Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Hình tượng người vợ nhặt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.22 KB, 17 trang )

HÌNH TƯỢNG NGƯỜI VỢ NHẶT

a. Người “vợ nhặt” là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh: Dưới ngòi bút của
Kim Lân, người vợ nhặt là người phụ nữ vô danh, không tên không tuổi, không quê hương, không
quá khứ. Không phải là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho thị một cái tên mà bởi
vì thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân
vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Nhưng nhân vật
này để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
– Thị xuất hiện vừa bằng ngoại hình vừa bằng tính cách của một con người năm đói:
+ Lần đầu thị xuất hiện là hình ảnh: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi trước
cổng chợ tỉnh. Khi nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc “Muốn ăn cơm trắng mấy giò/ Lại
đây mà đẩy xe bò với anh”, thị “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng…cười tít mắt”. Thị đẩy xe với hi
vọng được ăn nên cũng rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ.
+ Lần thứ hai, thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn: Đó là người phụ nữ gầy vêu vao, “áo
quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Có thể
nói, cái đói đã khiến thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng nhếch nhác, tội nghiệp hơn nữa. Cái
đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm. Vì đói mà thị trở
nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói
chuyện. Cái đói khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Thị cứ thế


mà đòi ăn. Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng
chuyện trò gì”. Thị đã đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách.

b. Nhưng phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, người “vợ nhặt” lại có một lòng ham sống mãnh
liệt. Thị đồng ý theo Tràng là vì để được sống chứ không phải là loại người lẳng lơ:
Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng về”.
Thì người đàn bà kia lại im lặng (mà thường tâm lý im lặng là đồng ý). Thị đồng ý, đồng ý mà
không hề do dự, phân vân. Trong khi đó, Tràng là ai, tốt xấu như thế nào? gốc tích ra sao? Thị nào
hay nào biết. Chỉ mấy bát bánh đúc là thị có thể theo ngay Tràng. Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì
miếng ăn ? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra hành động theo Tràng của thị xuất phát từ nhu


cầu bám lấy sự sống, từ lòng khao khát được sống. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn
tại. Thị chấp nhận theo không Tràng. Đó là ý thức bám lấy sự sống. Cận kề bên cái chết, người
đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái
ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý. Nói như Kim
Lân: ” Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ
đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.
c. Phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáy, người “vợ nhặt” lại là một người phụ nữ rất ý tứ, biết điều:
Trên đường về nhà chồng tâm trạng của thị có sự thay đổi rõ nét. Nếu như anh cu Tràng sung
sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ. Trước cái
nhìn “săm soi”, trước những lời bông đùa, chòng ghẹo của người dân ngụ cư. Thị ngượng nghịu,
thiếu tự tin “chân nọ bước díu cả vào chân kia… cái nón rách tàng che nửa khuôn mặt”.
Về đến nhà chồng, nhìn thấy“ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn
những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng


cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách. Trong tiếng
thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của
thị về gia cảnh nhà chồng. Đó phải chăng là thị đã ý thức được trách của mình đối với việc cùng
chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao.
Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường (“Ngồi mớm” – thế ngồi bấp bênh,
không ổn định nhưng cũng rất ý tứ). Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần).
Đây là hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực thước trong quan hệ với mẹ chồng. Khi Tràng thưa chuyện
với mẹ, thị chỉ biết “đứng vân vê tà áo đã rách bợt”.
d. Bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, người vợ nhặt lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan:
+ Sau đêm tân hôn, người phụ nữ ấy có sự thay đổi hoàn toàn về tâm trạng và tính cách. Thị dậy rất sớm
cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Sự thay đổi ấy người đọc cũng dễ nhận ra: nếu hôm qua thị chua
ngoa, đanh đá, chỏng lỏn bao nhiêu thì hôm nay thị lại hiền lành bấy nhiêu. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đầy
đủ sự thay đổi tuyệt vời ấy: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực
không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Câu văn này đã ghi lại cảm
xúc chân thật của Tràng trước sự đổi thay tích cực của vợ. Phải chăng tình yêu đích thực với sức nhiệm màu

