Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng công thương đống đa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.38 KB, 65 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt nam đã có sự
chuyển biến rõ rệt và đạt được những thành tựu đáng kể, về cơ bản
chúng ta đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, lạm phát được kiềm
chế, tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và ổn định, đời sống nhân
dân được cải thiện rõ rệt.
Hiện nay, nước ta đang ở trong giai đoạn mới. Để tránh nguy
cơ tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới,
Đảng và Nhà nước ta chủ trương mở rộng việc phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
nhà nước, với chiến lược CNH-HĐH đất nước, nhằm đưa nước ta
trở thành một nước công nghiệp phát triển vào những năm 2020, với
thu nhập bình quân đầu người 5000-6000 USD/năm. Nhưng để thực
hiện được mục tiêu đó chúng ta cần một lượng vốn rất lớn. Do đó
hoạt động huy động vốn đang từng ngày, từng giờ diễn ra sôi động
khẩn trương và được coi là vấn đề sống còn trong chiến lược phát
triển kinh tế quốc gia.
Có thể nói vốn là điều kiện tiên quyết cho mọi hình thức sản
xuất kinh doanh. Chúng ta có thể huy động vốn trong nước và nước
ngoài, nhưng xét về mặt chiến lược lâu dài thì nguồn vốn cơ bản và
quyết định nhất vẫn là vốn trong nước.
Trong các kênh huy động vốn, huy động vốn qua ngân hàng
có ý nghĩa rất quan trọng (ở Việt nam 50% nguồn vốn chủ yếu được
hoạt động từ hệ thống các NHTM ). Công tác huy động vốn không
chỉ mang ý nghĩa quyết định thắng lợi trong kinh doanh của bản


thân ngân hàng mà còn tác động và chi phối sự phát triển về mặt
kinh tế xã hội của đất nước nói chung
Chính vì vậy, công tác huy động vốn trở thành một trong
những vấn đề nổi bật trong hoạt động ngân hàng. Và mục tiêu đặt ra


cho mỗi ngân hàng là làm sao để công tác huy động vốn đạt hiệu
quả cao nhất.
Hoạt động huy động vốn là một lĩnh vực phức tạp với những
loại hình đa dạng và chịu tác động của nhiều yếu tố. Bên cạnh một
số kết quả khách quan đã đạt được trong thời gian qua, công tác huy
động vốn qua kênh ngân hàng vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề cần được
giải quyết, với mục tiêu gắn liền lý luận khoa học với thực tế, trong
thời gian thực tập tại chi nhánh NHCT Đống Đa em mong muốn
được góp thêm tiếng nói về vấn đề này và em đã chọn đề tài: "Một
số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn taị NHCT
Đống Đa".
Đề tài chia làm 3 chương:
Chương1: Lý luận chung về nghiệp vụ huy động vốn của
NHTM.
Chương 2: Thực trạng nghiệp vụ huy động vốn tại NHCT
Đống Đa.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động
vốn tại NHCT Đống Đa.
Do thời gian thực tập và trình độ có hạn, hơn nữa đây lại là
một vấn đề có phạm vi nghiên cứu rộng và là một trong những vấn
đề đang được quan tâm cả ở tầm vĩ mô và vi mô nên chuyên đề


không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vậy kính mong được sự
góp ý của thầy, cô hướng dẫn cùng các cô chú cán bộ công nhân
viên trong ngân hàng để chuyên đề hoàn thiện hơn.

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ HUY ĐỘNG VỐN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1. TỔNG QUÁT CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
1.1. Ngân hàng thương mại (NHTM).
Ngân hàng thương mại ra đời xuất phát từ nhu cầu thực tế của
nền kinh tế.Theo các nhà kinh tế học thì NHTM có nguồn gốc từ
những người thợ kim hoàn và nó ra đời vào cuối thế kỷ 15, phổ biến
ở Châu Âu.
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều định nghĩa khác nhau về
NHTM,nhưng nội dung của nó đều có chung một tính chất đó là
việc nhận tiền kí thác,tiền gửi không kì hạn, có kì hạn để sử dụng
vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và làm phương tiện thanh
toán của nền kinh tế.
1.2. Chức năng của NHTM.
NHTM có các chức năng chủ yếu sau:


