn luôn phục vụ cái gì cao hơn chính nó,

đó là ý nghóa sự sống, sự lớn lao của cuộc đời và giá trò vô biên của con người.
Nó không cần đến những điều ảo tưởng, xa vời hay những lời tuyên bố hùng
hồn, oai phong mà là sự lớn lao toát ra từ tính tự nhiên trong lối kể chuyện, trong
cách miêu tả, từ độ nhạy cảm của cái nhìn và từ cảm hứng của nhà thơ, là kẻ bò
lôi cuốn và đắm chìm bởi phép màu thực tại, cái đang hiện hữu và sự lỳ lạ của
đời sống thế giới xung quanh.
Lí tưởng đạo đức- thẳm mỹ trong giai đoạn sáng tác đầu tay của ông là
dành cho “Thơ ca – Bọt biển”, nhưng về cuối đời, nhận thức thẩm mỹ của
B.Pasternak được nâng lên cao hơn: “Mục đích của nghệ thuật là sự hi sinh bản
thân mình”. Khi tiểu thuyết Bác só Jhivago hoàn thành thì B.Pasternak đã ý
thức trọn vẹn, ông đã hoàn thành số phận lòch sử của mình.

Nguyễn Văn Kha

Khoa Ngữ Văn


Tóm tắt bài giảng văn học Xô Viết

- 45 -

BÀI 6: MIKHAIN APHANAXIÊVITS BUNGACỐP VÀ TÁC
PHẨM NGHỆ NHÂN VÀ MARGARÍTA
I. Tiểu sử và sự nghiệp của Mikhain Aphanaxiêvits Bungacốp
Mikhain Aphanaxiêvits Bungacốp sinh ngày 10-5-1891 tại thành phố
Kiép (thủ đô của nước cộng hòa Ukraina ngày nay). Bố của ông là một nhà khoa
học đồng thời là linh mục, một nhà lòch sử chân chính chuyên về lòch sử tôn giáo
nhưng lại không muốn truyền dạy tôn giáo cho người con đầu lòng của mình. Năm
1909, M.A. Bungacốp vào học ngành y trường đại học tổng hợp Kiép. Năm 1916,
sau khi tốt nghiệp, ông xin ra mặt trận (đây là thời điểm xảy ra chiến tranh thế giới

thứ nhất), với tư cách là bác só tình nguyện của hội "Chữ thập đỏ" quốc tế. Một thời
gian sau, ông được gọi về Mátxcơva, đến làm việc ở một bệnh viện vùng ngoại ô.
Từ đây, bắt đầu những năm tháng chìm nổi của cuộc đời nhà văn.
Ông đã đi qua nhiều vùng của nước Nga trong thời kỳ nội chiến, đã từng gia
nhập lực lượng hồng quân. Có lúc, ông bò động viên vào bạch vệ, bò bắt vào tổ chức
của phỉ Pétliura. Tháng 9 năm 1921, ông đến Mátxcơva, sống và làm việc đến cuối
đời. Trong những ngày tháng sôi động sau nội chiến, cũng như những nhà văn khác
từ mặt trận trở về Mátxcơva, ông phải lăn lộn kiếm sống và phải trải qua nhiều
nghề: làm thư ký cho tiểu ban văn học của tổng cục Giáo dục chính trò, theo đoàn
hát rong đi biểu diễn, cộng tác viên nhiều năm với báo “Tiếng còi”, “ Ngày hôm
trước”...
Từ nhỏ, Bungacốp đã có thiên hướng say mê văn học. Ông thích tác phẩm
và phong cách của Gôgôn, thích giọng văn trào phúng của Santưcốp Sêđrin. Ông
bắt đầu viết văn từ thời còn đi học. Những năm tham gia hồng quân, ông đã có một
số vở kòch được biểu diễn tại mặt trận. Trong thời gian làm báo, ông viết một số tác
phẩm nhỏ mang tính chất châm biếm. Vào khoảng năm 1922- 1924 sau khi dứt
khoát chuyển về Mátxcơva, nhà văn xây dựng cuốn tiểu thuyết Bạch vệ, tác phẩm
văn xuôi lớn đầu tiên của ông.
Đây là thời gian nền nghệ thuật XôViết trẻ tuổi đặc biệt tích cực tìm tòi để
nắm được ý nghóa thời đại cách mạng, để hiểu số phận nhân dân và giới trí thức.
Bắt đầu ra đời những bức tranh sử thi nổi tiếng của A. Tônxtôi, Phêep,
Xêraphimôvíts; ý đồ viết Sông Đông êm đềm cũng nảy sinh ở M.Sôlôkhốp.
Trong tác phẩm Bạch vệ, Bungakốp đã phản ánh về quá trình tan rã tất yếu
của những mưu toan chống cách mạng và số phận bi kòch của từng lớp trí thức Nga
do chọn lầm con đường lòch sử.
Với nhãn quan lòch sử sáng suốt, Bungacốp được coi là nhà văn gần gủi với
những người mở đường cho nền nghệ thuật xã hội chủ nghóa. Bởi vì: “Trước tiên,
với số phận tiếp theo của thế giới cũ, Bạch vệ đưa ra một kết luận dứt khoát: nó sẽ
không được khôi phục lại; sự sụp đổ của nó là một lợi ích của nước Nga về mặt xã


