Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài với quá trình tái cấu trúc kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng của việt nam lấy ví dụ một dự án để minh họa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.52 KB, 29 trang )

Bài tập lớn môn Kinh tế đầu tư

1

LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu quan trọng của mọi quốc gia. Để thực
hiện và duy trì được mục tiêu đó, mỗi nước sẽ có những chính sách và những
bước đi phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Tuy nhiên dù là quốc gia nào cũng phải
trả lời câu hỏi nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế ở đâu và cách thức để huy
động những nguồn lực ấy như thế nào?. Thật vậy, trong xu thế toàn cầu hoá nền
kinh tế hiện nay, muốn tồn tại và phát triển được mỗi nền kinh tế đều phải phát
huy nội lực trong nước kết hợp với các nguồn lực bên ngoài. Thực tiễn 15 năm
đổi mới kinh tế ở Việt Nam cho thấy hoạt động đầu tư trong nước và đầu tư
nước ngoài luôn phải song hành và hoạt động vì mục tiêu tăng trưởng và phát
triển kinh tế.
Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế lại phụ thuộc vào các yếu tố nguồn lực và
khả năng huy động, sử dụng các yếu tố đó vào quá trình sản xuất để tạo ra của
cải vật chất cho xã hội. Quá trình đó liên tục được tiếp diễn và tạo thành chu kỳ
tái sản xuất với qui mô ngày càng mở rộng, đây là cơ sở cũng chính là kết quả
được tích lũy lại từ hoạt động đầu tư.
Như vậy đầu tư có tác động trực tiếp đối với tăng trưởng kinh tế và phát
triển của một nền kinh tế. Kết quả của hoạt động đầu tư là làm gia tăng năng lực
sản xuất, cung ứng các sản phẩm vật chất, dịch vụ cho nền kinh tế, thúc đẩy quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển giao công nghệ, từ đó tạo đà cho sự
tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Trong những năm qua , nền kinh tế nước ta ngày một phát triển, duy trì
được mức tăng trưởng cao và ổn định so với nhiều nước trong khu vực và trên
thế giới, mức sống người dân được cải thiện rõ rệt, chất lượng cuộc sống được
tăng cao…để có được thành tựu đó , phải kể đến vai trò đặc biệt quan trọng của
đầu tư. Với những chính sách nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư
trong và ngoài nước, Việt Nam đang nâng cao uy tín, vị thế của mình trên


trường quốc tế.
Trong phạm vi của bài này em xin được phân tích: “ Vai trò của đầu tư
trực tiếp nước ngoài với quá trình tái cấu trúc kinh tế và đổi mới mô hình
tăng trưởng của Việt Nam”. Lấy ví dụ một dự án để minh họa.

Học viên: Đào Xuân Hùng – Lớp QLKT 4-2015


Bài tập lớn môn Kinh tế đầu tư

2

CHƯƠNG I: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM, LÝ LUẬN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VỚI QUÁ TRÌNH
TÁI CẤU TRÚC KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG
CỦA VIỆT NAM
1.1 - Đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Theo khái niệm của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987: Đầu
tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam
vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam
chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp
Liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật
này.
Theo quan điểm về đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam quy định tại
Khoản 1 điều 2, Luật đầu tư nước ngoài được sửa đổi bổ sung năm 2000 “đầu tư
trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng
tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo
quy định của luật này”.
Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF, đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem như
là một khoản đầu tư với những quan hệ, theo đó một tổ chức trong một nền kinh

tế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại nền
kinh tế khác.Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng
trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác đó.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp
nước ngoài như sau : Đầu tư trực tiếp nước ngoài (gọi tắt là FDI) tại một quốc
gia là việc nhà đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất cứ tài sản nào
vào quốc gia đó để được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một
thực thể kinh tế tại quốc gia đó với mục tiêu tối đa hoá lợi ích của mình.
1.2 – Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự gia tăng về sản lượng của nền kinh tế
theo thời gian. Theo quan điểm của kinh tế học, thì tăng trưởng kinh tế thường
chỉ sự gia tăng của giá trị tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc sự gia tăng của
giá trị GNP bình quân đầu người.

Học viên: Đào Xuân Hùng – Lớp QLKT 4-2015


Bài tập lớn môn Kinh tế đầu tư

3

Tuy nhiên để phản ánh chính xác hơn sự tăng trưởng kinh tế của một quốc
gia người ta thường chỉ tính đến sản lượng ròng của một nền kinh tế, tức là tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) của nền kinh tế đó.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế được tính bằng mức tăng GDP hoặc mức tăng
GDP bình quân đầu người theo thời gian. Điều này có nghĩa là tăng trưởng kinh
tế chỉ thể hiện sự gia tăng về mặt lượng của nền kinh tế theo thời gian.
1.3 -Vai trò của đầu tư đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế
Hoạt động đầu tư trên phương diện vĩ mô một nền kinh tế bao gồm hoạt
động đầu tư trong nước và hoạt động đầu tư nước ngoài. Trong đó, hoạt động

đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài có mối quan hệ hữu cơ với nhau, chúng
có tác động lẫn nhau và thúc đẩy quá trình tăng trưởng của nền kinh tế.
Đầu tư trong nước có hiệu quả sẽ xây dựng được một nền kinh tế ổn định
có tốc độ tăng trưởng nhanh, có cơ sở hạ tầng hiện đại và cơ sở pháp lý lành
mạnh, tạo ra tiền đề để tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả đầu tư nước ngoài.
Nguồn vốn đầu tư trong nước của các doanh nghiệp tự đầu tư để mở rộng sản
xuất kinh doanh có ý nghĩa to lớn trong việc tạo ra khả năng tốt cho đầu tư nước
ngoài. Vì hoạt động đầu tư nước ngoài hoạt động chủ yếu thông qua các công ty
xuyên quốc gia, mà các công ty này rất cần tìm chọn đối tác đầu tư là các công
ty tương xứng ở các nước nhận đầu tư. Chính vì vậy mà trong những năm vừa
qua chúng ta đã có nhiều biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp tự đầu tư
phát triển sản xuất, gần đây chính phủ đã thực hiện việc sắp xếp các doanh
nghiệp nhà nước, một mặt cũng là để các doanh nghiệp này có khả năng nâng
cao hiệu quả kinh doanh với nước ngoài. Nhờ có đầu tư trong nước để tạo ra
một hệ thống công nghiệp phụ trợ thì hoạt động đầu tư nước ngoài mới được
thực hiện với hiệu quả cao. Thông thường khi có một đồng vốn đầu tư nước
ngoài thì cũng cần phải có hai ba đồng vốn “bên ngoài hàng rào”.
Ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế:
Xét về hiệu quả tài chính thì vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp đáng kể
vào ngân sách nhà nước, qua việc nhận viện trợ, vay tín dụng và qua thu thuế
đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Qua đó bổ sung nguồn vốn quan trọng cho

Học viên: Đào Xuân Hùng – Lớp QLKT 4-2015


Bài tập lớn môn Kinh tế đầu tư

4

đầu tư phát triển, mặc dù vốn FDI thường chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng

mức đầu tư của các nước chủ nhà nhưng đáng lưu ý là vốn FDI cho phép tạo ra
các ngành mới hoàn toàn hoặc thúc đẩy sự phát triển của một số ngành quan
trọng trong quá trình công nghiệp hoá đất nước. Sự phát triển của các ngành này
tạo điều kiện để phát triển cơ sở hạ tầng, giảm nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu,
tăng thu cho ngân sách nhà nước và góp phần cải thiện cán cân thanh toán của
đất nước, nhờ đó đảm bảo tăng trưởng kinh tế.
Hoạt động đầu tư nước ngoài gắn liền với việc chuyển giao công nghệ kỹ
thuật, kỹ xảo chuyên môn, bí quyết và trình độ quản lý tiên tiến. Các liên doanh
của Việt Nam với nước ngoài đã làm tăng tính cạnh tranh của thị trường Việt
Nam, giúp cho các doanh nghiệp trong nước nỗ lực đổi mới công nghệ, nâng cao
chất lượng sản phẩm.
Thông qua hoạt động đầu tư nước ngoài, các nguồn lực trong nước như lao
động, đất đai và tài nguyên thiên nhiên được huy động ở mức cao và sử dụng có
hiệu quả, cung cấp cho thị trường trong nước nhiều sản phẩm, mặt hàng và dịch
vụ có chất lượng cao, góp phần giảm áp lực tiêu dùng, ổn định giá cả.
Đầu tư nước ngoài tạo thêm việc làm và góp phần nâng cao trình độ chuyên
môn và quản ký cho người lao động. FDI tạo thêm việc làm không chỉ cho các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà còn gián tiếp tạo việc làm cho các
doanh nghiệp liên quan đến hoạt động FDI như các doanh nghiệp cung cấp các
yếu tố đầu vào; doanh nghiệp phân phối, tiêu thụ sản phẩm.
FDI góp phần tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng phù hợp với chiến lược
công nghiệp hoá của nước chủ nhà. Ngoài ra, hoạt động FDI còn tạo ra một môi
trường kinh doanh ngày càng khốc liệt, góp phần hình thành và khẳng định bản
lĩnh kinh doanh cho các doanh nhân Việt Nam.
Đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài có vị trí khác nhau nhưng là hai bộ
phận của cùng một quá trình đầu tư, nó gắn bó đan kết với nhau, hỗ trợ bổ sung
cho nhau cùng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Học viên: Đào Xuân Hùng – Lớp QLKT 4-2015



