Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Luận văn Trường nghĩa thiên nhiên Tây Nguyên trong sáng tác của Nguyên Ngọc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (914.74 KB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

VÕ TẤN HÒA

TRƢỜNG NGHĨA THIÊN NHIÊN TÂY NGUYÊN
TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYÊN NGỌC

Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số :

60.22.02.40

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học : GS.TS Bùi Minh Toán

HÀ NỘI, 2014



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tốt luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành
và sâu sắc tới: GS.TS Bùi Minh Toán, người đã trực tiếp hướng dẫn, dìu dắt,
giúp đỡ tác giả với những chỉ dẫn khoa học quý giá trong suốt quá trình triển
khai, nghiên cứu và hoàn thành đề tài: "Trƣờng nghĩa thiên nhiên Tây
Nguyên trong sáng tác của Nguyên Ngọc”.
Xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Trường Đại học sư phạm Hà Nội,
Trường Đại học Tây Nguyên, cùng tập thể các Thầy Cô giáo Phòng sau đại
học, Khoa Ngôn ngữ của hai Trường.
Xin cảm ơn các Thầy Cô giáo - Các nhà khoa học đã trực tiếp giảng


dạy truyền đạt những kiến thức khoa học chuyên ngành ngôn ngữ cho bản
thân tác giả trong suốt hai năm vừa qua.
Xin gởi tới Ban giám hiệu Trường THPT Chu Văn An và giáo viên Tổ
Ngữ văn lời cảm ơn sâu sắc vì đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn
thành khóa học này.
Xin ghi nhận công sức và những đóng góp quý báu của các bạn học
viên lớp Ngôn ngữ khóa 22. Đặc biệt là sự quan tâm, giúp đỡ, khuyến khích
của gia đình, bạn bè và người thân…đã động viên tôi trong quá trình học tập
và nghiên cứu.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn !
Người thực hiện

Võ Tấn Hòa



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4
6. Đóng góp của luận văn.................................................................................. 4
7. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 4
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ TÂY NGUYÊN,
NGUYÊN NGỌC ............................................................................................ 5
1. Lý thuyết trường nghĩa.................................................................................. 5
1.1 Khái niệm .................................................................................................... 5
1.2 Cơ sở xác lập trường nghĩa ......................................................................... 7

1.3. Phân loại trường nghĩa ............................................................................... 9
1.3.1. Trường nghĩa biểu vật ............................................................................. 9
1.3.2. Trường nghĩa biểu niệm ........................................................................ 12
1.3.3. Trường nghĩa tuyến tính ........................................................................ 12
1.3.4. Trường nghĩa liên tưởng ....................................................................... 13
1.4. Sự dịch chuyển trường nghĩa ................................................................... 14
1.4.1. Khái niệm sự chuyển trường nghĩa ....................................................... 14
1.4.2. Các phương thức chuyển trường nghĩa ................................................. 15
1.4.3. Tác dụng của sự chuyển trường nghĩa .................................................. 17
2.Tổng quan về vùng đất Tây nguyên ............................................................. 17
2.1 Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên ........................................... 17
2.1.1 Điều kiện tự nhiên .................................................................................. 18
2.1.1.1 Địa hình ............................................................................................... 18
2.1.1.2 Sông suối ............................................................................................. 19



2.1.2 Tài nguyên thiên nhiên ........................................................................... 19
2.1.2.1 Tài nguyên nước.................................................................................. 19
2.1.2.2 Khí hậu ................................................................................................ 20
2.1.2.3 Tài nguyên đất ..................................................................................... 21
2.1.2.3 Tài nguyên khoáng sản ....................................................................... 21
2.1.2.4 Tài nguyên rừng .................................................................................. 22
2.2 Đặc điểm cư dân, dân số và dân tộc .......................................................... 23
2.1 Dân cư ....................................................................................................... 23
2.2 Dân số........................................................................................................ 24
2.3 Dân tộc ...................................................................................................... 25
3.Nguyên Ngọc và sự nghiệp sáng tác về Tây Nguyên .................................. 27
TIỂU KẾT ....................................................................................................... 29
Chƣơng 2: PHÂN LOẠI TRƢỜNG NGHĨA THIÊN NHIÊN TÂY

NGUYÊN TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYÊN NGỌC ......................... 30
2.1 Tiểu trường nghĩa về địa hình ................................................................... 30
2.1.1 Nhận định chung về tiểu trường............................................................. 30
2.1.2 Một số từ tiêu biểu ................................................................................. 32
2.1.2.1 Rừng .................................................................................................... 32
2.1.2.2 Những từ khác chỉ địa hình ................................................................. 36
2.2. Tiểu trường nghĩa về thực vật .................................................................. 42
2.2.1 Nhận định chung .................................................................................... 42
2.2.2 Một số loài cây tiêu biểu ........................................................................ 43
2.2.2.1. Những loài cây đặc trưng Tây Nguyên .............................................. 43
2.2.2.2 Những loài cây khác............................................................................ 48
2.3 Tiểu trường nghĩa về động vật .................................................................. 51
2.3.1. Nhận định chung ................................................................................... 51
2.3.2. Một số loài vật tiêu biểu ........................................................................ 52
2.3.2.1. Những loài vật đặc trưng của Tây Nguyên ........................................ 52
2.3.2.2. Những loài vật khác ........................................................................... 53