diệu kì đã có sức cảm hóa với thị.
+ Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng
hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng thị vẫn vui vẻ, bằng lòng. Thị đã đem sinh khí, thông tin
mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: “Trên mạn Thái
Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho
người đói nữa đấy”. Sự hiểu biết này của thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh sẽ
lựa chọn “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói ầm ầm đi trên đê Sộp, phía trước có lá cờ đỏ to lắm”. Qua
đó, ta thấy nhân vật vợ Tràng, “nàng dâu mới” cũng là Người truyền tin cách mạng.
Viết về sự đổi thay trong tâm lý của thị, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt
đẹp của người dân lao động nghèo. Tình cảm nhân đạo của nhà văn thể hiện ở đây.
e. Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Xây dựng nhân vật người vợ nhặt, nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống
truyện độc đáo; diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với
tính cách nhân vật. Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, kịch tính…
Tóm lại, người “vợ nhặt” là một sáng tạo của Kim Lân. Thông qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện một ý
nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người Việt Nam dù sống trong hoàn cảnh khốn cùng nào cũng sẽ luôn hướng
về tương lai với niềm tin vào sự sống.
PHAN DANH HIẾU


VỢ NHẶT
Đề 1: Hãy phân tích truyện ngắn Vợ nhặt để làm sáng tỏ ý kiến sau:“Dù bị đẩy
vào hoàn cảnh khốn cùng những người dân xóm ngụ cư vẫn yêu thương và khao
khát hạnh phúc”.
I. Đặt vấn đề
KL là nhà văn một lòng đi về với “đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên
thủy” của cuộc sống nông thôn. Bằng tình cảm, tâm hồn của một con người vốn
là con đẻ của đồng ruộng, sau cách mạng KL có nhiều truyện ngắn hay viết về
mảng đề tài này, tiêu biểu là tác phẩm “Vợ nhặt”.Ở truyện ngắn này, KL đã có
những khám phá mới mẻ về người lao động: dù bị….hp.
II. Giải quyết vấn đề

Giới thiệu tác phẩm:
- Truyện ngắn “Vợ nhặt” được in trong tập “Con chó xấu xí”, xuất bản năm
1962, tiền thân là truyện “Xóm ngụ cư”. Sau này tác phẩm được KL viết lại và
đổi tên.- Toàn bộ câu chuyện xoay quanh tình huống: anh cu Tràng dân xóm ngụ
cư nhặt được vợ trong những ngày tối sầm vì đói khát. " Qua đó nhà văn muốn
thể hiện cái nhìn chân thực về cuộc sống và số phận của người nông dân trong
nạn đói 1945 và vẻ đẹp sâu sắc trong tâm hồn họ.
1. Hoàn cảnh khốn cùng
- Bức tranh ngày đói được dựng lên bằng: hình ảnh, âm thanh, mùi vị.· Câu
chuyện mở ra trong không khí thê thảm của người đói. Cái đói đã hiện ra ở
những hình ảnh ghê rợn thảm thương: bóng người xanh xám như bóng ma. Cái


đói làm cho con đường về làng trở nên khẳng khiu, lũ trẻ ngồi ủ rũ dưới những
xó tường không buồn nhúc nhích.· Âm thanh của tiếng quạ kêu cứ gào lên từng
hồi thê thiết, càng khiến bức tranh ngày đói trở nên ảm đạm.· Bao trùm lên toàn
bộ bức tranh ngày đói là mùi thối của rác rưởi và mùi gây của xác người." Tất
cả những âm thanh, hình ảnh, mùi vị đó gợi lên bầu không khí chết chóc của cõi
âm, cõi địa ngục. Qua những trang văn của KL ta như được trải lòng cùng nỗi
đau của cả dân tộc.- Không chỉ dừng lại ở bức tranh chung, cái đói thực sự lan
đến từng gia đình, đe dọa từng sinh mạng.· Trong những ngày đói, miếng ăn trở
thành vấn đề cấp thiết. Tất cả mọi người đều lo lắng cho sự tồn tại, giằng co giữa
sự sống và cái chết. Ranh giới ấy thật mong manh. Cái đói đã đẩy người lao động
đến bước đường cùng: giá trị con người trở nên rẻ rúng đến thảm hại. Người
ta có thể nhặt được vợ như nhặt bất kì cái rơm cái rác vương trên đường. Tràng
chỉ bằng bốn bát bánh đúc và mấy lời tầm phào, tầm phơ mà lấy được vợ." Cái
đói đã đẩy người vợ nhặt đến bước đường cùng, làm xấu đi cả nhân hình, nhân
tính. Vì đói mà thị tả tơi, gầy sọp hẳn đi đến Tràng cũng không nhận ra. Vì đói
mà thị trơ tráo bám lấy Tràng, gạ gẫm miếng ăn dù mới quen biết. Và thị đã
không ngần ngại theo Tràng về nhà khi anh ta nói đùa “có về với tớ thì ra khuôn