Bài tập lớn môn Kinh tế đầu tư
1.4- Đầu tư trực tiếp nước ngoài được mô tả bởi sáu nét đặc trưng:

5

FDI có sự cam kết về nguồn lực lớn hơn. Với vai trò là phương thức
quốc tế hóa cuối cùng, nó đòi hỏi nhiều nguồn lực và khả năng của công ty hơn
bất cứ phương thức thâm nhập nào khác.
FDI bao hàm sự hiện diện và những hoạt động ở nước sở tại. Bằng cách
sử dụng phương thức FDI, ban quản lý đã chọn cách hiện diện ở nước nhận đầu
tư và thiết lập mối liên hệ trực tiếp với khách hàng, các bên trung gian, những
nhà cung cấp cơ sở vật chất và các khu vực của Chính phủ. Một vài hãng tập
trung vào hoạt động ở một hay một số địa điểm; số khác lại phân tán FDI tới
nhiều quốc gia.
FDI cho phép công ty đạt được hiệu quả trên quy mô toàn cầu, giúp
nâng cao thành tích của công ty. Các nhà kinh doanh chọn mỗi địa điểm dựa trên
cơ sở lợi thế so sánh. Điều đó có nghĩa là hãng tìm kiếm để tiến hành các hoạt
động R&D ở những nước có trình độ học vấn cao nhất về lĩnh vực hãng kinh
doanh, tìm những người cung ứng mà có thể cung cấp những hàng hóa trung
gian và hàng hóa cuối cùng tốt nhất, xây dựng các cơ sở kinh doanh sản xuất ở
những địa điểm có tỉ lệ năng suất trên chi phí lao động tốt nhất, và thành lập
những chi nhánh marketing để bán hàng hoặc dịch vụ ở những quốc gia có tiềm
năng bán hàng lớn nhất.
So sánh với những phương thức xâm nhập khác, FDI gây ra sự không
chắc chắn và rủi ro rất lớn, do việc thiết lập sự hiện diện ổn định ở một quốc
gia nước ngoài khiến cho hãng sẽ dễ bị tác động trước những hoàn cảnh đặc biệt
của quốc gia đó. Sự đầu tư lớn vào nhà máy, trang thiết bị và nguồn lực con
người ở nước sở tại sẽ khiến cho nhà đầu tư trực tiếp phải đối mặt với những rủi
ro chính trị và sự can thiệp của chính quyền địa phương về giá, lương và thủ tục

thuế.
Những nhà đầu tư trực tiếp phải đối mặt nhiều hơn với những vấn đề về
văn hóa và xã hội đặc trưng ở nước sở tại. Các doanh nghiệp đa quốc gia với
những hoạt động gây chú ý lại đặc biệt dễ phải chịu những sự giám sát chặt chẽ
từ phía công chúng đối với những hoạt động đó. Để có thể tối thiểu hóa những
vấn đề tiềm năng, các doanh nghiệp đa quốc gia thường thích đầu tư vào những
quốc gia có văn hóa và ngôn ngữ tương tự với nước đầu tư. Ví dụ, khi mở cửa
hàng ở Châu Âu, các công ty Hoa Kỳ có thể lựa chọn Bỉ hoặc Hà Lan bởi vì
Tiếng Anh được sử dụng rộng rãi ở những nước này.
Trong FDI, các công ty đa quốc gia ngày càng phấn đấu để hành động theo
những cách có trách nhiệm với xã hội ở những nước sở tại. Nhiều công ty
đang cố gắng đào tạo nhân viên của mình theo đúng nội quy ở nước sở tại, đầu

Học viên: Đào Xuân Hùng – Lớp QLKT 4-2015


Bài tập lớn môn Kinh tế đầu tư

6

tư vào những cộng đồng địa phương và tìm kiếm để thành lập các tiêu chuẩn
quốc tế về đối xử bình đẳng đối với công nhân.
Sáu đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài mà chúng ta vừa xem xét đã
đem lại những thách thức to lớn cho các doanh nghiệp. Thậm chí cả những công
ty lớn có uy tín như Disney cũng đã nếm trải một vài thất bại trong những phi vụ
đầu tư ra nước ngoài của mình. Như tạp chí Fortune đã đề cập, hồ sơ của công
ty trong việc điều hành các hoạt động của các công viên giải trí ở nước ngoài là
kém đồng đều hơn so với 101 Dalmatians. Khi Disney mở Tokyo Disneyland,
ban quản lý của hãng giả thiết một cách thiếu chính xác rằng những kinh nghiệm
của Disneyland không thể được chuyển giao sang Nhật thành công. Thay vì đầu

tư, Disney đã lựa chọn giấy phép bản quyền ở Nhật cho lợi nhuận danh nghĩa.
Nhưng sau đó Tokyo Disneyland đã thành công rực rỡ. Không muốn lặp lại sai
lầm, ban quản lý lại duy trì một nguồn vốn FDI ở công viên giải trí tiếp theo
của hãng – Disneyland Paris. Nhưng đây lại là một thất bại của Disney. Từ
những bài học rút ra qua những kinh nghiệm trên, công viên giải trí mới nhất,
Hong Kong Disneyland đã đạt được những thành công nhất định. Tuy nhiên,
một phần vì nhượng bộ với Chính phủ Trung Quốc, Disney chỉ sở hữu 43% liên
doanh và ban quản lý đang lo lắng về những vi phạm tài sản trí tuệ ở Trung
Quốc có thể sẽ dẫn đến làm giảm lợi nhuận từ việc cấp giấy phép cho những bộ
phim của Disney, các nhân vật hoạt hình và các tài sản giá trị khác.

Học viên: Đào Xuân Hùng – Lớp QLKT 4-2015


Bài tập lớn môn Kinh tế đầu tư

7

CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VỚI
QUÁ TRÌNH TÁI CẤU TRÚC KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG
TRƯỞNG CỦA VIỆT NAM .
Kể từ năm 1986, Việt Nam đã thực hiện đường lối đổi mới, bằng sự nỗ lực
to lớn của toàn dân và sự ủng hộ và hợp tác của cộng đồng quốc tế, Việt Nam đã
vượt qua nhiều khó khăn thách thức , đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa
lịch sử: đất nước đã thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm có
thu nhập trung bình; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, duy trì được tốc độ tăng
trưởng khá cao (bình quân khoảng 7%/năm); đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân được cải thiện rõ rệt; chính trị xã hội ổn định; quốc phòng an ninh
được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, vị thế quốc tế không ngừng
được nâng cao. Việt Nam đã trở thành địa điểm ngày càng nhiều nhà đầu tư

nước ngoài tin cậy, lựa chọn đầu tư, kinh doanh.
Thực hiện nhất quán đường lối đổi mới, trong những năm qua, chính phủ
Việt Nam đã không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Hệ thống
pháp luật, chính sách đầu tư đã không ngừng được hoàn thiện theo hướng đơn
giản, thông thoáng, minh bạch và thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư. Chính phủ
cũng đã nỗ lực huy động các nguồn vốn đầu tư trong nước và ngoài nước để
nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực. Hệ thống qui hoạch
ngành, lãnh thổ được rà soát, cập nhật và bổ sung tạo dựng khuôn khổ pháp lý
thúc đẩy hoạt động cạnh tranh lành mạnh.
Thực tiễn những năm qua cho thấy việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài là một chủ trương đúng đắn, đã góp phần thực hiện nhiều mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước. Đến hết tháng 2/2013 đã có
14.550 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký đạt gần 211 tỷ USD, vốn thực hiện
đạt gần 100 tỷ USD. Khu vực đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 25% tổng vốn
đầu tư xã hội; kim ngạch xuất khẩu chiếm trên 60% tổng kim ngạch xuất khẩu
cả nước năm 2012; đóng góp vào ngân sách đạt 14, 2 tỷ USD trong giai đoạn
2001 – 2010 và khoảng 3,7 tỷ USD năm 2012; phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao, tạo nhiều việc làm, với trên 2 triệu lao động trực tiếp, từ 3 – 4 triệu
lao động gián tiếp.

