Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

Thực trạng lao động ngành du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.13 KB, 31 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Du lịch Việt Nam tăng trưởng mạnh trong những năm gần đây và đang từng
bước hướng đến một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Cùng với sự phát triển
kinh tế- xã hội, Du lịch Việt Nam đang có những bước phát triển mạnh, ngày càng
đóng góp lớn hơn cho nền kinh tế. Hoạt động du lịch diễn ra sôi động từ đô thị đến
nông thôn, từ vùng ven biển, hải đảo đến vùng núi, cao nguyên. Sự phát triển du
lịch góp phần thay đổi diện mạo đô thị và nông thôn, tạo thêm nhiều việc làm cho
các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Có nhiều ý kiến cho rằng nguồn lao động chất lượng cao là yếu tố quan
trọng hàng đầu của sự phát triển, là tài sản vô giá của mọi quốc gia, vùng lãnh thổ,
doanh nghiệp. Đối với ngành du lịch, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao là yêu cầu và nhiệm vụ cấp thiết nhằm đáp ứng nhu cầu của du khách trong bối
cảnh cạnh tranh với những đòi hỏi về chất lượng, năng lực hoạt động.

Trong quá trình phát triển hoạt động du lịch, bên cạnh nhiều yếu tố liên
quan, vấn đề phát triển nguồn lao động luôn là vấn đề quan trọng được quan tâm
đặc biệt. Thực tế có nhiều lý do, tuy nhiên cơ bản nhất vẫn bởi đặc thù của quá
trình chuyển giao và cung cấp dịch vụ du lịch diễn ra trong thực tế, sự hiện diện
của con người, vai trò của người lao động trong lĩnh vực du lịch rất quan trọng,
quyết định chất lượng dịch vụ du lịch, nâng cao hình ảnh của điểm đến.

1


Quá trình học tập và nghiên cứu môn Kinh tế lao động được sự hướng dẫn
của cô: XXXX, nhóm em xin trình bày đề tài : “Thực trạng và giải pháp phát
triển thị trường lao động trong ngành du lịch ở Việt Nam”
I.

Khái quát về thị trường lao động
1. Khái niệm



Thị trường lao động ( TTLĐ) là không gian tiến tới sự thỏa thuận giữa người lao
động và người sử dụng lao động, kết quả của quá trình thỏa thuận này là tiền lương
tiền công và các điều kiện lao động được xác định.
Thị trường lao động là thị trường lớn nhất và quan trọng nhất trong hệ thống thị
trường vì lao động là hoạt động chiếm nhiều thời gian nhất và kết quả của quá trình
trao đổi trên TTLĐ là việc làm được trả công.Thị trường lao động biểu hiện mối
quan hệ giữa một bên là người có sức lao động và một bên là người sử dụng sức
lao động nhằm xác định số lượng và chất lượng lao động sẽ đem ra trao đổi và mức
thù lao tương ứng.
Về cơ bản TTLĐ cũng chịu sự tác động của quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh,
quy luật độc quyền…
2.

Các yếu tố của TTLĐ và nhân tố tác động

Về cơ bản, TTLĐ được tạo thành từ ba bộ phận chính đó là cung, cầu của TTLĐ
và giá cả sức lao động hay mức tiền công, tiền lương mà tại đó người sở hữu sức
lao động đồng ý làm việc.
a)

Cung lao động

Theo Samuelson, cung lao động biểu hiện số lượng lao động mà các hộ gia đình
sẵn sàng đem bán trên thị trường.

2


Cung lao động là tập hợp những người có khả năng và có nhu cầu làm việc. Họ có

thể đang có việc làm hay tạm thời không có việc làm song đamg đi tìm việc.
Nguồn cung lao động được hình thành từ các cơ sở đào tạo như các thị trường đại
học, cao đẳng, dạy nghề và các cơ sở đào tạo khác. Nguồn cung này có thể từ
những người đang tìm việc làm, từ các doanh nghiệp, cơ quan tổ chức … và, nó
được bổ sung thường xuyên từ đội ngũ những người đến độ tuổi lao động. Ở Việt
Nam tổng cục thống kê quy định nguồn lao động là những người trong độ tuổi lao
động (nam từ 15-60 tuổi nữ từ 15-55 tuổi) và người trên tuổi lao động đang làm
việc. Cung về lao động phụ thuộc vào quy mô, cơ cấu dân số của một nước, chất
lượng của nguồn lao động ,trình độ văn hóa, cơ cấu ngành nghề, sức khỏe… phong
tục, tập quán xã hội của một nước và chính sách phát triển nguồn nhân lực của
nước đó.
b)

Cầu lao động

Cầu lao động là lượng lao động mà người sử dụng lao động có thể thuê ở mỗi mức
giá, có thể chấp nhận được.
Trong nền kinh tế thị trường cầu lao động là cầu dẫn xuất. Lao động là yếu tố đầu
vào cần thiết để sản xuất ra một khối lượng hàng hóa vật phẩm nhất định, do vậy
quy mô của nó phụ thuộc vào mức nhu cầu của hàng hóa do lao động sản xuất ra
cũng như giá cả của hàng hóa đó trên thị trường.
Cầu về lao động được hình thành từ các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức… hoặc từ
nhu cầu lao động nhập khẩu của nước ngoài.
Cầu lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố như nguồn tài nguyên của một nước, qui
mô, trình độ công nghệ, cơ cấu ngành nghề của nền kinh tế, mức tiền công, phong
tục tập quán, tôn giáo… và chính sách phát triển kinh tế.

3



c)

Giá cả sức lao động

Sự tác động qua lại giữa cung và cầu về lao động hình thành giá cả sức lao động
được thể hiện trực tiếp ở khoản thù lao mà người lao động nhận được
Giá cả hay tiền công lao động(W0) và số lượng lao động(L0) sẽ được xác định tại
điểm giao nhau của hai đường cung và cầu về lao động. E 0 gọi là điểm cân bằng
cung cầu lao động, tại điểm E0 không có thất nghiệp . Thất nghiệp không xảy ra
nếu cung cầu co giãn linh hoạt theo độ tăng của giá cả sức lao động

3.