Nguyễn Văn Kha

Khoa Ngữ Văn


Tóm tắt bài giảng văn học Xô Viết

- 46 -

hội - lòch sử ”[•]. Tác phẩm này đã được chuyển thể thành kòch nói nhan đề Những
ngày tháng của anh em Turbin. Vở kòch được Nhà hát nghệ thuật Mátxcơva trình
diễn rất thành công. Từ thành công của vở kòch, ông đã được các nhà hát ở
Mátxcơva chào mời. Bắt đầu những này tháng lao động căng thẳng, những thành
công vang dội, những cuộc tranh cãi quyết liệt xung quanh tên tuổi của Bungacốp.
Năm 1925, ông cho in truyện vừa Những quả trứng đònh mệnh và viết Trái tim
ch, tác phẩm này được M.Gorki đánh giá rất cao.
Sau thành công của vở Những ngày tháng của anh em Turbin, trong
những năm tiếp theo, Bungakốp tập trung vào viết kòch. Ông lần lượt cho ra đời các
kòch bản Căn hộ của Dôia (1927, in năm 1982) Chạy trốn (1928 , dựng năm
1957, in năm 1962), Môlier (năm 1929), v.v… Ông trở thành một trong những tác
giả viết kòch nổi tiếng nhất lúc bấy giờ. Các nhà văn như M. Gorki, Vêrêxaép, nhà
đạo diễn Xtanixlápxki … đánh giá cao Bungacốp.
Do sự đánh giá rất khác nhau của các phe nhóm thuộc các tổ chức văn học
khác nhau ở Mátxcơva lúc đo,ù nên việc dàn dựng và xuất bản các tác phẩm của
ông gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt là sau khi ông từ chối viết thêm một vài cảnh
trong vở Chạy trốn để nói rõ nguyên nhân thất bại của bạch vệ, theo đề nghò của
Xtalin, các tác phẩm của Bungacốp bò cấm. Từ đó cuộc sống với tư cách nhà văn
của Bungacốp gặp rất nhiều bi thảm. Ngay cả những người ủng hộ Bun- gacốp như
Xtanixlápxki, K.Ximônốp cũng chỉ trích tác phẩm của ông. Sự im lặng của Xtalin
và chính phủ Liên Xô trước những bức thư yêu cầu giúp đỡ của Bungacốp, sự lạnh

lùng xa lánh của bạn bè trong thời gian ông bò cấm sáng tác và xuất bản đã làm cho
ông cô đơn và mệt mỏi.. Năm 1930. ông đã đốt gần hết những trang bản thảo tiểu
thuyết Nghệ nhân và Margaríta.
Nhưng với thiên chức một nhà văn, Bungacốp không im lặng: “Từ bỏ nghề
nghiệp của mình, im lặng, điều đó, xin nói thẳng ra, là hèn nhát (…). Không có một
nhà văn nào lại có thể im lặng được. Nếu anh ta im lặng. Thì có nghóa đó không phải
là nhà văn chân chính. Còn nếu là nhà văn chân chính mà im lặng, thì anh ta sẽ
chết!”[•]. Ông không im lặng, ông sáng tác. Hàng loạt tác phẩm mới ra đời, trong đó
có thể kể: các vở kòch am và Êva (năm 1931, in năm 1987), Đảo thắm ( in năm
1988), Niềm hoan lạc ( chưa in), kòch bản chuyển thể Những linh hồn chết… Tổng
số ông viết đến 14 vở kòch; văn xuôi có Môlier ( năm 1933, truyện danh nhân),
Tiểu thuyết sân khấu (năm 1936) và tác phẩm bất hủ Nghệ nhân và Magaríta .