Học viên: Đào Xuân Hùng – Lớp QLKT 4-2015


Bài tập lớn môn Kinh tế đầu tư

8

Trên thực tế, khu vực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài ngày càng lớn mạnh
trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế đất nước, được
khuyến khích phát triển ổn định, lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế

khác, góp phần phát huy nội lực và lợi thế so sánh của Việt Nam, tác động tích
cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế góp phần vào quá trình tái cơ cấu
nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
2.1- Nhận diện tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam hiện nay
Thành công của đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong hơn
25 năm qua đã được thừa nhận một cách rộng rãi cả ở trong và ngoài nước. Tốc
độ tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm giai đoạn 2000 – 2010 là 7,26%;
GDP theo giá thực tế năm 2011 đã gấp hơn 3,8 lần so với năm 2000; nước ta đã
trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp. Đã đạt được thành tích vượt
bậc về xóa đói giảm nghèo; cơ cấu kinh tế từng bước chuyển đổi tích cực theo
hướng hiện đại; cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội đã được cải thiện đáng kể cả về số
lượng và chất lượng; đã thu hẹp đáng kể khoảng cách phát triển so với các nền
kinh tế khác trong khu vực.
Cơ cấu sản xuất nông nghiệp đã bước đầu phát huy được lợi thế của từng
vùng; một số sản phẩm nông nghiệp đã trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực, có
năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới. Cơ cấu công nghiệp đã có sự
chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; một số ngành công
nghiệp quan trọng đã bắt đầu hình thành , trở thành động lực cho tăng trưởng
nói chung và tăng trưởng công nghiệp nói riêng. Các ngành dịch vụ phát triển đa
dạng, một số loại dịch vụ hiện đại, giá trị gia tăng cao phát triển rất nhanh. Các
vùng kinh tế trọng điểm phát triển khá nhanh, đóng góp lớn vào GDP và tăng
trưởng GDP của cả nước.
Cơ cấu thành phần kinh tế đã thay đổi căn bản; cơ cấu lao động đã chuyển
dịch tích cực, phù hợp với chuyển dịch cơ cấu ngành, thành phần và vùng kinh
tế. Nguồn vốn đầu tư phát triển được đa dạng hóa và liên tục tăng cao. Vốn đầu
tư nhà nước đã được đầu tư một cách tập trung hơn vào một số ngành, nhất là
kết cấu hạ tầng giao thông và các dịch vụ công ích khác, đồng thời đã quan tâm
đầu tư nhiều hơn cho vùng nghèo, xã nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Học viên: Đào Xuân Hùng – Lớp QLKT 4-2015



Bài tập lớn môn Kinh tế đầu tư

9

Tuy vậy, cơ cấu kinh tế nước ta hiện nay đã bộc lộ không ít những yếu kém
nội tại. Tăng trưởng GDP tuy vẫn ở mức tương đối cao nhưng đang có xu
hướng giảm dần; chất lượng tăng trưởng còn thấp. Quy mô các ngành kinh tế
còn nhỏ và phân tán; sản xuất công nghiệp phần lớn còn ở dạng gia công, lắp
ráp, giá trị gia tăng nội địa thấp. Đa số các sản phẩm có đóng góp lớn trong GDP
và kim ngạch xuất khẩu đều là sản phẩm nông nghiệp, thủy sản và khoáng sản,
các sản phẩm công nghiệp sơ chế và dịch vụ phục vụ tiêu dùng thâm dụng nhiều
lao động phổ thông. Số ngành, lĩnh vực có công nghệ tiên tiến, hiện đại còn ít;
công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, còn mất cân đối lớn giữa các khâu trong
chuỗi sản xuất và cung ứng. Tỷ trọng của sản xuất nông nghiệp vẫn còn khá lớn,
thủy sản phát triển chưa đồng bộ về nuôi trồng, đánh bắt, chế biến và các dịch
vụ khác. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và nông thôn theo hướng
công nghiệp hóa, hiện địa hóa còn chậm. Dịch vụ phát triển chậm so với tiềm
năng.
Cơ cấu đầu tư còn chưa hợp lý. Một số ngành có đóng góp lớn cho nền
kinh tế, hoặc có hiệu quả cao, có độ nhạy cảm hoặc lan tỏa lớn chưa được đầu tư
tương xứng; đầu tư vào các ngành công nghệ cao chưa đáng kể và các ngành
này chưa thực sự trở thành đích đến hấp dẫn của các nhà đầu tư. Đầu tư nhà
nước còn phân tán, dàn trải, chưa đồng bộ; làm tăng chi phí và giảm hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư. Sử dụng các nguồn lực khác như đất đai, tài nguyên thiên
nhiên và lao động vẫn còn lãng phí.
Cơ cấu thành phần kinh tế còn bất hợp lý về phân bố nguồn lực. Các doanh
nghiệp Nhà nước chưa phát huy tốt vai trò dẫn dắt, chủ đạo trong chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, đổi mới và phát triển công nghệ . Kinh tế tư nhân trong nước còn

nhỏ và yếu; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài gia tăng nhanh chóng, nhưng tác
động của chúng đối với chuyển giao công nghệ, nâng cao và phát triển năng lực
công nghệ của nền kinh tế là chưa đáng kể. Các doanh nghiệp chưa đủ sức tham
gia vào mạng sản xuất, chuỗi cung ứng và hệ thống phân phối toàn cầu.
Những yếu kém nói trên do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách
quan, nhưng chủ yếu là do các nguyên nhân chủ quan sau:

Học viên: Đào Xuân Hùng – Lớp QLKT 4-2015


Bài tập lớn môn Kinh tế đầu tư

10

Mô hình tăng trưởng theo chiều rộng đã duy trì quá lâu. Môi trường kinh
doanh còn hạn chế trên nhiều mặt. Thủ tục hành chính còn phiền hà tốn kém;
chính sách, pháp luật chưa ổn định, hiệu lực thực thi chưa cao, nên chưa tạo
được niềm tin và độ an toàn đủ để khuyến kích các nhà đầu tư, doanh nghiệp
đầu tư lớn dài hạn vào đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ và năng lực cạnh
tranh; chưa hạn chế và loại trừ được các hành vi kinh doanh theo hướng đầu cơ
trục lợi.
Quản trị doanh nghiệp nhà nước chưa theo kịp với các nguyên tắc và thông
lệ thị trường; nội lực về vốn, về kỹ năng và trình độ quản trị kinh doanh của khu
vực kinh tế ngoài nhà nước nói chung còn yếu kém; cơ chế quản lý nhà nước đối
với phân bố và sử dụng các nguồn lực quốc gia chưa thực sự hiệu quả. Trong
không ít trường hợp, phân bố vốn đầu tư, lựa chọn dự án đầu tư, giao đất, cho
thuê đất và cấp phép khai thác tài nguyên khoáng sản… còn theo cơ chế xin –
cho dưới nhiều hình thức khác nhau, thiếu tiêu chí đo lường, thẩm định hiệu quả
kinh tế - xã hội một cách rõ ràng, cụ thể, làm sai lệch, thậm chí phá vỡ quy
hoạch đầu tư, quy hoạch và không gian phát triển đã được phê duyệt.

