Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

TÌM HIỂU BAO BÌ TRONG CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT BIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.56 MB, 47 trang )

CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM

GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

BỘ CÔNG THƯƠNG

ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP. HCM
KHOA CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM

BÁO CÁO TIỂU LUẬN
MÔN: CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC
PHẨM
Đề Tài: TÌM HIỂU BAO BÌ TRONG CÔNG NGHỆ
SẢN XUẤT BIA

GVHD: Th.S Đặng Thị Yến
SVTH:
NGUYỄN VĂN SÁU

2005110432

ĐẶNG NĂNG TÀI

2005110457

ĐẶNG THỊ HUỲNH TRÂM

2005110576

NGUYỄN ĐOÀN TỨ


2005110569

LÊ THỊ BẢO TRANG

2005110597

LỚP: 02DHTP3
Nhóm: 9
Buổi học: Chiều thứ 5, tiết 7,8 phòng b205
TP. Hồ Chí Minh, Tháng 12 năm 2014
1


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM

GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

2


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM

GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

LỜI MỞ ĐẦU
Thực phẩm là nhu cầu cần thiết cho sự sống và phát triển của loài người. Thời kì sơ
khai, thực phẩm đơn giản cả về pương pháp chế biến và bảo quản. Khi khoa hc5 kĩ thuật
phát triển nhanh chóng thì việc chế biến lương thực, thực phẩm cũng tiến những bước
khá nhanh, cách xa so với trình độ chế biến cổ xưa. Cho đến khi xuất hiện sự bổ sung
những kĩ thuật chế biến ổn định sản phẩm trong thời gian lưu trữ thì một ngành công

nghiệp mới ra đời – công nghiệp thực phẩm.
Những thành tựu mới nhất của các ngành khoa học đã được con người áp dụng vào
sản xuất và chế biến lượng thực, thực phẩm. Hầu hết các loại thực phẩm đều bị ảnh
hưởng bởi các yếu tố bên ngoài như nước, đất, bụi, oxi, vi sinh vật,… Vì vậy chúng phải
được chứa đựng trong bao bì kín.
Theo xu hướng đi lên của xã hội, con người ngày càng có nhu cầu cao hơn về giá trị
cảm quan và đòi hỏi về tính thẩm mĩ. Do đó, mẫu mã bao bì cũng dần trở thành yếu tố
quan trọng trong cạnh tranh.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đó bao bì ra đời không chỉ với chức năng đơn thuần là
bao gói và bảo vệ sản phẩm mà đã trở thành công cụ chiến lược trong việc quảng bá sản
phẩm và gây dựng một thương hiệu.
Với sự phát triển mạnh mẽ của ngành cơ khí, chất dẻo, công nghệ vật liệu,.. bbao bì
kim loại ra đời. Với ưu thế vượt bậc về thời gian bào quản, trong thời gian ngắn bao bì
kim loại đã tạo nên bước đột phá cho công nghệ bảo quản thực phẩm.
Tại sao bao bì kim loại có thể làm được điều đó? Câu trả lời sẽ có trong bài tiểu luận
này.

3


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM

GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ BIA
1.1. Khái niệm
Bia là một loại nước uống chứa cồn được sản xuất
bằng quá trình lên men của đường lơ lững trong
môi trường lỏng và nó không được chưng cất sau
khi lên men. Nói một cách khác, bia là loại nước

giải khát có độ cồn thấp, bọt mịn xốp và có hương
vị đặc trưng của hoa houblon. Đặc biệt CO 2 hòa tan
trong bia có tác dụng giải nhiệt nhanh, hỗ trợ cho
quá trình tiêu hóa, ngoài ra trong bia còn chứa một
lượng vitamin kha phong phú (chủ yếu là vitamin nhóm B như B 1, B2, PP...). Nhờ
những ưu điểm này, bia được sử dụng rộng rãi ở hầu hết các nước trên thế giới với
sản lượng ngày càng tăng. Đối với nước ta bia đã trở thành loại đồ uống quen thuộc
với sản lượng ngày càng tăng đã trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn trong ngành
công nghiệp nước ta.
Quá trình sản xuất bia được gọi là nấu bia. Do đó các thành phần sử dụng để sản xuất
bia có khác biệt tùy theo từng khu vực, các đặc trưng của bia như hương vị và màu
sắc cũng thay đổi rất khác nhau và do đó có khái niệm loại bia hay các sự phân loại
khác.
1.2. Lịch sử phát triển của bia
Tài liệu lịch sử cho thấy khoảng 6.000 năm trước, nền văn minh Trung Quốc cổ
đại đã làm một loại đồ uống giống bia có tên gọi kyui.
Ở vùng Lưỡng Hà cổ đại, các tấm đất sét cho thấy việc làm bia là một nghề nghiệp
được kính trọng vào thời đó. Các phát hiện cho thấy việc dùng lại cùng các dụng cụ
chứa (chai, lọ, vại…) cho quá trình lên men nguyên liệu cung cấp các kết quả đáng tin
cậy hơn khám phá ban đầu là: những người làm bia khi di chuyển mang theo các bình
bên mình.
Các tấm khắc đất sét Ebla được phát hiện năm 1974 tại Ebla, Syria, có niên đại 2500
năm TCN, tiết lộ việc thành phố cổ này đã sản xuất một loạt các loại bia khác nhau,
gồm cả một loại bia có tên gọi là "Ebla". Các dấu vết ban đầu của bia và quá trình làm
4


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM

GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN


bia cũng đã được tìm thấy ở Babylon cổ đại. Vào thời điểm đó, phụ nữ và thầy tu
cũng làm bia. Một số loại bia đã được sử dụng, đặc biệt trong các nghi lễ tôn giáo.
Năm 2100 TCN, vua Babylon là Hammurabi đã ban hành bộ luật của mình, trong đó
có cả các quy định về chủ quán rượu.
Bia là một phần trong chế độ ăn uống hàng ngày của các Pharaoh Ai Cập cách đây
hơn 5000 năm. Sau đó, nó được làm từ bánh mì lúa mạch nướng, và cũng được sử
dụng trong các hoạt động tôn giáo.
Vai trò của bia trong xã hội Ai Cập cổ đại là rất lớn, nó không chỉ là một đồ uống.
Thông thường, bia được sử dụng để chữa một số bệnh khác nhau, bia còn được xem
như một món quà thích hợp nhất để tặng cho các Pharaoh Ai Cập, và nó cũng được
xem là vật cúng tế để dâng lên các vị thần.
Dựa bằng chứng lịch sử, người Ai Cập đã dạy cho người Hy Lạp cách làm bia. Nhà
văn Hy Lạp là Sophocles (450 TCN) đã thảo luận về khái niệm của sự điều độ khi nói
đến việc tiêu thụ bia trong nền văn hóa Hy Lạp, và ông tin rằng chế độ ăn uống tốt
nhất cho người Hy Lạp gồm bánh mì, thịt, các loại rau và bia (người Hy Lạp gọi bia
là "ζῦθος" (zythos)). Người Hy Lạp cổ đại cũng làm bia barleywine (tiếng Hy Lạp:
"κρίθινος οἶνος" - krithinos oinos, "barley wine"), loại bia này được sử gia Hy Lạp
Polybius đề cập trong tác phẩm The Histories của ông, trong cuốn sách này ông nói
người Phaeacia giữ bia barleywine trong krater (một loại vại) bằng bạc và vàng.
Ngược lại với người Ai Cập và Sumer, với người Do Thái thì "bia chưa bao giờ đóng
một vai trò quan trọng trong các thói quen uống đồ uống có cồn ở vùng đất Israel."
Đây là tuyên bố của Bảng tàng Do Thái, New York và Jerusalem, liên quan tới tập
quán của người Do Thái cổ đại.
Quá trình sản xuất bia đã tăng lên rất nhanh khi Kitô giáo phát triển. Điều này chủ yếu
do các thầy tu cũng làm bia. Tu viện là các tổ chức đầu tiên làm bia vì mục đích
thương mại. Các thầy tu xây xưởng nấu bia là một phần của mục tiêu cung cấp thực
phẩm, chỗ trú chân và đồ uống cho người hành hương và khách bộ hành.
Một số lượng lớn các vị thánh của Kito giáo là thánh bảo trợ cho việc làm bia. Thánh
Augustine thành Hippo, thánh Arnulf thành Metz, Thánh Luca người truyền giáo và