[•]

Piôt Nicôlep – Mikhain Bungacốp và cuốn sách của ông, in trong sách Nghệ
nhân và Margaríta, Đoàn Tử Huyến dòch ra tiếng Việt, Nxb Cầu vòng Mátxcơva
và Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội, 1989, tr.7
[•]
Thư của Bungacốp gửi Xtalin ngày 30 tháng 5 năm 1931. Dẫn theo Đòan Tử
Huyến, Lời giới thiệu, in trong sách Trái tim chó, Nxb Văn học ( tái bản ), 1987,
tr.8

Nguyễn Văn Kha

Khoa Ngữ Văn


Tóm tắt bài giảng văn học Xô Viết


- 47 -

Đến nay, tác phẩm của ông được dòch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Theo
kế hoạch, từ cuối những năm 80 đến năm 2000, tác phẩm của M.Bungakốp được
chọn in trong “Toàn tập hàn lâm” của Viện văn học thế giới mang tên M.Gorki.
Nhiều nhà phê bình xếp ông ngang hàng với P.M.Đốxtôiépxki, L.Tônxtôi …

II. Tác phẩm Nghệ nhân và Margaríta
Đây là cuốn tiểu thuyết lớn nhất của Bungacốp, tác phẩm chủ yếu làm nên
vinh quang bất tử của nhà văn, nhưng đồng thời đây cũng là một cuốn sách có số
phận thật gian truân hiếm có trong di sản văn học nhân loại. Nghệ nhân và
Margaríta được viết trong 12 năm, bắt đầu từ năm 1928 với cái tên dự đònh là
Tiểu thuyết về quỷ sứ; bò xé, bò đốt, từ đầu đến cuối viết đi, viết lại 7 lần. Cho đến
năm 1940, nằm trên giường bệnh, mắt lòa, nhà văn vẫn chưa thể im lặng, vẫn đọc
cho vợ sửa chữa, cho đến lúc chết. Rồi hơn một phần tư thế kỷ trôi qua, sau bảytám lần bà vợ góa Êlêna Xécghêepna Bungacôva chạy vạy- kể cả viết thư cho
chính Xtalin, nhờ công sức của K.Ximônốp, nó mới được ra mắt bạn đọc dưới dạng
bò cắt bỏ trên tạp chí Mátxcơva; thêm bảy năm nữa nó mới có đựơc bộ mặt trọn vẹn
như nó vốn có và lập tức được dòch ra hàng loạt thứ tiếng, được đưa lên sân khấu,
được dựng thành phim, lên màn ảnh vô tuyến truyền hình ở Liên Xô và nhiều nước
khác. Ở Việt Nam tác phẩm đã được Đoàn Tử Huyến dòch ra tiếng Việt, nhà xuất
bản Cầu Vồng Mátxcơva và nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hà Nội, xuất bản lần đầu
tiên vào năm 1989, nhà xuất bản Văn học tái bản năm 1998.
Với tư cách cuốn sách cuối cùng của Bungacốp, đôi khi được hiểu như di
chúc nghệ thuật của tác giả, ngày càng được xem xét một cách xác đáng hơn, trong
mối quan hệ với các tác phẩm trước đấy của nhà văn. Một số mối quan hệ khi
mang tính liên tưởng, khi trực tiếp chứng minh rằng trong tác phẩm có tính kỳ quái,
ẩn dụ của mình, nhà văn đã phát triển các môtíp của các tác phẩm có phong cách
hoàn toàn hiện thực trước đây (tiểu thuyết Bạch vệ, Tiểu thuyết sân khấu (bò bỏ
dở), các vở kòch Chạy trốn, Những ngày tháng của anh em Turbin, các vở kòch
chyển thể và các truyện ngắn)

Một sự so sánh như thế, cho phép cắt nghóa các yếu tố “có tính chất
Hốpman”[•] được “carnavan[••] hóa” thấy ở các tác phẩm đã nói ở trên: một thể
nghiệm nghệ thuật như Nghệ nhân và Magarítta đã được nhà văn chuẩn bò từ lâu[
•••]
.