Chế độ khuyến khích ưu đãi đầu tư chưa tập trung khai thác, phát triển các
ngành, sản phẩm có lợi thế, còn thiếu mục tiêu cụ thể, thiếu điều kiện, tiêu chí
và công cụ ràng buộc trách nhiệm đối với người nhận hỗ trợ, ưu đãi, mức độ hỗ
trợ chưa lớn đủ mức để thu hút sự quan tâm thực sự của các nhà đầu tư có tiềm
năng và uy tín. Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện các chính
sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư còn yếu và chưa được tiến hành thường xuyên.
Cùng với duy trì quá lâu mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, thì tư duy,
chủ trương, chính sách và cách thức quản lý, điều hành nền kinh tế ở các cấp các
ngành chưa thay đổi kịp thời, chậm khắc phục các điểm ngẵn kìm hãm gia tăng
năng suất và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Gia tăng vốn đầu tư dưới các
hình thức và kênh khác nhau vẫn là công cụ chủ yếu để thúc đẩy tăng trưởng. Để
đáp ửng yêu cầu nói trên, chính sách tài khóa và tiền tệ mở rộng đã phải liên tục
duy trì trong nhiều năm , và đó là một trong các nguyên nhân quan trọng của
lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô ở nước ta trong thời gian gần đây.

Học viên: Đào Xuân Hùng – Lớp QLKT 4-2015


Bài tập lớn môn Kinh tế đầu tư

11

2.2 – Đầu tư trực tiếp nước ngoài với những đóng góp và quá trình tái
cơ cấu nền kinh tế của Việt Nam trong những năm qua.
Trong giai đoạn đầu mở cửa, đầu tư nước ngoài là giải pháp hữu hiệu góp
phần đưa Việt Nam ra khỏi tình thế khó khăn của tình trạng bị bao vây, cấm vận,
khẳng định xu thế mở cửa và quan điểm “ Việt Nam muốn là bạn của các nước
trong cộng đồng thế giới”. Trong các giai đoạn tiếp theo, đầu tư nước ngoài là
nguồn vốn bổ sung quan trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, góp phần đáng
kể thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng năng lực sản xuất, đổi mới công

nghệ, khai thông thị trưởng quốc tế, gia tăng kim ngạch xuất khẩu, cải thiện cán
cân thanh toán quốc tế , đóng góp ngân sách nhà nước, phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao và tạo thêm việc làm.
Bên cạnh những đóng góp trực tiếp nêu trên, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã
có tác động lan tỏa đến các thành phần kinh tế khác của nền kinh tế, trong đó có
việc khơi dậy các nguồn lực đầu tư trong nước, tạo sức ép cạnh tranh, thúc đẩy
đổi mới và chuyển giao công nghệ, nâng cao hiệu quả sản xuất, phát triển ngành
công nghiệp phụ trợ, góp phần đưa Việt Nam từng bước tham gia chuỗi giá trị
sản xuất toàn cầu. Đến nay Việt Nam đã trở thành điểm đến của nhiều tập đoàn
hàng đầu trên thế giới trong nhiều lĩnh vực khác như: BP, Total, Toyota,
Honda,Canon, Samsung, Intel, Unilever, LG… với những sản phẩm chất lượng
quốc tế, qua đó vừa góp phần khẳng định vị thế của Việt Nam trên bản đồ khu
vực và thế giới, vừa góp phần tạo động lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp
trong nước nhằm thích ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa. Đầu tư trực tiếp nước
ngoài cũng đóng vai trò tích cực trong việc hỗ trợ cho quá trình cải cách doanh
nghiệp nhà nước, khuyễn khích cải cách thủ tục hành chính và hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường.
Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu tư trong nước.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch - Đầu tư, hiện nay cả
nước có 8.590 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hiệu lực với tổng số vốn
đăng ký trên 83 tỷ USD.

Học viên: Đào Xuân Hùng – Lớp QLKT 4-2015


Bài tập lớn môn Kinh tế đầu tư

12


Đầu tư nước ngoài bổ sung cho tổng vốn đầu tư xã hội và góp phần quan
trọng vào xuất khẩu; đóng góp vào nguồn thu ngân sách. Đầu tư nước ngoài góp
phần làm thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng giảm tỷ trọng sản
phẩm khai khoáng, mặt hàng sơ cấp, tăng dần tỷ trọng hàng chế tạo, mở rộng thị
trường xuất khẩu nhất là sang Hoa kỳ, EU, làm thay đổi đáng kể cơ cấu xuất
khẩu, góp phần ổn điịnh thị trường trong nước, hạn chế nhập siêu thông qua việc
cung cấp cho thị trường nội địa các sản phẩm chất lượng cao do doanh nghiệp
trong nước sản xuất thay vì phải nhập khẩu như trước đây.
Thứ hai: đầu tư nước ngoài thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hiện nay, 58,4% vốn đầu tư nước ngoài
tập trung vào lĩnh vực công nghiệp – xây dựng với trình độ công nghệ cao hơn
mặt bằng chung của cả nước, tốc độ tăng trưởng đạt bình quân gần 18%/năm,
cao hơn tốc độ tăng trưởng toàn ngành, tạo ra gần 45% giá trị sản xuất công
nghiệp, góp phần hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế
như viễn thông, khai thác, chế biến, dầu khí, điện tử, công nghệ thông tin, thép,
xi măng….góp phần nhất định vào việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, đa
dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị hàng hóa nông sản xuất khẩu và tiếp thu
một số công nghệ tiên tiến, giống cây, giống con có năng suất, chất lượng cao
đạt tiêu chuẩn quốc tế, tạo ra một số phương thức mới, có hiệu quả cao, nhất là
các dự án đầu tư vào phát triển nguồn nguyên liệu, góp phần cải thiện tập quán
canh tác và điều kiện hạ tầng yếu kém, lạc hậu ở một số địa phương.
Thứ ba: đầu tư nước ngoài tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực và thay đổi cơ cấu lao động. Hiên nay khu vực đầu tư nước ngoài tạo ra trên
hai triệu lao động trực tiếp và khoảng 3 – 4 triệu lao động gián tiếp, có tác động
mạnh đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại
hóa. Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được xem là tiên phong trong việc đào tạo
tại chỗ và đào tạo bên ngoài, nâng cao trình độ của công nhân, kỹ thuật viên, cán
bộ quản lý, trong đó một bộ phận đã có năng lực quản lý, trình độ khoa học,
công nghệ đủ sức thay thế chuyên gia nước ngoài. Ngoài ra, đầu tư nước ngoài
đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng lao động thông qua hiệu

ứng lan tỏa lao động cho các bên liên quan.

Học viên: Đào Xuân Hùng – Lớp QLKT 4-2015


Bài tập lớn môn Kinh tế đầu tư

13

Thứ tư: đầu tư nước ngoài là kênh chuyển giao công nghệ quan trọng, góp
phần nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế. Khu vực đầu tư nước ngoài
sử dụng công nghệ cao hơn hoặc bằng công nghệ tiên tiến đã có trong nước và
thuộc loại phổ cập trong khu vực. Thông qua hợp đồng chuyển giao công nghệ
khu vực đầu tư nước ngoài đã góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên
tiến vào Việt Nam, nâng cao năng lực công nghệ trong nhiều lĩnh vực . Xét về
cấp độ chuyển giao công nghệ , công nghiệp chế biến, chế tạo đạt hiệu quả cao
nhất. Theo bộ Khoa học và Công nghệ, một số ngành đa thực hiện tốt cuyển
giao công nghệ như dầu khí, điện tử, viễn thông, tin học, cơ khí chế tạo, xe máy,
dệt may và giầy dép, trong đó viễn thông, dầu khí được đánh giá có hiệu quả
nhất.
Thứ năm: đầu tư nước ngoài có tác động nâng cao năng lực cạnh tranh ở
cả ba cấp độ quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Nhiều sản phẩm xuất khẩu
Việt Nam đủ sức cạnh tranh và có chỗ đứng vững chắc trên các thị trường Hoa
Kỳ, EU, Nhật Bản. Kết quả phân tích các chỉ tiêu về vốn, công nghệ, trình độ
quản lý, khả năng tiếp cận thị trường (đầu vào và tiêu thụ sản phẩm) và năng lực
tham gia mang sản xuất toàn cầu cho thấy năng lực cạnh tranh của khu vực đầu
tư nước ngoài cao hơn so với khu vực trong nước. Đồng thời, khu vực đầu tư
nước ngoài đã và đang có tác động thúc đẩy cạnh tranh của khu vực trong nước
nói riêng và của nền kinh tế nói chung thông qua thúc đẩy năng suất, tăng
trưởng xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tê, nâng cao trình độ công

nghệ, trình độ lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động.
Thứ sáu: đầu tư nước ngoài góp phần nâng cao năng lực quản lý kinh tế,
quản trị doanh nghiệp, tạo thêm áp lực đối với việc cải thiện môi trường kinh
doanh. Thực tiễn đầu tư nước ngoài đã cho nhiều bài học, kinh nghiệm bổ ích về
công tác quản lý kinh tế và doanh nghiệp, góp phần thay đổi tư duy quản lý, thúc
đẩy quá trình hoàn thiện luật pháp, chính sách theo hướng bình đẳng, công khai,
minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế, đào tạo được đội ngũ cán bộ quản lý
phù hợp với xu thế hội nhập.
Thứ bẩy: đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng vào hội nhập quốc tế.
Hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài đã góp phần phá thế bao vây cấm vận, mở

