TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
PHÒNG SAU ĐẠI HỌC
===== o0o =====
TIÓU LUËN triÕt häc
ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO
TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI VIỆT
Người hướng dẫn khoa học : TS. Vi Thái Lang
Học viên
: Nguyễn Thị Nhung
Lớp
: K18 - Lý luận văn học
Hà Nội - 2015
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................1
CHƯƠNG I............................................................................................................................3
NGUÔNG GỐC PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG QUAN ĐIỂM.................................................3
CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO...........................................................................................3
1.Nguồn gốc của Phật Giáo................................................................................................3
2.1.2. Thuyết vô ngã.......................................................................................................8
2.1.3. Thuyết Lý nhân duyên sinh................................................................................10
2.1.4. Thuyết nhân duyên quả báo hay thuyết nhân quả..............................................11
2.2. Nhận thức luận Phật giáo..........................................................................................12
2.2.1. Bản chất, đối tượng của nhận thức luận.............................................................12
2.2.2. Quy trình, con đường và phương pháp nhận thức..............................................14
2.3. Nhân sinh quan Phật giáo..........................................................................................15
2.3.1. Tứ diệu đế...........................................................................................................15
2.3.2.Những quan điểm về nhân sinh quan Phật giáo..................................................21
1
MỞ ĐẦU
Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học – tôn giáo lớn nhất
trên thế giới, tồn tại lâu đời. Hệ thống giáo lý của nó rất đồ sộ và số lượng
Phật tử đông đảo được phân bố rộng khắp. Đạo Phật được truyền bá vào nước
ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên và đã nhanh chóng trở thành một tôn
giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam,
bên cạnh đó là đạo Nho, đạo Lão, đạo Thiên chúa. Tùy từng giai đoạn lịch sử
dân tộc ta đều có học thuyết tư tưởng hoặc tôn giáo nắm vai trò chủ đạo, có
tác động mạnh nhất đến nếp sống, thói quen, suy nghĩ của con người như Phật
giáo ở thế kỉ X – XIX Nho giáo thế kỷ XIV – XIX học thuyết Mac – Lê nin từ
giữa thập kỷ 40 của thế kỷ XX cho đến nay. Tuy nhiên những học thuyết này
không được ở vị trí độc tôn mà song song tồn tại với nó vẫn có các học thuyết
tôn giáo khác tác động vào các khu vực khác nhau của đời sống xã hội đồng
thời cũng tác động trở lại các học thuyết chủ đạo. Ngày nay dù đã trải qua các
cuộc cách mạng xã hội và các cuộc cách mạng trong hệ ý thức tình hình vẫn
như vậy .
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa Mac – Lê nin là tư tưởng chủ đạo là vũ khí lý luận của chúng ta nhưng
bên cạnh đó bộ phận kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống dai
dẳng trong đó giáo lý nhà Phật đã ít nhiều in sâu vào tư tưởng tình cảm của
một số bộ phận lớn dân cư Việt Nam. Việc xóa bỏ hoàn toàn ảnh hưởng là
không thể thực hiện được nên chúng ta cần vận dụng nó một cách hợp lý để
góp phần đạt được mục đích của thời kỳ quá độ cũng như sau này. Vì vậy
việc nghiên cứu lịch sử, giáo lý và sự tác động của đạo Phật đối với thế giới
quan, nhân sinh quan của con người là hết sức cần thiết. Việc đi sâu nghiên
cứu, đánh giá những mặt hạn chế cũng như tiến bộ, nhân đạo của Phật giáo
giúp ta hiểu rõ tâm lý người dân hơn và qua đó tìm ra được một phương cách
2
để hướng đạo cho họ một nhân cách chính đúng đắn. Theo đạo để làm điều
thiện, tránh cái ác, hình thành nhân cách con người tốt hơn chứ không trở nên
mê tín dị đoan cúng bái, lên đồng, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, niềm tin
của dân chúng…
Lĩnh vực nghiên cứu Phật giáo hiện nay tương đối mở rộng, ngoài việc
nghiên cứu giáo lý, kinh điển, lịch sử… của Phật giáo ra còn đề cập đến các
lĩnh vực Triết học, Sử học, Tâm lý học, Khảo cổ học, Xã hội học, Dân tộc
học, Văn học, Nghệ thuật… Phật học đã trở thành một trong những khoa học
tương đối quan trọng trong khoa học xã hội, trước mắt có quan hệ mật thiết
với xã hội học.
Hơn nữa quá trình Phật giáo phát triển, truyền bá ở Việt Nam gắn liền
với quá trình hình thành, phát triển tư tưởng, đạo đức của con người. Vì vậy,
khi nghiên cứu lịch sử tư tưởng đạo đức Việt Nam không thể không đề cập
đến phật giáo và những mối quan hệ, tác động qua lại giữa chúng.
Tóm lại,, nghiên cứu phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống
người Việt Nam là một nội dung quan trọng nhằm tìm hiểu lịch sử cũng như
định hướng cho sự phát triển nhân cách, tư duy con người Việt Nam trong
tương lai.
Cấu trúc của tiểu luận gồm những phần chính sau:
Chương I. Nguồn gốc Phật Giáo và những quan điểm của triết học Phật Giáo.
Chương II. Sự ảnh hưởng của Phật Giáo trong đời sống người Việt.
3
CHƯƠNG I
NGUÔNG GỐC PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG QUAN ĐIỂM
CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
1.Nguồn gốc của Phật Giáo
Đạo Phật mang tên người sáng lập là Đà (hay là Buddha). Đạo Phật
chính là giáo lý mà phật Đà đã thuyết giảng. Sau khi ra đời ở Ấn Độ vào thế
kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 6 trước công nguyên, đạo Phật được lưu hành rộng rãi
ở các quốc gia trong khu vực Á – Phi gần đây được truyền tới các nước Âu –
Mỹ. Trong quá trình truyền bá của mình đạo Phật đã kết hợp với tín ngưỡng,
tập tục, dân gian, văn hóa bản địa để hình thành rất nhiều tông phái và học
phái có tác động vô cùng quan trọng với đời sống xã hội và văn hóa của rất
nhiều quốc gia.