1.2.1. Chức năng làm trung gian tín dụng:
Ngân hàng làm trung gian tín dụng khi nó là "cầu nối" giữa
người có vốn và người cần vốn. Thông qua việc huy động các
khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế,ngân hàng
hình thành nên quỹ cho vay của nó rồi đem cho vay đối với nền
kinh tế, bao gồm cả cho vay ngắn hạn và cho vay dài hạn mà chủ
yếu là cho vay ngắn hạn.
Với chức năng tín dụng NHTM đã góp phần tạo lợi ích cho tất
cả các bên, trong quan hệ là người gửi tiền, người đi vay, ngân hàng
và nền kinh tế.
Đây chính là chức năng quan trọng nhất của NHTM ,vì nó
phản ánh bản chất của ngân hàng là đi vay để cho vay, nó quyết
định sự duy trì và phát triển của ngân hàng. Đồng thời nó cũng là
cơ sơ để thực hiện các chức năng sau.

1.2.2. Chức năng trung gian thanh toán:
Ngân hàng làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh
toán theo yêu cầu của khách hàng như trich tiền từ tài khoản tiền gửi
của họ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản
tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác
theo lệnh của họ.
Ở đây ngân hàng đóng vai trò là người "thủ quỹ" cho các
doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là người giữ tài khoản cuả
khách hàng.
Nền kinh tế thị trường càng phát triển chức năng này càng
được phát huy, việc thanh toán qua ngân hàng càng được mở rộng


Đối với NHTM, chức năng này góp phần tăng thêm lợi nhuận
cho ngân hàng thông qua việc thu lệ phí thanh toán. Thêm nữa nó
lại làm tăng nguồn vốn cho vay của ngân hàng, thể hiện trên số dư
Có tài khoản tiền gửi của khách hàng.
1.2.3. Chức năng "tạo tiền":
Khi có sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng, hình thành nên
ngân hàng phát hành và các ngân hàng trung gian thì ngân hàng
trung gian không còn thực hiện chức năng phát hành giấy bạc ngân
hàng. Nhưng với chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh
toán, NHTM có khả năng tạo ra tiền ghi sổ thể hiện trên tài khoản
tiền gửi thanh toán của khách hàng tại NHTM. Đây chính là một bộ
phận của lượng tiền giao dịch.
Từ khoản dự trữ tăng lên ban đầu, thông qua hành vi cho vay
bằng chuyển khoản, hệ thống ngân hàng có khả năng tạo nên số tiền
gửi gấp nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng tiền
gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi. Hệ số này, đến lượt nó
chịu tác động bởi các yếu tố: tỷ lệ dự trữ bắt buộc(r d), tỷ lệ dự trữ dư

thừa(re) và tỷ lệ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán(c)
Hệ số mở rộng tiền gửi của hệ thống NHTM (md) là:
md =1/rd+re+c
1.3. Vai trò của NHTM:
Vai trò của NHTM thể hiện trong việc vận dụng các chức
năng cúa nó và cụ thể hoá trong hoạt động của ngân hàng. Khái quát
lại, có thể nêu lên hai vai trò lớn sau đây;


1.3.1. NHTM là công cụ quan trọng thúc đẩy sự phát triển của sản
xuất lưu thông hàng hoá:
Với chức năng trung gian tín dụng, qua nghiệp vụ huy động
vốn, cho vay và đầu tư, ngân hàng đã huy động các nguồn vốn nhàn
rỗi trong xã hội, cho vay dưới các hình thức khác nhau đối với các
ngành kinh tế, các vùng, các thành phần kinh tế, đáp ứng nhu cầu
vốn của xã hội nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Với vai trò làm trung gian thanh toán, ngân hàng đã làm các
dịch vụ thanh toán cho nền kinh tế, từ đó thúc đẩy nhanh quá trình
luân chuyển hàng hoá, luân chuyển vốn trong xã hội, tiết kiệm chi
phí thanh toán cho từng cá nhân, doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả
của nền kinh tế. Đồng thời ngân hàng cũng giám sát được các hoạt
động kinh tế, góp phần tạo ra một môi trường kinh doanh lành
mạnh, tạo ra sự ổn định trong đời sống kinh tế xã hội.
1.3.2. NHTM là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng
trung ương (NHTW):
Với chức năng tạo tiền,NHTM là một trong các chủ thể tham
gia vào quá trình cung ứng tiền, tạo ra một khối lượng phương tiện
thanh toán rất lớn trong nền kinh tế.
Để thực hiện chính sách tiền tệ, NHTW phải sử dụng các công
cụ để điều tiết lượng tiền trong lưu thông, nhằm đạt được các mục