Phân loại thị trường lao động

Tùy vào mục đích nghiên cứu, sự tương tác giữa cung-cầu lao động sự tác động
của Chính Phủ, thị trường lao động được phân loại như sau:
a)

Theo khả năng cạnh tranh của thị trường

Thị trường lao động cạnh tranh hoàn hảo
Trong thì trường cung cầu lao động được điều chỉnh linh hoạt theo giá cả của lao
động, chỉ tồn tại một thị trường duy nhất, không bị chia cắt. Đường cầu của thị
trường là tập hợp các đường cầu của cá nhân vận động tương ứng với đường cung

4


của lao động. Đường cung là tổng hợp các đường cung của doanh nghiệp, tuy

nhiên tiền lương có thể hạ thấp tùy ý.
b)

Thị trường lao động nhiều khu vực

Trong thị trường này, cung-cầu lao động bị chia cắt, bị phân mảng thành các thị
trường riêng (ngành, nghề, trình độ đào tạo, giới tính…) Mỗi thị trường có đường
cầu và đường cung riêng biệt với cơ chế vận động khác nhau. Trong thị trường này
tồn tại đồng thời thất nghiệp hữu hình và thấp nghiệp cơ cấu. Kết quả tiền lương có
sự phân biệt lớn giữa các vùng, nghành nghề, giới…
c)

Theo mức độ tương hỗ giữa cung cầu lao động

Thị trường dư thừa lao động: Khi tốc độ của cung lớn hơn rất nhiều so với tốc độ
tăng của cầu thì sẽ dẫn đến sự dư thừa lao động trên TTLĐ. Trong trường hợp này,
cung lao động gần như một đường nằm ngang. Cầu lao động rất yếu và tiền công là
một điểm rât thâp, không có phản ứng với mức cầu và giá lao động
d)


Theo mức độ can thiệp của Nhà nước trong hệ thống thị trường
Hệ thống thị trường tự do: các cá nhân tự chịu trách nhiệm về các quyết định

về tiền lương, việc làm. Hiệu quả kinh tế trong thị trường này được bảo đảm thông
qua việc phân bố và sử dụng nguồn lực rất hợp lý nhưng vẫn chưa chú ý đúng mức
đến hiệu quả xã hội:


Hệ thống thị trường kế hoạnh hóa tập trung: Nhà nước là người giữ vị trí

quan trọng, trực tiếp trong việc điều chỉnh các mối quan hệ lao động xã hội vơi
mục tiêu bảo đảm việc làm đầy đủ cho mội thành viên trong xã hội. Vai trò của
người lao động, người sử dụng lao động (doanh nghiệp, tổ chức) rất thấp, từ đó
việc sử dụng nguồn lực lao động kém hiệu quả.

5


Hệ thống thị trường hỗn hợp: Đây là thị trường mà ở đó vừa có sự can thiệp



của Chính Phủ thông qua kế hoạch hóa tập trung, vừa sự điều tiết của hệ thống thị
trường. Tùy vào đặc trưng về kinh tế, chính trị mà hệ thống thị trường hỗn hợp ở
mỗi nước không giống nhau.
Thực trạng và giải pháp phát triển thị trường lao động trong ngành du

II.

a)

lịch ở Việt Nam
1. Thực trạng
Cung lao động

Tốc độ phát triển của ngành du lịch thời gian gần đây kéo theo nhu cầu ngày
càng gia tăng về nguồn nhân lực. Những con số về lượng khách du lịch không
ngừng gia tăng trong những năm qua không chỉ là tín hiệu vui cho nền "công
nghiệp không khói" này mà đằng sau đó còn là một mối lo lớn, bởi nguồn lực của
ngành đang rơi vào tình trạng không chỉ thiếu mà còn rất yếu...

Buổi hội thảo Đào tạo nhân lực ngành du lịch theo nhu cầu xã hội TPHCM,
ngành du lịch đã nhìn nhận lại "thực lực" của mình bằng những con số gây "sốc"
cho không ít người: Nguồn nhân lực có trình độ từ ĐH chỉ chiếm 3,11% trong số
hơn 1 triệu lao động của ngành.
Thống kê của ngành cho biết, hiện nay công tác quản lý nhà nước về đào tạo và
bồi dưỡng nhân lực của ngành du lịch còn bất cập. Tình trạng phổ biến là các
doanh nghiệp thiếu lao động lành nghề, nhưng sau khi tuyển dụng HS-SV vừa tốt
nghiệp ở các cơ sở đào tạo thì các doanh nghiệp du lịch lại phải tiếp tục "đào tạo
lại", bổ túc, bồi dưỡng.... thì mới có thể đáp ứng nhu cầu thực tế. Việc đào tạo nghệ
nhân, giám đốc cùng những chức danh quản lý cao cấp khác... không hề được chú
trọng, thậm chí chưa có cơ sở đào tạo nào làm việc này .
Theo thống kê của Tổng cục Du lịch, năm 2009, nguồn nhân lực du lịch Việt
Nam có khoảng 1 triệu lao động, trong đó có 262.200 lao động trực tiếp, chiếm
6


33,75% tổng số lao động, bao gồm lao động thuộc các cơ quan quản lý nhà nước
về du lịch, các đơn vị sự nghiệp du lịch và các cơ sở kinh doanh du lịch; lao động
gián tiếp là 737.800 người, chiếm 66,25%, là đối tượng có liên quan đến hoạt động
du lịch.
Ước tính đến năm 2015, lao động trực tiếp trong ngành du lịch đạt khoảng trên
500.000 lao động. Số lượng này vẫn chưa đáp ứng tiềm năng du lịch của đất nước
cũng như yêu cầu của ngành du lịch ngày càng phát triển nhanh và bền vững.
Báo cáo tổng hợp về thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam qua các năm 2000,
2005, 2009 cho thấy, hiện lao động trực tiếp của ngành du lịch đạt trình độ đại học
và trên đại học chiếm 9,7%; đạt trình độ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng chiếm 51% và
có đến 39,3% trình độ dưới sơ cấp. Trong số đó chỉ có 43% được đào tạo chuyên
môn nghiệp vụ về các ngành nghề du lịch, được đào tạo về các chuyên ngành khác
ngoài du lịch hoặc chưa qua đào tạo chuyên môn du lịch chiếm 57%.
Về ngoại ngữ, so với các ngành khác, số lao động du lịch biết ít nhất một ngoại