Buddha vốn là một thái tử tên là Tất Đạt Đa, con trai của vua Tịnh
Phạn và Hoàng hậu Ma - ha Ma - da nước Câu - Ly ( nay thuộc đất Nê - Pan)
ông sinh ra vào khoảng năm 623 trước công nguyên. Cuộc đời của Phật Thích
Ca được kể lại trong truyền thuyết như sau:
Vào một đêm Ma - ha Ma - da – người vợ chính của vua Tịnh Phạn mơ
thấy mình được đưa đến hồ thiêng Anavatapta ở Himalaya sau khi các thiên
thần tắm rửa cho bà ở trong hồ thiêng thì có một con voi trắng khổng lồ có
đóa hoa Sen ở vòi bước tới chui vào sườn bà. Ngày hôm sau, các nhà thông
thái được vời tới để giải mơ cho hoàng hậu. Các nhà thông thái cho rằng rất
mơ là điềm hoàng hậu đang có mang và sinh hạ được một hoàng tử tuyệt vời
người sau này sẽ trở thành vị chúa tể của thế giới hoặc người thầy của thế
giới. Đến ngày đến tháng, Hoàng hậu Ma - ha Ma - da trở về nhà cha mình để
sinh con. Thế nhưng vừa đến khu vườn Lumbini cách thủ đô Capilavastu
không xa hoàng hậu trở dạ và vị hoàng tử đã ra đời. Vừa ra đời vị hoàng tử tí
4
hon đã đứng ngay dạy, đi bảy bước và nói: “ Đây là kiếp cuối cùng của ta, từ
nay ta không phải luân hồi một kiếp nào nữa”.
Đến ngày thứ 5 một nghi thức trọng thể được tổ chức và hoàng tử được
đặt tên là Tất Đạt Đa ( Sidhartha) sau này là phật Thích Ca hiệu Mưu ny. Ngài
tư bẩm thông minh từ nhở. Bảy tuổi ngày theo học các học sĩ phái Bà La
Môn, ngài thông hiểu các khoa, nhất là nghị luận, triết lý. Chính trong khi bắt
đầu hiểu biết ấy cũng là khi ngài cảm thấy chán nản cuộc đời vinh hoa phú
quý và buồn đau cho cuộc thế của nhân sinh. Để ngăn cản hoàng tử không
nghĩ tới việc tu hành vua cha đã tìm mọi cách tạo ra quanh người con trai
mình một cuộc sống vương giả. Hoàng tử được học mọi kiến thức để sau này
trở thành một vị vua tài ba anh minh trị vì một đất nước Ấn Độ bao la. Thế rồi
nhà vua và quần thần đã kén cho hoàng tử một người vợ kiều diễm. Nhưng
cuộc đời vương giả không cám dỗ được hoàng tử trẻ tuổi. Một lần khi ra
ngoài chơi hoàng tử gặp một người phụ nữ đau đớn vật vã vì trở dạ sắp đẻ rồi
hoàng tử thấy một ông già gày còm ốm yếu, ít lâu sau hoàng tử lại chứng kiến
người ốm và người chết. Những hoàn cảnh trên làm cho hoàng tử băn khoăn,
lo nghĩ về kiếp người và muốn cứu con người khỏi những trầm luân đau khổ
của kiếp luân hồi : Sinh, lão, bệnh, tử. Chính sự việc tiếp theo đã đem đến cho
hoàng tử niềm hi vọng và an ủi. Lần đó, hoàng tử nhìn thấy một vị hành khất
dáng vẻ bần hàn nhưng lại ung dung tự tại. Vừa nhìn thấy vị hành khất Hoàng
tử như bừng tỉnh và quyết định sẽ ra đi trở thành nhà hành khất như thế.
Được tin, Đức vua Tịnh Phạn tìm mọi cách ngăn cản Hoàng tử. Thế
nhưng Hoàng tử không thể nào xua đi được những sự kiện mà mình đã chứng
kiến khiến lòng dạ Hoàng tử không lúc nào được thanh thản. Ngay cả tin
mừng công chúa Yashodhara sinh cho chàng một Hoàng nam cũng không làm
cho Hoàng tử Sidhartha vui. Ngày đêm khi đứa con ra đời, khi mọi người ngủ
say, Hoàng tử lặng lẽ đến nhìn vợ và con lần cuối rồi đánh thức người đánh
5
xe dậy cùng mình cưỡi con ngựa Canthaca yêu quý dời khỏi cung. Khi đã dời
khỏi đô thành Hoàng tử trút bộ áo Hoàng tộc và mặc lên người bộ quần áo
thường dân. Hoàng tử cầm kiếm cắt bộ tóc dài của mình và nhờ người đánh
xe mang mớ tóc và quần áo về trả lại cho đức vua. Còn con ngựa Canthana vì
đau khổ phải chia tay với ông chủ của nó nên đã lăn ra chết ngay tại chỗ. Rời
hoàng cung, dứt áo ra đi, hoàng tử Sidhartha đã trở thành nhà tu hành.
Thoạt đầu, Hoàng tử đi lang thang đây đó, sống theo kiểu khổ hạnh.
Sau đó, ngài vào rừng tu. Nhà hiền triết Alara Calama dạy cho chàng các
phép thiền định và những triết lý của Upanishad. Học thuyết và thực hành giải
thoát cá nhân của Upanishad không hấp dẫn Hoàng tử. Chàng đi tiếp và nhập
vào nhóm năm người tu khổ hạnh. Suốt sáu năm trường ép xác Hoàng tử gần
như chỉ còn bộ xương khô mà vẫn chưa tìm ra chân lý của sự giải thoát. Ngài
bèn bỏ cuộc sống tu hành khổ hạnh và trở lại ăn uống bình thường.
Khi Hoàng tử Sidhartha 35 tuổi, một hôm ngài đến ngồi dưới gốc cây
bồ đề ở ngoại vi thành phố Gaia thuộc vùng đất của vua Bimbisura, vua nước
Magadha. Cho đến một hôm có nàng Sudjata, con gái một vị nông dân trong
vùng đem cho ngài một bát cơm to nấu bằng sữa. Ăn xong, ngài xuống sông
tắm rửa, rồi trở lại gốc cây bồ đề. Ngài ngồi thiền định và nguyện sẽ không
đứng dậy nếu không tìm ra sự giải thoát về điều bí ẩn của sự khổ đau. Và
Hoàng tử đã ngồi dưới gốc cây đề suốt 49 ngày đêm. Bảy tuần lễ đó là cả một
chuỗi ngày đầy thử thách. Để phá sự thiền định của Hoàng tử, con quỷ Mara
biến một sứ giả đến báo cho Hoàng tử một tin bịa đặt là em trai Hoàng tử là
Đevađatta nổi loạn, bắt nhốt vua cha vào ngục và chiếm nàng Yashodrara
làm vợ. Thế nhưng tin dữ đó không làm cho Hoàng tử bận tâm. Mara bèn cho
gọi các quỷ tới làm ra mưa to, gió lớn gây ra động đất, lụt lội nhưng Hoàng tử
vẫn ngồi bình thản dưới gốc cây bồ đề, cảm phục trước ý chí kiên định của
Hoàng tử, rắn thần Naga dung thân làm tán che mưa gió cho Hoàng tử ngồi.