tiêu của nền kinh tế vĩ mô, đặc biệt là mục tiêu ổn định tiền tệ.
Phần lớn các công cụ của chính sách tiền tệ chỉ được thực thi có
hiệu quả khi có sự hợp tác tích cực của các NHTM như việc chấp
hành quy định dự trữ bắt buộc, quy chế thanh toán không dùng tiền
mặt và việc nâng cao hiệu quả cho vay, đầu tư.


1.4. Nghiệp vụ của NHTM:
1.4.1. Nghiệp vụ thuộc tài sản Nợ:
Nghiệp vụ này phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt
động kinh doanh của NHTM, bao gồm các nghiệp vụ sau:
a. Nghiêp vụ huy động vốn:
Bao gồm : -Huy động các loại tiền gửi:
+Tiền gửi không kỳ hạn
+ Tiền gửi có kỳ hạn
+ Tiền gửi tiết kiệm.
- Huy động qua phát hành các giấy tờ có giá như:
phát hành kỳ phiếu,trái phiếu,chứng chỉ tiền gửi.
b.Vốn đi vay:
Các NHTM có thể vay vốn từ NHTW, vay các ngân hàng
hoặc trung gian tài chinh khác.
c. Vốn của ngân hàng:
Là vốn thuộc sở hữu riêng của NHTM, bao gồm vốn điều lệ,
quỹ dự trữ và coi như tự có.
Vốn tự có của NHTM mang tính chất ổn định, nó thường
chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguốn vốn của ngân
hàng( khoảng dưới 10%) .
1.4.2. Nghiệp vụ thuộc tài sản Có:
Nghiệp vụ thuộc tài sản Có phản ánh việc sử dụng vốn của
NHTM.Nghiệp vụ này mang lại thu nhập cho ngân hàng thông qua

việc thu lãi cho vay, lãi đầu tư.
Kết cấu tài sản Có của NHTM gồm các khoản mục sau:
a. Nghiệp vụ ngân quỹ:


Phản ánh các khoản vốn của NHTM được dùng với mục đích
nhằm đảm bảo an toàn cũng như khả năng thanh toán và thực hiện
quy định về dự trữ bắt buộc của NHTW. Khoản mục này gồm: tiền
mặt tại quỹ, tiền gửi ở NHTW, tiền gửi ở ngân hàng khác .
b. Nghiệp vụ cho vay:
Nghiệp vụ này được xem là hoạt động sinh lời chủ yếu của
NHTM. Nó thường chiếm tỷ trọng lớn trong các khoản mục thuộc
tài sản có (khoảng 70%)
Hoạt động cho vay của NHTM rất đa dạng, phong phú,gồm
một số loại hình chủ yếu như:chiết khấu thương phiếu,cho vay ứng
trước,cho vay thấu chi, cho vay thuê mua, tín dụng bằng chữ kí, tín
dụng tiêu dùng ...
c. Nghiệp vụ đầu tư:
Đầu tư vào chứng khoán là hình thức phổ biến trong nghiệp vụ
tài sản Có của các NHTM và các tổ chức tín dụng. Ngân hàng có
thể đầu tư vào trái khoán chính phủ hoặc trái khoán công ty để thu
lợi tức đầu tư, do đó mang lại thu nhập cho ngân hàng. Đồng thời nó
còn làm đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh, nhằm phân tán rủi
ro và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
d. Những tài sản Có khác:
Đó là những vốn hiện vật như: nhà làm việc, máy tính, những
trang thiết bị khác do ngân hàng sở hữu.
* Ngoài các nghiệp vụ trên, NHTM còn thực hiện các dịch vụ
và hoạt động ngân hàng khác như : dịch vụ thanh toán, kinh doanh
ngoại hối, dịch vụ tư vấn tài chính tiền tệ cho khách hàng, bảo quản