[•]

Hốpman, nhà văn lãng mạn người Đức, tác phẩm của ông dựng lại thế giới như
một cái gì không có thực.
[••]
Thuật ngữ của M.Bakhtin luôn luôn đïc nhắc tới trong các tài liệu phê bình văn
học viết về Bungacốp.
[•••]
Theo viện só P. Nicôláep, trước Nghệ nhân và Margaríta trong sáng tác của
Bungacốp, các môtíp về kinh thánh cunõg đã xuất hiện, mục đích của chúng là tăng
cường chức năng khái quát của các hình tượng trong tác phẩm. Chẳng hạn, trong

Nguyễn Văn Kha

Khoa Ngữ Văn


Tóm tắt bài giảng văn học Xô Viết

- 48 -

1. Sự kết hợp yếu tố huyền ảo và hiện thực trong tác phẩm
Bằng tư duy nghệ thuật độc đáo, khi huyền ảo, thần kỳ, khi lùi sâu vào quá
khứ làm sống dậy những truyền thuyết lòch sử, khi trở về hiện tại khắc họa nhữïng

bức tranh sinh hoạt đời thường, Bungacốp đưa người đọc vào thế giới nghệ thuật rất
hấp dẫn.
Từ câu chuyện của một nhà thơ trẻ với vò tổng biên tập một tạp chí văn học
ở Mátxcơva, chuyển sang miêu tả những sinh hoạt trong một ngày của Pônti Pilátviên quan toàn quyền của vùng Giê, vụ xử án của nhà cầm quyền Lamã về Iesua
Ha Nốtxri, nhà triết học lang thang tuyên truyền điều thiện làm mất lòng tin của
dân chúng đối với thể chế Lamã…, sự miêu tả vừa hiện thực vừa huyền ảo (cảnh
sinh hoạt, hội họp của hội văn học lớn nhất Mátxcơva, cảnh sinh hoạt đời thường ở
khu phố Arbát, cảnh ở bệnh viện … là thật; Vôlanđơ, nhà hắc ảo thuật cùng đám tuỳ
tùng của ông xuất quỷ nhập thần, biến hoá khôn lường…chiếc bàn chải cọ sàn và
con lợn biết bay, xoa kem vào người làm người biết bay, đầu người bò chặt rời ra rồi
nối dính lại, đầu người bò tàu cán đứt lìa ra chạy long lóc trên đường, người chết
vẫn dùng được điện báo báo tin cho người thânv.v… là huyền ảo).
Việc miêu tả những điều kỳ lạ: những con người ngoại hình kỳ dò, có những
khả năng đặc biệt (biết trước những điều sẽ xảy ra, có tài ảo thuật, biến hóa), thoắt
ẩn thoắt hiện, v.v… những sự việc lạ lùng liên tiếp diễn ra ( vò tổng biên tập té ngã
bò xe điện cán mất đầu đúng như lời tiên đoán của giáo sư hắc ảo thuật; ở nhà hát
Tạp Kỹ, ban giám đốc nhà hát mất tích; những mẩu giấy lộn, nhãn các loại rượu
biến thành tiền; ở ngôi nhà thuộc ngõ Xôvaia số 302- bis, chủ nhân các căn hộ bò
mất tích, những người có khả năng kỳ lạ xuất hiện trong căn hộ số 50 (căn hộ của
vò tổng biên tập đã chết), v.v… chứng tỏ trí tưởng tượng bay bỗng, phóng túng thuận
lợi cho nhà văn để gây hứng thú cho độc giả, nhằm thực hiện mục đích nghệ thuật
của mình.
Thành công của việc kết hợp giữa yếu tố hiện thực và yếu tố huyền ảo
trong tác phẩm đã giúp nhà văn đề cập đến những vấn đề nhân sinh phức tạp mà
bất cứ thời đại nào cũng đặt ra như những khát vọng không nguôi, hướng con người
về với cái chân, cái thiện, cái mỹ. Đó là những vấn đề: sứ mệnh của người nghệ só
trong xã hội hiện tại; cuộc đấu tranh giữa cái thiện và ác; hiện thực của đời sống
sinh hoạt hàng ngày với mơ ước, khát khao giải tỏa những bức xúc trong tâm lý con
người trong đời thường…


2. Vấn đề sứ mệnh của người nghệ só trong xã hội hiện tại
Không phải ngẫu nhiên một tác phẩm xen kẻ những vấn đề của đời sống
hiện tại với truyền thuyết lòch sư,û đan xen giữa yếu tố tâm lý trong sinh hoạt hàng
ngày với yếu tố huyền ảo lại mang tên là Nghệ nhân và Margarita. Nếu loại trừ
Bạch vệ, ông hướng tới các văn bản của kinh thánh, trước tiên là Ngày tận thế
(mặc khải của Ioann Bôgôxlốp), từ đó chọn ra đề từ của cuốn sách :“Những người
chết sẽ được xét xử theo những việc họ đã làm và ghi trong sử sách”.