thánh Nicôla thành Myra đều được xem là người bảo trợ cho nghề làm bia.

5


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM

GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

Hoàng đế Charlemagne, người cai trị vương quốc Thiên chúa giao khoảng năm 770
SCN coi bia là một phần quan trọng của cuộc sống, và mọi người thường nghĩ chính
ông đã dạy cách làm bia cho người Cơ đốc.
1.3. Phân loại bia
Có rất nhiều loại bia khác nhau, mỗi loại là một kiểu bia cụ thể có đặc trưng riêng về
hương vị tổng thể, hình thái và có nguồn gốc khác nhau trong quá trình tiến hoá của
ngành công nghiệp bia. Dựa vào cách lên men, bia được chia làm 3 loại:
1.3.1. Lên men nổi: Bia Ale
Nhiệt độ lên men cao từ 15 đến 23 oC do đó lượng ester tạo ra nhiều, còn có các
hương liệu thứ cấp và các sản phẩm tạo mùi khác làm cho bia có mùi vị của hoa
hay quả tương tự như táo, lê, dứa, ….
Các khác biệt về kiểu giữa các loại ale là nhiều hơn so với các loại lager, và nhiều
loại bia ale rất khó để phân loại chúng

Hình: Bia ale

1.3.2. Lên men chìm: Bia lager được sản xuất nhiều nhất trên thế giới

6



CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM

GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

Lager trong tiếng Đức nghĩa là lưu trữ được phát minh một cách tình cờ khi để bia
qua mùa đông. Do nhiệt độ lên men thấp 7-10 oC và 0-4oC trong quá trình trữ mà ester
và các sản phẩm phụ tạo ra ít, nhờ đó người uống không bị nhức đầu khi thưởng thức
các loại bia nay.
Phần lớn bia lager ngày nay dựa trên kiểu Pilsener, được sản xuất lần đầu tiên năm
1842 tại thành phố Pilsen (Plzeň), Cộng hòa Séc. Các loại bia lager Pilsener có màu
sáng, được cacbonat hóa nồng độ cao có hương vị mạnh của hoa bia và nồng độ cồn
3-6% theo thể tích. Các sản phẩm bia Sài Gòn đều thuộc loại bia này.

Hình: Bia lager
1.3.3. Lên men tự nhiên:
Các loại bia này dùng men bia hoang dã chứ không phải các loại men bia được nuôi
cấy. Tất cả các loại bia trước khi có việc nuôi cấy men bia trong thế kỷ 19 đã rất gần với
kiểu bia này, được đặc trưng bởi các vị chua.
Ngoài ra còn có loại bia hỗn hợp:
Kiểu bia lai hay bia hỗn hợp sử dụng các nguyên liệu và công nghệ hiện đại thay vì
(hoặc bổ sung cho) các khía cạnh truyền thống của sản xuất bia. Mặc dù có một số biến
thái giữa các nguồn khác nhau, nhưng nói chung bia hỗn hợp có thể rơi vào các thể loại
sau:


Bia hoa quả và bia rau cỏ là hỗn hợp với một số loại phụ gia từ hoa quả hay rau cỏ có
thể lên men trong quá trình lên men, tạo ra chất lượng hài hòa một cách rõ nét.

7



CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM



GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

Hình: Bia hoa quả
Bia thảo mộc và bia gia vị bổ sung các chất chiết ra từ rễ, hạt, lá, hoa hay quả thảo

mộc hoặc các loại cây gia vị thay vì (hoặc bổ sung cho) hoa bia.
− Các loại bia tồn trữ trong các thùng gỗ là các loại bia truyền thống hay thực nghiệm
được lưu trữ trong các thùng gỗ hoặc được tiếp xúc với gỗ (trong dạng các mảnh nhỏ,
mẩu hay hạt) trong một khoảng thời gian (gỗ sồi là phổ biến nhất). Thông thường,
thùng gỗ hay các miếng gỗ đầu tiên được xử lý bằng một số loại rượu mạnh hay các
đồ uống chứa cồn khác—việc sử dụng rượu bourbon, scotch và sherry là phổ biến


nhất.
Bia hun khói là bất kỳ loại bia nào mà mạch nha của nó đã được hun khói. Thông
thường các loại bia này có mùi và hương vị của khói. Các ví dụ điển hình của kiểu bia
truyền thống này là bia Rauchbiers ở Bamberg, Đức. Tuy nhiên, nhiều nhà sản xuất
bia ngoài nước Đức—chủ yếu là các nhà sản xuất bia thủ công ở Mỹ—cũng bổ sung
mạch nha bia hun khói vào bia đen, ale Scotland và một loạt các kiểu bia khác.

Hình: Bia hun khói
− Bia đặc biệt là cách gọi chung để chỉ các loại bia được sản xuất mà sử dụng các nguồn
đường, hạt ngũ cốc và tinh bột có thể lên men không thông dụng.
1.4. Giá trị dinh dưỡng của bia
Bia có giá trị dinh dưỡng cao. Bia thường có nồng độ cồn thấp, lại thường có 5%

nước khí Carbonic, 0,5% Albumin, 17 loại Amino acid, nhiều loại vitamin cùng nhiều
8


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM

GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

loại vi lượng tố như Calci, Phosphore, sắt, chất đắng từ hoa houblon có tác dụng kích
thích tiêu hóa, có tính diệt khuẩn cao; đặc biệt CO2 bảo hòa trong bia có tác dụng làm
giảm nhanh cơn khát của người uống. Ngoài ra đối với phụ nữ rất có lợi khi dùng
đúng lượng thích hợp sẽ làm sáng da, mượt tóc.
Giá trị năng lượng của loại bia với 12% độ cồn là khoảng 440 calories/lít, bằng 2/3
giá trị dinh dưỡng của sữa.
Nhờ những ưu điểm như vậy mà ngày nay bia được sử dụng rộng rãi như một loại
nước giải khát ở hầu hết các nước trên thế giới.
1.5. Một số sản phẩm bia hiện nay
Hiện nay trên thị trường có vô số các sản phẩm bia khác nhau:
Một số sản phẩm bia hiện có trên thị trường như: Bia Hà Nội, bia 333, ia Henninger.......