hàng lên xe cùng về”. Thân phận con người đã đẩy xuống hạng bèo bọt.· Cái đói
còn hiện ra thảm hại trong gia đình Tràng: đêm tân hôn diễn ra trong tiếng hờ
khóc tỉ tê, mùi đốt…Bữa ăn đón dâu mới chỉ có nùm rau chuối thái rối, một đĩa
muối ăn với cháo…Mọi người ăn mà không dám nhìn nhau trong khi ngoài đường
tiếng trống thúc thuế vẫn cứ dồn dập. Thật ai oán, xót xa." Qua những trang văn


của KL ta hiểu nỗi khốn cùng của người nông dân trong nạn đói 1945 và càng
hiểu hơn tội ác của thực dân P và phát xít Nhật đã bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng
đay gây lên thảm cảnh đau đớn. Đó cũng là giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm
này.
2. Nhưng nét đặc sắc của tác phẩm là tác giả đã phát hiện ra vẻ đẹp trong tâm
hồn con người “dù bị…”
Điều này thể hiện rõ qua diễn biến tâm lí của từng nhân vật từ sau khi Tràng
nhặt được vợ
2.1. Tràng
- Tràng là người nông dân nghèo, là thành phần dân xóm ngụ cư, cái đói và
miếng ăn vẫn là sự đe dọa thường xuyên đối với con người này. Thế mà bỗng
dưng giữa ngày đói T lại nhặt được vợ, khiến anh không khỏi lo lắng. Mới đầu
anh cũng chợn nghĩ “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi
không, lại còn đèo bòng”. Nhưng ngay sau đó T lại tặc lưỡi “chặc! kệ”. Nghe có
vẻ tầm phơ, tầm phào nhưng thực là khát vọng hạnh phúc vốn sẵn có trong tâm
hồn mà chính T cũng không ý thức hết.- Sau sự quyết định táo bạo ấy là cách
xử sự đầy ân tình của T đối với vợ: đưa vợ vào hàng cơm chén một bữa no nê,
mua cho thị một cái thúng con và sẵn sàng tiêu hoang vì hạnh phúc của mình:
bỏ ta 2 hào mua dầu thắp sáng, không hề có một thái độ khinh thị mà đầy trân
trọng. Ở đây có sự đồng cảm, tương thân, tương ái.- Tâm trạng trên đường về
nhà:
- Niềm khao khát hạnh phúc đã có sức biến đổi từ một anh cu T thô kệch vụng