2.4 Tiểu trường nghĩa về hiện tượng tự nhiên ................................................ 55
2.4.1 Nhận định chung .................................................................................... 55
2.4.2 Một số hiện tượng tiêu biểu ................................................................... 57
2.4.2.1 Gió ....................................................................................................... 57
2.4.2.2 Đêm ..................................................................................................... 58
2.4.2.3 Mưa ..................................................................................................... 61
2.4.2.4 Các hiện tượng khác............................................................................ 63
TIỂU KẾT ....................................................................................................... 66
CHƢƠNG 3: GIÁ TRỊ CỦA TRƢỜNG NGHĨA THIÊN NHIÊN
TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYÊN NGỌC ........................................... 67
3.1 Giá trị về nội dung tư tưởng ..................................................................... 67

3.2 Giá trị về nghệ thuật .................................................................................. 71
TIỂU KẾT ....................................................................................................... 77
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 80



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Tây Nguyên – một vùng đất hoang sơ hùng vĩ, với những thác nước
ngày đêm réo gọi, những cao nguyên bao la, bát ngát, những ngọn gió mải
miết thổi suốt bốn mùa… nhưng không kém phần diễm lệ, nên thơ. Nơi đây
có những rừng cà phê, cao su bạt ngàn chạy tít tắp đến cuối chân trời. Đặc
biệt, trải qua hai cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế Quốc Mỹ
nhưng nhân dân Tây Nguyên vẫn một lòng thủy chung, sắt son với Đảng, với
Bác Hồ, luôn kiên cường, bất khuất đứng lên chống lại mọi kẻ thù xâm lược,
bảo vệ buôn làng, bảo vệ Đất Nước. Mặt khác, có thể nói Tây Nguyên là vùng
văn học giàu tiềm năng, chứa đựng trong lòng nó nhiều điều bí ẩn thẳm sâu
kỳ lạ. Tuy nhiên số lượng tác phẩm viết về vùng đất này chưa nhiều, Nguyên
Ngọc là người đầu tiên trong số những nhà văn Việt Nam khai phá thành công
mảnh đất màu mỡ này, cấy trồng trên đó những hạt mầm văn chương để rồi
đơm hoa kết trái thành những tác phẩm văn học có giá trị, góp phần làm
phong phú thêm vườn hoa văn học nước nhà. Chính vì vậy, có thể khẳng định
rằng: Nguyên Ngọc là nhà văn viết nhiều nhất và hay nhất về Tây nguyên.
1.2 Từ vựng - ngữ nghĩa học là vấn đề cốt lõi của ngôn ngữ học. Trong
đó, trường từ vựng - ngữ nghĩa là một lĩnh vực nghiên cứu gần đây mới xuất
hiện, được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học. Việc tìm hiểu trường từ vựng
- ngữ nghĩa và vận dụng những lí thuyết về trường nghĩa trong văn học đã
làm sáng tỏ nhiều mối quan hệ giữa các từ ngữ, tính hệ thống của từ vựng nói
riêng và ngôn ngữ nói chung. Đồng thời cho thấy ưu thế của nó trong việc

khảo sát một số sự kiện văn học đặc biệt là việc nghiên cứu về trường nghĩa
trong các sáng tác của các nhà văn khác nói chung và trong sáng tác của
Nguyên Ngọc nói riêng.

1


Với những lí do nêu trên, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài “Trường
nghĩa thiên nhiên Tây Nguyên trong sáng tác của Nguyên Ngọc”.
2. Lịch sử vấn đề
Tây Nguyên luôn là một vùng đất chứa dựng trong nó quá nhiều điều bí
ẩn. Do vậy, nó luôn là một mảnh đất màu mỡ để các nhà văn, nhà thơ, các
nghệ sỹ khai phá, tìm hiểu. Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu và phê bình văn
học đi trước tìm hiểu về các sáng tác của Nguyên Ngọc như: Đỗ Kim Hồi,
Phong Lê, Nguyễn Đăng Mạnh, Trường Lưu, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Văn
Long, Hà Văn Thư, Đinh Hài…
Nhà nghiên cứu văn học Đỗ Kim Hồi cho rằng Nguyên Ngọc chính là
người đầu tiên khai phá và gieo trồng những mầm văn chương trên một vùng
đất hoàn toàn mới lạ: Tây Nguyên. Ông nhận xét “Trong ký ức của chúng ta,
Nguyên Ngọc sẽ được nhớ như nhà văn của Tây Nguyên, hiểu trên hai nghĩa:
người viết hay nhất về Tây Nguyên cho tới hôm nay, và người mà cũng cho
tới hôm nay – những sáng tác về Tây Nguyên cũng làm nên phần hay nhất,
tiêu biểu nhất trong sự nghiệp văn chương của mình”
Phong Lê – nhà nghiên cứu, phê bình văn học khi khảo sát sáng tác của
Nguyên Ngọc, đã phát hiện ra mối quan hệ khắng khít giữa con người và
thiên nhiên “Vẻ đẹp của con người đã truyền đến cho thiên nhiên và thiên
nhiên góp phần tô điểm cho con người”
Đến Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh khi nghiên cứu về các sáng tác của
nhà văn Nguyên Ngọc, ông đã khẳng định rằng: “Nếu nói Nguyễn Tuân suốt
đời săn tìm cái đẹp, thì cũng có thể nói Nguyên Ngọc suốt đời đi săn tìm