Nguyễn Văn Kha

Khoa Ngữ Văn


Tóm tắt bài giảng văn học Xô Viết

- 49 -

những yếu tố huyền ảo, thần kỳ như đã đề cập trên đây, tác phẩm chỉ còn lại câu
chuyện về một chặng đời của đấng Giêsu Krixtơ, về việc xử án của Pônti Pilát–
viên toàn quyền của vùng Giê và câu chuyện về nghệ nhân với cuốn tiểu thuyết
của anh trước áp lực của dư luận xã hội ( với rất nhiều động cơ, trong đó không
loại trừ những động cơ vụ lợi). Với nội dung cốt lõi này, tác giả đặt ra vấn đề sứ
mệnh của nghệ só hay nói đúng hơn và cụ thể hơn là lẽ sống còn của nghệ thuật
trong cuộc sống xã hội hiện tại.
Nhân vật nghệ nhân sống khắc khổ, say mê lao động nghệ thuật, biết nhiều
thứ tiếng, miệt mài dòch sách, ước muốn viết được một tác phẩm về cuộc đời
PôntiPilát- viên quan toàn quyền xứ Giê. Nhưng khi tác phẩm ra đời, chính giới
phê bình đã công kích tác phẩm và buộc tội nhà văn. Những kẻ cơ hội trong giới
phê bình mà đại diện là Latunxki, Ariman, Mxtixláp Láprôvích … đã gọi nghệ nhân
là “kẻ thù núp dưới bóng biên tập viên”, … “lợi dụng sự ngây thơ và dốt nát của biên

tập viên, đã tìm cách tống lên mặt báo những lời biện hộ cho Giêsu Kríxtơ” (lời của
Mxtixláp Láprôvích- M.Bungacốp, Nghệ nhân và Magaríta, Nxb. Cầu Vòng
Mátxcơva- Nxb. Tác phẩm mới, Hà Nội 1989, tr. 164) [•]. Mxtixláp Láprôvích đòi
“phải đánh, đánh thật mạnh vào cái “chủ nghóa Pilát” và kẻ sùng chúa” (tr. 164).
Latunxki coi nghệ nhân là “Một tín đồ cựu giáo gây gỗ” (tr. 164). Từ những bài báo
buộc tội nghệ nhân, anh có cảm tưởng: “Tác giả của bài báo này viết không phải
những điều họ muốn nói, và sự dận dữ của họ là do chính điều đó gây ra” (nhận xét
của nghệ nhân về bài báo của nhà phê bình có tên là Alôydi Môgarứt) (tr. 166). Và
từ những bài báo đó, nghệ nhân đã không còn đủ sức chòu đựng, anh ta bắt đầu sợ
và cuối cùng đã bò tâm thần.
Hình tượng nghệ nhân trong tác phẩm là biểu tượng của khát vọng vươn tới
cái đẹp, đang trở nên quá mong manh, yếu ớt trước cuộc sống. Lao động nghệ thuật
quả là chông gai, phải nếm trải biết bao khổ ải, có khi mất cả niềm tin trước cái ác,
cái dung tục, vụ lợi đang lấn lướt: “Không, muộn mất rồi, anh không còn mong
muốn thêm một cái gì trong đời, ngoài việc được trông thấy em. Nhưng anh lại
khuyên em: hãy để mặc anh. Với anh, em sẽ không sống nổi đâu” (tr. 317) … “Bây
giờ tôi căm ghét cuốn tiểu thuyết của tôi- nghệ nhân đáp, vì nó, tôi đã phải chòu
đựng quá nhiều” (tr. 322).
Hình tượng nghệ nhân trong tác phẩm cũng chính là sự chiêm nghiệm của
Bungacốp trước một loạt những hiện tượng văn nghệ só XôViết lúc bấy giờ từ giã
cuộc đời trong sự trẻ trung, đang độ sung sức như: A.Blốc, X.Êxênhin,
V.Maiacovski… Nhưng trong tác phẩm, hình tượng nghệ nhân không hoàn toàn quá
bi đát khi có được mối tình với Margaríta, khi có sự giải thoát do phép mầu của
Vôlanđơ, khi cái ác do những kẻ như Latunxki, Alôydy Môgarứt gieo rắc thì chính
những kẻ đó bò trừng phạt (Margaríta nhờ phép mầu của những người trong nhóm
Những trích dẫn trong bài viết này rút từ tác phẩm Nghệ nhân và Margaríta,
chúng tôi đều sử dụng từ bản in của Nxb Cầu Vòng, Mátxcơva- Nxb Tác phẩm
mới, Hà Nội, 1989.