về, trở thành người đàn ông thực sự với những cảm xúc và cảm giác tinh tế.
· Niềm vui đã theo bước chân T về xóm ngụ cư. Khác với vẻ mệt mỏi hàng ngày
hôm nay trên nét mặt T có “vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười một
mình và hai con mắt sáng lên lấp lánh”.
· Niềm hạnh phúc mới khiến T trở nên lãng mạn. Giữa không khí vắng vẻ, thoải
mái T cũng “định nói với thị một vài câu rõ tình tứ”. Và trong chốc lát “T hình
như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả đói khát ghê
gớm đang đe dọa…chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên”. Niềm
hạnh phúc đã hiện hình ở người đàn ông thô tháp mộc mạc này “một cái gì mới
mẻ, lạ lắm…sống lưng”.- Tâm trạng trong buổi sáng hôm sau:
· Buổi sáng thức dậy, T được sống trong những suy nghĩ, cảm xúc rất mới mẻ.
T thấy “trong người êm ái, lửng lơ như từ giấc mơ đi ra”.
· Những cảnh vật quen thuộc hàng ngày mà hôm nay T thấy thân thiết lạ và trở
nên thấm thía cảm động: bà cụ Tứ thì lúi húi giẫy cỏ, vợ hắn quét lại cái sân, tiếng
chổi từng nhát kêu sàn sạt. Âm thanh của tiếng chổi gieo vào lòng hắn cảm giác
bình yên, ấm cúng “bỗng nhiên hắn thấy hắn yêu thương, gắn bó với cái nhà của
hắn lạ lùng”. Những suy nghĩ đó chứng tỏ T ý thức đầy đủ trách nhiệm chăm
lo cho gia đình.- Hình ảnh Việt MinhTrong bữa cơm ngày đói, giữa những miếng
cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ trong cổ họng” T thoáng thấy hiện lên hình
ảnh lá cờ trên đê Sộp và đoàn người đi phá kho thóc của Nhật. Hai tiếng Việt
Minh vang lên cùng với hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bám riết tâm trí T, đồng thời
là niềm nuối tiếc vấn vơ." Cách kết thúc khẳng định: con người như T dù bị đẩy


đến bước đường cùng vẫn kháo khát hướng tới tương lai, khao khát hạnh phúc.
Ý tưởng của nhà văn thể hiện qua nhân vật thật sâu sắc.
2.2. Bà cụ Tứ
- Thấm thía nỗi trớ trêu của số kiếpBà cụ Tứ đánh giá, nhìn nhận việc T lấy vợ
từ góc độ và tâm trạng khác. Là người đã từng trải, trước lời thông báo của T,

bà “cúi đầu nín lặng”. Bà đã cố kìm nén nỗi lòng mình nhưng “trong kẽ mắt kèm
nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Đó là những giọt nước mắt đầy ai
oán xót thương cho số kiếp đứa con cho cảnh gia đình nghèo hèn của mình. Chính
vì vậy, bà không tránh khỏi nỗi âu lo: “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống
qua được cơn đói khát này không?”.
- Cùng với nỗi lo âu là cảm giác thương xót, cảm thông cho người đàn bà mới
về làm dâu mình “người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ người ta mới lấy con
mình. Mà con mình mới được có vợ”. “Mừng lòng” chứ không phải “bằng lòng”
bởi dù cảnh gia đình nghèo khổ nhưng mơ ước về sự sum họp hạnh phúc luôn
thường trực trong tâm thức người mẹ nghèo này.Cử chỉ của bà cụ Tứ khiến ta
cảm động về sự cưu mang đùm bọc của người lao động theo đúng tinh thần lá
lành đùm lá rách.- Cảm động hơn nữa là người mẹ già không nguôi khao khát
hạnh phúc. Người mẹ gần đất xa trời này lại là người chan chứa nhiều nhất
những hi vọng, nói nhiều nhất đến tương lai. Trước việc T có vợ người mẹ nghèo
không khỏi xót xa, tủi cực bởi người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong
nhà ăn lên làm nổi…còn con mình thì…Nhưng nỗi xót xa ấy nhanh chóng qua đi
để lại trong tâm trí người mẹ nghèo vẫn là niềm khát khao hạnh phúc, hướng


về sự sống, tương lai của con mình. Bà đã an ủi con mình bằng triết lí, bằng niềm
tin của người nghèo: “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Đó là niềm tin rất đáng trân
trọng bởi nó nảy nở trong hoàn cảnh khốn cùng.- Đặc biệt vào buổi sáng hôm
sau người mẹ ấy đã có những thay đổi mới mẻ. Bà dậy sớm cùng con dâu thu
dọn, “cái mặt bủng beo u ám” hàng ngày của bà hôm nay “rực rỡ hẳn lên”.
· Trong bữa cơm ngày đói chỉ có lùm chuối thái rối, ít muối ăn với cháo nhưng
bà toàn nói chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này. Hình ảnh đàn gà sinh
sôi nảy nở cũng là biểu hiện của niềm tin, khát vọng hạnh phúc trong tâm hồn
người mẹ nghèo.· Trong hoàn cảnh khốn cùng vì đói nghèo người mẹ nghèo
không nghĩ tới cái chết mà hướng về sự sống, tương lai.
2.3. Chị vợ nhặt