ngữ có tỷ lệ tương đối cao, chiếm khoảng 48%. Song, tỷ lệ này vẫn còn chưa cao
khi đặc thù của ngành du lịch có đối tượng phục vụ trực tiếp là du khách trong
nước và nước ngoài. Hơn nữa, người lao động trong ngành hiện nay chủ yếu là biết
tiếng Anh, các ngoại ngữ khác chiếm tỷ lệ rất thấp nên chưa đáp ứng với nhu cầu
phát triển của ngành.
Cả nước hiện có 284 cơ sở tham gia đào tạo du lịch, trong đó có 62 trường đại
học, 80 trường cao đẳng, 117 trường trung cấp, 2 công ty đào tạo và 23 trung tâm,
lớp đào tạo nghề. Hàng năm đào tạo hàng chục ngàn sinh viên, học viên.
Tuy nhiên, lượng sinh viên chuyên ngành ra trường chỉ khoảng 15.000
người/năm, trong đó chỉ hơn 12% có trình độ cao đẳng, đại học trở lên. Nhiều
hướng dẫn viên du lịch dù được đào tạo chính quy ở các trường đại học, cao
đẳng... nhưng khi được tuyển dụng làm việc hầu hết doanh nghiệp lữ hành đều phải
đào tạo lại hoặc đào tạo bổ sung về kỹ năng, ngoại ngữ. Theo đánh giá chung, chất
7


lượng nguồn nhân lực trong ngành kinh doanh khách sạn và cơ sở lưu trú ở Việt
Nam hiện nay đều chưa đáp ứng được nhu cầu và chuẩn mực quốc tế.
b)

Cầu lao động

Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Du lịch, lực lượng lao động trong ngành du
lịch tăng lên 30 – 40 vạn người mỗi năm. Hiện nay, có khoảng 50 vạn lao động
trực tiếp và trên 1 triệu lao động gián tiếp trong ngành này. Cũng theo dự báo của
Viện Nghiên cứu phát triển du lịch, đến năm 2015, ngành Du lịch cần tới 620.000
lao động trực tiếp, đến năm 2020, con số này lên tới 870.000 người.
Theo quan sát và kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu và Phát triển Du
lịch Việt Nam, lao động trong ngành du lịch hiện nay ở nước ta về cơ bản đáp ứng
được nhu cầu của ngành dịch vụ nói chung. Tuy nhiên, so với yêu cầu của hội

nhập, phát triển, cạnh tranh trên thế giới, đặc biệt trong khu vực dịch vụ cao cấp tiêu chuẩn từ 3 đến 5 sao hoặc hơn nữa, nhân lực Việt Nam chưa đáp ứng được yêu
cầu trong môi trường có tính cạnh tranh cao, còn thiếu nhiều ở kỹ năng quản trị
toàn cầu và quản trị chuỗi giá trị đặc thù của ngành.
Theo các chuyên gia về lĩnh vực du lịch, hiện tại ngành quản trị khách sạn của
Việt Nam đang thiếu những nhân lực vừa chuyên nghiệp trong kỹ năng, tác phong;
vừa có vốn kiến thức hiểu biết và tự tin làm việc trong môi trường quốc tế. Ông
Philip Jones - Giám đốc khách sạn Movenpick Hà Nội - nhận định: Ở vị trí nhà
tuyển dụng, chúng tôi quan tâm đến 3 phẩm chất của người lao động: tố chất thiên
bẩm; kinh nghiệm và tiềm năng phát triển. Tố chất thiên bẩm được hiểu là thái độ
đối với công việc, phẩm chất đạo đức có trong con người - thứ mà không thể đào
tạo được; Kinh nghiệm có từ quá trình làm việc trước đó và chương trình mà người
lao động đã từng theo học. Yếu tố này sẽ được bồi dưỡng thêm trong quá trình làm
viêc; Nhà tuyển dụng cũng rất chú ý đến khả năng phát triển và đáp ứng yêu cầu ở
những vị trí công việc khác nhau của mỗi ứng viên.
8


Thị trường du lịch, khách sạn tại Việt Nam đang trên đà tăng trưởng, chiếm vị
trí quan trọng trong nền kinh tế. Theo thống kê của Tổng Cục Du lịch, chỉ trong 6
tháng đầu năm 2014, du lịch Việt Nam tiếp tục có mức tăng trưởng rất cao với 4,28
triệu lượt khách quốc tế, tăng 21%, khách du lịch nội địa đạt 23,4 triệu lượt, tăng
7%, tổng thu từ khách du lịch đạt 125 nghìn tỷ đồng, tăng 22% so với cùng kỳ năm
ngoái. Dự kiến năm 2020, Việt Nam sẽ đón 10 – 10.5 triệu lượt khách quốc tế và
47- 48 triệu lượt khách du lịch nội địa với tổng số 580.000 buồng lưu trú, tạo ra
3.000.000 việc làm. Theo đó, nhu cầu về nguồn nhân lực trình độ cao trong lĩnh
vực du lịch ngày càng lớn nhưng tỉ lệ lao động đáp ứng chưa đầy đủ.
Từ đó ta có thể thấy một gánh nặng đối với ngành du lịch Việt Nam đó là
phải đào tạo ra một lực lượng lao động đủ trình độ để có thể đáp ứng được nhu cầu
ngày càng cao của xã hội.
c)


Giá cả lao động thấp
Giá cả lao động ở Việt Nam hiện nay thuộc nhóm thấp nhất khu vực

ASEAN; một phần do năng suất lao động thấp hay do trình độ tay nghề của người
lao động, một phần do người lao động chưa có khả năng thỏa thuận cùng với chủ
doanh nghiệp.
Giá cả lao động thấp trong khi giá cả hàng hóa ngày càng tăng, người lao
động không có đủ khả năng chi trả cho những sinh hoạt hàng ngày của họ. Điều họ
cần là công việc có mức lương tốt hơn đủ để họ chi tiêu cho những nhu cầu thiết
yếu của cuộc sống. Và ngành du lịch phát triển đã đem đến rất nhiều cơ hội việc
làm cho thị trường lao động, đem đến tia sáng cho người lao động với những công
việc giúp cải thiện giá cả lao động hiện nay.