9


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM

GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

CHƯƠNG 2 TỔNG QUAN VỀ BAO BÌ BIA
2.1. Sơ lược lịch sử phát triển của bao bì bia


 Các dạng dụng cụ chứa đầu tiên
Các dạng dụng cụ đầu tiên dùng để chứa bia là các quả bầu bí khô, các bình bằng đất sét
và các túi làm từ da hay thuộc da. Từ “blackjack” được dùng nhằm để chỉ dụng cụ có
dạng một cái bình lớn làm bằng thuộc da dùng chứa bia, được phủ bên ngoài một lớp hắc
ín.

 Sự thay thế các dụng cụ chứa thô sơ bởi thùng chứa
Tuy nhiên cách đây hơn 1000 năm thì đã xuất hiện thêm bên cạnh nó một dạng dụng cụ
chứa khác mà ngày nay vẫn dùng để chứa bia, đó là các thùng gỗ.
Cũng giống như đối với hầu hết các loại thực phẩm khác, chất lượng bia thường bị tác
động sâu sắc bởi các vi sinh vật. Nguyên nhân chính là do vi khuẩn và nấm men dại đã
sản sinh ra các acid mà cho bia có vị chua như giấm. Mặc dù một số vi sinh vật gây hư
hỏng bia vẫn sống được trong các thùng gỗ dùng chứa ba nhưng người ta chỉ xem đây là
một vấn đề nhỏ. Các nhà máy sản xuất bia rượu thường vệ sinh các thùng chứa và xử lý
để khử các hợp chất hóa học như các chất kiềm, các chất màu để “làm sạch” chúng trước
khi tái sử dụng để chiết rót. Chỉ đến cuối những năm 1800, khi có các kết quả nghiên cứu
của Louis Pateur thì mới có một cách nhìn nhận đúng hơn về tính bền của các vi sinh vật
nhiễm cũng như ảnh hưởng của chúng đến mùi vị của bia.Sử dụng các thùng gỗ rất có lợi
vì chúng có thời hạn sử dụng dài và có thể sử dụng một cách dễ dàng.Tóm lại, chúng có
thể chịu được các va chạm mạnh khi chuyên chở đồng thời cũng chứa được một lượng
bia tương đối lớn.
Trước thế kỷ 16, hầu hết các sản phẩm bia và rượu đều được bán trong các thùng, khi
đó giá thành của chúng phụ thuộc vào thể tích thùng. Để đảm bảo tính công bằng trong
mậu dịch, các nhà sản xuất thường không cho phép tự ý sản xuất các thùng chứa. Các
thùng chứa dùng để đựng bia thương phẩm có dung tích 36 gallon sẽ được cung cấp bởi
những người thợ đóng thùng và ngày nay các thừng rượu của Anh vẫn được cũng cấp
theo cách thức này.
Trong một vài thế kỉ, các thùng chứa làm bằng gỗ vẫn là dạng bao bì bia chiếm ưu thế
nhất trên toàn thế giới. Nhờ quá trình lên men phụ được thực hiện bởi nấm men mà sẽ có
thêm một lượng CO2 sinh ra bên trong các thùng chứa. Hàm lượng CO 2 trong bia lúc bấy

10


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM

GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

giờ chắc chắn là thấp hơn hẳn so với hàm lượng CO 2 trong bia ngày nay. Đó chính là do
gỗ thì có trạng thái xốp và việc đóng kín các nút thùng còn thô sơ nên đã làm thất thoát đi
một phần CO2 sinh ra.
Bia có thể lấy ra khỏi thùng bằng cách mở nút thùng rượu hay đầu vòi thông qua một lỗ
được bịt kín ở bên dưới lỗ thùng. Lỗ thông hơi phía trên của thùng cũng sẽ được mở giúp
không khí đi vào bên trong thùng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc rót bia ra khỏi đầu
vòi của thùng.

 Các cải tiến về kỹ thuật giúp bảo quản tốt bia chứa trong các thùng gỗ
Khi bia được tiêu thụ nhanh chóng thì việc sử dụng các thùng gỗ đựng bia là rất tốt. Tuy
nhiên, khi hàng bị tồn trữ trong kho quá lâu, bia không sử dụng trong các thùng bốc mở
nắp sẽ bị thất thoát CO2 và bị chua do tác động của vi sinh vật nhiễm vào từ không khí.
Do đó, người ta sẽ đề ra các giải pháp kỹ thuật để giải quyết vấn đề trên. Trong những
thập kỷ cuối của thế kỷ 19, khi các loại khí nén trở nên phổ biến, các lỗ thông khí thường
được nạp CO2 sạch , có áp lực cao hơn không khí thường trong phòng ủ. Kết quả là đã
làm gia tăng lượng CO2 trong bia và giảm một lượng lớn bia bị chua. Sang năm 1900, hệ
thống này sẽ được sử dụng trong hơn 75% nhà máy bia ở Mỹ.
Nhờ những cải tiến này mà các thùng gỗ vẫn được giữ lại sử dụng một cách rộng rãi
cho đến khoảng giữa thế kỷ 20 mặc dù đến giai đoạn này các dạng bao bì khác có thể sử
dụng khá tốt. Năm 1942, ấn phẩm “ Hướng dẫn thực hành trong nghành công nghiệp bia
rượu” của nhà xuất bản thực nghiệm về ủ bia rượu đã nêu ra 5 dạng thùng chứa sử dụng,
bao gồm các dạng thùng làm bằng gỗ, các phiến gỗ, thép không gỉ, thép và nhôm.
Tại thời điểm này, tất cả các dạng thùng chứa-trừ thùng chứa làm từ thép không gỉđều được quét hoặc lót bằng một loại nhựa hữu cơ hay sáp để ngăn bia không tiếp xúc

trực tiếp với các thùng chứa nó. Chính điều này đã giúp cải thiện điều kiện vệ sinh bên
trong thùng trước khi chiết rót và làm giảm tới mức tối thiểu sự phát triển của vi sinh vật
có thể gây ảnh hưởng đến mùi vị của bia. Trong trường hợp các thùng làm bằng nhôm
hay thép, chúng cũng được bảo về để tránh khỏi sự ăn mòn hóa học cũng như tránh có
mùi kim loại.
Vào những thập kỷ cuối của thế kỷ 18, việc ứng dụng rỗng rãi kỹ thuật bảo quản lạnh
trong vận chuyển và phân phối bia tươi đã giúp chống lại sự xâm nhập của vi sinh vật .
Các nhà sản xuất nhận thấy rằng hầu hết các vi sinh vật gây hại cho bia thường phát triển
11