những tính cách anh hùng… Nguyên Ngọc đích thực là một tri thức của núi
rừng, là nhà văn hóa của Tây Nguyên”
Trong lời giới thiệu cho tác phẩm Đất nước đứng lên (NXB Giáo dục
Giải phóng, 1973) nhận xét: “Qua tiểu thuyết Đất nước đứng lên, Nguyên

2


Ngọc muốn giới thiệu cho người đọc rõ thêm về đất nước, về con người ở
vùng núi rừng Tây Nguyên. Đất nước ấy hùng vĩ mà hiền hòa, giàu đẹp và
nên thơ”
Còn tác giả Nguyễn Văn Long cho rằng: “Nguyên Ngọc là một trong số
hiếm hoi những cây bút gắn bó am hiểu Tây Nguyên – một xứ sở vô cùng
phong phú và đầy sức hấp dẫn cả thiên nhiên cũng như bản sắc văn hóa độc
đáo mà hầu như vẫn giữ được nguyên vẹn”
Nhìn một cách tổng thể, phần lớn các bài nghiên cứu trên đều có chung
một khẳng định: Nguyên Ngọc đã trở thành người viết nhiều nhất và hay nhất
về mảnh đất Tây Nguyên hùng vỹ.
Song, ở bình diện ngữ nghĩa học đặc biệt là khía cạnh trường nghĩa
nghiên cứu về tác giả Nguyên Ngọc thì chưa có nhiều. Từ việc tiếp thu ý kiến
của những người đi trước, chúng tôi đã mạnh dạn đưa ra một hướng nghiên
cứu mới đó là: Tìm hiểu trường nghĩa về thiên nhiên Tây Nguyên trong sáng
tác của nhà văn Nguyên Ngọc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa và xác lập trường nghĩa thiên nhiên Tây Nguyên sáng tác
của nhà văn Nguyên Ngọc.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu


Để đạt được mục đích trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu tổng hợp tài liệu khoa học để từ đó xây dựng cơ sở lí thuyết của đề tài.

- Thống kê, xác lập trường nghĩa thiên nhiên Tây Nguyên sáng tác của
nhà văn Nguyên Ngọc.
- Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của trường nghĩa thiên nhiên
Tây Nguyên sáng tác của nhà văn Nguyên Ngọc.

3


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Thiên nhiên Tây Nguyên trên các phương diện: Sông suối, núi rừng, thời
tiết, thực vật, động vật…
- Chúng tôi sẽ giới hạn phạm vi nghiên cứu ở bộ "Tuyển tập Nguyên Ngọc",
tập 1, 2, 3 NXB Hội nhà văn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Việc tìm hiểu trường nghĩa thiên nhiên Tây Nguyên trong luận văn này
được thực hiện bằng các phương pháp sau đây:
- Phương pháp thống kê phân loại
Thống kê và phân loại các từ, cụm từ thuộc trường nghĩa chỉ đặc trưng
thiên nhiên Tây Nguyên.
- Phương pháp phân tích ngữ nghĩa
Phân tích các khả năng diễn đạt khác nhau có thể có trong các tiểu trường
nghĩa, và nhận xét giá trị nội dung tư tưởng cũng như hình thức nghệ thuật
trong các sáng tác về Tây Nguyên của nhà văn Nguyên Ngọc.
6. Đóng góp của luận văn
Qua việc khảo sát trường nghĩa về thiên nhiên Tây Nguyên, luận văn muốn
góp phần làm nổi rõ bản sắc thiên nhiên Tây Nguyên trong sáng tác của Nguyên

Ngọc với nhiều đường nét, màu sắc độc đáo, sinh động… để một lần nữa khẳng
định về những đóng góp to lớn của Nguyên Ngọc đối với Tây Nguyên.

7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan về Tây Nguyên, Nguyên Ngọc
Chương 2: Trường nghĩa thiên nhiên Tây Nguyên trong sáng tác của Nguyên Ngọc
Chương 3: Giá trị của trường nghĩa thiên nhiên trong sáng tác của Nguyên Ngọc