9


Tiền lương, thu nhập lao động còn thấp; các chế độ đãi ngộ và cơ hội thăng
tiến của lao động chất lượng cao trong các doanh nghiệp kinh doanh du lịch chưa
thực sự tạo động lực để lôi kéo, giữ chân và phát triển họ
Các chuyên gia đánh giá, lao động Việt Nam có năng suất lao động thấp.
Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam 2014 dẫn: Những ràng buộc đối với tăng
trưởng của VEPR cho thấy, năng suất trung bình của người lao động Việt Nam
thấp dưới một nửa so với Philippines, nhỉnh hơn một phần tư của Thái Lan, dưới
một phần mười của Malaysia và chưa bằng 3% năng suất của Singapore. Nghĩa là
trong khu vực chỉ khá hơn Lào, Campuchia.
TS. Nguyễn Đức Thành cho rằng, nguy cơ của nền kinh tế chỉ dựa vào lao
động giá rẻ và năng suất thấp sẽ dẫn đến Việt Nam sẽ không phải là một điểm đến
hấp dẫn cho những dự án đầu tư mang tính tiên phong về công nghệ hoặc quy mô.
Do mức sống ở Việt Nam ngày càng đắt đỏ đã khiến tiền lương tăng nhanh

hơn năng suất, làm xói mòn lợi thế lao động giá rẻ trong khu vực. Lao động chất
lượng thấp đồng nghĩa với sự kém đa dạng của các loại kỹ năng, khả năng sáng tạo
cũng như hiệu quả tổ chức.

d)

Cường độ di chuyển lao động yếu

Nhân lực ngành Du lịch phân bổ không đồng đều giữa các địa phương, các địa
giới du lịch; tập trung chủ yếu ở các trung tâm du lịch lớn, nơi có nhiều tài nguyên
du lịch đã được khai thác và phụ thuộc nhiều vào trình độ phát triển du lịch. Nhân
lực ở khu vực phía Nam chiếm 47%, ở khu vực phía Bắc 39% và miền Trung chỉ
chiếm khoảng 14% tổng nhân lực du lịch cả nước (tỷ trọng này 5 năm trước đây là
51:40:9). Nhân lực du lịch vùng Đông Bắc chiếm 6% tổng nhân lực du lịch của cả
10


nước, Tây Bắc chiếm 2,8%, Đồng bằng Sông Hồng chiếm 32,7%, Bắc Trung Bộ
chiếm 8,7%, Nam Trung Bộ chiếm 7,3%, Tây Nguyên chiếm 3,5%, Đông Nam Bộ
chiếm 34% và vùng Đồng bằng Sông Cửu Long chiếm 5% tổng nhân lực du lịch
của cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh thu hút được 24% tổng số nhân lực du lịch
cả nước, Hà Nội được 14%, 62 tỉnh còn lại chỉ chiếm 62% tổng số nhân lực toàn
Ngành (trung bình mỗi tỉnh chiếm khoảng 1%).
Hiện tượng thừa, thiếu cục bộ nhân lực giữa các các địa phương đang là khó
khăn lớn trong phân bố nhân lực du lịch.
Mặc dù đã có sự quan tâm đầu tư phân bổ nhân lực du lịch hướng đến sự hợp
lý giữa các vùng trong cả nước, nhưng sự mất cân đối vẫn tồn tại. Sự di chuyển lao
động du lịch từ hai trung tâm du lịch lớn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đến
các địa phương lân cận có tiềm năng phát triển mạnh du lịch là cấp thiết. Khu vực
du lịch Miền Trung và Tây Nguyên đang có xu hướng tăng trưởng mạnh. Miền

Trung là nơi tập trung nhiều di sản thế giới, với bờ biển và bãi tắm đẹp, với sự đa
dạng của phong tục, tập quán truyền thống, văn hoá... là tiềm năng thu hút và hấp
dẫn du khách nhưng số nhân lực du lịch chỉ chiếm một phần mười tổng nhân lực
ngành Du lịch. Giai đoạn tới, đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch và cơ sở vật chất kỹ
thuật du lịch tiếp tục được cải thiện, đòi hỏi cơ cấu nhân lực du lịch theo vùng,
miền sẽ thay đổi nhiều theo chiều hướng phù hợp với tiềm năng phát triển du lịch
của các vùng, miền
Bảng 2. Cơ cấu nhân lực ngành Du lịch theo vùng

STT
1

Năm 2009

Chỉ tiêu

(người)

Tổng số lao động du lịch
trực tiếp
11

434.240

Tỷ trọng (%)
100


2
Phân theo từng vùng

2.1
Đông Bắc
26.050
2.2
Tây Bắc
12.590
2.3
Đồng bằng Sông Hồng
142.000
2.4
Bắc Trung Bộ
37.780
2.5
Nam Trung Bộ
31.700
2.6
Tây Nguyên
15.200
2.7
Đông Nam Bộ
147.210
2.8
Đồng bằng Sông Cửu Long
21.710
(Nguồn: Viện Nghiên cứu phát triển Du lịch)

6,0
2,9
32,7
8,7

7,3
3,5
33,9
5,0

e) Hệ thống thông tin trên thị trường lao động yếu

Trước hết, ta cần hiểu được hệ thống thông tin là gì? Hệ thống thông tin là một
hệ thống bao gồm các yếu tố có quan hệ với nhau cùng làm nhiệm vụ thu thập xử
lí và phân phối thông tin và dữ liệu cung cấp một cơ chế phản hồi để đạt được
mục tiêu đã định trước.
Các tổ chức sử dụng hệ thống thông tin với nhiều mục đích khác nhau nhưng
không thể phủ nhận vai trò và tầm ảnh hưởng quan trọng của hệ thống thông tin
trong các ngành và ngành du lịch cũng không nằm ngoài tầm ảnh hưởng đó.
Nhìn xuyên suốt vào toàn bộ quá trình xây dựng chiến lược phát triển của
ngành du lịch trong giai đoạn mới thì chúng ta không thể phủ nhận vai trò quan
trọng cũng như tầm ảnh hưởng của hệ thống thông tin đối với chiến lược phát triển
này.
Trong những năm gần đây, hệ thống thông tin được các doanh nghiệp các
ngành đẩy mạnh tầm quan trọng của nó, hệ thống thông tin được coi như là một
người cố vấn cho các ngành nghề. Sự phát triển của hệ thống thông tin đã được đầu
tư mở rộng nhằm bắt kịp tốc độ phát triển của mọi thứ xung quanh. Và hệ thống
thông tin trong ngành du lịch thì cũng không nằm ngoài xu hướng phát triển đó và
12


thậm chí nó còn quan trọng hơn khi mà hiện nay thị trường du lịch ngày càng phát
triển và có nhiều cạnh tranh hơn.
Nhưng hệ thống thông tin trên thị trường lao động ngành du lịch Việt Nam
còn yếu kém và nhiều hạn chế cần khắc phục giải quyết.