6
Thấy thế quỷ dữ Mara bèn dùng biện pháp quyết liệt và tinh tế hơn để công
phá vào thành trì kiên định của Hoàng tử Sidhartha. Nó cho gọi ba cô gái xinh
đẹp của mình là các nàng Khát vọng, Khoái lạc và Dục vọng tới nhảy múa mê
hoặc nhà tu hành trẻ tuổi. Thế nhưng biện pháp cuối cùng của quỷ Mara cũng
thất bại và lũ quỷ phải dời khỏi gốc cây bồ đề. Rạng sáng ngày 49, Siddhartha
đã tìm ra bí mật của sự đau khổ, đã tìm ra được vì sao thế giới lại tràn đầy khổ
đau và tìm ra được cách để chiến thắng sự đau khổ. Siddhartha đã hoàn toàn
giác ngộ và trở thành Buddha( Đấng giác ngộ). Sau khi giác ngộ Đức phật
còn ngồi tiếp bảy ngày nữa dưới cây bồ đề suy ngẫm về những chân lý diệu
kỳ mà mình đã khám phá. Ngài phân vân không biết có nên phổ biến đạo
pháp của mình cho thế giới không vì nó có sự huyền diệu quá khó hiểu đối
với mọi người. Chính thượng đế Brahma phải giáng trần để khích lệ Đức phật
truyền bá đạo pháp của mình cho thế gian. Chỉ khi đó Phật mới dời khỏi gốc
cây bồ đề đi đến khu vườn Lộc Uyển gần Varanasi để giảng bài thuyết pháp
đầu tiên cho năm người bạn tu hành khổ hạnh của mình. Sự kiện này được ghi
chép lại như một sự kiện quan trọng nhất của Đạo phật và được gọi là Phật
quay bánh xe Đạo pháp( chuyển Pháp Luân). Giáo pháp mới của Đạo phật đã
gây ấn tượng mạnh đối với năm nhà tu, họ nhanh chóng trở thành những môn
đồ đầu tiên của Đức phật. Vài ngày sau số môn đồ của Phật đã tăng lên 60
người, theo thời gian số môn đồ Đạo phật ngày càng tăng và các tổ chức tăng
gia đã ra đời.
Đến năm 80 tuổi, biết mình tuổi cao, sức yếu, Đức Phật cùng các môn
đồ trở về chân núi Hymalaya nơi ngài sinh ra và lớn lên. Trên đường Phật đã
chuẩn bị mọi thứ cho các môn đồ để họ có thể tự lập được sau khi ngài viên
tịch. Và, tại một nơi ngoại vi thành phố Cusinagara, Phật đã đi. Câu nói cuối
cùng của Phật là: “ Hỡi các tỳ kheo tất cả những gì đang tồn tại sẽ qua đi. Vậy
các người càng không nên gắng sức!”
7
2. Những quan điểm của triết học Phật giáo
2.1.Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan
Thế giới quan Phật giáo chịu ảnh hưởng của hai luận điểm, thể hiện qua
4 luận thuyết cơ bản: thuyết vô thường, thuyết vô ngã thuyết nhân quả, thuyết
nhân duyên khởi
2.1.1. Thuyết vô thường
Vô thường là không thường còn là chuyển biến thay đổi. Luật vô
thường chi phối vũ trụ, vạn vật, thân và tâm ta. Sự vật luôn luôn biến đổi
không có gì là thường trụ, bất biến. Với ngũ quan thô thiển của ta, ta lầm
tưởng sự vật là yên tĩnh, là bất động nhưng thật ra là nó luôn luôn ở thể động,
nó chuyển biến không ngừng. Sự chuyển biến ấy diễn ra dưới hai hình thức:
* Một là Satna (Kshana) vô thường: là một sự chuyển biến rất nhanh, trong
một thời gian hết sức ngắn, ngắn hơn cả một nháy mắt, một hơi thở, một sự
chuyển biến vừa khởi lên đã chấm dứt. Phật dùng danh từ Satna để chỉ một
khoảng thời gian hết sức ngắn
* Hai là: Nhất kỳ vô thường. Là sự chuyển biến trong từng giai đoạn. Sự vô
thường thứ nhất là trạng thái chuyển biến nhanh chóng, liên tiếp, ngắn ngủi,
thường là ta không nhận ra mà kết quả là gây ra sự vô thường thứ hai. Nhất kỳ
vô thường là trạng thái chuyển biến rõ rệt, kết thúc một trạng thái cũ, chuyển
sang một trạng thái mới. Vạn vật trong vũ trụ đều tuân theo luật: Thành - Trụ
- Hoại - Không.
Vạn vật được cấu thành, trụ một thời gian, sau đó chuyển đến diệt,
thành, hoại, không.
Các sinh vật đều tuân theo luật: Sinh, trụ, di, diệt.
Một hành tinh, một ngôi sao có thời kỳ vũ trụ kéo dài hàng triệu năm,
một cây có thể trụ hàng ngàn năm, một sinh vật có thể trụ được hàng trăm
năm, bông hoa phù dung chỉ trụ trong một ngày - sớm nở, chiều tàn. Xung
8
quanh ta sự vật chuyển biến không ngừng. Theo luật vô thường, không phải
khi sinh ra mới gọi là sinh, khi vạn vật diệt mới gọi là diệt mà từng phút, từng
giây, từng Satna, vạn vật sống đi mà chết và chết đi mà sống. Sống, chết tiếp
diễn liên tục với nhau bất tận như một vòng tròn.
Thuyết vô thường là một trong những thuyết cơ bản trong giáo lý Phật,
là cơ sở của lý luận cho phương thức sống, cho triết lý sống của những con
người tu dưỡng theo giáo lý phật.
Trong thế gian có những người không biết lý vô thường của Phật, có
những nhận thức sai lầm về sự vật là thường còn, là không thay đổi, không
chuyển biến. Nhận thức sai lầm như thế phật giáo gọi là ảo giác hay huyễn
giác. Vì nhận thức thân ta là thường còn nên nảy ra ảo giác muốn kéo dài sự
sống được hưởng thụ, được thoả mãn mọi dục vọng. Khi luật vô thường tác
động đến bản thân thì sinh ra phiền não đau khổ.
Ngược lại, nếu thấu lý vô thường một cách nông cạn, cho chết là hết,
đời người ngắn ngủi, phải mau mau tận hưởng những thú vui vật chất, phải
sống gấp, sống vội. Cuộc sống như thế là sống trụy lạc, sa đọa trong vũng bùn
của ngũ dục, sống phiền não đau khổ trước sự chuyển biến của sự vật, trước
sự sinh- trụ, dị diệt, trước sự thành, trụ hoại không nó diễn ra hàng ngày.