4


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
VÀ TỔNG QUAN VỀ TÂY NGUYÊN, NGUYÊN NGỌC
1. Lý thuyết trƣờng nghĩa
1.1 Khái niệm
Như chúng ta đã biết, từ vựng của một ngôn ngữ không phải là một tập
hợp ngẫu nhiên các từ và các đơn vị tương đương với từ mà là một hệ thống.
Biểu hiện quan trọng của một hệ thống là các mối quan hệ giữa các đơn vị
trọng hệ thống. Một trong những quan hệ cơ bản là quan hệ đồng nhất về
nghĩa tạo nên trường từ vựng – ngữ nghĩa. Sau đây là một số quan niệm về
trường từ vựng – ngữ nghĩa.
Theo các tác giả nước ngoài thì Ju.X.Xtepanov là một trong những tác
giả người Nga quan tâm đến mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các đơn vị trong từ
vựng.Ông cho rằng trong vốn từ của một ngôn ngữ có các kiểu nhóm từ có
quan hệ chặt lỏng khác nhau, như loạt đồng nghĩa, loạt trái nghĩa; các nhóm
nội dung như “nhóm từ tính cách” , “nhóm các động từ chuyển động của
người”...là biểu hiện của một hiện tượng gọi là trường từ vựng hay trường

ngữ nghĩa.
Trường nghĩa còn được gọi là trường ngữ nghĩa, trường từ vựng ngữ
nghĩa (semantic filed, lexcal filed). Lí thuyết về các trường được các nhà
ngôn ngữ Đức và Thuỵ Sĩ đưa ra vào những thập kỉ 20 và 30 của thế kỉ XX.
Lí thuyết này bắt nguồn từ những tư tưởng về mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các
từ trong ngôn ngữ của W. Humboldt, M. Pokrovxkij, Meyer. Nhưng tiền đề
thúc đẩy một cách quyết định sự hình thành nên lí thuyết về các trường là
những nguyên lí của F. De Saussure, đặc biệt là luận điểm “giá trị của bất cứ
yếu tố nào cũng do những yếu tố xung quanh quy định” [5, 243] và “chính

5


phải xuất phát từ cái toàn thể làm thành một khối để phân tích ra những yếu tố
mà nó chứa đựng” [5, 244] của ông.
Nói đến lí thuyết về trường nghĩa, ta phải nhắc đến tên tuổi của hai nhà
ngôn ngữ người Đức là J. Trier và L. Weisgerber. Với J. Trier (theo đánh giá
của S. Ullmann), lịch sử ngữ nghĩa học đã mở ra một giai đoạn mới. Ông là
người đầu tiên đưa ra thuật ngữ “trường” vào ngôn ngữ học và đã thử áp dụng
quan điểm cấu trúc vào lĩnh vực từ vựng ngữ nghĩa. J. Trier cho rằng, trong
ngôn ngữ, mỗi từ tồn tại trong một trường, giá trị của nó là do quan hệ với các
từ khác trong trường quyết định. Còn L. Weisgerber, ông lại có một quan
điểm rất đáng chú ý về các trường – theo ông, cần phải tính đến các “góc
nhìn” khác nhau mà tác động giữa chúng sẽ cho kết quả là sự ngôn ngữ hoá
một lĩnh vực nào đó của cuộc sống.
Các trường kiểu của J. Trier và L. Weisgerber là những trường có tính
chất đối vị, gọi tắt là trường trực tuyến (dọc).
Ngoài hai tác giả trên, trường trực tuyến cũng được nhiều nhà ngôn ngữ
khác đề cập đến. Có thể kể đến các tác giả như Cazarès, P. M Roget, R.
Hallig, W. Von Warburg, W. P. Zaleskij, Duchacek, H. Husgen, K. Reuning.

Khác với các nhà nghiên cứu trên, W. Porzig lại xây dựng quan niệm
về các trường tuyến tính hay trường ngang. Theo ông, trường là những cặp từ
có quan hệ kiểu như “gehen” – “fuber” (“đi” – “chân”), “greifen” – “hand”
(“cầm” – “tay”), “sechen” – “auge” (“nhìn” – “mắt”)… Đây không phải là
những quan hệ chung nhất, những quan hệ ngữ nghĩa tạo nên “các trường cơ
bản của ý nghĩa”. Trung tâm của “các trường cơ bản của ý nghĩa” là các động
từ và tính từ vì chúng thường đảm nhiệm chức năng vị ngữ trong câu, do đó
chúng thường ít nghĩa hơn các danh từ.
Ở Việt Nam, trường nghĩa cũng được rất nhiều tác giả quan tâm nghiên
cứu như: Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Đỗ Việt Hùng… Trong đó, Đỗ

6


Hữu Châu là người đi đầu trong việc đưa ra lí thuyết về trường nghĩa cũng
như những phạm trù ngôn ngữ liên quan đến trường nghĩa. Theo ông, “Những
quan hệ về ngữ nghĩa giữa các từ sẽ hiện ra khi đặt được các từ vào những hệ
thống con thích hợp. Nói cách khác, tính hệ thống về ngữ nghĩa của từ vựng
thể hiện qua những tiểu hệ thống ngữ nghĩa trong lòng từ vựng và quan hệ
ngữ nghĩa giữa các từ riêng lẻ thể hiện qua quan hệ giữa những tiểu hệ thống
ngữ nghĩa chứa chúng” [2, 156]. Trên cơ sở vận dụng lí thuyết về trường
nghĩa của các tác giả nước ngoài để xây dựng những quan niệm của mình về
trường nghĩa. Đỗ Hữu Châu đã đưa ra định nghĩa về trường từ vựng – ngữ
nghĩa như sau: “Mỗi tiểu hệ thống ngữ nghĩa được gọi là một trường nghĩa.
Đó là những từ đồng nhất với nhau về ngữ nghĩa [2, 157]. Quan điểm này lấy
tiêu chí ngữ nghĩa làm cơ sở cho việc phân lập trường nghĩa. Đây là quan
niệm có tính chất định hướng cho các quan niệm về trường nghĩa của các tác
nhà Việt ngữ khác sau ông.
1.2 Cơ sở xác lập trƣờng nghĩa
M. Pokrovxkij nhận định: Từ và ý nghĩa của chúng không tồn tại tách