- Thị chính là nạn nhân của cái đói. Cái đói làm thị xấu đi cả nhân hình, nhân
tính. Vì đói mà thị hạ mình xuống, chấp nhận cái tiếng vợ nhặt, vợ theo. Nhưng
ngay trong hành động tưởng liều lĩnh ấy nghĩ kĩ đó cũng là biểu hiện của niềm
khát khao sống, khát khao hạnh phúc. Việc theo T về làm vợ, vừa để chạy trốn
cái đói nhưng đồng thời cũng là hành động đi tìm sự sống, đi tìm hạnh phúc cho
mình.- KL đã rất tinh tế khi điểm vào câu chuyện vài biểu hiện thất vọng về
hoàn cảnh của T cũng chẳng khác gì mình: “thị cố nén một tiếng thở dài”.Nhưng ở người đàn bà này vẫn thường trực một niềm khát khao sống, khát khao
hạnh phúc nên dễ dàng chấp nhận hoàn cảnh. Thị có sự thay đổi hẳn. Trên đường
về nhà thị đi sau T ba, bốn bước, đầu hơi cúi, nón rách che đi nửa mặt “rón rén,
e thẹn”. Những chi tiết về cử chỉ, ngoại hình cho thấy rõ tâm trạng của một cô


dâu mới khi về nhà chồng.· Không còn đâu người đàn bà chao chát, chỏng lỏn
T gặp hôm trước, khi đã là nàng dâu thị trở nên là người đàn bà hiền hậu, đúng
mực, nền nã, ra vào thu vén nhà cửa… Sự thay đổi ấy chính là thái độ vun đắp
cho hạnh phúc gia đình.- Trong bữa cơm “hai con mắt thị tối sầm lại” khi nhìn
thấy bát cháo cám nhưng “thị điềm nhiên và vào miệng”. Câu hỏi về tiếng trống
thúc thuế, thái độ ngạc nhiên khi thấy ở đây vẫn đóng thuế và câu chuyện nửa
chừng về những người TN, Bắc Giang cho thấy đã có một luồng gió thổi vào tâm
hồn thị. Cũng như T, thị đang nghĩ về ngày mai tươi sáng.
2.4. Dân xóm ngụ cư
- Cùng với gia đình T, dân xóm ngụ cư cũng là hình ảnh bổ sung làm rõ hơn cho
chủ đề tác phẩm. Đang sống âm thầm lặng lẽ trong cái đói, người dân xóm ngụ
cư chợt xôn xao bừng sáng hẳn lên trước việc T đón vợ về. Dường như “có cái
gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ”. Luồng gió
mát ấy chính là ý thức về sự sống, niềm khao khát hạnh phúc vẫn thường trực
trong tâm hồn người dân xóm ngụ cư." Trong bức tranh bi thảm ngày đói những
người dân xóm ngụ cư không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến sự sống. Vẻ đẹp lành
mạnh khỏe khoắn ấy trong tâm hồn người lao động mà KL phát hiện ra hôm nay
có gì đó thật gần gũi với tâm hồn người lao động trong ca dao: Một cái trứng

ung…Còn da lông mọc, còn trồi nảy cây”Niềm khao khát sống, niềm tin vào
tương lai đã tạo sức mạnh để người lao động vượt qua thử thách. Phát hiện ra
vẻ đẹp này trong tâm hồn người lao động tác phẩm của KL mang giá trị nhân
đạo sâu sắc.