2.1.2. Thuyết vô ngã
Từ thuyết vô thường. Phật nói sang vô ngã. Vô ngã là không có cái ta.
Thực ra làm gì cũng có cái ta trường tồn, vĩnh cửu vì cái ta nó biến đổi không
ngừng, biến chuyển từng phút, từng giờ, từng Satna.
Một câu hỏi được đặt ra vậy cái ta ở giây phút nào là cái ta chân thực,
cái ta bất biến ? Cái ta mà Phật nói trong thuyết vô ngã gồm có hai phần:
Cái ta sinh tức thân.
Cái ta tâm lý tức tâm.
9
Theo kinh Trung Quốc Ahàm, cái ta sinh lý chỉ là kết hợp của bốn yếu
tố của bốn đại là: địa , thuỷ, hoả , phong.
Địa đại là cái đặc cứng như tóc, răng, móng chân, móng tay, da , thịt,
các cơ, xương, tủy, tim gan, thận,...
Thủy đại là những chất lỏng như mật ở trong gan, máu, mồ hôi, bạch
huyết, nước mắt,...
Hoả đại là những rung động của cơ thể như hơi thở, chất hơi ở trong dạ
dầy, ở ruột.
Những thứ đó không phải là ta, ta không phải là nhưng thứ đó, những
thứ đó không thuộc về ta.
Cái mà ta gọi là cái ta sinh lý chỉ là một khoảng không gian giới hạn
bởi sự kết hợp của da thịt, cũng như cái mà ta gọi là túp lều chỉ khoảng không
gian giới hạn bởi gỗ, tranh, bùn đất trát vách mà thôi.
Tứ đại ( đia, thuỷ, hoả, phong) nêu trên thoáng là của ngoại cảnh,
thoáng là của ta. Vậy thực sự nó là của ai ? Vả lại khi bốn yếu tố này rời nhau
trở về thể của nó thì không có gì ở lại để có thể gọi là cái ta được nữa. Cho
nên cái mà ra gọi là cái ta sinh lý chỉ là một giả tưởng, một nhất hợp sinh lý
mà thôi.
Còn cái ta tâm lý gồm : thụ, tưởng, hành, thức. Bốn ấm này cùng với
sắc ấm che lấp trí tuệ làm cho ta không nhận thấy được cái ta chân thực cái ta
Phật tính, cái chân ngã của chúng ta. Cái chân lý gồm những nhận thức, cảm
giác, suy tưởng, là sự kết hợp của thất tỉnh: Hỷ, nộ, ai, lạc, ái , nỗ, dục.
Thuyết vô ngã làm cho người ta không còn ai tin là có một linh hồn
vĩnh cửu, tồn tại kiếp này sang kiếp khác, đời này qua đời khác. Sự tin có một
linh hồn dẫn dắt đến sự cúng tế linh hồn là hành động của sự mê tín.
Hai thuyết vô thường, vô ngã là hai thuyết cơ bản trong giáo lý Phật.
Chấp ngã chấp có cái ta thường còn là nguồn gốc của vô minh mà vô minh là
10
đầu mối của luân hồi sinh tử sinh ra đau khổ cho con người. Căn cứ trên hai
thuyết vô thường và vô ngã Phật đã xây dựng cho đệ tử một phương thức
sống, một triết lý sống lấy vị tha làm lý tưởng cao cả cho cuộc sống của mình,
hay nói một cách khác một cuộc sống một người vì mọi người, mọi người vì
một người.
2.1.3. Thuyết Lý nhân duyên sinh
Với lý nhân duyên sinh Phật muốn nói tới một định lý. Theo định lý ấy
sự vật vạn vật phát triển trên thế gian đều do các nhân duyên hội họp mà
thành, sự vật, vạn pháp sẽ kiến diệt khi nhân duyên tan rã.
Nhân là năng lực phát sinh, duyên là lực hỗ trợ cho nhân phát sinh.
Như cây lúa thì hạt lúa là nhân, nước, ánh sáng mặt trời, công cày bừa gieo
trồng là duyên. Nhân duyên đó hội họp sinh ra cây lúa. Tất cả mọi hiện tượng
đều nương nhau mà hành động. Nói nương nhau có nghĩa là sự vật tác động,
kết hợp, chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau mà thành. Đó là nhân duyên.
Tất cả các pháp đều sinh, diệt và tồn tại trong sự liên hệ mật thiết với
nhau, không một pháp nào có thể tồn tại độc lập tuyệt đối.
Sự vật chỉ “ có” một cách giả tạo, một cách vô thường.
Nhân duyên hội họp thì sự vật là “ có”.
Nhân duyên tan dã thì sự vật là “ Không”.
Người thế gian không tu dưỡng tưởng lầm sự vật, vạn pháp là thực có,
là vĩnh viễn nên bám giữ vào các pháp vào sự vật ( sinh mệnh, danh vọng,
tiền tài...). Nhưng thực ra các pháp là vô thường, là chuyển biến và khi tan dã
thì người thế gian thương tiếc, đau khổ.
Thế giới vũ trụ, vạn pháp đều cấu thành bởi hệ thống nhân duyên trùng
trùng điệp điệp. Các pháp không có thực thể, chỉ vì nhân duyên hoà hợp mà
có, một cáh giả hợp mà sinh ra. Bởi thế tìm kiếm đến cùng cũng không thấy
vạn pháp có “ thủy” và xét đến muôn đời cũng không thấy vạn pháp có “
11
chung”. Vạn pháp là vô thủy, cái nguyên nhân đầu tiên của các pháp hay cái
chung cùng của sự vật.
Lý nhân duyên cho chúng ta thấy sự vật hình thành là do nhân duyên
hoà hợp, sự vật là hư giả, là giả hợp không có tính tồn tại. Như vậy con người
làm chủ đời mình, làm chủ vận mệnh của mình.
2.1.4. Thuyết nhân duyên quả báo hay thuyết nhân quả
Thuyết nhân duyên quả báo gọi là thuyết nhân quả là một trong những
thuyết cơ bản của giáo lý Phật. Phật chủ trương không bao giờ tự nhiên mà
có, mà sinh ra và cũng cho rằng không một thần quyền nào hay một đấng
thiêng liêng nào tạo ra sự vật. Sự vật sinh ra là có nhân nguyên nhân. Cái
nguyên nhân một mình cũng không tạo ra được sự vật mà phải có đủ duyên
thì mới tạo ra quả được.
Người ta nói rằng: Trồng đậu được đậu.
Trồng dưa được dưa.
Nhưng Phật nhấn mạnh: Quả có thể khác nhân sinh ra nó. Quả có thể
hơn nhân nếu gặp đủ duyên tốt, trái lại có thể kém nhân nếu gặp duyên xấu.