[•]


Nguyễn Văn Kha

Khoa Ngữ Văn


Tóm tắt bài giảng văn học Xô Viết

- 50 -

ảo thuật, cô bay vào phòng của Latunxki đập phá để trả thù cho người tình của cô
bò Latunxki đặt điều vu khống, khiến nghệ nhân bò suy sụp tinh thần; nhà báo
Aloydy Môgarứt bò đuổi ra khỏi căn phòng mà anh ta đã giành được từ những bài
báo vu khống tác phẩm của nghệ nhân, căn phòng được trả lại cho nghệ nhân …).
Thông qua cuộc đời và tác phẩm của người nghệ só chân chính – nghệ nhân
ở trong tác phẩm, Bungacốp đã tỏ thái độ của mình đối với lao động chân chính của
người nghệ só như: khâm phục lòng tận t lớn lao đối với công việc, niềm tin
mãnh liệt vào quan niệm của mình, sự khinh thường đối với óc hư danh và thói
tham lam tầm thường, lòng tin sâu xa vào sức sáng tạo của nghệ nhân,v.v… Ôâng tin
rằng không bao giờ những tư tưởng dũng cảm và tốt đẹp của con người lại chòu thất
bại. Điều này được thể hiện qua một chi tiết rất đáng chú ý ở trong tác phẩm, đó là:
“Bản thảo không cháy”. Câu nói của Vôlanđơ thể hiện sự chiến thắng của cái thiện
với cái ác. Nó muốn khẳng đònh một điều: khi những gì thuộc về chân lý, về lẽ
phải, về nghệ thuật và cái đẹp đích thực thì dẫu có bò trù dập, bò xuyên tạc, bò công
kích nó vẫn cứ tồn tại vónh hằng, bất diệt.
Nhưng tại sao trong tác phẩm, tác giả chỉ ban thưởng cho nghệ nhân sự yên
tónh, tại sao nghệ nhân “không đáng được ban thưởng ánh sáng”? Có thể, bởi vì
rằng, cuối cùng nghệ nhân không chòu được những tai ương xảy đến trong đời sống,
đầu hàng sau hàng loạt bài báo vu khống độc ác viết về cuốn tiểu thuyết của mình,
cảm thấy khiếp sợ và căm thù luôn cả tác phẩm nghệ thuật – sự kết tinh giá trò lao

động của mình. Có thể như vậy !? Nhưng trong tác phẩm, tác giả đã có dấu hiệu
tha thứ cho nghệ nhân, đó là hình tượng nhà thơ Ivan Bedơđômnưi – người học trò
của nghệ nhân “sáng mắt sáng lòng trở lại”. Sự nghiệp sáng tạo chân chính luôn
luôn tìm được người kế tục.

3. Vấn đề thiện - ác
Qua phiên toà xử án Iesua, qua tương quan giữa quyền lực (đại diện là
quan toàn quyền PôntiPilát) và đạo lý (đại diện là nhà triết học lang thang Iesua
Ha Nốtxri), Mikhain Bungacốp đã bộc lộ rõ ràng thái độ của mình đối với vấn đề
thiện- ác.
Trong tác phẩm, quan toàn quyền PôntiPilát, kẻ đại diện cho quyền lực của
thể chế Lamã, người thực thi những mệnh lệnh để bảo toàn thể chế đó là một khối
mâu thuẫn. Trong con người của ông ta vừa có yếu tố hướng tới sự hoà hợp, công
bằng nhưng đồng thời cũng có yếu tố của sự tàn phá, giết chóc. Điều này được thể
hiện từ ngoại hình (dáng dấp, khuôn mặt) đến nội tâm của ông ta. Vào buổi sáng
ngày 14 tháng Nixan mùa xuân, khi thực thi công việc xử án Iesua Ha Nốtxri,
PôntiPilát xuất hiện: “Trong tấm áo choàng trắng với lần vải lót đỏ như máu, với
dáng đi lê bước của người kỵ mã” (tr.30). Trong phiên toà xét xử Iesua, PôntiPilát
cố gắng hướng tới sự trung thực, tìm đến cội nguồn của sự việc liên quan đến con
người mà số phận hoàn toàn nằm trong tầm phán xét của ông. Nhưng những cảm
giác khó chòu vì mùi thơm của tinh dầu hoa hồng, căn bệnh hemikrania, sự xưng hô
quá nhún nhường của Iesua … luôn hành hạ ông, khiến đầu óc của con người mà