Hệ thống thông tin giữa các vùng miền bị chia cắt chưa đồng đều, phát triển
đồng bộ gây nên khó khăn hơn khi bao quát thu thập và cung ứng thông tin, chưa
đáp ứng được nhu cầu của các đối tác trên thị trường lao động, đặc biệt là người
chủ sử dụng lao động và người lao động. Hệ thống thông tin thiếu sót dẫn đến tình
trạng nhiều địa phương có tiềm năng phát triển du lịch đã tìm hiểu thiếu thông tin
dẫn đến tình trạng đầu tư không đúng dẫn đến việc không phát huy được hết tiềm
năng của địa phương cũng như đánh mất cơ hội việc làm cho các lao động.
Hệ thống chỉ tiêu về thị trường lao động đã được ban hành nhưng còn chưa
hoàn thiện và nhiều thiếu sót, thiếu thống nhất và khó so sánh quốc tế, do vậy chưa
đánh giá được chính xác thực trạng cung- cầu lao động , các nút thắt về nhu cầu
nguồn nhân lực trong nước, điều này khiến cho công tác khắc phục cải thiện hệ
thống thông tin thị trường lao động gặp nhiều khó khăn.
Việc hệ thống thông tin còn yếu kém cũng đánh mất đi cơ hội cạnh tranh cũng
như cơ hội tìm việc làm của người lao động, thiếu thông tin khiến cho người lao
động nắm bắt cơ hội chậm đến khi họ nắm bắt được thì cơ hội đã đi qua.
Từ những thực trạng trên một yêu cầu cấp bách đặt ra cho nền kinh tế Việt
Nam nói chung và ngành du lịch nói riêng đó là cần gấp rút hoàn thiện, bổ sung
đầy đủ hệ thống thông tin để có thể nắm bắt cơ hội phát triển, cũng như tạo cho
người lao động có cơ hội có được những thông tin thiết yếu đúng lúc kịp thời từ đó
có được cơ hội việc làm.
13


f) Hệ thống pháp luật còn hạn chế chưa sát với thực tiễn

Ngành du lịch nước ta ngày càng phát triển đặc biệt là sau khi nước ta đổi mới
và hội nhập, mở rộng cả về quy mô, cũng như tính chất ngày càng đa dạng. Để có
thể kiểm soát được sự phát triển này thì luôn có môt hệ thống pháp luật song hành
nhằm kiểm tra, điều chỉnh cũng như định hướng cho ngành du lịch nói riêng phát
triển đúng hướng.

Việc phát triển kinh tế của mỗi ngành mỗi nghề đều gắn liền với những quy
định của pháp luật. Sự ảnh hưởng của pháp luật đối với ngành du lịch nói riêng đó
chính là những quy định , những điều khoản mà pháp luật đề ra. Những tác động
của pháp luật đối với ngành du lịch có cả những mặt tích cực và những mặt hạn
chế cần được khắc phục sửa đổi.
a) Những mặt tích cực.

Khi pháp luật phản ánh đúng , đầy đủ và kịp thời nền kinh tế của đất nước thì
nó sẽ là điều kiện cho nền kinh tế phát triển, tăng trưởng.
Mặt khác, pháp luật cũng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong ngành du
lịch có cơ hội như nhau, cùng cạnh tranh công bằng từ đó có thể phát huy hết thế
mạnh của doanh nghiệp, là động lực cho ngành phát triển.
Hiện nay khi mà Việt Nam đang ngày càng hội nhập với nền kinh tế thế giới
thì hệ thống pháp luật Việt Nam cũng có những thay đổi phù hợp với yêu cầu, tốc
độ phát triển. Ví dụ như trong ngành du lịch thì hiện nay, thủ tục làm hộ chiếu đã
được rút ngắn thời gian và việc làm thủ tục này trở nên đơn giản hơn rất nhiều,
điều này tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp về lĩnh vực du lịch.

14


Tuy có nhiều thay đổi trong hệ thống pháp luật mang lại những tích cực cho ngành
du lịch nói riêng nhưng vẫn còn tồn tại những bất cập, hạn chế cần được khắc
phục.
b) Những hạn chế cần khắc phục.

- Liên kết liên ngành, liên vùng còn lỏng lẻo, kém hiệu quả
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa
cao. Sản phẩm du lịch sử dụng các yếu tố đầu vào từ nhiều ngành, nhiều lĩnh vực
khác nhau. Tuy nhiên ngành du lịch hoạt động trong bối cảnh chưa có sự phối hợp

chặt chẽ và hỗ trợ bởi các ngành liên quan. Sự phối kết hợp liên ngành, địa
phương chưa đồng bộ, không thường xuyên cả trong nhận thức và hành động. Sự
liên kết giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương chưa thật chặt chẽ trong xây
dựng chính sách. Phối hợp giữa các Sở, Ban, ngành trong từng địa phương về phát
triển du lịch còn rất hạn chế. Phối hợp liên vùng đã bắt đầu được chú ý, nhưng còn
lúng túng trong nội dung, chưa rõ ràng trong phân công, phân nhiệm và giải pháp
để phát triển du lịch.
Mặc dù Luật Du lịch đã quy định “Nhà nước thống nhất quản lý tài nguyên du
lịch”, tuy nhiên trên thực tế ngành Du lịch không quản lý trực tiếp dạng tài nguyên
du lịch nào. Điều này dẫn tới nguy cơ tài nguyên du lịch bị khai thác bừa bãi,
xuống cấp nhanh chóng do tầm nhìn ngắn hạn trong quản lý, lợi ích cục bộ giữa
các địa phương, các ngành và bệnh “thành tích”, cơ chế “xincho” trong khi “tiếng
nói” của ngành Du lịch không có ý nghĩa quyết định. Vì vậy, công tác bảo tồn, tôn
tạo tài nguyên và bảo vệ môi trường du lịch còn nhiều bất cập, ảnh hưởng đến sự
phát triển bền vững.
Một số hoạt động liên kết như liên kết vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Tây
Bắc, duyên hải miền Trung, hoặc theo chủ đề du lịch về nguồn liên kết giữa Phú
15