rời nhau và liên kết với nhau trong tư tưởng chúng ta và độc lập với ý thức
chúng ta thành những nhóm nhất định. Cơ sở để tập hợp những nhóm như vậy
là sự đồng nhất hay trái ngược trực tiếp giữa chúng về ý nghĩa. H. Osthoff
cũng quan niệm: Có những hệ thống nhất định những ý nghĩa phụ thuộc lẫn
nhau và vị trí ngữ nghĩa của từng yếu tố chỉ có thể được hiểu rõ nhờ vào cấu
trúc của từng hệ thống đó.”
Theo Nguyễn Văn Tu : Tiêu chí của trường nghĩa hoàn toàn là tiêu chí
ngôn ngữ học. Chính tiêu chí ngôn ngữ học khiến cho từ thuộc về nhóm này
hay nhóm kia. giá trị của từ trong nhóm phản ánh tính tương đẳng của các từ.
Theo Đỗ Hữu Châu, việc phân lập từ vựng của một ngôn ngữ thành các
trường từ vựng - ngữ nghĩa nhằm mục đích phát hiện ra tính hệ thống và cấu

7


trúc của hệ thống từ vựng về mặt ngữ nghĩa, từ đó có thể giải thích các cơ
chế đồng loạt chi phối sự sáng tạo nên đơn vị và hoạt động của chúng
trong quá trình sử dụng ngôn ngữ làm công cụ giao tiếp. Tác giả đã
có những nhận định về việc tiêu chí phân lập trường nghĩa như:
“Các trường từ vựng - ngữ nghĩa là những sự kiện ngôn ngữ cho nên tiêu
chí để phân lập chúng phải là tiêu chí ngôn ngữ.” [5, 252]. Cơ sở để phân
lập (trường trực tuyến) là sự đồng nhất nào đó trong ý nghĩa biểu vật và ý
nghĩa biểu niệm của các từ.
“Cơ sở để phân lập trường là ý nghĩa của từ, tức là những ý nghĩa
ngôn ngữ. Có thể có những sự kiện, sự vật, những khái niệm lĩnh hội được
nhưng nếu không được biểu thị bằng từ thì chúng vẫn không phải là yếu tố
của một trường trong một ngôn ngữ nào đấy.” [5. 252].
Nhà ngôn ngữ học Đỗ Hữu Châu nhận thấy khi đi vào trường nghĩa, giữa
các từ tồn tại tình trạng thiếu đường ranh giới dứt khoát và tình trạng
một từ có thể có mặt trong một số trường nghĩa khác nhau. Tuy vậy việc

phân lập trường nghĩa là rất quan trọng. Giáo sư Đỗ Hữu Châu đã đề ra
phương thức xác lập như sau:
- Tìm những trường hợp điển hình, tức là những trường hợp mang và chỉ
mang các đặc trưng từ vựng - ngữ nghĩa được lấy làm cơ sở. Những từ điển
hình này lập thành tâm cho trường.
- Xác lập vùng ngoại vi bằng những từ có khả năng đi vào một số trường.
Chúng ta sẽ dựa vào các từ điển hình để xác định một trường, sau đó
chúng ta sẽ xử lý các trường hợp khó phân định nhờ cấu trúc ngữ
nghĩa trong các từ điển .
Cơ sở để lập trường biểu vật không phải là nhận thức về các phạm vi sự
vật trong thực tế mà là ý nghĩa biểu vật của từ. Như vậy tất cả các ý nghĩa

8


biểu vật nào có chung một nét nghĩa biểu vật (nét nghĩa hạn chế biểu vật) thì
có thể đi vào một trường.
Tuy nhiên, việc phân chia hiện thực thành những lát cắt để nghiên cứu
(tức là việc phân chia trường nghĩa) mang tính chủ quan và khó thực hiện
một cách triệt để bởi hiện thực thế giới khách quan là một chuổi liên tục. Mặt
khác một từ có thể có nhiều nghĩa, có thể tham gia vào nhiều trường nghĩa
khác nhau.
Ví dụ: Từ “cao” thuộc trường nghĩa Tính chất. Nét nghĩa duy trì của cao
là “hơn hẳn mức trung bình về số lượng hay chất lượng, trình độ, giá cả ...”.
Với nét nghĩa này, từ cao có thể thuộc nhiều trường khác nhau. “Cao” trong
kết hợp “cây cao” thuộc trường thực vật, trong kết hợp “người cao” thuộc
trường con người, tiểu trường ngoại hình, trong kết hợp “tinh thần cao, ý
chí cao” thuộc trường nghĩa con người, tiểu trường tinh thần, trong kết
hợp “tay nghề cao” thuộc tiểu trường năng lực của con người.
Vấn đề hệ thống tất cả các trường nghĩa trong ngôn ngữ, phân lập