III. Kết thúc vấn đề
Bằng ngòi bút miêu tả tâm lí sắc sảo KL đã tái hiện thành công diễn biến tâm
trạng của người dân xóm ngụ cư quanh việc T nhặt được vợ.Đi sâu vào khám phá
diễn biến ấy người đọc hiểu hơn vẻ đẹp trong tâm hồn người lao động. Dù ở hoàn
cảnh khốn cùng họ vấn nghĩ đến sự sống tương lai. Phát hiện ra vẻ đẹp đó, nhà
văn đã tạo nên chiều sâu cho tác phẩm. Qua tác phẩm giúp ta có niềm tin vào
cuộc sống, tương lai.
Đề 2: Một trong những nét hấp dẫn của truyện ngắn “Vợ nhặt” là đã xây dựng
được tình huống truyện độc đáo. Hãy phân tích tác phẩm làm sáng tỏ.
IĐặt vấn đề
- Giới thiệu nhà văn KL.- Giới thiệu tác phẩm “Vợ nhặt”.Để thể hiện sâu sắc chủ
đề tác phẩm KL đã có những sáng tạo trong nghệ thuật viết truyện: một trong
những sáng tạo đó là tạo ra tình huống truyện độc đáo hấp dẫn, làm nên sức
hấp dẫn riêng cho tác phẩm.
II. Giải quyết vấn đề
1. Vai trò của tình huống
- Trong nghệ thuật viết truyện ngắn sáng tạo tình huống là một khâu then chốt.
Tình huống truyện là những sự kiện đặc biệt của đời sống được nhà văn sáng tạo
tổ chức sắp xếp để từ đó bản chất của nhân vật được bộc lộ rõ nét, tư tưởng của
tác giả được thể hiện trọn vẹn. Nói như Nguyễn Minh Châu “tình huống truyện
được ví như lát cắt trên thân cây từ đó có thể thấy được đời thảo mộc”.- Việc
tạo tình huống là rất quan trọng, nó “giống như tạo tứ cho một bài thơ” (Nguyễn



Đăng Mạnh).- Tài năng sáng tạo của nhà văn được thể hiện trước hết ở việc tạo
tình huống truyện. Trong truyện ngắn “Vợ nhặt” KL đã sáng tạo một tình huống
truyện độc đáo: tình huống anh cu T nhặt được vợ giữa những ngày tối sầm vì
đói khát chỉ bằng bốn bát bánh đúc và mấy câu tầm phơ, tầm phào.
2. Tình huống lạ và độc đáo
- Đây là một tình huống lạ và độc đáo vì nó đã làm đảo lộn các giá trị: T vốn
là một gã trai nghèo khổ, thô kệch, lại là dân xóm ngụ cư. Với lai lịch ấy T khó
lòng kiếm được vợ. Thế nhưng bỗng dưng T lại nhặt được vợ một cách dễ dàng
như một chàng tố số đào hoa. Từ chỗ ế ấm, T trở thành sang trọng, vô giá.
- Càng lạ hơn bởi sự có vợ của T lại diễn ra trong cảnh đói quay đói quắt, mạng
sống còn khó khăn nói chi đến chuyện đèo bòng. Chuyện có vợ của chàng trở
thành ngược đời. Vì thế chưa ở đâu, địa vị người vợ trở nên thê thảm đến thế,
và cũng chưa bao giờ hạnh phúc trở nên mạo hiểm mong manh đến thế.
- Cảnh nên vợ nên chồng của T lại càng lạ lùng có một không hai, thiếu tất cả
nhưng cuối cùng lại đủ cả: không có một nghi lễ tối thiếu, không có một sự chuẩn
bị, không có một chút hình thức dẫu chỉ là lời nói suông như trong đám cưới Dần
nhưng lại có rất nhiều sự trân trọng nhau, sự gắn bó kết nứa nên đôi. Như thế
là họ đã có tất cả.- Khai thác tình huống độc đáo, mạch truyện cư thế phát triển
một cách hấp dẫn tự nhiên, tâm lí và tình cảm của nhân vật được bộc lộ rõ nét
và cũng từ đó mà sáng lên tư tưởng, chủ đề tác phẩm.
3. Tác dụng
a). Tình huống lạ lùng đã gây ngạc nhiên cho tất cả mọi người cả T- Việc T dẫn


người đàn bà về khiến người dân xóm ngụ cư xôn xao, trẻ con có dịp trêu ghẹo
“chông vợ hài”, người lớn vừa tò mò, vừa ái ngại, người ta xì xào bàn tán, người
ta lo lắng cho T: “Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau
sống qua được cái thì này không”.
- Không chỉ có dân xóm ngụ cư mà bà cụ Tứ- mẹ T cũng ngạc nhiên. Người mẹ
nào chẳng mong con mình có vợ. Nhưng việc T có vợ khiến bà cụ Tứ cảm thấy