Thọ-Yên Bái-Lào Cai hoặc theo sản phẩm như giữa Đà Nẵng-Quảng NamThừa
Thiên Huế đang xuất hiện chiều hướng tích cực. Tuy vậy, tính phối hợp giữa các
địa phương còn thiếu chủ động vì vậy hiệu quả liên kết không cao.
Việc liên kết còn lỏng lẻo này khiến cho người lao động gặp nhiều khó khăn trong
việc tìm kiếm cơ hội việc làm
- Quản lý nhà nước về du lịch còn nhiều khó khăn
Nhận thức xã hội về du lịch nói chung và trong quản lý nói riêng đã cải thiện
đáng kể nhưng còn khoảng cách xa với tầm nhìn phát triển; xã hội chưa thực sự
ứng xử với du lịch như một ngành kinh tế cho dù trong Chỉ thị số 46/CT-BCH đã
chỉ rõ: “Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp mang nội dung văn hóa sâu sắc, có tính

liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao” và trong mục tiêu của Chiến lược chỉ rõ
“phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn”.
Hiệu lực quản lý nhà nước về du lịch còn thấp. Tổ chức bộ máy quản lý nhà
nước về du lịch thiếu ổn định; chưa chú trọng hoàn thiện hệ thống chính sách phát
triển du lịch, đặc biệt là hệ thống văn bản pháp quy hướng dẫn chi tiết thi hành
Luật Du lịch. Việc tách ra và sáp nhập ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình đồng bộ
hóa văn bản quy phạm pháp luật quản lý Nhà nước của ngành.
Vai trò của Ban Chỉ đạo nhà nước về du lịch ở Trung ương và địa phương
trong phối hợp giữa các cấp, các ngành thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ chiến
lược, quy hoạch phát triển du lịch và hợp tác quốc tế chưa được phát huy đầy đủ.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hướng dẫn thi hành, chiến
lược, quy hoạch, các chương trình, đề án, dự án được xây dựng khá nhiều nhưng
việc triển khai còn thiếu tính khả thi do thiếu nguồn lực và cơ chế phù hợp, mục
tiêu còn dàn trải, chồng chéo và duy ý chí.

16


Bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước từ Trung ương đến
địa phương còn mỏng và hạn chế về nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý
ngành trước xu thế phát triển nhanh và sự cạnh tranh mạnh mẽ trong khu vực và
đòi hỏi kiểm soát quá trình phát triển du lịch bền vững.
Xúc tiến quảng bá du lịch còn thiếu cơ chế chính sách, thiếu nguồn lực và tính
chuyên nghiệp dẫn tới kém hiệu quả, chưa chủ động định vị vững chắc được tại các
thị trường mục tiêu; thiếu các văn phòng đại diện của Du lịch Việt Nam tại các thị
trường quan trọng.
- Chất lượng sản phẩm, khai thác phát triển sản phẩm và điểm đến du
lịch còn yếu
Mặc dù có tài nguyên du lịch đa dạng và phong phú, hệ thống sản phẩm du
lịch dần hình thành nhưng Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm và đang

lúng túng trong trong việc xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù nổi bật cho từng
phân đoạn thị trường khách du lịch. Kinh phí đầu tư chưa đầy đủ, cơ chế thu hút
nguồn lực đầu tư phát triển sản phẩm du lịch chưa thực sự khuyến khích.
Hiện tại, ở nhiều địa phương đang tồn tại sự bất công bằng trong phân chia
lợi ích kinh tế do tăng trưởng du lịch mang lại dẫn tới sự xung đột về lợi ích giữa
các ngành, các địa phương, giữa các nhóm đối tượng, dẫn tới những tác động tiêu
cực nhiều mặt. Khai thác quá mức,bừa bãi, tự phát (không theo quy hoạch), thiếu
trách nhiệm hoặc trách nhiệm không rõ ràng, gây ô nhiễm, quá tải, tạo ra những
tác động, hệ lụy tiêu cực và làm cho tài nguyên du lịch có nguy cơ suy thoái
nhanh.
Tuy thực hiện quy hoạch từ 1995 nhưng đến nay chưa có khu du lịch quốc
gia, điểm du lịch quốc gia, đô thị du lịch nào được công nhận theo các tiêu chí
của Luật Du lịch. Cơ chế quản lý các khu du lịch quốc gia chưa được vận hành đầy
17


đủ, còn chồng chéo giữa các lực lượng chuyên ngành: bảo tồn di tích, bảo vệ rừng,
vườn quốc gia, biên phòng...với quản lý khu du lịch. Điểm du lịch quốc gia, đô thị
du lịch trong thực tiễn chưa có đủ căn cứ hình thành và công nhận.
- Việc kiểm soát chất lượng, an ninh an toàn chưa đáp ứng yêu cầu
Việc quản lý điểm đến chưa thống nhất giữa chính quyền địa phương và các cơ
quan chức năng chuyên ngành về du lịch, môi trường, văn hóa, xã hội, an ninh, trật
tự...dẫn tới sự thiếu trách nhiệm và bỏ trống trách nhiệm giữa các bên trong giải
quyết, ứng phó và kiểm soát môi trường, an toàn, vệ sinh, trật tự, văn minh trong
kinh doanh và ứng xử du lịch. Hậu quả dẫn tới hình ảnh điểm đến du lịch bị
phương hại.
Nhiều dịch vụ phục vụ du lịch như điểm mua sắm, điểm dừng chân, nhà hàng
ăn uống, vận chuyển tham gia tích cực phục vụ khách du lịch, tạo ra chất lượng
sản phẩm du lịch chung nhưng nằm trong hệ thống quản lý đa ngành và chưa có
cơ chế phối hợp kiểm soát chặt chẽ, do vậy còn nhiều hoạt động kinh doanh

dịch vụ thiếu chất lượng, mang tính chộp giật.
Nhiều tài nguyên phục vụ phát triển du lịch nằm trong sự quản lý của nhiều
ngành, thành phần khác nhau nhưng chưa có cơ chế phân công trách nhiệm và phối
hợp quản lý. Hệ thống doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa hoạt động thiếu
kiểm soát về chất lượng kinh doanh.
- Chưa tạo ra khả năng cạnh tranh cho du lịch Việt Nam
Thủ tục thị thực nhập cảnh vào Việt Nam khó khăn hơn khiến khả năng cạnh
tranh của Việt Nam bị hạn chế, nhất là đối với khách du lịch nội vùng đi ngắn
ngày.
Kinh phí xúc tiến, quảng bá du lịch hạn chế; cơ chế huy động và sử dụng ngân
sách cho xúc tiến du lịch kém linh hoạt; không có văn phòng đại diện du lịch Việt
18


Nam ở nước ngoài, việc thông tin và hỗ trợ du khách không được thực hiện đầy đủ
sẽ khiến khách du lịch khó khăn trong việc tìm kiếm thông tin và lựa chọn các
điểm đến du lịch Việt Nam.
Từ những thực trạng trên có thể thấy hệ thống pháp luật Việt Nam còn rất
nhiều thiếu sót gây ra nhiều khó khan cho sự phát triển của ngành du lịch ở Việt
Nam. Việt Nam cần hệ thống hóa lại hệ thống pháp luật để có thể đưa ra một hệ
thống pháp luật tiêu chuẩn phù hợp về thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Việt
Nam nói chung và của ngành du lịch nói riêng.
Hệ thống pháp luật còn nhiều chỗ hổng điều này khiến cho ngành phát triển
khó khăn từ đó kéo theo sự khó khăn của người lao động khi đi tuyển dụng.