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM

GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

rất mạnh ở nhiệt độ cao hơn. Do không thể loại trừ hoàn toàn hệ vi khuẩn và nấm men có
trong bia nên các nhà sản xuất thường sử dụng nhiệt độ thấp để tránh các biến đổi không
mong muốn. Ngày nay, các thùng chứa bia hay thùng bốc đều làm từ thép không gỉ. Tuy
nhiên, các sản phẩm bia thì lại được chứa trong các bao bì làm bằng vật liệu rất dễ vỡ.
Khi chiết rót, các thùng bốc cần phải được giữ lạnh nhằm giữ bia ở dạng nguyên chất. Sự
phát triển của vi sinh vật và sự gia tăng về nhiệt độ sẽ thúc đẩy các phản ứng oxy hóa và
các phản ứng hóa học khác làm giảm chất lượng bia xảy ra nhanh hơn.
Thực tế, người ta phải tìm cách để gia tăng thời hạn sử dụng của bia chứa trong
thùng bốc trước so với bia chứa trong các dạng bao bì khác như chai hay lon. Bia rót
trong các thùng bốc thường được giữ lạnh khi vận chuyển và tiêu thụ trong khi bia chứ
trong các lon hay chai thì không cần. Kết quả là mùi vị của bia tươi thì mới hơn và tự
nhiên hơn nhưng thời hạn sử dụng chúng thì ngắn hơn rất nhiều-khoảng 6 tuần. Do đó, đa
số trường hợp, người tiêu dùng đều mua bia tươi ở dạng được giữ lạnh.
Sự ra đời của sản phẩm bia chai
Theo các tài liệu về ngành bia rượu thì trước thế kỷ 20, bia đóng chai chưa hề

được đề cập đến. Tuy nhiên, có rất nhiều bằng chứng chứng tỏ rằng người ta đã sử dụng
chai làm bao bì chứa đựng bia từ cách đây hơn 300 năm.
Bia đóng chai được đề cập đến lần đầu tiên trong một buổi nói chuyện của tiến sĩ
Alexander Nowell, chủ nhiệm St.Pau’ls Cathedral khoảng năm 1560 đến ăm 1602 . Báo
cáo đã nêu ra rằng vị trí tiến sĩ này đã đánh rơi một chai bia đậy bằng nút bằng gần bờ
sông trong một lần đi câu cá. Và sau một vài ngày, ông ấy trở lại và bật nút chai thì nghe
thấy một tiếng nổ rất lớn, giống như tiếng súng. Điều này chứng tỏ, ngay từ những ngày
đầu, đặc trưng cơ bản của bia đóng chai thường được xem xét là lượng CO 2 được sinh ra
và duy trì ở mức khá cao. Một nghiên cứu tiến hành vào năm 1615 của hội người nội trợ
Anh mô tả quá trình làm rượu bia đóng chai, cho rằng “ các nút bần được niền chặt bằng
một sợi dây nhằm tránh sự bay hơi, đậy kí miệng chai- nơi thường dễ bị nhiễm, gây ra hư
hỏng toàn bộ rượu.
Khi lượng CO2 phù hợp, các chai được mở ra ở dạng một bao gói có vẻ bề ngoài
“dành cho bia mà không uống ngay lập tức”.Những loại này gồm bia để uống ở các quán
rượu và rộng hơn là bia dành cho xuất khẩu. Một tài liệu khác đã nêu rằng “ có khoảng
3000 chai bia làm bằng thủy tinh được sản xuất ở Anh vào năm 1695 và bia đóng chai
12


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM

GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

dường như vẫn phổ biến trong suốt thế kỷ 18.
Trong suốt những năm 1700, các chai có hình dạng thay đổi từ dạng bình thót cổ dạng
củ hành sang dạng hình trụ dài vẫn còn thường dùng chứa rượu Bordeaux, nhưng công
nghệ chế tạo chai vẫn còn chưa phát triển lắm. Các chai này vẫn có thêm sự tham gia hỗ
trợ của các khuôn làm từ sáp, gỗ hay đồng thau. Kích thước thật sự của mỗi chai khác
nhau khá rõ. Các nút bần thì hết sức hữu dụng trong trường hợp này. Sau khi được nén và
chèn khít vào chai, chúng sẽ giãn nở để đậy kín miệng chai bất kể hình dạng và kích

thước của các miệng chai.
Trong những thập kỷ ngay sau cách mạng Mỹ, các chai bia được xem như một hàng
hóa quan trọng đối với một đất nước còn non trẻ đến mức độ mà thực tế, các chai
Maryland đã bị tiêu hủy bởi lửa đã được đem ra vay và nhận được một số vốn vay 8000$
từ Ú Congress, giúp cho việc tái xây dựng lại đất nước.
Tại nước Anh, việc xuất khẩu bia lúc ban đầu chỉ áp dụng đối với bia ở dạng đóng
chai.Từ 1801 đến 1810, các ban của nước Mỹ đã xuất khẩu khoảng hơn 1 triệu gallon bia,
15% trong số đó là dạng đóng chai.
Trước thế kỷ 20, việc đóng chai tiến hành theo phương pháp thủ công và chỉ có 1 hay
2 dụng cụ rất thô sơ để rót và đóng nút bần. Nhìn chung, các quá trình này cũng tương tự
như các quá trình được thực hiện bởi những người sản xuất bia và rượu ở quy mô gia
đình hiện nay.
Sự cơ giới hóa của công đoạn đóng chai bắt đầu với việc cải tiến các khuôn và một
vài sự cách tân như ứng dụng khí nén đã được đề cập đến vào khoảng giữa thế kỷ 19, vào
năm 1866, các khuôn làm bằng thép tôi đã được đưa ra và tiếp sau đó là một loạt những
sáng chế về máy móc để đóng chai. Cùng với việc tạo ra các chai có kích cỡ đồng nhất,
có một đòi hỏi về một cách đóng kín chai thích hợp hơn vào năm 1892, người ta phát
minh ra nắp có khía dạng miệng mũ. Các tiến bộ trong lĩnh vực bảo quản và sự ra đời của
khí hóa lỏng cũng đã giúp kỹ thuật chiết rót vào chai phát triển, cho phép bia được bổ
sung thêm CO2 nhân tạo trước khi rót, hạn chế quá trình lên men trong chai.