trường nghĩa như thế nào, các cấp độ của trường nghĩa chưa có được
sự phân lập rõ ràng, mạch lạc, sự nhất trí trong giới nghiên cứu. Việc xác
lập trường biểu vật một cách đầy đủ càng không phải một việc dễ dàng.
1.3. Phân loại trƣờng nghĩa
Dựa vào hai quan hệ cơ bản trong ngôn ngữ là quan hệ dọc và quan hệ
ngang, Đỗ Hữu Châu chia trường nghĩa tiếng Việt thành các loại khác nhau:
trường nghĩa biểu vật, trường nghĩa biểu niệm (hai trường nghĩa dựa vào quan
hệ dọc); trường nghĩa tuyến tính (dựa vào quan hệ ngang) và trường nghĩa
liên tưởng (dựa vào sự kết hợp giữa quan hệ dọc và quan hệ ngang).
1.3.1. Trường nghĩa biểu vật
Trường nghĩa biểu vật là một tập hợp những từ đồng nghĩa về ý nghĩa
biểu vật. Để xác lập trường nghĩa biểu vật, người ta chọn một danh từ biểu thị

9


sự vật gốc, rồi trên cơ sở đó tiến hành thu thập các từ ngữ có cùng phạm vi
biểu vật với danh từ được chọn làm gốc đó.
Chẳng hạn, chọn từ HOA làm gốc, ta có thể thu thập các từ đồng nhất về
phạm vi biểu vật với từ hoa, như :
- Các loại hoa: hoa hồng, hoa lan, hoa dã quỳ, hoa quỳnh...
- Các bộ phận của hoa: đài, cánh, nhụy...
- Tính chất, trạng thái của hoa: đẹp, xấu...nở, tàn...tươi, héo...
- Màu sắc của hoa: đỏ, vàng, hồng, trắng....
- Mùi của hoa: thơm, ngát, ngào ngạt...
- Hình dáng, kích thước của hoa: to, nhỏ...
v.v.
Tùy theo mục đích của việc huy động vốn từ mà chúng ta có thể lựa chọn
số lượng các tiêu chí để xác lập trường nghĩa. Ví dụ, có thể chọn thêm các tiêu
chí có liên quan đến trường nghĩa hoa như: cách trồng hoa, chăm sóc hoa...

Các trường nghĩa biểu vật lớn có thể phân chia thành các trường nghĩa
biểu vật nhỏ. Đến lượt mình, các trường nghĩa biểu vật nhỏ này cũng có thể
phân chia thành các trường nghĩa biểu vật nhỏ hơn nữa. Chẳng hạn, trường
nghĩa biểu vật về tay có thể chia thành các trường nhỏ: trường biểu vật về bàn
tay (gồm: ngón tay, vân tay, hoa tay, đốt ngón tay, chỉ tay, mu bàn tay…),
trường biểu vật về cánh tay (gồm: cổ tay, xương cánh tay, cùi chỏ…)
Số lượng từ ngữ và cách tổ chức của các trường nghĩa biểu vật rất khác
nhau. Sự khác nhau này diễn ra giữa các trường lớn với nhau và giữa các
trường nhỏ trong một trường lớn. Nếu so sánh các trường cùng một tên gọi
trong các ngôn ngữ với nhau thì sự khác nhau trên còn rõ hơn nữa.
Nếu tạm gọi một trường nhỏ (hay một nhóm nhỏ trong một trường nhỏ)
là một “miền” của trường, thì thấy, các miền thuộc các ngôn ngữ rất khác
nhau. Có những miền trống - tức không có từ ngữ - ở ngôn ngữ này nhưng

10


không trống ở ngôn ngữ kia, có miền có mật độ cao trong ngôn ngữ này
nhưng lại thấp trong ngôn ngữ kia.
Vì từ có nhiều nghĩa biểu vật, cho nên, từ có thể nằm trong nhiều trường
biểu vật khác nhau, hệ quả là các trường nghĩa biểu vật có thể “giao thoa”,
“thẩm thấu”. Xét trường biểu vật về người và trường biểu vật về động vật, ta
sẽ thấy rất rõ điều này. Trường nghĩa người sẽ gồm các từ: đầu, tóc, mắt, cổ,
bụng, tay, chân, mũi, miệng, mồm, răng, lưỡi, ruột, dạ dày, da, máu, xương,
thịt, lông, ăn, uống, đi, chạy, nhảy, khóc, cười, nói, hát, hét, ngủ, nằm, to, nhỏ
… Trường nghĩa động vật sẽ gồm các từ: đầu, đuôi, sừng, gạc, cổ, bụng, mắt,
chân, mũi, mồm, răng, lưỡi, ruột, dạ dày, da, máu, xương, thịt, lông, ăn,
uống, đi, chạy, nhảy, hót, hí, ngủ, nằm, to, nhỏ … Hầu hết các từ nằm trong
trường động vật đều nằm trong trường người, ví dụ các từ: đầu, cổ, bụng,
mắt, chân, mũi, mồm, răng, lưỡi, ruột, dạ dày, da, ăn, uống, đi, chạy, nhảy…