đó là điều không tưởng. Bà không tin ở mắt mình “tự dưng bà lão thấy mắt
mình nhoèn ra”. Nghe tiếng người đàn bà chào, bà không tin ở tai mình, trong
óc bà vang lên một loạt những câu hỏi.- Ngay cả T người trong cuộc cũng không
hết ngỡ ngàng trước việc mình có vợ thâm chí đến tận sáng hôm sau việc hắn
có vợ vẫn khiến hắn ngỡ ngàng như không phải.
b). Qua tình huống truyện, chủ đề tư tưởng của tác phẩm được bộc lộ rõ: những
con người bị hoàn cảnh đẩy đến mức khốn cùng nhưng họ không nghĩ đến cái
chết mà nghĩ đến sự sống- phân tích diễn biến tâm trạng của T, bà cụ Tứ, vợ
nhặt (đề 1)
c). Qua tình huống đã làm nổi bật tư tưởng chủ đề- Sự sống nảy sinh từ trong
cái chết, con người dù bị đẩy vào hoàn cảnh khốn cùng vẫn khát khao sống, khát
vọng về sự sống đã chiến thắng.- Câu chuyện mở ra trong bóng chiều chạng vạng,
khi đôi trai gái dắt nhau về xóm ngụ cư. Họ đi trong sự bao vây của cái chết.
Những bóng người đói…, tiếng quạ…mùi gây…thậm chí ngay cả khi lên giường
ngủ vẫn còn tiếng khóc tỉ tê.- Nhưng “sự sống chẳng bao giờ chán nản”, câu
chuyện khép lại bằng cảnh buổi sáng đẹp trời. Gia đình T lao vào cuộc sống mới:


họ cùng nhau thu vén nhà cửa cho quang đãng, sạch sẽ, tươm tất hơn. Những
con người này không định sống tạm bợ mà muốn sống lâu dài, đàng hoàng. Cái
sống đã tuyên chiến với cái chết. Truyện vợ nhặt có thể xem là một bài ca sự sống.
III. Kết thúc vấn đề
KL đã xây dựng lên một tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn của thiên truyện.
Qua đó thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.Tác phẩm
của KL chính là một bài ca về sự sống, là lời khích lệ động viên con người phải
biết hướng tới sự sống, tin tưởng ở tương lai.
Đề3 : Nêu tình huống truyện trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân, từ đó
nhận xét về thái độ của nhà văn với con người và thực tại xã hội đương thời.
I Đặt vấn đề:
- Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt

Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Một trong những tác phẩm tiêu biểu
của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công là truyện
ngắn “Vợ nhặt”,được in trong tập truyện “Con chó xấu xí”.Đây là tác phẩm mà
Kim Lân đã tái hiện thành công bức tranh ảm đạm và khủng khiếp về nạn đói
Ất Dậu ( 1945) của nước ta.- Trong tác phẩm , Kim Lân đã xây dựng được một
tình huống truyện độc đáo vừa thể hiện được giá trị tư tưởng , lại vừa thể hiện
được giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
II. Giải quyết vấn đề
1/ Thế nào là tình huống? vai trò của tình huống trong một tác phẩm truyện?
- Có thể hiểu, tình huống truyện chính là bối cảnh, hòan cảnh ( không gian, thời