 Ứng dụng phương pháp thanh trùng Pasteur vào ngành bia
Khi kỹ thuật chiết rót vào chai ngày càng phát triển, người ta cố gắng tìm cách đảm bảo
chất lượng và vệ sinh của quá trình đóng chai bia. Vào năm 1982, nhà sản xuất bia người
Đức Thasing đã đề cập đến mùi hôi phát sinh khi bia được bảo quản trong các chai thủy
13


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM


GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

tinh trong. Chính điều này đã khiến các nhà sản xuất bia sử dụng các chai có màu nâu để
đựng bia nhằm tránh hiện tượng trên.
Chính những nghiên cứu tiên phong về vi sinh của Louis Pasteur vào những năm giữa
và cuối 1800 đã chỉ ra cho các nhà sản xuất bia thấy rằng dựa vào các sản phẩm thu được
từ quá trình lên men, ta có thể xác định được bản chất của quá trình. Bên cạnh đó, một
bước tiếp không kém phần quan trọng khác trong nổ lực nghiên cứu của ông là nhằm làm
chấm dứt quá trình hư hỏng trong sản phẩm rượu Pháp.
Ngày nay, nó được biết đén như là quá trình gia nhiệt nhằm tiêu diệt vi sinh vật gây
hại có bên trong các chai đã đậy kín.
Năm 1903 , quá trình thanh trùng đã trở thành một phần trong quy trình sản xuất bia
chiết rót tự động. Các máy móc lớn để rửa sạch, chiết rót và vô trùng chiếm phần lớn
diện tích của hầu hết các nhà máy sản xuất bia.Cùng với sự phát triển của máy móc, các
vật liệu và quá trình cơ bản của quá trình chiết rót cũng được thay đổi chút ít trong những
năm còn lại của thế kỷ 20. Khi ngành công nghiệ sản xuất bia được tái phục hồi lại sau
Luật cấm nấu và bán rượu (thời kỳ 1929-1933 ở Mỹ), bia tươi chiếm hơn 70% sản lượng.
Ngày nay lượng bia tươi sản xuất đã giảm, chỉ còn khoảng 10% tổng lượng bia được sản
xuất ở Mỹ. Cũng theo huynh hướng này mà ngay cả đối với hầu hết các nhà máy sản xuất
nhỏ, chai đã trở thành một phần sản xuất của họ.
Tuy nhiên, quá trình chiết rót đóng chai rất tốn kém.Các nhà sản xuất bia lớn thường
dành khoảng 60% nguồn vốn của họ cho quá trình đóng chai. Trong môt lô 6 chai trung
bình, bia thật sự chỉ chiếm dưới 20% tổng giá thành của sản phẩm.
Ngay cả khi một nhà máy sản xuất có đầu tư nặng về phần thiết bị máy móc và tiêu
tốn chi phí cao cho việc đóng chai, nhằm thu hút khách hàng, chất lượng bia có thể kém.
Nếu quá trình vận hành không đúng, việc bảo dưỡng máy móc kém hay không quan tâm
đến vấn đề vệ sinh của hệ thống thì ngay cả một nhà máy trang bị tốt cũng sẽ không đạt
được chất lượng. Kết quả là bia có thể có mùi tạo hoặc rất dễ hỏng nghĩa là chúng sẽ
hỏng nhanh chóng chỉ sau một vài tuần sau khi sản xuất.
Để giảm tới mức thấp nhất chi phí cho việc chiết rót đóng chai, nhiều nhà máy sản

xuất quy mô nhỏ đã trở lại với các phương thưc cũ tức là bỏ qua bước thanh trùng vốn
tốn kém thay vì chiết rót bia “sống” mà vẫn còn chứa nấm men và một lượng nhỏ đường
chưa lên men.Điều này đã thúc đẩy quá trình lên men thứ trong chai, sản sinh ra CO 2 và
14


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM

GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

giúp chống lại quá trình oxy hóa. Các sản phẩm này có thể có mùi tự nhiên, tươi nhưng
rất dễ hư hỏng nếu không được xử lý đúng cách.

 Sự xuất hiện của bia lon
Cùng với việc trở thành hàng hóa bán hàng loạt, việc sử dụng lon để chiết rót bia, ngày
càng trở nên phổ biến hơn là dùng các loại bao bì khác. Tổng cộng có khoảng 60% lượng
bia tiêu thụ ở Mỹ được xuất ra khỏi các nhà máy ở dạng các lon.
Mặc dù ngày nay lon chiếm ưu thế trong các loại bao bì, tuy nhiên lon vẫn là loại bao
bì mới nhất dùng để chiết rót bia. Bia được rót vào các lon được xuất hiện lần đầu tiên
trên thị trường Mỹ vào năm 1935 và các lon bia chỉ được bán chạy hơn so với bia ở dạng
chai từ năm 1969. Tuy nhiên, kỹ thuật cơ bản của việc đóng lon, thì đã được biết đến
cách đây hơn 200 năm.
Vào những năm 1970, một nhà sản xuất bánh kẹo nguời Pháp là Nicholas Appert đã
phát hiện ra rằng khi nấu thực phẩm trong các chai đã được đậy kín thì chúng sẽ không bị
giảm giá trị. Navy (người Pháp) đã kiểm tra lại điều này vào năm 1806 trên một số thực
phẩm khác nhau gồm thịt, rau quả, trái cây, và sữa. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, một
người Anh là Peter Durand đã được nhận bằng sáng chế cho một phương pháp tương tự
đối với bao bì làm bằng thép tráng thiếc. Cho đến lúc này, khi quá trình đã được biết đến
thì vẫn chưa xuất hiện nghiên cứu khoa học để có thể ứng dụng nó vào trong thực tiễn
một cách rộng rãi. Sản lượng của sản phẩm dạng này chỉ khoảng 10 lon/ ngày.

Vào năm 1900 một người Đức di dân sang Mỹ tên là Max Am đã phát minh ra một hệ
thống giúp thực hiện quá trình đóng lon tự động. Ban đầu, các lon thiếc hoàn toàn không
bị đậy giúp cho quá trình chiết rót thực hiện nhanh chóng và sau đó, thực hiện nhanh quá
trình đóng nắp (nắp có dạng miếng có gân). Hệ thống này nhanh chóng thay thế các hệ
thống đóng gói thực phẩm khác và ngay nay nó đã trở thành một quá trình cơ bản được
sử dụng đối với các thực phẩm dạng đóng gói.
Theo tài liệu, sản phẩm bia dạng đóng lon đầu tiên được sản xuất là vào ngày 24
tháng 6 năm 1935, do công ty bia rượu Krueger ở Newark sản xuất. Cũng trong năm này,
Schlitz cũng giới thiệu một dạng lon có phần phía trên dạng hình nón một thay đổi nhỏ
nhưng rất đáng chú ý trong việc thiết kế hình dạng chai.
Vào năm 1959, Coors đã lần đầu giới thiệu dạng lon nhôm. Năm 1965, công ty bia
rượu Pittsburgh cũng giới thiệu dạng lon có gắn một miếng kim loại để mở.Cũng trong
15