Ta nói trường người và trường động vật giao thoa, thẩm thấu vào nhau. Mức
độ giao thoa của các trường tỉ lệ thuận với số lượng từ chung giữa các trường
với nhau.
Quan hệ của các từ ngữ đối với một trường nghĩa biểu vật không giống
nhau. Có những từ điển hình cho trường được gọi là các từ hướng tâm, có
những từ không điển hình cho trường được gọi là các từ hướng biên. Từ
hướng tâm gắn rất chặt với trường làm thành cái lõi trung tâm quy định những
đặc trưng ngữ nghĩa của trường. Từ hướng biên gắn bó lỏng lẻo hơn và mỗi
lúc một đi xa khỏi lõi, liên hệ với trường mờ nhạt đi. Ở ví dụ về trường người
và trường động vật trên, các từ hướng tâm là các từ chỉ có ở trường này mà
không có ở trường kia, từ hướng tâm của trường người như khóc, cười, buồn,
hát…, từ hướng tâm của động vật là các từ hí, hót, đuôi… Từ hướng biên của
chúng là những từ xuất hiện ở cả hai trường như đầu, chân, mắt, mũi, ruột,
da, dạ, dày, xương, máu, chạy, nằm, uống, ăn, đi,…

11


1.3.2. Trường nghĩa biểu niệm
Trường nghĩa biểu niệm là một tập hợp các từ có chung một cấu trúc
biểu niệm. Chẳng hạn, trường nghĩa biểu niệm (vật thể nhân tạo) (thay thế
hoặc tăng cường công tác lao động) (bằng tay): dao, cưa, búa, đục, khoan,
lưới, nơm, dao, kiếm…
Cũng như các trường nghĩa biểu vật, các trường biểu niệm lớn có thể
phân chia thành các trường nghĩa biểu niệm nhỏ và cũng có những “miền” với
những mật độ khác nhau.
Từ có nhiều nghĩa biểu niệm, bởi vậy, một từ có thể đi vào nhiều trường
nghĩa biểu niệm khác nhau. Vì thế, cũng giống như trường nghĩa biểu vật, các
trường nghĩa biểu niệm cũng có thể giao thoa, thẩm thấu vào nhau và cũng có
lõi trung tâm với các từ điển hình và những từ ở những lớp kế cận trung tâm,

những từ ở lớp ngoại vi.
1.3.3. Trường nghĩa tuyến tính
Trường nghĩa tuyến tính là tập hợp từ có thể kết hợp với một từ gốc để
tạo ra các chuỗi tuyến tính (cụm từ, câu) chấp nhận được trong ngôn ngữ.
Chẳng hạn, trường nghĩa tuyến tính của từ tay là búp măng, mềm, ấm,
lạnh…nắm, cầm, khoác…
Để xác lập trường nghĩa tuyến tính, chúng ta chọn một từ làm gốc rồi
tìm tất cả những từ có thể kết hợp với nó thành những chuỗi tuyến tính (cụm
từ, câu) chấp nhận được trong ngôn ngữ.
Ví dụ : Trường nghĩa ngang của từ “chạy”
- Chạy 100m, chạy 200m, chạy tiếp sức…(môn thi)
- Chăm chỉ, lười biếng…(mức độ luyện tập)
- Nhanh, chậm…( tốc độ chạy)
Các từ trong trường nghĩa ngang thường kết hợp theo chuẩn mực ngữ
nghĩa phổ biến của một ngôn ngữ chung. Thực tế chúng là những từ có cùng

12


một trường biểu vật đi với nhau sao cho nét nghĩa biểu vật của chúng phải
phù hợp với nhau. Các từ trong cùng một trường ngang là sự cụ thể hóa các
nét nghĩa trong nghĩa biểu vật của từ.
Cùng với các trường nghĩa dọc (trường nghĩa biểu vật và trường nghĩa
biểu niệm), các trường nghĩa tuyến tính góp phần làm sáng tỏ những quan hệ
và cấu trúc ngữ nghĩa của từ vựng, phát hiện những đặc điểm nội tại và những
đặc điểm hoạt động của từ.
1.3.4. Trường nghĩa liên tưởng
Các sự vật, hoạt động tính chất...được phản ánh trong nhận thức của con
người theo những mối quan hệ nhất định. Các sự vật, hiện tượng... có quan hệ
liên tưởng với nhau là các sự vật, hiện tượng mà từ một sự vật, hiện

tượng...này người ta nghĩ đến các sự vật, hiện tượng, hoạt động, tính
chất...khác.
Trường nghĩa liên tưởng là trường nghĩa tập hợp các từ biểu thị các sự
vật, hiện tượng, hoạt động, tính chất...có quan hệ liên tưởng với nhau. Chẳng
hạn, trường nghĩa liên tưởng của từ trắng gồm các đơn vị từ vựng: trong
trắng, tinh khiết, không màu, không mùi, không vị, hoa mơ, tuyết, áo dài, bác
sỹ, y tá, đầu hàng, vở, sách, phấn, tóc, bánh,....
Các từ trong một trường liên tưởng là sự hiện thực hoá, cố định bằng từ
các ý nghĩa liên hội có thể có của từ trung tâm.
Các từ trong một trường liên tưởng trước hết là những từ cùng nằm trong
trường biểu vật, trường biểu niệm và trường tuyến tính, tức là những từ có
quan hệ cấu trúc đồng nhất và đối lập về ngữ nghĩa với từ trung tâm. Song,
trong trường liên tưởng còn có nhiều từ khác được liên tưởng tới do xuất hiện
đồng thời với từ trung tâm trong những ngữ cảnh có chủ đề tương đối đồng
nhất, lặp đi lặp lại. Điều này khiến cho các trường liên tưởng có tính dân tộc,
tính thời đại và tính cá nhân.