Tóm lại
Có thể thấy thực trạng ngành du lịch Việt Nam hiện nay có rất nhiều vấn đề

cần giải quyết từ hệ thống pháp luật, cho đến việc đầu tư chất lượng nguồn nhân

lực. Chúng ta có rất nhiều hạn chế khiến cho ngành du lịch ở Việt Nam chưa phát
huy được hết khả năng cũng như khai thác hết những lợi thế cạnh tranh sẵn có.
Chính vì thế ta cần có một hệ thống đồng bộ các giải pháp để tháo gỡ những bất
cập, hạn chế và thúc đẩy cho ngành du lịch Việt Nam phát triển.
Giải pháp
Cân đối cung cầu
• Tăng cung
Kế hoạch hóa dân số phù hợp
2.

a)


Nâng cao hơn nữa đến chất lượng con người và chất lượng cuộc sống. Chất
lượng con người, trước hết, phải tính đến vấn đề chất lượng sinh nở. Ngành y tế
phải có những quy định cụ thể về chất lượng sinh nở như kiểm tra sức khỏe, bệnh
tật, tính di truyền và vợ chồng quan hệ để sinh con,…, trước khi chính quyền cấp
giấy đăng ký giá thú. Để xây dựng chất lượng con người phải có sự gắn kết với
19


chất lượng cuộc sống xã hội; có sự gắn kết chặt chẽ giữa xã hội - nhà trường - gia
đình để tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao trong tương lai. Khi có chất lượng
con người, phải tính đến chất lượng cuộc sống, có nghĩa là phải nuôi dưỡng về vật
chất và tinh thần của con người sinh ra, bảo đảm cho họ có thể lực dồi dào, trí tuệ
minh mẫn. Về vấn đề này, Việt Nam còn kém xa so với nhiều nước.


Giới hạn độ tuổi, chế độ làm việc
Đường lối phát triển kinh tế của Đảng ta là phát triển theo cơ chế thị trường,


định hướng XHCN và có sự quản lý của nhà nước. Như vậy, du lịch cũng phải phát
triển theo hướng sản xuất hàng hoá với trình độ và hiệu quả cao. Đặc biệt với xu
hướng hội nhập quốc tế hiện nay, sự cạnh tranh giữa các quốc gia sẽ hết sức gay
gắt, điều đó tạo ra cho ngành du lịch nước ta những thách thức to lớn. Bộ phận lao
động trong ngành du lịch có trình độ chuyên môn cao có vai trò là đầu tầu để phát
triển ngành du lịch nước ta. Từ đó, họ sẽ có tác động mở rộng phạm vi hoạt động
cho ngành du lịch Việt Nam. Vì vậy, cần có chiến lược đào tạo phù hợp nhằm nâng
dần tỷ lệ nguồn lao động đã được qua đào tạo trong ngành du lịch.
Phân chia lực lượng lao động theo nhóm tuổi có thể phân thành các nhóm
như sau:
Từ 15

đến 24

Từ 25

đến 34

Từ 35

đến 44

Từ 45

đến 54

Từ 55

đến 60

20


Hoặc cũng có thể phân chia làm 3 nhóm là:
Nhóm lao động trẻ gồm những người từ 15 đến 34 tuổi
Nhóm lao động trung niên gồm những người từ 35 đến 54 tuổi
Nhóm lao động cao tuổi gồm những người từ 55 tuổi trở lên.

Việc phân chia lực lượng lao động theo nhóm tuổi như trên cho phép năm
được cơ cấu về tuổi đời của lực lượng lao động, tình hình biến động của lực lượng
lao động và tình hình việc làm của mỗi nhóm tuổi. Từ đó tìm ra giải pháp giải
quyết việc làm phù hợp.



Gia tăng thời gian nghỉ ngơi mà người lao động vẫn được hưởng lương và
các chế độ đãi ngộ khác
Người lao động được trả lương những ngày chưa nghỉ hàng năm hoặc ngày

chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hàng năm theo Khoản 3 Điều 76 của Bộ luật Lao động
trong các trường hợp sau đây:
1- Tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động để làm nghĩa vụ quân sự;
2. Hết hạn hợp đồng lao động; đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động; bị
mất việc làm do thay đổi cơ cấu công nghệ; bị sa thải; nghỉ hưu; chết.
Người lao động được nghỉ hàng năm 14 ngày hoặc 16 ngày quy định tại các
điểm b, c Khoản 1 Điều 34 của Bộ luật Lao động theo danh mục các công việc

21



nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và các vùng có điều kiện sinh sống khắc nghiệt do
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành.
Khi nghỉ hàng năm nếu đi bằng phương tiện ô-tô, tàu thuỷ, tàu hoả mà số
ngày đi đường (cả đi và về) trên hai ngày thì từ ngày thứ 3 trở đi được tính thêm
thời gian đi đường ngoài ngày nghỉ hàng năm.



Thành lập quỹ đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực. Hoàn thiện
công tác tiền lương của doanh nghiệp

Người lãnh đạo doanh nghiệp phải biết được giá trị của lao động trong từng loại
công việc, nắm bắt được thông tin về khung lương cho loại lao động đó, công việc
đó trên thị trường lao động để quyết định mức lương, mức trả công lao động hợp
lý.
Mỗi doanh nghiệp du lịch cần lựa chọn được hình thức trả lương hợp lý vừa
khuyến khích được người lao động vừa bảo đảm các mục tiêu kinh doanh. Hình
thức trả lương hiện nay phù hợp nhất là hình thức khoán theo doanh thu hoặc thu
nhập.
Để gắn tiền lương với chất lượng lao động, mỗi người lao động sau một tháng
làm việc thì cần được đánh giá xếp loại theo các mức độ.
Nếu người lao động có thời gian gắn bó lâu dài với doanh nghiệp thì nên sử
dụng hệ số lương theo thâm niên trong quá trình tính lương cho ngươig lao động.