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM

GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

năm 1965 , các vong dùng để mở nắp lon cũng trở nên phổ biến và làm cho trở thành loại
bao bì đãn đầu trong các loại bao bì bia. Từ đó đến nay, chỉ có một thay đổi nhỏ trong
việc tạo ra khóa mở lon làm sao để giảm lượng phế liệu phát sinh trong quá trình dập cấc
vòng dùng để mở nắp lon.
Từ mặt về chất lượng sản phẩm, các sản phẩm bia lon thì được người tiêu dùng ưa
thích hơn so với các sản phẩm đóng chai. Do sau khi chiết rót, ta thực hiện quá trình
thanh trùng trong bao bì nên mối quan tâm chủ yếu là làm giảm tới mức thấp nhất hàm
lượng oxy để giảm sự tác động của quá trình thanh trùng đến mùi vị bia và làm chậm các
phản ứng gây nhạt vốn có trong quá trình bảo quản bia.
Hạn chế đặc trưng của việc sử dụng các lon để đựng bia là khả năng gây ảnh hưởng
tới mùi vị của bia. Các dạng chất bôi trơn, các lớp phủ và các loại sơn khác nhau được sử

dụng trong quá trình sản xuất lon và đóng nắp thì là các nguyên nhân tiềm tàng có thể
làm ảnh hưởng tới mùi vị bia. Mặc dù các yếu tố này hầu như ít ảnh hưởng đến chất
lượng bia, tuy nhiên chúng đòi hỏi các nhà sản xuất phải kiểm soát các quá trình một
cách thận trọng và quản lý chất lượng sản phẩm.
2.2. Yêu cầu đối với bao bì bia
Bia là một sản phẩm có từ lâu đời, được làm từ lúa mạch.Do sự tăng về nhu cầu, bia
đã trở thành một thức uống đơn giản và được sử dụng nhiều nhất trên thế giới.
Bốn mối nguy thường khiến các nhà sản xuất bia lo ngại boa gồm: vi sinh vật, oxi,
nhiệt độ, ánh sáng.
2.2.1. Vi sinh vật
Vi sinh vật là tác nhân gây hư hỏng chính trong tất cả các đồ ăn và thức uống. Mặc dù
trong bia có chứa rượu và các loại nhựa hoa hublon vốn không thích hợp cho bất kì tác
nhân gây hại nào, các vi sinh vật làm ảnh hưởng đến mùi vị của sản phẩm vẫn phát triển
rất mạnh tại mọi thời điểm, đặc biệt là trong trường hợp bia không được bảo quản lạnh.
Để ngăn cản điều đó, các nhà sản xuất thức uống thường áp dụng phương pháp thanh
trùng thời gian ngắn nhưng nhiệt độ cao để tieu diệt các vi sinh vật nhằm tạo ra sản phẩm
an toàn về mặt vi sinh.
Muốn tránh thanh trùng, một số nhà sản xuất lớn thường sử dụng phương pháp lọc vô
trùng. Khác với quá trình lọc bia nhằm loại bỏ nấm men vẫn thường được tiến hành trong
tất cả các nhà máy, quá trình lọc vô trùng sẽ giúp loại bỏ phần lớn vi khuẩn thúc đẩy sự
16


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM

GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

hư hỏng của bia. Những sản phẩm như vậy được bán trên thị trường ở dạng “bia tươi
trong chai” bởi vì chúng thiếu hẳn mùi nấu có được sau quá trình thanh trùng. Tuy nhiên,
nếu kích thước lỗ lọc quá nhỏ thì quá trình lọc cũng sẽ làm mất đi một số mùi hương và

vị đặc trưng của bia.
2.2.2. Oxy
Sau vi sinh vật, mùi vị bia có thể bị nhạt chủ yếu do sự tác dụng của oxy với các hợp
chất khác. Tại mọi thời điểm, trong bia luôn xảy ra các phản ứng oxy hóa nhưng tốc độ
của chúng thì phụ thuộc vào nhiệt độ và hàm lượng oxy trong lọ.
Để chống lại quá trình oxy hóa các hợp chất mùi, các nhà sản xuất bia thường cố gắng
làm cho hàm lượng oxy trong chai lọ hoặc trong các lon là rất nhỏ. Mặc dù khoảng không
gian giữa nắp và mực bia trong hầu hết các chai thường chứa khoảng 20ml khí nhưng với
các dây chuyền đóng chai có chất lượng cao, hàm lượng oxy có thể giảm đến 2%.
Nhờ quá trình thanh trùng, hầu hết các sản phẩm bia đạt được nhiệt độ cần thiết ngay tức
thì sau khi nó được chiết rót vào chai hay lon. Nếu hàm lượng oxy là nhỏ, quá trình thanh
trùng có thể được điều khiển ở chế độ thích hợp nhằm đảm bảo sự giảm về độ tươi của
bia là không đáng kể. Trong tất cả các trường hợp như sự khác biệt về mùi vị có thể được
phát hiện bởi những người tiêu dùng đã được huấn luyện cảm quan về bia hoặc hàm
lượng oxy cao hay quá trình thanh trùng được kiểm soát không tốt, mùi nấu đặc trưng
đều có thể phát hiện dễ dàng.
2.2.3. Nhiệt độ
Nhiệt độ bảo quản cũng có tác dụng sâu sắc đến quá trình oxy hóa hay sự nhạt dần về
mùi vị của bia. Thông thường, vị bia bị nhạt khi nó được bảo quản khoảng 1 tuần ở nhiệt
độ 100oF thì tương đương với khi nó được bảo quản ở 70 oF trong 2 tuần và 40oF trong
hơn 1 năm.
Bên cạnh đó, sự tác động của các nhà phân phối, những người bán lẽ và cả người tiêu
dùng khi thay đổi đột ngột nhiệt độ (chẳng hạn như lấy ra hay cho vào tủ lạnh) đều có thể
ảnh hưởng xấu đến chất lượng bia.
2.2.4. Ánh sáng
Cuối cùng, các nhà sản xuất thường tìm cách bảo vệ các sản phẩm bia của họ tránh
khỏi sự mất mùi do tác dụng của ánh sáng. Ở bước sóng đặc trưng của ánh sáng mặt trời
và ánh sáng đèn huỳnh quang, có sự tác động của ánh sáng lên các hợp chất của hoa
17



CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM

GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

houblon, làm cho bia có mùi hôi.Các chai thủy tinh sậm màu sẽ có tác dụng chống lại các
phản ứng trên và làm giảm tới mức thấp nhất ảnh hưởng của chúng lên hầu hết sản phẩm
bia. Các chai thủy tinh trong xanh không có khả năng đó. Và các phản ứng oxy hóa khác
mà có thể ảnh hưởng tới mùi vị của bia vào một lúc nào đó thì xảy ra gần như ngay lập
tức. Đối với bia đựng trong các chai thủy tinh xanh nếu đặt dưới ánh sáng huỳnh quang
khoảng gần 1 giờ thì ta sẽ dễ dàng phát hiện mùi hôi đặc trưng.
Đối với những người uống bia, bia tươi và thơm ngon luôn là yêu cầu hàng đầu. Do
đó, thật là lý tưởng nếu chúng ta đi đến nhà máy bia và uống ngay bia từ các thùng lên
men. Nhưng điều đó thì không phải lúc nào cũng có thể làm được. Để giúp cho người
tiêu dùng thuận lợi hơn việc sử dụng đồng thời đem lại cơ hội to lớn để mở rộng việc
mua bán của các nhà sản xuất thì cách đây rất lâu, bia đã được chiết rót vào các dạng bao
bì. Chính nhờ quá trình chiết rót này mà bia được cung cấp đến được người tiêu dùng vẫn
giữ được trạng thái tươi, mùi vị thơm ngon đặc trưng. Do đó, công đoạn chiết rót phải
được tiến hành dựa trên nguyên tắc đảm bảo cho sản phẩm sau khi chiết rót có thể chống
chịu tốt với các tác động không có hại, làm giảm chất lượng của bia trên đường vận
chuyển hay trong giai đoạn phân phối, bảo quản sản phẩm trước khi nó thật sự đến tay
người tiêu dùng.
2.3. Phân loại bao bì bia
2.3.1. Theo vật liệu làm bao bì
Về cơ bản, ta có thể sử dụng 4 loại để chế tạo bao bì chứa đựng bia là:
 Gỗ
 Thủy tinh
 Kim loại
 Nhựa
2.3.2. Theo dạng sản phẩm