Học viên: Đào Xuân Hùng – Lớp QLKT 4-2015


Bài tập lớn môn Kinh tế đầu tư

14

ộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo thuận lợi để Việt Nam gia nhập ASEAN, ký
hiệp định khung với EU, Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, Hiệp định khuyến
khích và bảo hộ đầu tư với 62 quốc gia/vùng lãnh thổ và hiệp định đối tác kinh
tế (EPA) với Nhật bản và nhiều nước.
2.3 – Một số tồn tại hạn chế của đầu tư trực tiếp nước ngoài với quá
trình tái cấu trúc kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng của Việt Nam
Bên cạnh những kết quả tích cực mà đầu tư trực tiếp nước ngoài mang đến,
khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng thể hiện một số những tồn tại,
yếu kém cần phải khắc phục đó là:
Thứ nhất: Hiệu quả tổng thể nguồn vốn đầu tư nước ngoài chưa cao.
Thứ hai: Tỷ lệ vốn thực hiện thấp so với vốn đăng ký, quy mô dự án nhỏ,
nhiều dự án chậm triển khai, giãn tiến độ, dòng vốn đăng ký đầu tư nước ngoài

gần đây đang có xu hướng giảm.
Thứ ba: mục tiêu thu hút công nghệ (công nghệ cao và công nghệ nguồn),
chuyển giao công nghệ chưa đạt được.
Thứ tư: tạo việc làm chưa tương xứng, đời sống người lao động chưa cao,
tranh chấp và đình công có xu hướng gia tăng.
Thứ năm: hiệu ứng lan tỏa của khu vực đầu tư nước ngoài sang khu vực
khác của nền kinh tế còn hạn chế.
Thứ sáu: Giá trị gia tăng tạo ra tại Việt Nam và khả năng tham gia chuỗi
giá trị thấp.
Thứ bẩy: một số dự án được cấp phép nhưng chưa bảo đảm tính bền vững,
gây ô nhiễm môi trường, tiêu tốn năng lượng, tài nguyên, chưa chú ý đầy đủ tới
an ninh quốc phòng.
Thứ tám: có hiện tượng chuyển giá, trốn thuế.

Học viên: Đào Xuân Hùng – Lớp QLKT 4-2015


Bài tập lớn môn Kinh tế đầu tư

15

2.4. Một số giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy tái cơ cấu
nền kinh tế.
Thời gian vừa qua, Thủ tướng chính phủ đã ban hành “Nghị quyết số
103/NQ-CP về định hướng nâng cao hiệu quả thu hút, sử dụng và quản lý đầu tư
trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới” nhằm thúc đẩy quá trình tái cơ cấu nền
kinh tế Việt Nam. Trên cơ sở quan điểm, định hướng đầu tư nước ngoài trong
thời gian tới là nhằm tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về thu hút đầu tư nước
ngoài theo hướng chọn lọc các dự án có chất lượng, có giá trị tăng cao, sử dụng
công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ

thông tin và công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp, phát triển kết cấu hạ tầng,
tạo điều kiện nguồn nhân lực chất lượng cao, nghiên cứu và phát triển, dịch vụ
hiện đại…đồng thời, tăng cường thu hút các dự án quy mô lớn, sản phẩm có tính
cạnh tranh cao, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn xuyên quốc giá,
từ đó xây dựng, phát triển hệ thống các ngành, doanh nghiệp phụ trợ, khuyến
khích các dự án công nghiệp chuyển dần từ gia công sang sản xuất, lựa chọn các
nhà đầu tư lớn, có uy tín đầu tư phát triển thị trường tài chính; chú trọng đến các
dự án có quy mô vừa và nhỏ phù hợp với từng ngành kinh tế, từng địa phương.
Khuyến khích, tạo điều kiện và tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp
đầu tư nước ngoài với nhau và với các doanh nghiệp trong nước. Quy hoạch thu
hút đầu tư nước ngoài theo ngành, lĩnh vực, đối tác phù hợp với lợi thế của từng
vùng, từng ngành để phát huy hiệu quả đầu tư của từng địa phương, từng vùng,
phù hợp với quy hoạch chung, đảm bảo lợi ích tổng thể quốc gia và tái cấu trúc
nền kinh tế theo mô hình mới.
Triển khai Nghị quyết nêu trên, Quyết định 339/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ ngày 19/02/2013 về việc phê duyệt đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh
tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng,
hiệu quả và năng lực cạnh tranh giai đoạn 2013 - 2020, nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài cần phân bố hợp lý và sự dụng có hiệu quả, đặc biệt là trong giai
đoạn 2013 – 2020 để thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế. Dưới đây là một số giải pháp
và lộ trình để góp phần thực hiện quá trình tái cơ cấu:

Học viên: Đào Xuân Hùng – Lớp QLKT 4-2015


Bài tập lớn môn Kinh tế đầu tư

16

Một là: trước hết tái cấu trúc nguồn vốn FDI theo hướng có trọng tâm,

trọng điểm như thu hút đầu tư vào cơ sở hạ tầng, giáo dục đào tạo, y tế, công
nghệ cao, công nghệ sạch…với mục tiêu đối tác tiềm năng cụ thể.
Hai là: để tái cấu trúc đầu tư của khu vực có vốn FDI cần làm tốt công tác
quy hoạch ( quy hoạch cả nước, quy hoạch vùng, quy hoặc ngành và địa
phương), các quy hoạch phải có tính tổng thể, liên kết và dài hạn, đặc biệt tránh
tình trạng điều chỉnh quy hoạch để thu hút dự án bằng mọi giá. Phát triển kinh tế
địa phương phải gắn với kinh tế ngành, vùng và quốc gia. Khắc phục ngay việc
đầu tư không theo quy hoạch, đầu tư ngoài quy hoạch và đầu tư theo phong trào.
Ba là: rà soát lại danh mục các dự án chưa triển khai, không triển khai,
tạm dừng hoạt động, giải thể, các dự án có tác động xấu đến môi trường, các dự
án sử dụng công nghệ lạc hậu… để có phương án chuyển giao cho các nhà đầu
tư tiềm năng khác.
Bốn là: đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước để nhà
đầu tư nước ngoài tham gia góp vốn vào một số lĩnh vực mà nhà đầu tư nước
ngoài quan tâm.
Năm là:cần khẩn trương sửa đổi việc phân cấp đầu tư trực tiếp nước ngoài
theo hướng Trung ương quyết định và cấp phép các dự án quan trọng và có tính
vĩ mô như các lĩnh vực hạ tầng giao thông, trồng rừng, dự án sử dụng nhiều đất,
dự án liên quan đến nhiều đia phương…
Sáu là: tăng cường năng lực thẩm định, giám sát đánh giá các dự án đầu tư
để nâng cao hiêu quả đầu tư của các dự án.
Bảy là: cần có nhiều giải pháp đồng bộ; đòi hỏi quyết tâm chính trị cao của
cả hệ thống chính trị, đặc biệt là các bộ máy lãnh đạo từ Trung ương đến địa
phương không để tư duy nhiệm kỳ, lợi ích nhóm chi phối.