Nhân gặp đủ duyên thì sẽ biến thành quả, quả sinh ra nếu hội đủ duyên lại có
thể biến thành nhân rồi để sinh ra quả khác.
Sự vật là một chuỗi nhân quả, là một tràng nhân quả nối tiếp nhau, ảnh
hưởng lẫn nhau không bao giờ đứt quãng, không bao giờ ngừng.
Trong nhân lại có mầm mống của quả sau này nhưng quả không nhất
định phải đúng như nhân vì duyên có thể mang lại sự biến đổi cho quả - Đó là
thuyết “Bất định pháp” trong luật nhân quả.
Sự vật là bất định, người tu hành căn cứ vào thuyết này mà tu dưỡng và
tiến tới trên con đường giải thoát về nhân. Suy rộng ra theo giáo lý Phật thì
mỗi ý nghĩ của tâm ta, mỗi hành động của thân ta, mỗi lời nói của chúng ta
12
cũng là những hạt nhân của chúng ta gieo hàng ngày. Những hạt nhân khi gặp
đủ duyên sẽ nảy nở thành quả.
Theo danh từ Phật học, những hạt nhân này gọi là nghiệp. Gieo nhân
tức là gây nghiệp: Ý nghiệp, thân nghiệp, khẩu nghiệp. Kết quả đền đáp
những hành động nói trên phật gọi là nghiệp báo. Thời gian giữa gieo nhân và
hái quả có thể dài ngắn khác nhau. Vì vậy có nhân quả đồng thời: Tức là nhân
quả nối liền nhau, vừa tạo nhân quả liền phát sinh không phải đợi một thời
gian sau mới thành thục. Lại có nhân quả dị thời: Tức là nhân tạo ra đời trước,
đời sau mới kết thành quả.
Người nào gieo nhân, người ấy hái quả, không một hành động nào,
thiện hay ác, dù nhỏ đến đâu, dù ta khôn khéo bưng bít, giấu giếm đến mức
nào cũng không thể thoát khỏi cán cân nhân quả. Người học Phật, tu Phật
chân chính thấm nhuần thuyết nhân quả phải là người có đạo lý, không thể
nào khác được.
Giác ngộ được chân như tính thì gọi là tự giác, nhưng thế thì chưa nhận
thức đầy đủ, sâu sắc về pháp giới tính vì vậy các nhà tu hành giác ngộ được
bản lai tự tính còn phải vận dụng pháp giới tính vào nhiều trường hợp khác
để thấy được cái dụng to lớn của pháp giới tính.
Như vậy, người tu hành chỉ khi nào công hạnh giác tha được viên mãn
lúc đó mới chứng thực được toàn thể, toàn dụng của pháp giới tính. Nói một
cách khác là chứng được toàn thể của sự vật gồm cả ba vẻ: thể, tưởng, dụng,
chứng được pháp thân.
2.2. Nhận thức luận Phật giáo
2.2.1. Bản chất, đối tượng của nhận thức luận
Bản chất của nhận thức luận Phật giáo là quá trình khai sáng trí tuệ.
Còn đối tượng của nhận thức luận là vạn vật, là mọi hiện tượng, là cả vũ trụ.
13
Vạn vật là vô thuỷ vô chung, không có sự vật đầu tiên và không có sự
vật cuối cùng. Mọi vật đều liên quan mật thiết đến nhau. Toàn thể dù lớn đến
đâu nếu không có quan hệ với hạt bụi thì cũng không thành lập được. Để diễn
đạt ý trên, một thiền sư đã dùng hai câu thơ:
Càn khôn tận thị mao đầu thượng.
Nhật nguyệt bao hàm giới trí trung.
Có nghĩa là:
Trời đất rút lại đầu lông nhỏ xíu.
Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng.
Như vậy đạo Phật không phân biệt vật chất và tinh thần vì đó chỉ là hai
trạng thái của tâm, của năng lượng khi ở thể tiềm tàng.
Sau khi đã tìm hiểu về sự vật, hiện tượng chúng ta sẽ tìm hiểu cái tâm
trong đạo Phật để thấy được quan niệm của đạo Phật về tâm và vật.
Thông thường người ta cho rằng đạo Phật là duy tâm vì trong kinh phật
có câu “Nhất thiết duy tâm tạo”. Nhưng chữ “duy tâm” ở đây không phải là
duy tâm trong triết học Tây Phương nên ta không thể nhận định như trên. Chữ
tâm trong đạo Phật có nghĩa là một năng lượng, nó làm bản thể cho tất cả mọi
hiện tượng tâm lý, cho mọi hiện hành. Bản thể là cái chất, là cội gốc của vạn
vật. Khi ta phân tích, chia chẻ một vật đến một phần tử nhỏ nhiệm nhất, đến
phần cuối cùng thì phần tử ấy là bản thể mà ở đây cũng có vật có chất nên đu
đu cũng thấy có bản thể, vì vậy tâm cũng lại là to lớn vô biên.
Những tình cảm, ý thức phát sinh phải nương vào hiện tượng sinh lý,
vật lý. Nói nương nhau để phát sinh chứ không phải các hiện tượng sinh lý,
vật lý sinh ra các hiện tượng tâm lý.
Hiểu như vậy thì thấy rõ không phải tâm sinh vật hay vật sinh tâm.
Những hiện tượng sinh lý vật lý và những hiện tượng tâm lý ấy chỉ tương sinh
tương thành.
14
2.2.2. Quy trình, con đường và phương pháp nhận thức
Sự nhận thức phát triển theo hai con đường tư trào: Hướng nội và
hướng ngoại. Phật giáo thường quan tâm đến tư trào hướng nội tức là mỗi
người tự chiêm nghiệm suy nghĩ của bản thân. Có hai phương pháp để nhận
thức là :
Tiệm ngộ : là sự giác ngộ, nhận thức một các dần dần, có tính chất là “
trí hữu sư”.
Đốn ngộ : là sự giác ngộ bột phát, bùng nổ có tính chất là “trí vô sư”.
Với hai phương pháp ấy sự nhận thức Phật giáo được chia làm hai gia
đoạn:
Giai đoạn một là từ tuỳ giác đến thể nhập. Nhận thức bắt đầu từ cảm
giác và phụ thuộc vào cảm giác đưa lại. Kết quả là con người biết được cái
tiếp xúc giữa thế giới khách quan và giác quan của con người và từ sự tiếp
xúc này tạo nên yếu tố “thọ” trong ngũ uẩn. Theo nhà Phật nói chữ thọ ở đây
là sự tiếp xúc của sáu căn với sáu trần tạo nên yếu tố thọ. Căn cứ ở đây là
những khả năng nhận thức của các giác quan. Trần là loại kích thích từ thế
giới bên ngoài. Nếu kích thích tương ứng với các căn thì con người có cảm
giác. Sáu căn là : nhăn, nhỉ, tù, thiệt, thân, ý. Sáu trần là: sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp. “ Thọ”, cho chúng ta nhận biết được những hiện tượng riêng lẻ,
những cái bề ngoài, ngẫu nhiên. Trong một số trường hợp khác gọi đó là kinh
nghiệm. Từ những tri thức cảm tính kinh nghiệm nêu trên, con người sẽ đi sâu
để nhập vào bản thể của sự vật để biết được cái bên trong, bản chất đó là tri
thức định lý.