gian, địa điểm…tạo nên câu chuyện). - Có ba loại tình huống phổ biến trong
truyện ngắn : tình huống hành động; tình huống tâm trạng; tình huống nhận
thức.Nếu tình huống hành động chủ yếu nhằm tới hành động có tính bước ngoặt
của nhân vật; tình huống tâm trạng chủ yếu khám phá diễn biến tình cảm, cảm
xúc của nhân vật; thì tình huống nhận thức chủ yếu cắt nghĩa giây phút “giác
ngộ” chân lý của nhân vật. Tình huống càng độc đáo, mới lạ, càng giúp cho tác
phẩm hấp dẫn, ấn tượng, sâu sắc với người đọc.
2. Tình huống truyện của tác phẩm:
-Trước hết, Tràng là một là một người mồ côi cha, ở với mẹ già tại xóm ngụ
cư. Nhà nghèo, hắn làm nghề kéo xe bò thuê .Tràng có một ngoại hình xấu xí ,
thô kệch. .Đã thế lại có phần dở người.Lời ăn tiếng nói cũng thô kệch như chính
ngoại hình của hắn.Có thể nói, nguy cơ ế vợ đã rõ. Đã vậy , gặp năm đói khủng
khiếp, cái chết luôn luôn đeo bám .Trong lúc không một ai ( kể cả Tràng) nghĩ
đến chuyện dựng vợ , gả chồng thì đột nhiên Tràng có vợ, mà lại có vợ bằng cách
nhặt được.
- Trong hoàn cảnh ấy, ràng có vợ cũng là phải có thêm một miệng ăn và cũng
là đem thêm tai hoạ về cho mình và mẹ , đẩy mau mình và mẹ đến cái chết. Như
vậy , việc Tràng có vợ là một nghịch cảnh éo le, vui buồn lẫn lộn, cười ra nước

mắt.Chính điều này đã làm cho nhiều người ngạc nhiên : [/COLOR]+ Đó là những
người dân trong xóm ngụ cư : họ ngạc nhiên, bàn tán, phán đoán rồi họ cùng
nghĩ : “ biết có nuôi nổi nhau qua được cái thì này không?”
+ Còn bà cụ Tứ - mẹ Tràng- lại càng ngạc nhiên . Lúc đầu bà lão không hiểu ,


rồi bà “ cúi đầu im lặng” với bao tâm sự vui- buồn lẫn lộn “ biết chúng có nuôi
nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”.
+ Nhất là, ngay chính bản thân Tràng cũng bất ngờ với chính hạnh phúc của
mình. “ nhìn thị ngồi ngay giữa nhà đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ” .Thậm
chí , sáng hôm sau Tràng cảm thấy “ êm ái như từ giấc mơ đi ra”
Tóm lại, tình huống truyện mà Kim Lân xây dựng vùa bất ngờ nhưng lại hợp lý,
tạo sức hấp dẫn và nhiều suy nghĩ cho người đọc.
2.Thái độ của nhà văn:
a/ Với người dân lao động:
- Qua câu chuyện, nhà văn đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất đối với con
người nghèo khổ bằng cả tấm lòng nhân hậu của mình.
+ Ông xót thương cho dân tộc trước thảm hoạ đói chết.
+ Ông cũng ái ngại cho người con gái bị nạn đói cướp đi gần hết ( gia đình, nhan
sắc, tính cách, tên tuổi …).
- Không những vậy , nhà văn còn rất tinh tế khi phát hiện ra khát vọng hạnh
và niềm vui khi nhặt vợ của Tràng;
cái duyên thầm của thị qua cái liếc mắt với Tràng…và Có thể nói : + nhà văn rất
trân trọng và tự hào về vẻ đẹp nhân tính của con người lao động nghèo trước
thảm hoạ đau thương , chết chóc. + Đồng thời nhà văn còn tập trung ca ngợi
những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao động qua hình ảnh của bà cụ Tứ :
một người mẹ giàu tình thương con, giàu lòng nhân hậu và niềm tin vào cuộc
sống à đây cũng chính là niềm tin của nhà văn vào phẩm chất tốt đẹp của coN



người.
b/Với thực trạng xã hội đương thời, thông qua tình huống truyện, nhà văn lên
án và tố cáo tội ác của Nhật –Pháp đã đẩy nhân dân ta vào thảm hoạ đói nghèo,
chết chóc.Chính chúng đã làm cho giá trị con người trở thành rẻ rúng như rơm
như rác : vợ mà nhặt được .
III. Kết thúc vấn đề. :
- Có thể nói: Tình huống truyện trong truyện ngắn “Vợ nhặt” thật độc đáo và
có ý nghĩa tư tưởng và giá trị nghệ thuật sâu sắc.Viết về nạn đói, nhưng Kim Lân
không dừng lại ở việc miêu tả bức tranh ảm đạm ấy , mà còn hướng người đọc
nhận ra vẻ đẹp tâm hồn của người lao động nghèo : đó là lòng nhân hậu, sự cưu
mang và niềm



×