Học viên: Đào Xuân Hùng – Lớp QLKT 4-2015


Bài tập lớn môn Kinh tế đầu tư


17

CHƯƠNG 3: ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRỰC TIẾP TẠI THÀNH PHỐ
HẢI PHÒNG VÀ DỰ ÁN LG Electronics VIỆT NAM, HẢI PHÒNG
Hải Phòng là thành phố loại một cấp quốc gia, được xác định là một cực
trong tam giác tăng trưởng của đồng bằng Bắc Bộ, có nhiều lợi thế để thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Trong những năm qua, dù là so với tiềm năng
hay trong tương quan với các thành phố lớn khác, FDI vào Hải Phòng chưa
tương xứng. Bởi vậy, cần thiết phải tìm giải pháp phát huy các nhân tố thuận lợi
để đẩy mạnh thu hút FDI, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội thành phố.
3.1. Những lợi thế để thu hút FDI
Thứ nhất, Hải Phòng nằm ở phía Tây Bắc vịnh Bắc Bộ, chiều dài bờ biển
khoảng 125km và có trên 100.000km 2thềm lục địa, nằm ở tuyến huyết mạch
giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, Trung Cận Đông với Trung Quốc và
Nhật Bản với các nước trong khu vực. Thêm vào đó, trên đất liền, Hải Phòng
nằm ở vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, trên tuyến đường nối với các tỉnh,
thành phố lớn ở phía Bắc và với một số tỉnh của Trung Quốc. Hệ thống đường
sắt, đường bộ cùng với đường biển hợp thành mạng lưới giao thông, tạo điều
kiện thuận lợi cho phát triển dịch vụ vận tải, hoạt động xuất nhập khẩu và các
dịch vụ cảng biển khác kèm theo. Do đó, giảm được chi phí lưu thông, có điều
kiện cho giao lưu hàng hoá, hình thành không gian kinh tế tương đối rộng cho
hoạt động đầu tư. Đây là nhân tố thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh
vực du lịch, phát triển lợi thế cảng biển, và lan toả sang các lĩnh vực khác.
Thứ hai, nguồn lực lao động Hải Phòng nói chung có tính tổ chức kỷ luật,
tác phong công nghiệp và tâm lý kinh doanh nhạy bén, sáng tạo, năng động, tích
luỹ được kinh nghiệm quản lý và kiến thức kinh tế thị trường. Hải Phòng là một
trong những thành phố mở cửa và hội nhập kinh tế sớm nhất, trong đó có việc
thu hút FDI. Nhiều doanh nhân Hải Phòng đã thành công tại thành phố hoặc ở
các địa phương khác.
Thứ ba, lợi thế của Hải Phòng còn thể hiện ở truyền thống kinh doanh và

làm ăn với nước ngoài. Ngay từ đầu thế kỷ 19, nhiều thuyền bè nước ngoài

Học viên: Đào Xuân Hùng – Lớp QLKT 4-2015


Bài tập lớn môn Kinh tế đầu tư
18
thường qua lại buôn bán ở vùng Cảng Hải Phòng ngày nay. Đến khi thực dân
Pháp xâm chiếm nước ta, họ đã tập trung xây dựng Hải Phòng trở thành một hải
cảng lớn. Do nằm ở vị trí giao thông thuận lợi, cửa ngõ thông thương hàng hoá
trong nước và quốc tế nên người Hải Phòng sớm có tư duy phát triển kinh tế
hàng hoá và có bề dày làm ăn với người nước ngoài. Do cách nghĩ, cách làm của
người Hải Phòng có sự tương đồng với các nhà đầu tư nước ngoài nên ngay sau
khi Luật Đầu tư nước ngoài được thông qua, ngày 17/01/1989, Hải Phòng đã thu
hút được dự án FDI đầu tiên.
Thứ tư, sự phát triển kinh tế - xã hội năng động và các dịch vụ hỗ trợ hoạt
động đầu tư tương đối đồng bộ. So với cả nước, mức tăng GDP của Hải Phòng
luôn cao hơn 1,5 lần mức tăng chung của cả nước. Hệ thống ngân hàng đa dạng
và phong phú, có nhiều công ty tàu biển nước ngoài thiết lập văn phòng hoặc chi
nhánh đại diện tại Hải Phòng. Các dịch vụ cho người nước ngoài như khách sạn,
văn phòng đạt tiêu chuẩn quốc tế, nhà hàng đặc sản, khu du lịch, khu dân cư,
khu vực và phương tiện vui chơi, giải trí. Mặc dù các dịch vụ hỗ trợ hoạt động
đầu tư đã khá đầy đủ nhưng so với yêu cầu về chất lượng dịch vụ cho nhà đầu tư
quốc tế thì vẫn còn nhiều hạn chế.
3.2. Kết quả thu hút FDI của Hải Phòng trong thời gian qua
Để phát huy các nhân tố thuận lợi trên, Thành phố đã có nhiều động thái,
chính sách để thu hút FDI. Tính đến tháng 11/2015 Hải Phòng có 446 dự án FDI
còn hiệu lực với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 10,55 tỷ USD.
Có thể thấy, Hải Phòng là một trong những địa phương thu hút FDI sớm
nhất, ngay từ năm 1995 lượng vốn FDI vào thành phố đã là 15 triệu USD. Tuy

nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Đông Nam Á năm 1997 đã tác động
làm giảm lượng FDI vào Việt Nam nói chung và Hải Phòng nói riêng. Năm
2000, Hải Phòng chỉ thẩm định và cấp giấy phép đầu tư cho 06 dự án với tổng
số vốn đăng kí là 6.890.000 USD. Từ năm 2001, FDI có dấu hiệu hồi phục trở
lại. Đến năm 2003, thành phố triển khai một loạt các biện pháp nhằm tăng
cường thu hút FDI như xúc tiến đầu tư, quảng bá, tuyên truyền về môi trường

Học viên: Đào Xuân Hùng – Lớp QLKT 4-2015


Bài tập lớn môn Kinh tế đầu tư
19
đầu tư của thành phố, đặc biệt là việc tuyên truyền và tổ chức thực hiện các
chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhờ đó, kết quả
thu hút FDI của thành phố đã có nhiều chuyển biến tích cực: có 42 dự án đầu tư
được cấp giấy phép, trong đó có 12 dự án điều chỉnh tăng vốn, nâng tổng vốn
đầu tư năm 2003 lên 170.303.642 USD. Năm 2005, 2006, 2007 vốn FDI vào
thành phố tiếp tục tăng. Nguyên do là, vào thời gian này, hàng loạt các văn bản
chính sách pháp luật của Việt Nam được ban hành theo hướng tạo thuận lợi cho
các nhà đầu tư, đồng thời Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức thương
mại thế giới cũng làm tăng khả năng thu hút FDI vào Việt Nam nói chung và
Hải Phòng nói riêng.
FDI chủ yếu chảy vào những lĩnh vực nhằm khai thác lợi thế về cảng biển,
xây dựng cơ sở hạ tầng. Trong đó, công nghiệp chiếm 51,5% và cơ sở hạ tầng
chiếm 35,2% tổng số vốn đầu tư. Vốn đầu tư tập trung vào một số ngành công
nghiệp truyền thống như: sản xuất xi măng, vật liệu xây dựng, thép, đóng tàu,
giầy da, may mặc….Cơ cấu đầu tư còn bất hợp lý, đầu tư cho du lịch dịch vụ ngành mà Hải Phòng có nhiều lợi thế còn thấp, chỉ chiếm 6,94% tổng vốn FDI,
thấp hơn nhiều so với bình quân cả nước là 14,3%. Tỷ trọng đầu tư FDI vào
nông nghiệp rất hạn chế, mặc dù nông nghiệp chiếm đến 11% GDP song vốn
FDI vào nông nghiệp chỉ chiếm 0,72%. Chính vì thiếu vốn nên rất khó khăn cho

phát triển sản xuất nông nghiệp và thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp và nông thôn.
Đến nay, Hải Phòng đã thu hút được nguồn vốn FDI đến từ 27 quốc gia và
vùng lãnh thổ. Nhiều tập đoàn hàng đầu đã đầu tư vào Hải Phòng như Chinfon
(Đài Loan), Toyota Bosuko, Toyoda Gosei (Nhật Bản), Posco, Mibeak (Hàn
Quốc), Lion (Ma-lai-xi-a), Bic C (Pháp), GE (Mỹ), ECC International (Hà Lan)
…một số tập đoàn lớn khác ký kết với thành phố các bản ghi nhớ về hợp tác đầu
tư. Tuy nhiên, nguồn đầu tư chủ yếu vẫn đến từ các nước thuộc khu vực châu Á.
Trong thời kỳ 1989 – 2007, nguồn vốn FDI vào Hải Phòng đến từ Châu Á chiếm
khoảng 73%, số vốn đầu tư đến từ Châu Âu và Bắc Mỹ còn thấp. Tuy nhiên, từ