Giai đoạn hai sự nhận thức đi từ cái tâm tại đến cái tâm siêu thể. Từ kết
quả của giai đoạn trước, con người bắt được cái tâm tính của những sự vật
hữu hình tái thế và đặc biệt là cái tâm ở trong mỗi con người và nâng lên đến
nắm được cái tâm siêu thoát, cái tâm trung.
15
Để đạt được sự nhận thức đó thì có nhiều phương pháp song hai
phương pháp sau: Tam học và Tam huệ là chủ yếu.
Tam học là giới, định, tuệ.
Giới: Gồm có nhứng phương tiện để thay đổi lối suy nghĩ, lối sinh hoạt
hàng ngày của cơn người sống theo đạo, thích hợp với đạo là luôn hướng về
thiện.
Định: là đình chỉ mọi tư tưởng xấu, ý nghĩ xấu và còn là tập trung tư
tưởng suy nghĩ để làm mọi việc yên lành.
Tuệ: là trí tụ sáng suốt, đã thấu được lý vô thường, vô ngã, do đó chỉ
nghĩ đến làm việc thiện, mưu lợi cho chúng sinh.
Tam huệ: là văn, tu, tư.
Văn: là nghe pháp phật, hiểu rõ ý nghĩa, quan niệm được bản tính thanh
tịnh, sáng suốt của mình, do đó mà có một lòng tin vững chắc nơi Phật pháp.
Tư : là suy nghĩ về các pháp Phật để nghe được, học được đi đến giác
ngộ bản lai tư tính của mình.
Tu: là nương theo trí tuệ, bắt đầu trực nhận được bản tính chân như, mà
tụ tập gột rửa những thói quen mà lầm từ nhiều kiếp để lại đi đến nhập với
một pháp giới tính.
Các phương pháp trên đã phá tan các kiến chấp sai lầm chấp ngã, chấp
pháp để đi đến trung đạo và nhận rõ trung đạo là chẳng có, chẳng không. Với
nhận thức như thế, người tu hành sẽ được sống trong sự giải thoát, sinh tử
luân hồi sẽ không còn nữa.
2.3. Nhân sinh quan Phật giáo
2.3.1. Tứ diệu đế
Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế, là bài thuyết pháp
đầu tiên của Phật sau khi thành đạo tại vườn Lộc giã cho năm từ khưu trước
kia đi theo Phật.
16
Tứ đế là đạo lý căn bản của Thanh Văn Thừa, đồng thời cũng là cơ sở
của các thuyết khác trong giáo lý Phật.
Tứ đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
* Khổ đế
Trong tứ đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy vì
sao mà khổ, phương pháp diệt khổ và còn đường đi đến diệt khổ.
Nói như thế có người hiểu lầm cho rằng đạo Phật chủ trương trong
cuộc đời chỉ toàn là khổ và đạo Phật là đạo yếm thế. Thực ra, đạo Phật nhìn
cuộc đời một cách khách quan, không ru người ta vào một giấc mơ Niết Bàn
hay cực lạc và cũng không làm cho người ta sợ hãi, chán nản bởi những đau
khổ trong cuộc sống. Phật chỉ cho chúng ta đi đến giải thoát.
Danh từ Dukkha của tiếng Xantit ta thường dịch là khổ là chưa thật hết
nghĩa nên mới dẫn đến những hiểu lầm trên.
Trong phép tướng duy thức có nói đến ba loại thụ: khổ thụ, lạc thụ, xả
thụ. Như vậy không phải chỉ có khổ thụ mà còn có lạc thụ. Đối với cảnh
nghịch sinh ra khổ thụ nhưng đối với cảnh thuận thì sinh ra lạc thụ. Các cảnh
có thể làm cho người ta vui hoặc khổ hoặc không vui, không khổ. Đạo Phật
không phủ nhận những cảm giác vui( lạc thú) của cuộc đời mà còn phân tích
ra nhiều hình thức vui. Nhưng những cái vui ấy, cũng như những cái khổ ấy
đều bao gồm trong danh từ Dukkha, vì những cái vui, cũng như những cái
khổ ấy đều là vô thường hư giả. Dù người tu hành chứng được những trạng
thái thiền định cao siêu thì những lạc thú siêu thoát ấy vẫn là Dukkha vì
những người tu hành ấy chưa thoát khỏi tam giới vô thường, hư giả.
Khổ thụ và lạc thụ đều là Dukkha cả, do đó chúng ta phải diệt là diệt
cái Dukkha ấy chứ không phải là tránh khổ, tìm vui như thế gian thường
hiểu, thường lầm.
Theo cách phân tích khác Phật chia cái khổ ra làm 8 loại:
17
1, Sinh khổ: Đã có sinh là có khổ vì đã sinh nhất định có diệt, bị luật vô
thường chi phối nên khổ.
2, Lão khổ: người ta mong muốn trẻ mãi nhưng cái già theo thời gian vẫn cứ
đến. Cái già vào mắt thì mắt bị mờ đi, cái già vào lỗ tai thì tai bị điếc, vào da,
xương tủy thì da nhăn nheo, xương tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến đâu thì suy
yếu đến ấy làm cho người ta phiền não.
3, Bệnh Khổ: Trong cuộc sống, thân thể thường ốm đau, nhất là khi già yếu,
thân thể suy nhược, bệnh tật dễ hoành hành làm cho người ta đau khổ.
4, Tử khổ : Là cái khổ khi người ta chết. Chứng sinh do nghiệp báo chịu cái
thân nào thì gắn bó với cái thân ấy coi như cái thân duy nhất của mình thì khi
chết thì phiền não vô cùng.
5, Cầu bất đắc khổ: Người ta thường chạy theo những điều mình ưa thích,
mong cầu hết cái này đến cái khác. Khi chưa cầu được thì phiền não, khi cầu
được rồi thì phải lo giữ nó, nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc.
6, Ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly.
7, Oán tăng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ tiến đến bên mình.
8, Ngũ ấm xí thịnh khổ: ngũ ấm ấy là sắc ấm, thụ ấm, tưởng ấm, hành ấm,
thức ấm. Ngũ ấm ấy che lấp trí tuệ, phải chịu cái khổ luân hồi trong vô lượng
kiếp.