 Bia chứa trong thùng bốc
Bia có chứa CO2 sau quá trình lên men thứ được chứa trong các thùng hay thùng bốc
rồi được phân phối tới tay người tiêu dùng. Do nhu cầu của người tiêu dùng, ngày nay
những sản phẩm dạng này có thể được thấy rất dễ dàng ở Anh Quốc và ngày càng gia
tăng về số lượng trong các quán bar và quán rượu.
Bởi vì bia trong thùng bốc thì không qua thanh trùng – và đôi khi bia cũng không
18


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM

GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

được qua loc – cho nên vẫn giữ được mùi vị tươi mới hơn so với các dạng bia đã được rót
vào chai hay lon. Tuy nhiên, hệ thống các đại lý phân phối phải được thiết kế sao cho quá
trình vận chuyển, phân phối sản phẩm tiến hành thuận lợi cũng như hàng hóa được xoay
vòng nhanh chóng để từ đó góp phần đảm bảo chất lượng sản phẩm.
 Bia đóng chai có kiểm soát
Một số nhà sản xuất bia rượu đã theo cách thức truyền thống là rót trực tiếp bia mà
vẫn còn chứa nấm men vào trong bao bì. D đó CO 2 dạng tự nhiên vẫn được sinh ra thêm
ngay trong bao bì đựng bia. Một điểm có lợi nữa là do bia không qua quá trình thanh
trùng nên nấm men vẫn còn sống và chính chúng sẽ làm hạn chế sự xảy ra của các phản
ứng gây làm mùi vị bia nhạt đi, từ đó giúp bảo toàn được mùi vị của bia.
Mặc dù việc sử dụng các sản phẩm này tốt nhất vẫn là khi chúng còn mới và được ủ
lạnh nhưng chúng rất rõ ràng là có lợi hơn các sản phẩm bia đóng chai khác.
Để kiểm soát quá trình đóng chai này, trước khi chiết rót, ta cần phải xác định mức độ
giới hạn màu nâu của lớp men dưới đáy chai.
 Bia tươi đóng chai
Các sản phẩm này – đáng chú ý nhất là Miller Genuine (MGD)- được sản xuất bằng
phương pháp lọc vô trùng do đó gữ được mùi vị tươi mới của bia tốt hơn là các sản phẩm

bia thanh trùng đựng trong các chai và lon.
Bia đựng trong các chai nâu
Đây là dạng bao bì thường được sử dụng nhất bởi hầu hết các công ty bia. Mặc dù bia
vẫn qua quá trình thanh trùng, tuy nhiên nó vẫn giữ được cả sự hài hòa lẫn cường độ mùi
vị hết sức đặc trưng cho bia.Những người uống bia sành điệu quan sát hạn sử dụng in
trên nhãn chai để có thể mua được sản phẩm bia tươi nhất.
 Bia đựng trong các chai xanh
Các chai màu xanh thường được quảng cáo là dành cho các sản phẩm có giá trị cao.
Thế nhưng chúng hoàn toàn không tốt đối với mùi vị của bia. Không giống với các chai
nâu, các chai xanh không thể ngăn cản sự truyền ánh sáng qua do đó sẽ có sự xảy ra các
phản ứng vốn tạo thành mùi hôi trong bia. Thông thường, bia đựng trong chai xanh luôn
có mùi này và hiện nay, đa số người tiêu dùng chấp nhận nó, thậm chí còn than phiền khi
không có nó.Với những người tiêu dùng mà không thích mùi này thì họ nên mua các sản
phẩm đựng trong các hộp kín, không tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng hay có thể sử dụng
19


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM

GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

các sản phẩm bia tươi.
 Bia lon
Giống như trường hợp bia chai, bia lon cũng được thanh trùng sau khi rót và hầu như
người ta không nhận thấy có sựu khác biệt về mùi vị của bia. Tuy nhiên, khả năng mùi vị
của bia lon bị nhạt đi- thường khá hiếm – thì lớn hơn so với bia chai bởi vì khi chế tạo
lon, người ta sử dụng thêm các chất bôi trơn, các loại sơn và các lớp phủ và chính các vật
liệu này có thể hấp thu các mùi vị vốn có của bia.
 Bia chứa trong các chai nhựa
Gần đây, sản phẩm bia ở các dạng chai nhựa được tung ra thị trường lần đầu tiên bởi

công ty rượu Miller. Các chai dụng chứa bia dạng này được chế tạo bằng những loại
nhựa đặc biệt gồm 5 lớp nhằm bảo vệ bia tránh khỏi sự xâm nhập của O 2 đồng thời giúp
bia tránh được “mùi hôi” gây ra bởi ánh sáng, cho phép bia có thể bán trên thị trường ở
các dạng bao bì trong suốt không màu mà chất lượng không bị giảm như các sản phẩm
bia khác. Tuy nhiên, sản phẩm dạng này chỉ mới được đưa ra trên một số thị trường giới
hạn và vẫn chưa đa dạng về chủng loại.

20


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM

GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

CHƯƠNG 3 CÔNG NGHỆ CHẾ TẠO LON NHÔM – RÓT BIA
VÀO LON
3.1. Công nghệ chế tạo lon nhôm
3.1.1 Nguyên liệu
3.1.1.1 Nguyên liệu chính
Nguyên liệu chính là sản phẩm của công nghệ chế tạo nhôm. Lon nhôm chịu tác động
cơ học kém, khi bao bì nhôm chứa những chất lỏng có gas, áp lực tạo thành bên trong
làm lon nhôm trở nên cứng và vững.
Nhôm:
− Yêu cầu có độ tinh khuyết cao 99 – 99.8%
− Độ dày lá nhôm 7, 9, 12, 15, 18 μm.
− Lá nhôm thường có những lỗ kim với độ dày 7 μm có thể có 800 lỗ/m 2 laù:độ dày
9 μm có khoảng 200 loã/m2 lá.
3.1.1.2 Nguyên liệu phụ
Là mốt số kim loại như Fe, Cu, Mn, Si… Thành phần % 0.25Si, 0.04Fe, 0,05Mg, 0,03Zn.
3.1.2 Quy trình công nghệ

3.1.2.1 Quy trình chế tạo nhôm tấm

21


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM

GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

Nấu chảy nhôm

Nhôm oxit

Tinh chế

22
Quặng bauxit


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM



GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

Giải thích quy trình:
• Khâu tinh chế:
- Nhôm sau khi khai thác từ quặng được
đưaphân
tới nhà máy để nghiền nhỏ, sau đó

Điện

thực hiện phản ứng hóa học bayer để chiết lọc ra nhôm.
- Nhôm làm bao bì có độ tinh khiết đến 99%, 1% còn lại là những thành phần kim
loại khác như Si, Fe, Cu, Mn, Mg, Zn, Ti.
- Nhôm này sẽ được nung nóng để loại bỏ hơi ẩm.
Rót khuôn tạo thỏi

Cán thành tấm

Tấm nhôm cuộn
Si,Fe,Cu,Mn ...