Nguyễn Văn Kha

Khoa Ngữ Văn


Tóm tắt bài giảng văn học Xô Viết


- 51 -

trong tay có đầy quyền năng, luôn luôn muốn làm điều ác, muốn tàn phá, thậm chí
muốn tàn phá cả chính bản thân mình. Trong một cơn đau đầu do căn bệnh
hemikrania gây ra, PôntiPilát đã nghó như sau: “Cách giải quyết đơn giản nhất bây
giờ là đuổi cái tên kẻ cướp lạ lùng này khỏi ban công mà chỉ cần nói hai từ: “Treo
cổ”. Đuổi cả đoàn vệ tống, rồi dời cả hàng cột lộ thiên vào hậu cung, ra lệnh che
kín phòng, buông người xuống giường, đòi một cốc nước lạnh, bằng giọng rầu ró gọi
con chó Banga, than thở với nó về chứng hemikrania. Và ý nghó về chén thuốc độc
bỗng thoáng vụt qua đầy quyến rũ trong chiếc đầu bệnh tật của quan toàn quyền”
(tr.36). Trong phiên toà, lời nói và ý nghó của quan toàn quyền không còn đi đôi với
nhau nữa. Ông ta lại thoáng nghó “Thuốc độc, thuốc độc cho ta!” ( tr.37) trong khi
ra quyết đònh hành hình Iesua.
Trong người của PôntiPilát cũng diễn ra cái mâu thuẫn: một bên là sự đồng
cảm với con người có bản chất trung thực, thông minh, nghóa là ông ta không muốn
giết hại Iesua, thậm chí sẵn sàng cứu Iesua ra khỏi cơn điên dại cuồng tín của
những người đồng hương và muốn mang Iesua về Kexaria Xtơratônôva để tiện che
chở. Và bên kia là việc tuân thủ quyết đònh của chính quyền Lamã. Với tư cách con
người (tính thiện trong con người), Pônti Pilát không tán thành bản án tử hình.
Nhưng trên cương vò quan toàn quyền, ông lại chuẩn y bản án: nỗi sợ hãi đức Kexar
đã mạnh hơn chính ông ta. Nếu hiểu như vậy, ta thấy rằng: “Trong quan toàn
quyền có hai thế lực không cân xứng xung đột với nhau, ý chí cá nhân và quyền lực
của xã hội. Về mặt tinh thần, Iesua đã vượt qua được quyền lực xã hội, còn
PôntiPilát thì không (…) Nói đúng ra, Iesua đã tự đọc bản án cho mình, sau khi chỉ
ra cho PôntiPilát một điều táo bạo: quyền bá chủ của hoàng đế, quyền lực của
Kesar đã đến lúc chấm dứt. Và số phận của Iesua cũng vì thế đã được đònh đoạt”.
“Nhưng tác giả vẫn muốn kêu thật to: về mặt đạo lý, trong cuộc đấu sức giữa
cái thiện và cái ác, kết quả cuối cùng không thuộc về cái ác. Theo Bungacốp, bản
chất con người không chấp nhận điều đó, văn minh nhân loại không cho phép điều
đó” [•]ù. Một xã hội văn minh không thể chấp nhận lối hành hình (Iesua Ha Nốtxri

và ba người khác) dã man theo lối trung cổ,ï mất hết tính người (trói người vào cột,
phơi dưới nắng hàng giờ trước khi đón nhận cái chết).
Có thể nói, nhà văn Bungacốp rất thành công trong đoạn mô tả một lối
hành hình man rợ. Màu nắng chết chóc của buổi chiều, tiếng ngựa hí, đoàn kỵ binh
khát máu,khu đồi trọc cùng với cách hành hình nói trên đã chứng tỏ một lối hành
xử của pháp luật nhà nước rất tàn bạo. Không thể cầm lòng trước cảnh tượng đó,
bằng tấm lòng nhân đạo, tác giả đã cho một nhân vật (một người đàn ông gầy yếu,
lưng gù, khắc khổ), lén đến cắt dây trói cho bốn người và cõng Iesua Ha Nốtxri.
Cái thiện đã xuất hiện, yếu ớt, mờ nhạt nhưng gây sự xúc động sâu xa trong lòng
người đọc.
Piôt Nicôlep – Mikhain Bungacốp và cuốn sách của ông, in trong sách Nghệ
nhân và Margaríta, Đoàn Tử Huyến dòch ra tiếng Việt, Nxb Cầu vòng Mátxcơva
và Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội, 1989, tr.11-12

[•]