* Tập đế:
Tập đế còn gọi là nhân đế, là những nguyên nhân tạo thành sự khổ.
Những nguyên nhân đó không phải tìm đâu xa mà ở ngay trong mỗi chúng ta.
Nguyên nhân thì có nhiều nhưng có thể tóm lại như sau:
1. Tham lam.
2. Giận dữ.
3. Si mê.
4. Kiêu mạn.
18
5. Nghi ngờ.
6. Thân kiến ( tưởng thân thể là thực có là trường tồn).
7. Biên kiến ( sự hiểu biết một mặt như chấp đoạn, chấp thưởng ).
8. Tà kiến ( sự hiểu biết không đúng ).
9. Kiến thử ( chấp trí hiểu biết của riêng mình là đúng).
10. Giới cấm tu ( tu hành không chính đạo ).
Ba nguyên nhân chính ( tham, sân, si) Phật còn gọi là tam độc, là nguồn
gốc của mọi sự khổ. Nguyên nhân của tam độc là do ái dục và vô minh được
thể hiện trong công thức sau:
Nghiệp
Ái dục + Vô minh ––––> Sự khổ.
Ái dục: là tham ái, yêu thích do cảm thụ đi đến suy đắm trước những
cảnh yêu thích, vừa lòng, chán ghét cảnh trái ý. Vì say đắm với những cảnh
nên rong ruổi theo cảnh, bám lấy cảnh hình thành nên tham vọng và ước
muốn.
Vô minh: là mê lầm, không sáng suốt. Đối với những hiện tượng trụ
không nhận rõ chân tướng, thực tướng của nó là sự chuyển biến không ngừng,
là vô thường mà lại lầm tưởng các hiện tượng đó là thực có, là thường còn.
Vô minh che lấp ta không nhận thấy được chân tâm mà luôn luôn chạy theo
vọng tâm, làm ta thấy có thân, có cảnh, có ta, có người của ta và thấy quý
thân ta, không quan tâm đến người sống quanh ta.
Nghiệp là những hoạt động về thân thể, về lời nói ý nên Phật gọi là
thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.
Kết quả của hành động ấy gọi là nghiệp báo. Không phải hoạt động nào
của ta cũng gây nghiệp báo. Những việc như : đi, đứng, nhìn, ngồi,... thì
không gây nghiệp báo.
Nghiệp có hai loại: Nghiệp thiện và nghiệp ác.
19
Nghiệp thiện : là những việc có lợi cho người và đem lại quả báo tốt
cho mình.
Nghiệp ác: là những việc làm hại cho ngươi và đem lại quả báo xấu cho
mình.
Như vậy, Phật đặt số mệnh của con người trong chính tay họ. Tự con
người đã gây nên nỗi khổ cho mình. Do đó, Phật đưa ra lý thuyết thập nhị
nhân duyên để thấy được nguồn gốc của sự vật trong thế gian. 12 nhân duyên
là sợi dây liên tục nối tiếp con người trong vòng sinh tử luân hồi đó là:
1. Vô minh
5. Lục nhập
9. Thù
2. Hành
6. Xác
10. Hữu
3. Thức
7. Thụ
11. Sinh
4. Danh sắc.
8. Ái
12. Lão tử.
Tập đế là một chân lý thể hiện tính biểu chứng sâu sắc trong mối quan
hệ nhân quả và đã tìm tới các nguyên nhân rất đa dạng, phong phú. Các
nguyên nhân ấy quan hệ với nhau, cái nào cũng có thể làm nhân làm duyên
cho cái khác, như làn sóng trên mặt biển, lớp trước là lớp nhân là duyên cho
lớp sau và cứ thế tiếp diễn. Nhưng cái hạn chế của tập đế là chưa đề cập đến
nguyên nhân từ xã hội. Đặc biệt là chưa nhắc tới quan hệ giai cấp, bóc lột
trong xã hội. Luận điểm này thể hiện rõ từ trào hướng nội hướng nội trong
nhận thức luận Phật giáo.
* Diệt đế:
Diệt đế là tích quả Niết bàn do thực hành tịnh nghiệp mà đạo đế mang
lại.
Diệt đế là trừ diệt sự khổ để đi đến chỗ an lạc là chỗ kết nghiệp đã hết
không còn luân hồi sinh tử nữa.
Có tịnh nghiệp tất sinh tịnh quả. Ấy là khi diệt đế vọng niệm không còn
khởi lên, tâm hồn luôn an trụ trong cảnh vắng lặng là do cảnh giới Niết Bàn.
20
Niết Bàn có bốn đặc điểm: Thường - Lạc - Ngã - Tịnh.
Thường là thường còn, không biến đổi.
Lạc là an lạc, giải thoát hết phiền não, thâm tâm tự tại.
Ngã là chân ngã, chân thực, thường còn.
Tịnh là thanh tịnh, trong sạch không còn ô nhiễm.
Niết Bàn là sự chấm dứt mọi phiền não được thực hiện không phải ở
một nơi nào khác, một cõi nào khác mà thực hiện ngay trong cõi thế gian này,
nhờ sự tu hành nghiêm túc mang lại cho ta mọi trạng thái tinh thần đặc biệt:
Trạng thái an lạc, siêu thoát, tịnh diệt.
Phật dạy rằng: khi môn đệ làm cho lòng mình sạch hết tham lam, nóng
giận và si mê thì môn đệ đã đến được bến giác, tức là cảnh giới Niết Bàn. Do
đó, con người phải dày công tu dưỡng, xoá bỏ được lửa dục, lửa sân, lửa si
mê để chứng được cảnh giới Niết Bàn ngay trong cõi đời hiện tại.
* Đạo đế:
Đạo đế là con đường, là môn pháp hướng dẫn cho chúng sinh đạt được
đến quả giải thoát, ra khỏi luân hồi sinh tử.
Pháp môn tu dưỡng ra khỏi luân hồi sinh tư rất nhiều, nhưng thường
được đề cao là phương pháp 37 đạo phẩm.
Phương pháp này gồm có:
1. Tứ niệm xứ:
4.
2. Tứ chính cần:
4.
3. Tứ như ý túc:
4.
4. Ngũ cân:
5.
5. Ngũ lực:
5.
6. Bát chính đạo: 8.
7. Thất giác :
7.