Học viên: Đào Xuân Hùng – Lớp QLKT 4-2015


Bài tập lớn môn Kinh tế đầu tư
20
năm 2008 số vốn FDI đến từ châu Âu và Bắc Mỹ lại tăng nhanh, chiếm 43,5%
tổng vốn đầu tư. Đây là một xu hướng tích cực bởi nguồn vốn này thường đầu tư
vào những ngành có giá trị gia tăng cao và công nghệ hiện đại.
3.3. Những hạn chế (rào cản) trong khai thác lợi thế
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, song nguyên nhân cơ bản là
Hải Phòng vẫn chưa “ bẩy” được lợi thế của mình lên, thậm chí phần nào còn
làm cho nó bị lu mờ. Những nhân tố vẫn được coi là lợi thế của Hải Phòng chưa
được gia cố thêm và mở rộng đủ để hấp dẫn các nhà đầu tư. Trong một thời gian
dài, Hải Phòng vẫn tự huyễn hoặc mình là thành phố công nghiệp, có cảng biển
và hệ thống giao thông thuận lợi vv... nên không mấy quan tâm đến việc cải
thiện môi trường đầu tư. Hải Phòng chỉ dựa vào cái mình đã có mà chưa chú ý
tạo ra cái nhà đầu tư cần. Vì vậy, cùng với sự phát triển kinh tế chung của cả
nước, theo thời gian, những lợi thế mà Hải Phòng có sẵn dần dịch chuyển thành
lợi thế của các khu vực khác. Điều đó giải thích vì sao trong việc thu hút FDI,

Hải Phòng còn kém cả một số tỉnh thuộc khu vực đồng bằng Bắc Bộ.
Hiện nay, kết cấu hạ tầng ở nhiều nơi tương đối phát triển, sự lưu chuyển tự
do của các dòng vốn và nhân lực ngày càng nhanh và mạnh mẽ hơn nên các lợi
thế này dường như đang được “san sẻ lợi ích” cho các địa phương khác. Do đó,
mặc dù có lợi thế cảng biển song chính hệ thống giao thông đường bộ phát triển
làm nhà đầu tư có thể lựa chọn điểm dừng tại các tỉnh cận kề với Hải Phòng nếu
họ có chính sách thu hút đầu tư hấp dẫn. Không thể phủ nhận một điều là, trong
các nhân tố thu hút FDI, việc tiếp cận đất đai của các nhà đầu tư vẫn là một khâu
yếu, tác động bất lợi đối với hoạt động đầu tư, làm cho dòng vốn đầu tư chuyển
dịch sang các địa phương khác. Giá đất ở Hải Phòng cao hơn hẳn một số tỉnh ở
phía Nam và khả năng tiếp cận của doanh nghiệp rất hạn chế, giải phóng mặt
bằng hết sức khó khăn. Doanh nghiệp nhiều khi phải sử dụng đất ở vào mục
đích kinh doanh với chi phí cao, do đó làm giảm hiệu quả đầu tư- mà đây lại là
điều tối kỵ trong kinh doanh.

Học viên: Đào Xuân Hùng – Lớp QLKT 4-2015


Bài tập lớn môn Kinh tế đầu tư
21
Lợi thế về con người với tác phong và truyền thống kinh doanh cũng chưa
phát huy hiệu quả. Bởi lẽ hệ thống các trường đào tạo và dạy nghề chưa đáp ứng
nhu cầu của nhà đầu tư; việc bố trí, sử dụng nhân lực của thành phố cũng còn
bộc lộ nhiều bất cập, môi trường làm việc chưa tạo điều kiện để người lao động
phát huy hết năng lực. Dẫn đến tình trạng “chảy máu chất xám” vẫn còn xảy
ra...; không những không thu hút được người lao động và quản lý giỏi, có khả
năng tìm về thành phố công tác, mà ngay cả những người được lớn lên và đào
tạo tại thành phố cũng tìm việc làm ở nơi khác. Có thể nói đây là nhân tố gây
cản trở thu hút FDI vào Hải Phòng, nhất là các ngành công nghệ cao, đòi hỏi lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật phù hợp.

Bên cạnh đó, hoạt động xúc tiến đầu tư còn dàn trải, chưa thực sự xác định
rõ “khách hàng mục tiêu, thị trường mục tiêu” để tiếp xúc vận động đầu tư. Với
mong muốn đẩy nhanh sự “bứt phá”, Hải Phòng đã nôn nóng trong việc lựa
chọn đối tác đầu tư và lĩnh vực đầu tư. Vì vậy, rất nhiều trường hợp, Hải Phòng
đã chọn “nhầm” đối tác. Đó là những đối tác không có năng lực về tài chính và
công nghệ. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho Hải Phòng đi chậm
hơn so với một số địa phương khác trong việc thu hút FDI.
3.4. Giải pháp phát huy lợi thế để đẩy mạnh thu hút FDI vào Hải
Phòng
Hải Phòng nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Đây là trung tâm
kinh tế năng động và là một đầu tàu kinh tế quan trọng của miền Bắc và Việt
Nam. Ưu thế của vùng kinh tế này là nhân lực được đào tạo tốt, có kết cấu hạ
tầng tương đối đồng bộ và không ngừng được nâng cấp. Sự phát triển năng động
của các tỉnh, thành phố trong vùng, một mặt, tạo ra không gian rộng hơn cho
phát triển, thu hút FDI, mặt khác, gây sức ép buộc các địa phương phải phát huy
lợi thế mới thu hút được FDI. Để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn FDI,
điều trước hết là phải thay đổi lại nhận thức và cách tiếp cận nguồn vốn FDI. Đó
là:

Học viên: Đào Xuân Hùng – Lớp QLKT 4-2015


Bài tập lớn môn Kinh tế đầu tư
22
- Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, chỉ nên coi FDI là một trợ thủ
đắc lực cho nền kinh tế để gia tăng nội lực. Số lượng các dự án FDI chưa phản
ánh thực chất nội lực của nền kinh tế nói chung và vùng kinh tế nói riêng. Cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay đã chứng tỏ rằng FDI không phải là
cứu cánh giúp nền kinh tế vượt qua khủng hoảng mà thậm chí trong nhiều
trường hợp lại làm trầm trọng thêm. Đó là làm cho cung lớn hơn cầu, gia tăng

tình trạng thất nghiệp vv....
- Sử dụng FDI là sử dụng nguồn vốn bên ngoài mà ta không phải bỏ ra, từ
đó nảy sinh tâm lý càng thu hút được nhiều càng tốt. Đây là điều hết sức bất cập
vì nó dễ dãi bỏ qua các tác động “kép” không mong muốn như tàn phá môi
trường sinh thái. Đối với Hải Phòng, đó là môi trường biển, nơi có khu dự trữ
sinh quyển thế giới Cát Bà. Vì vậy đã đến lúc, phải quan tâm đến chất lượng các
dự án FDI.
Với cách tiếp cận như trên, giải pháp để khai thác lợi thế so sánh nhằm tăng
cường số lượng và nâng cao chất lượng nguồn vốn FDI vào Hải Phòng là:
- Khai thác tối đa lợi thế về cảng biển và hệ thống giao thông để thu hút
FDI vào các lĩnh vực như đóng và sửa chữa tàu biển, xây dựng các ngành công
nghiệp phụ trợ cho công nghiệp đóng tàu, tiến tới hình thành ngành công nghiệp
đóng tàu độc lập, hiện đại của Việt Nam. Hướng FDI đầu tư xây dựng các ngành
công nghiệp cơ khí, nhất là công nghiệp chế tạo máy vốn là thế mạnh của Hải
Phòng vừa phục vụ cho nhu cầu trong nước vừa tham gia xuất khẩu.
- Trong việc đào tạo nguồn nhân lực, Hải Phòng cần tập trung đào tạo lực
lượng lao động cơ khí có trình độ chuyên môn cao để đáp ứng các yêu cầu của
nhà đầu tư.
- Tháo gỡ khó khăn và tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư đồng thời hết
sức bình tĩnh, thận trọng, không chấp nhận việc thu hút FDI bằng mọi giá.
Không chạy theo số lượng vốn đăng ký mà quan tâm đến khả năng thực hiện của
dự án. Đặc biệt dừng triển khai các dự án FDI sử dụng nhiều lao động như may
mặc, giày dép. Trong điều kiện đất đai của Hải Phòng hạn hẹp, cần để dành quỹ