Phát triển các hình thức thưởng và đãi ngộ khác đối với người lao độn

Thưởng cho những nhân viên giới thiệu được khách đến với doanh nghiệp.
Mức thưởng được xác định bằng tỷ lệ phần trăm trên doanh thu từ khách.
Thưởng đối với những nhân viên cung cấp được các dịch vụ có chất lượng cho

khách hàng như được khách hàng khen ngợi, được các đồng nghiệp tín nhiệm và
22


được người quản lý trực tiếp xác nhận. Mức thưởng được xác định bằng tỷ lệ phần
trăm trên mức lương tháng của người đó.



Tăng cầu

Tăng quy mô ngành

Xây dựng hệ thống quốc gia để kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục và đào
tạo; xử lý việc thực hiện quy hoạch phát triển nhân lực trên phạm vi cả nước, bảo
đảm phát triển hài hòa, cân đối.
Đẩy mạnh hợp tác quốc tế để phát triển nguồn nhân lực của ngành.
Mở rộng và phát triển thị trường lao động ngoài nước. Đây là một trong những thế
mạnh của lao động nước ta về số lượng đông và trẻ. Vì vậy phải tập trung đào tạo
ngoại ngữ, pháp luật cho lao động xuất khẩu, nhất là thanh niên nông thôn để tạo
điều kiện cho họ tiếp cận được với thị trường lao động của nhiều nước trên thế
giới, đặc biệt là với những nước có trình độ phát triển cao và đang có nhu cầu thu
hút lao động cho các ngành nghề sản xuất.


Tăng vốn

Bảo đảm và huy động nguồn vốn cho phát triển nhân lực; đẩy mạnh xã hội hóa
để tăng cường các nguồn vốn cho phát triển nhân lực.
Huy động các nguồn vốn cho phát triển nhân lực ngành du lịch : tăng cường

nguồn ngân sách nhà nước ( ngân sách trưng ương và địa phương ). Tăng cường
các nguồn lực của khu vực ngoài quốc doanh, đặc biệt là trong việc phát triển hệ
thống dạy nghề du lịch nhằm đào tạo nhân lực phù hợp với nhu cầu của doanh
nghiệp. Mở rộng hợp tác quốc tế và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn việc trợ
các nguồn vốn viện trợ của các tổ chức, cá nhân nước ngoài để phát triển đào tạo
nhân lực du lịch. Huy động các nguồn lực các tổ chức xã hội…cho phát triển đào
tạo nhân lực ngành du lịch.
23




Phát triển và gia tăng đội ngũ doanh nhân
Chương trình định hướng công việc và phát triển nhân viên mới: tạo điều

kiện cho nhân viên mới tìm hiểu về doanh nghiệp, ý thức được vị trí, vai trò của
mình và bộ phậnmình sẽ làm việc.
Chương trình đào tạo bồi dưỡng phát triển đội ngũ nhân viên: Các doanh
nghiệp nên theo dõi quá trình phát triển chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng làm
việc của nhân viên ở mỗi bộ phận để làm cơ sở cho việc hoạch định, tổ chức các
chương trình đào tạo, bồi dưỡng. Cân nhắc giữa chi phí đào tạo và hiệu quả sử
dụng nhân viên sau đào tạo để lập kế hoạch đào tạo thích hợp với mỗi công việc.
Đồng thời, các doanh nghiệp nên có kế hoạch luân chuyển nhân viên giữa các bộ
phận để nhân viên hiểu biết nhiều hơn về công việc của nhau. Từ đó, đề ra biện
pháp quản trị có hiệu quả.
Chương trình đề bạt, thăng tiến: Ban lãnh đạo phải tạo môi trường bình
đẳng để khuyến khích nhân viên. Các tiêu chuẩn, điều kiện cụ thể đối với từng vị
trí công tác cần được công bố công khai. Những người được đề bạt vào vị trí cao
hơn phải là người giỏi hơn.
Tăng cường sự liên kết, hợp tác với các cơ sở đào tạo:

Liên kết giữa doanh nghiệp và các cơ sở đào tạo nhằm phát triển mô hình
đào tạo tại các doanh nghiệp theo đơn đặt hàng.Đây là mô hình đào tạo rất tiết
kiệm và hiệu quả.
Mở rộng quan hệ và gắn bó với các tổ chức, hiệp hội, tập đoàn khách sạn sẽ
tạo được cơ hội đào tạo, học hỏi cho đội ngũ nhân viên của doanh nghiệp mình.
Đồng thời, thu hút và tuyển chọn được các nhân viên giỏi.
Liên kết chặt chẽ với các trường nghề, cao đẳng, đại học đào tạo về du lịch
nhằm thu hút các học viên, sinh viên giỏi thông qua các chương trình nhận sinh

24


viên thực tập, cấp học bổng tài năng trẻ... nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cần duy trì các hình thức thưởng khác như
thưởng cuối năm, thưởng hoàn thành vượt kế hoạch, thưởng sáng kiến...
Các hình thức đãi ngộ khác có tác động đến động cơ và năng suất lao động
như các danh hiệu khen thưởng, thăm hỏi, động viên tinh thần của lãnh đạo
doanh nghiệp đối với cá nhân và gia đình người lao động nhân dịp hiếu hỉ, sinh
nhật, lễ tết…
b)

Tăng cường độ di chuyển lao động

Phát triển sản phẩm du lịch; đầu tư hệ thống hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật
phục vụ du lịch đi đôi với đào tạo và phát triển nguồn nhân lực; phát triển thị
trường xúc tiến quảng bá thương hiệu, gắn liền với đầu tư và chính sách phát triển
đồng thời tích cực triển khai thực hiện hợp tác quốc tế về du lịch, hoàn thiện thể
chế, cơ chế, chính sách và liên quan đến du lịch.
Chuyển dịch cơ cấu ngành: chuyển từ các ngành công nghiệp, nông nghiệp sang

ngành dịch vụ, đặc biệt ngành du lịch.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đào tạo nghề, ứng dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào ngành du lịch.Thu hút lao động qua các cơ chế, chính sách tiền công
tiền lương hợp lý, chế độ đãi ngộ tốt, phúc lợi dịch vụ công việc.
Thực hiện phân bố lại dân cư và cân đối lại lao động giữa các tiểu vùng và các
ngành theo từng giai đoạn. Thực hiện có hiệu quả các chính sách kinh tế và chính
sách xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển lao động trong ngành du lịch.
Tăng cường độ di chuyển lao động từ nông thôn đến các vùng, miền, địa
phương thiếu lao động trong ngành du lịch, góp phần tạo công ăn việc làm, giảm tỷ
lệ thất nghiệp, an sinh xã hội.
c)

Tăng cường phát triển hệ thống thông tin trên thị trường lao động
25


×