21
Trong 37 đạo phẩm, bát chính đạo là quan trọng nhất. Nó là con đường
giúp người ta thoát khỏi phiền não, đau khổ đi tới cảnh giới Niết Bàn tự tại,
an lạc. Bát chính đạo gồm có:
1. Chính ngữ : là tu nghiệp thanh tịnh, không phát ra lời nói sai trái.
2. Chính nghiệp: hành động chân chính, mang lại lợi ích cho mọi người.
3. Chính mệnh: sống bằng nghề nghiệp chân chính.
4. Chính tịnh tiến : tiến tới trên con đường đạo, không đi vào các đường tà.
5. Chính niệm: tâm trí luôn luôn nghĩ đến đạo lý vô ngã, diệt trừ những
kiến chấp mê lầm, đoạt trừ những tư tưởng, hành động bất chính.
6. Chính định : Giữ tâm vắng lặng không một vọng niệm khởi lên để trí
tuệ xuất hiện, chứng quả tu đà hoàn.
7. Chính kiến : kết quả của việc sống, tư duy con người phải có ý biến lấy
tiêu biểu là các vị Phật.
8. Chính tư duy: Sau khi có niệm khởi, con người sẽ tư duy, suy nghĩ một
cách chân chính, làm chủ được dòng tư duy.
Để đi qua tám con đường trên thì không ngoài ba nguyên tắc: giới,
định, tuệ hay còn gọi là tam học. Các nguyên tắc này có sự liên hệ mật thiết
bổ xung cho nhau.
Với pháp tứ diệu đế Phật muốn cho chúng sinh thấy 2 cảnh giới khác
nhau là Niết Bàn và Thân Lụy: một con đường giác ngộ, an lạc và một con
đường mê lầm tội lỗi. Và cùng phương pháp tứ diệu đế, bây giờ chúng ta có
thể trả lời được các câu hỏi đã đặt ra ở trên.
2.3.2.Những quan điểm về nhân sinh quan Phật giáo
* Con người:
Con người là sự kết hợp của ngũ uẩn( sắc, thụ, tưởng, hành, thức) gồm
hai yếu tố chính: yếu tố sinh lý( sắc) và yếu tố tinh thần ( thụ, tưởng, hành,
thức).
Yếu tố tinh thần chỉ phát huy tác dụng khi nó được gắn với một thân
thể. Sắc thân chỉ tồn tại trong một thời gian rồi bị huỷ diệt.
22
Như vậy, con người chỉ là một giả hợp sinh lý tuân theo quy luật: sinh,
tục, dị, diệt.Con người là do nhân duyên hoà hợp, không có một đấng tối
thượng siêu nhiên tạo ra con người cũng như con người không phải tự nhiên
mà sinh ra. Khi nhân duyên hoà hợp thì con người sinh, khi nhân duyên tan rã
thì con người chết. Song chết chưa phải là hết, linh hồn cũng không bất tử
chuyển từ kiếp này sang kiếp khác. Con người ở kiếp này sinh ra thì con
người ở kiếp trước diệt, nhưng con người ở kiếp sau không phải là con người
ở kiếp trước nhưng cũng không khác với con người ở kiếp trước. Con người
không phải là một thực thể trường tồn mà chỉ là một giả hợp của ngũ uẩn.
Trong thời gian ngũ uẩn kết hợp, các việc thiện, ác được thực hiện. Con người
gây nghiệp và tạo ra một động lực làm xuất hiện nghiệp báo ở kiếp sau.
Từ nhận thức trên, con người tu Phật lúc nào cũng phải cẩn thận trong
một ý nghĩ, lời nói việc làm.
* Nhân vị trong đạo Phật.
Đạo Phật là đạo chủ trương tự do, bình đẳng, từ bi, bác ái. Ở một thời
đại cổ xưa cách chúng ta trên 25 thế kỷ Phật đã có một quan niệm hết sức tiến
bộ đối với vấn đề bình đẳng trong xã hội. Phật đã từng nói:
“Không có đẳng cấp trong dòng máu đỏ như nhau, trong dòng nước
mắt cũng mặn như nhau. Mỗi người sinh ra không phải ai cũng mang sẵn dây
chuyền ở cổ hay dấu tica trên trán (dấu hiệu đẳng cấp của Ấn Độ ) ”.
Và những quan niệm đó được Phật thực hiện ngay trong giáo hội của
mình. Phật thu nạp vào giáo hội của Người tất cả mọi đẳng cấp, không phân
biệt sang hèn, giàu nghèo. Những người ở tầng lớp dưới sau khi tu đắc đạo đã
được các đệ tử khác tôn trọng, cho đến các vua quan khi đến thăm hỏi cũng
phải tỏ lòng kính mến.
Không dừng lại ở sự bình đẳng giữa con người với con người mà Phật
còn đi xa hơn, nêu lên sự bình đẳng giữa các chúng sinh đều có Phật tính như
nhau và đang cùng nhau: người trước, vật sau, tiến bước trên con đường giải
thoát.
23
Người ta gọi đạo phật là đạo từ bi, người tu hành là người giàu lòng từ
bi.
Từ là hiền hoà, cho vui.
Bi là thương xót, cứu khổ.
Từ bi là đen lại an lạc, hạnh phúc cho người khác, cứu khổ, cứu nạn
cho chúng sinh, quên đi mọi ích lợi của bản thân mình. Nhưng từ bi không
phải là thủ tiêu mọi sự đấu tranh, giữ thái độ tiêu cực, thụ động trước mọi sự
bất công, áp bức, tham nhũng. Có sức mạnh hung bạo thì phải có sức mạnh
của từ bi để chống lại. Sức mạnh đó thể hiện bằng sự giáo hoá và bằng cả bạo
lực, bạo lực từ bi.
Hai chữ từ bi càng đẹp biết bao nhiêu đối với những con người thực
tâm tu luyện thì càng xấu xa bao nhiêu đối với những kẻ lợi dụng đạo để mưu
cầu lợi ích cho mình. Vấn đề giải thoát là vấn đề cơ bản trong đạo Phật vì
mục đích cuối cùng của đạo Phật là giải thoát con người khỏi cuộc sống đau
khổ trong vô minh.
Sự giải thoát không chỉ nhằm đấu tranh chống những áp bức về xã hội
về kinh tế như lịch sử Phật giáo đã chứng minh mà sự giải thoát nhằm tiêu
diệt tận gốc mọi đau khổ là tham lam và dục vọng. Việc giải phóng này là con
người phải tự lực đảm nhiệm, không ai có thể làm thay được và mỗi người
phải coi sự giải thoát là cứu cánh cuối cùng của cuộc đời.
Như vậy, Đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng
và cao quý. Hạnh phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con
người thấm nhuần giáo lý Phật, con người vị tha, từ bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một
xã hội hoà bình, an lạc, công bằng, mọi người sống vì lợi ích của nhau, của
tập thể.
Trái lại, con người ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn
bạo, độc ác thì cái gì trong tay con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và
xã hội của những con người ấy là xã hội của địa ngục, xã hội áp bức bóc lột.