-

Khâu điện phân:
Đây là phòng chứa các nồi điện phân, 1 dòng điện chạy trong nồi điện phân này sẽ giúp

-

ta thực hiên phương pháp điện phân để tách nhôm ra.
Có một chiếc cầu chuyển nhôm đến từng nồi điện phân với những nguyên tố hóa học bổ

-

sung như canxi florua hoặc nhôm florua để giảm độ nóng chảy của nhôm.
Dòng điện phóng ra từ anot chuyển qua lớp nhôm tan chảy trong nồi và tiến tới đáy nồi




điện phân, ở đó có catot. Dưới tác dụng nhiệt nóng chảy của nhôm các anot sẽ tan chảy
dần dần và cần được thay theo định kỳ. Công việc này cần được thực hiện liên tục.
Những anot bị ăn mòn sẽ được lấy ra nồi điện phân bằng chiếc cầu trên cao để đem đi tái
-

chế.
Dùng những anot đã bị ăn mòn đó để loại bỏ phần nhôm được đem đi tái sử dụng. Khi
thay anot ta có thể lọc hết các chất bẩn đọng lại trên mặt của nối điện phân, khâu này
được thực hiên bằng chiếc kìm lớn này, sau cùng thay 1 anot mới vào vị trí và quá trình
điện phân lại tiếp tục.

23


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM
-

GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

Dòng điện sẽ phá vỡ liên kết giữa các phân tử, nhôm nặng nhất sẽ tập trung ở đáy nồi
điện phân, trong khi đó oxi và flo sẽ được bốc hơi lên trên, lượng khí này sẽ được tụ lại
và đem đi xử lý.
• Khâu rót khuôn:

-

Nhôm thu được ở thể lỏng sẽ được để nghỉ ở đáy nồi điện phân, nên cần hút lượng nhôm
lỏng này vào 1 lò đúc nhôm qua 1 ống hút lớn. Ống hút sẽ được nhúng xuyên đáy của nồi
điện phân và hệ thống bơm trong ống sẽ hút toàn bộ lượng nhôm có dưới đáy nồi điện


-

phân vào trong lò đúc nhôm, thực hiện trong khoảng thời gian ngắn.
Cuối cùng rút ống hút lên để đổ 1 lượng nhôm oxit khác vào trong nồi điện phân, khâu

-

sản xuất nhôm cứ thế được tiến hành liên tục.
Những lò đúc nhôm sau khi được đổ đầy nhôm nóng chảy sẽ được đưa đến thùng đổ
nhôm, sau đó rót lượng nhôm chứa trong mỗi lò đúc vào những lò lớn. Trong những lò

-

nung nóng này nhôm sẽ được dự trữ dưới dạng lỏng dể chờ được đổ khuôn.
Giờ khâu đổ khuôn đã được tiến hành, ta có thể đúc nhôm thành thỏi lớn, thành tấm, hoặc

-

thành những viên nhỏ. Nhôm cũng có thể đổ trực tiếp thành bán thành phẩm.
Nhôm sẽ được làm nguội nhanh chóng nhờ khâu phun nước.
Khâu sản xuất những tấm nhôm mỏng yêu cầu phải cáng đi cáng lại những khổ nhôm
nhiều lần cho mãnh ra. Trước hết ta nung chảy các thỏi nhôm nguyên chất 100% trong 1

-

lò nung sử dụng khí đốt thiên nhiên.
Những thỏi nung này được gọi là thỏi chì thỏi gang rất cần thiết để làm hợp kim, trong đó
ta có thể thấy thiếc titan và silic.
- Trong chiếc khuôn nhỏ ta đổ 1 ít dung dịch nhôm nóng chảy vào nhằm sản xuất

ra 1 mẫu, chỉ sau vài phút mẫu nhôm cứng lại và ta có thể kiểm tra cấu trúc và thanh
phần hợp kim tạo ra nó.
- Có những rãnh dùng để vận chuyển nhôm từ lò nung sang tới khu đúc nhôm.
Nhôm nung chảy được chảy trong rãnh làm bằng đá lát và được đổ xuống. Chính bằng
phương pháp này ta có thể lọc được các cặn bẩn trong những bình chứa đặc biệt.
- Những khuôn đươc làm lạnh bằng nước để nhôm nhanh chóng rắn lại, những
thỏi nhôm được đổ ra khỏi khuôn và được đưa ra cân bằng máy.
- Sau khâu loại bỏ tât cả các chất bẩn để thu được 1 bề mặt hoàn toàn nhẵng mịn,
thỏi nhôm được bào nhẵn, tất cả các phần hơi nước đọng lại sẽ được loại bỏ.
• Khâu cán thành tấm:

24


CÔNG NGHỆ BAO BÌ VÀ ĐÓNG GÓI THỰC PHẨM

GVHD: ĐẶNG THỊ YẾN

-

Ta đưa thỏi nhôm qua nhiều lượt máy để cán mỏng. Thỏi nhôm đươc ép bẹp ra nhờ

-

những trục cán của máy cán kim loại
Để tránh trường hợp nhôm bám chặt vào trục cán của máy cán kim loại đó ta làm lạnh

-

toàn bộ bằng 1 chất lỏng gồm 95% nước và 5% dầu.

Nhôm trở nên mỏng dần. Tùy theo nhu cầu mà thỏi nhôm được đưa đi ép từ 12 đến 16
lần. Con chuyền được gắn các trục cán vận chuyển tấm nhôm trong quá trình cán mỏng

-

tấm nhôm, ta cuốn nhôm thành cuộn truớc khi gửi đi cán lạnh.
Khâu cán lạnh giúp bề dày của lá nhôm mảnh hơn rât nhiều, lá nhôm trở nên rất mảnh và
có thể bị vỡ rất nhanh nếu lực kéo căng lớn trong quá trình cán nguội. Chính vì thế, luôn

-

phải đăt 2 lá nhôm để tránh bị vỡ.
Lực cán mỏng cuối cùng bằng máy cán nguội giúp lá nhôm thu được độ mỏng cần thiết.
Ở khâu này ta luôn cần tới dung dịch xả lạnh để nhôm không bị dính vào trục cán. Bởi vì

-

2 bên viền của lá nhôm không được phẳng mịn nên 2 bên viền được cắt lại bằng dao.
Cuối cùng ta cắt cuộn giấy nhôm thành những cuộn ngắn có độ rộng mà khách hàng yêu
cầu, lúc này cuộn lá nhôm đã sẵn sàng đem đi sử dụng.
3.1.2.2 Quy trình công nghệ chế tạo lon nhôm.

25


×