13


1.4. Sự dịch chuyển trƣờng nghĩa
1.4.1. Khái niệm sự chuyển trường nghĩa
Sự chuyển trường nghĩa là hiện tượng “một từ ngữ thuộc một trường ý
niệm này được chuyển sang dùng cho các sự vật thuộc một trường ý niệm
khác” [9, 68]
Do nhu cầu giao tiếp ngày càng đa dạng và phức tạp của con người, từ
(đơn hoặc phức) lúc mới xuất hiện chỉ có một nghĩa biểu vật nhưng sau khi
được sử dụng một thời gian nó có thêm nhiều nghĩa biểu vật mới. Đó là sự
chuyển biến ý nghĩa biểu vật của từ. Khi nghĩa biểu vật của từ thay đổi thì
nghĩa biểu niệm của từ cũng có nhiều khả năng thay đổi. Từ đó, nghĩa biểu

thái của từ cũng có thể thay đổi theo.
Sự chuyển nghĩa trên của từ chính là cơ sở của sự chuyển trường nghĩa
của từ. Không phải bất cứ hiện tượng chuyển nghĩa nào cũng dẫn đến sự
chuyển trường nghĩa của từ, nhưng có thể khẳng định rằng, sự chuyển trường
nghĩa bắt đầu từ sự chuyển nghĩa của từ. Bởi vì, từ chuyển nghĩa - nội dung
biểu thị của từ thay đổi - thì từ cũng chuyển sang trường nghĩa mới tương ứng
với nội dung biểu thị mới của nó.
Chẳng hạn từ lá ( một bộ phận của cây, thường có bề mặt mỏng, thường
có màu xanh, ở trên cành cây) là từ có nhiều nghĩa, mỗi lần chuyển biến ý
nghĩa, từ lại chuyển sang một trường nghĩa khác.
1. Bộ phận của cơ thể con người (lá gan, lá phổi, lá mỡ…)
→ Từ thuộc trường con người hoặc trường động vật
2. Là một vật dụng trong sinh hoạt hàng ngày(lá thư, lá đơn, lá phiếu…)
→ Từ thuộc trường phương tiện hành chính
3. Là một vật dụng trong sinh hoạt hàng ngày (lá cờ, lá buồm, lá
chiếu…)
→ Từ thuộc trường đồ vật

14


4. Tình cảm con người (lá lành, lá rách,…)
→ Từ thuộc trường tư tưởng
5. Phương tiện chiến đấu (lá chắn…)
→ Từ thuộc trường quân sự
Khi các từ ngữ chuyển từ trường nghĩa này sang trường nghĩa khác,
chúng mang theo những đặc điểm vốn có của nó ở trường nghĩa ban đầu.
1.4.2. Các phương thức chuyển trường nghĩa
Như đã trình bày ở trên, hiện tượng chuyển trường nghĩa bắt đầu từ sự
chuyển nghĩa của từ. Bởi thế, phương thức chuyển trường nghĩa cũng chính là

phương thức chuyển nghĩa của từ.
Hai phương thức chuyển trường (chuyển nghĩa) phổ biến của từ trong tất
cả ngôn ngữ trên thế giới là ẩn dụ và hoán dụ. Theo giáo sư Đỗ Hữu Châu, ẩn
dụ và hoán dụ được hiểu như sau:
Cho A là một hình thức ngữ âm, x và y là những ý nghĩa biểu vật. A vốn
là tên gọi của x (tức x là ý nghĩa biểu vật chính của A). Phương thức ẩn dụ là
phương thức lấy tên gọi A của x để gọi tên y (để biểu thị y), nếu như x và y
giống nhau. Còn hoán dụ là phương thức lấy tên gọi A của x để gọi tên y (để
biểu thị y), nếu như x và y đi đôi với nhau trong thực tế.
Trong trường hợp ẩn dụ, các sự vật được gọi tên, tức x và y, không có
liên hệ khách quan, chúng thuộc những phạm trù hoàn toàn khác hẳn nhau. Sự
chuyển tên gọi diễn ra tuỳ thuộc vào nhận thức của con người về sự giống
nhau giữa chúng. Trái lại, trong trường hợp hoán dụ, mối liên hệ đi đôi với
nhau giữa x và y là có thật, không tuỳ thuộc vào nhận thức của con người.
Cho nên các hoán dụ có tính khách quan hơn các ẩn dụ.
Dựa vào các tiêu chí khác nhau, ẩn dụ và hoán dụ được chia thành nhiều
tiểu loại nhỏ:

15


×