Học viên: Đào Xuân Hùng – Lớp QLKT 4-2015


Bài tập lớn môn Kinh tế đầu tư
23
đất ưu tiên cho các dự án FDI ở lĩnh vực cơ khí, lĩnh vực sử dụng công nghệ

cao.
- Chủ động điều chỉnh danh mục những dự án ưu đãi đầu tư, không chỉ phù
hợp với lợi thế của thành phố mà còn thích ứng với sự đổi chiều của dòng FDI.
- Cải thiện chất lượng quy hoạch đất đai, tiếp tục đẩy mạnh giải phóng mặt
bằng để đẩy mạnh việc thu hút FDI.
- Trong quy hoạch các khu công nghiệp cần dùng một quỹ đất hợp lý để
xây dựng nhà ở cho công nhân. Có chính sách hỗ trợ hợp lý để khuyến khích các
nhà đầu tư xây dựng, giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân để họ yên tâm công
tác, khắc phục tình trạng di chuyển lao động gây bất lợi đối với nhà đầu tư.
- Xây dựng chiến lược tạo dựng và thu hút lao động có tay nghề phù hợp
với yêu cầu của các dự án FDI đồng thời thu hút lao động có chất lượng cao
thông qua chính sách nhà ở, bảo hiểm, môi trường lao động, cải thiện điều kiện
sống và làm việc, nâng cao thu nhập và tạo cơ hội để họ phát huy năng lực.
Thực hiện chương trình an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đối với lao động trong
khu công nghiệp.
- Thực hiện tốt chế độ “một cửa liên thông” giữa các tổ chức, cơ quan hoạt
động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại như hải quan, tài nguyên môi trường, kế
hoạch đầu tư, thuế nhằm giảm thiểu đến mức tối đa thời gian chờ đợi của các
nhà đầu tư. Mặt khác, các cấp chính quyền cần tăng cường đối thoại, kịp thời
giải quyết những khó khăn, vướng mắc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp, nhà đầu tư trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Quy chế hoạt động cần
công khai, minh bạch cần theo hướng tăng trách nhiệm giải trình của cán bộ.
Như vậy, muốn phát huy lợi thế để đẩy mạnh thu hút FDI Hải Phòng cần
phải nhận thức được thế mạnh, những đặc điểm riêng của thành phố. Trong đó,
chủ động tháo gỡ vướng mắc cho nhà đầu tư, nâng cao hiệu quả của nền hành
chính, thu hút và đào tạo nhân lực có chất lượng cao, tạo các liên kết giữa các
tỉnh và trong khu vực được xem là những giải pháp quan trọng nhất.

Học viên: Đào Xuân Hùng – Lớp QLKT 4-2015



Bài tập lớn môn Kinh tế đầu tư
3.5. Ví dụ minh họa

24

Tên dự án: Dự án LG Electronics Việt Nam Hải Phòng
Nhà đầu tư: LG ELECTRONICS INC (LGE) là một Tập đoàn

của Hàn Quốc
Tổng số vốn: 31.695.000.000.000 (ba mươi mốt nghìn, sáu trăm chín
mươi lăm tỷ) đồng, tương đương 1.500.000.000 (một tỷ, năm trăm triệu) USD
Nhà đầu tư LG ELECTRONICS INC (LGE) là một Tập đoàn của Hàn
Quốc chuyên sản xuất, lắp ráp và phân phối thiết bị số và sản phẩm điện tử.
LGE là thương hiệu hàng đầu thế giới trong ngành điện tử tiêu dùng. Hiện tại,
LGE có 33 nhà máy sản xuất và 60 công ty con tham gia phân phối sản phẩm
trên toàn thế giới với khoảng 90 nghìn lao động làm việc trong 112 lĩnh vực.
Các nhà lãnh đạo của Tập đoàn LGE cùng với nhóm công tác nghiên cứu,
khảo sát điều kiện đầu tư tại một số quốc gia trên thế giới và Việt Nam, sau một
thời gian nghiêm túc và thận trọng nghiên cứu lập dự án đầu tư, đã quyết định
lựa chọn khu công nghiệp Tràng Duệ, thành phố Hải Phòng làm địa điểm thực
hiện dự án LG Electronics Việt Nam Hải Phòng. Dự án gắn với việc thành lập
Công ty TNHH LG Electronics Việt Nam Hải Phòng. Hoạt động của dự án
mang tính hiện đại hóa và tính công nghệ cao với mục tiêu sản xuất, lắp ráp sản
phẩm điện và điện tử công nghệ cao như thiết bị đo điện tử, thiết bị phát thanh
kỹ thuật số cho ô tô, linh kiện điện tử cho ô tô, hàng gia dụng tiết kiệm điện
năng và các bộ phận (linh kiện) của các sản phẩm này; sản xuất, lắp ráp ti vi
màu, ti vi thông minh, các sản phẩm điện, điện tử khác và các bộ phận (linh
kiện) của các sản phẩm này; sản xuất, lắp ráp điều hòa nhiệt độ, tủ lạnh, máy
giặt, máy hút bụi và các bộ phận (linh kiện) của các sản phẩm này; sản xuất các

sản phẩm điện, điện tử tiêu dùng và các bộ phận (linh kiện) của các sản phẩm
này, bao gồm cả điện thoại di động thông minh mà LGE và các công ty con của
LGE sản xuất thuộc hoạt động kinh doanh phổ biến của LGE. Bên cạnh hoạt
động sản xuất, lắp ráp, LGE còn đăng ký cung cấp các dịch vụ sau bán hàng,
dịch vụ lắp đặt, bảo trì, sửa chữa, bảo hành cho tất cả các sản phẩm của LGE (tại
Việt Nam và nước ngoài) và hoạt động kinh doanh bất động sản, bao gồm đầu

Học viên: Đào Xuân Hùng – Lớp QLKT 4-2015


Bài tập lớn môn Kinh tế đầu tư
25
tư, tạo lập nhà xưởng, cơ sở vật chất và văn phòng để cho các nhà đầu tư khác
thuê. Các nhà đầu tư khác này là những đối tác chủ yếu sản xuất các bộ phận,
linh kiện và phụ kiện của các sản phẩm của LGE được sản xuất bởi công ty tại
Việt Nam.
Trên tổng diện tích đất dự kiến sử dụng 402.600 m2, quy mô cho năm sản
xuất ổn định của dự án LG Electronics Việt Nam Hải Phòng là: thiết bị đo điện
tử, thiết bị phát thanh kỹ thuật số cho ô tô, linh kiện điện tử cho ô tô: công suất
16.812.000 sản phẩm mỗi năm; ti vi màu và ti vi thông minh: công suất 534.000
sản phẩm mỗi năm; máy điều hòa nhiệt độ: công suất 550.000 sản phẩm mỗi
năm; máy hút bụi: công suất 5.376.000 sản phẩm mỗi năm; máy giặt: công suất
1.560.000 sản phẩm mỗi năm; điện thoại di động thông minh: công suất 600.000
sản phẩm mỗi năm; các sản phẩm điện và điện tử tiêu dùng khác và các bộ phận
(linh kiện) của các sản phẩm này mà LGE và các công ty con của LGE sản xuất
thuộc hoạt động kinh doanh phổ biến của LGE sẽ được sản xuất dựa trên kế
hoạch đầu tư tiếp theo trong thời gian thực hiện dự án; tổng diện tích nhà xưởng
dự kiến cho thuê là 33.300 m2.
Trước đó, đầu năm 2013, lãnh đạo tập đoàn này công bố trước mắt sẽ đầu
tư 300 triệu USD vào dự án sản xuất các sản phẩm điện tử và điện lạnh gia dụng

tại Hải Phòng. Tuy nhiên, phía Hàn Quốc sau đó đã tiến hành nghiên cứu, khảo
sát lại và quyết định đầu tư 1,5 tỷ USD, chia làm nhiều giai đoạn.
Ông Ko Tae Yeon, Tổng giám đốc LG Việt Nam cho biết, Tập đoàn sẽ xây
dựng một khu phức hợp nhà máy rộng 402.600m2 trong vòng 10 năm. Dự án sẽ
chia làm hai giai đoạn, giai đoạn một từ 2013 – 2017 với số vốn 510 triệu USD,
giai đoạn 2 thực hiện trong 6 năm từ 2017 – 2023 với số vốn 990 triệu USD.
Sau khi Khu công nghiệp Tràng Duệ được Thủ tướng Chính phủ cho phép
sáp nhập vào Khu kinh tế Đình Vũ, Hải Phòng, các dự án khi đầu tư vào đây sẽ
được hưởng ưu đãi như miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 4 năm, giảm
50% cho 9 năm tiếp theo. Ngoài ra, thuế suất cho 15 năm đầu tiên được áp dụng
mức 10%...
Tính hiệu quả kinh tế xã hội mà dự án mang lại:

Học viên: Đào Xuân Hùng – Lớp QLKT 4-2015


×