Nguyễn Văn Kha

Khoa Ngữ Văn


Tóm tắt bài giảng văn học Xô Viết

- 52 -

Và chính Pônti Pilát, sau khi buộc con người lang thang rao giảng điều thiện
kia phải chết, đã ra lệnh bí mật giết Gia, kẻ đã phản bội Iesua. Ông ta đã tiến
hành (dù là một cách hèn nhát) trừng phạt những kẻ có hành động phản bội. Chất
người hoá ra ẩn dấu ngay trong chất quỷ.
Khi vấn đề thiện – ác đang giằng co thì Vôlanđơ nhà “hắc ảo thuật” đã xuất

hiện. Hình tượng này được cắt nghóa bằng những lời trong Phauxtơ của Gớt mà tác
giả đưa ra làm đề từ cho cuốn tiểu thuyết: “Ta là một phần của cái sức mạnh, vốn
muôn đời muốn làm điều ác nhưng muôn đời làm điều thiện”. Theo viện só Piốt
Nicôlaép :“Đây là câu ẩn dụ về mối mâu thuẫn trong con người”.
Để giải quyết cái mâu thuẩn “muôn đời” này, Vôlanđơ nhận được thanh
kiếm trừng phạt từ thế lực của cái thiện. Nhưng tại sao tác giả lại dành cho chính
Vôlanđơ cái quyền kết án và tha tội ? Có thể, Bungacốp cho rằng việc dùng đạo lý
để cải tạo cái ác là phương thuốc vạn năng có thể chữa lành mọi căn bệnh do cái
ác gây ra cho con người (đối thoại của PôntiPilát và Iesua là đối thoại giữa quyền
lực và đạo lý, giữa tàn bạo và lương tri). Rõ ràng đấy là một sự áp đặt, xuất phát từ
khả năng biến hoá khôn lường của nhóm ảo thuật do giáo sư Vôlanđơ cầm đầu mà
tác giả đã gắn cho họ. Trên thực te,á tư tưởng của tác giả có tính chất ảo tưởng. Tác
giả Bungacốp dường như mất hết niềm tin ở xã hội hiện tại, một xã hội mà thật giả,
thấp hèn và cao thượng bò đảo lộn, con người làm ngơ trước bất công, ngang trái.
Theo Bungacốp, một xã hội như thế chỉ có thể điều chỉnh lại trật tự, đem lại sự
công bằng, đưa lại quyền tự do và công lý từ một lực lượng ở một thế giới khác,
một lực lương mà ngay xã hội hiện tại không thể có được (qua hình ảnh Vôlanđơ
và tuỳ tùng của ông là con mèo đen và người dò hình (Kôrôviép – Phagốt). Và cũng
qua tác phẩm này, tác giả Bungacốp muốn nói lên một điều rằng: con người muốn
hạnh phúc, con người muốn tìm đến nghệ thuật và cái đẹp đích thực thì phải đi tìm
kiếm, chung sống ở một thế giới khác. Còn ở thế giới thực tại này không có những
điều tốt đẹp đó, thế giới thực tại này không thể tồn tại song song với hạnh phúc con
người, nghệ thuật và cái đẹp chân chính.
Có thể, thế giới kia là thế giới trong mơ ước, trong viễn tưởng của nhà thơ:
“Người thiếu phụ cúi xuống hôn trán Ivan, anh vươn người dậy nhìn sâu vào mắt
nàng nhưng thiếu phụ đã bước lùi lại, bước lùi lại rồi cùng người bạn đường của
mình bay lên mặt trăng” (tr. 432).Và:“ Có ai đó đang giải thoát cho nghệ nhân đến
với tự do, như chính anh vừa rồi đã giải thoát cho nhân vật mà anh đã tạo nên. Nhân
vật của anh đã đi vào chốn hư vô, đã đi không trở lại, đã nhận được sự tha thứ vào
đêm trước của lễ Phục sinh – đó là con trai của nhà vua kiêm nhà chiêm tinh học,

viên quan toàn quyền thứ năm tàn bạo của xứ Giê, kỵ só Pônti Pilát” (tr. 419).
Ở đó chúng ta bắt gặp một thế giới lý tưởng: “Nghệ nhân và người bạn tình
của mình bước đi trong ánh rực rỡ của những tia nắng sớm đầu tiên, trên cây cầu
nhỏ bằng đá rêu phong. Anh đã đi qua khỏi cầu, con suối nhỏ nằm lại phía sau lưng
cặp tình nhân chung thủy, và họ bước dọc theo con đường rải cát” (tr. 418).
Nghệ nhân với tấm lòng bao dung của mình, nhân danh công lý đã gặp và
nói với PôntiPilát:“Ngài được giải phóng! ngài được tự do! người ta đang đợi ngài!”

Nguyễn Văn Kha

Khoa Ngữ Văn


×