hiện vật quí, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, và các dịch vụ khác theo
quy định của pháp luật.
2. NGHIỆP VỤ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM:
NHTM cũng như các doanh nghiệp trong nền kinh tế, muốn
hoạt động kinh doanh được trước tiên phải có vốn. Vậy vốn kinh
doanh của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc
huy động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các hoạt
động kinh doanh khác.
2.1. Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM:
2.1.1. Vốn là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh:
Vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh mà còn là đối
tượng kinh doanh chủ yếu của NHTM, vốn phản ánh năng lực chủ
yếu để quyết định khả năng kinh doanh. Cho nên ngoài vốn điều lệ (
hay vốn pháp định ) mà ngân hàng phải có để đi vào hoạt động
được ghi trongvăn bản pháp quy, ngân hàng còn phải thường xuyên
quan tâm tới việc làm tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt
động của mình.
2.1.2. Vốn quyết định quy mô hoạt động, tầm cỡ của ngân hàng:
Vốn của ngân hàng quyết định đến việc mở rộng hay thu hep
khối lượng tín dụng. Chẳng hạn một ngân hàng có vốn lớn có thể
cho vay hay đầu tư tới cả vùng tại thị trường trong nước, thậm chí
cả quốc tế. Ngược lại nếu ngân hàng có vốn nhỏ thì chỉ giới hạn tín
dụng trong phạm vi hep, chủ yếu trong vùng. Do khả năng vốn nhỏ
nên các ngân hàng nhỏ không phản ứng nhạy bén được với sự biến
động về lãi suất, gây ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư từ
các tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế.



2.1.3. Vốn quyết định năng lực thanh toán và là điề kiện để ngân
hàng có vị thế trên thương trường.
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng
quy mô hoạt động, đòi hỏi ngân hàng phải có uy tín lớn trên thị
trường. Uy tín đó phải được thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng
chi trả thanh toán cho khách hàng của ngân hàng. Vốn khả dụng của
ngân hàng càng lớn thì khả năng thanh toán của ngân hàng càng
cao, ngân hàng có thể mở rộng kinh doanh, tiến hành các hoạt động
cạnh tranh có hiệu quả nhằm vừa giữ chữ tín , vừa nâng cao vị thế
của mình trên thương trường.
2.1.4. Vốn lớn tạo cho ngân hàng có khả năng cạnh tranh cao:
Ngân hàng có vốn lớn là điều kiện thuận lợi để mở rộng quan
hệ tín dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng
tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn cho vay, thậm chí quyết
định cả mức lãi suất vừa phải cho khách hàng. Điều đó sẽ thu hút
được nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của ngân hàng sẽ tăng
lên nhanh chóng..
Vốn của ngân hàng lớn sẽ giúp ngân hàng có đủ khả năng tài
chính để kinh doanh đa năng trên thị trường, không chỉ đơn thuần là
cho vay mà còn mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết kinh
doanh dịch vụ thuê mua, kinh doanh trên thị trường chứng khoán ,
bảo lãnh, mua bán nợ (factoring) ... và chính các hình thức kinh
doanh đa năng này góp phần phân tán rủi ro cho ngân hàng.
2.2. Các hình thức huy động vốn của NHTM:
NHTM là một tổ chức trung gian tài chính, chuyển vốn từ
"nhà tiết kiệm" sang "nhà đầu tư", với phương châm hoạt động "đi


vay để cho vay", vì vậy để đáp ứng nhu cầu vốn cho khách hàng thì
ngân hàng phải thực hiện huy động vốn.

Quá trình huy động vốn của ngân hàng thể hiện ở các hình
thức sau:
2.2.1 Huy động vốn tiền gửi:
a. Tiền gửi không kì hạn:
Tiền gửi không kì hạn là loại tiền gửi mà khách hàng có thể
rút ra bất cứ lúc nào, khách hàng có thể yêu cầu ngân hàng trích tiền
từ tài khoản của mình để chi trả cho người được hưởng về tiền hàng
hoá, cung ứng lao vụ... Đối với khoản tiền gửi này mục đích chính
của người gửi tiền là nhằm đảm bảo an toàn về tài sản và thực hiện
các khoản thanh toán qua ngân hàng, do vậy nó thường dược gọi là
khoản tiền thanh toán. ở nhiều nước phần lớn các giao dịch thanh
toán thông qua tài khoản tiền gửi thanh toán được thực hiện bằng
Séc và do vậy người ta cũng có thể gọi đây là khoản tiền gửi có thể
phát hành Séc (checking account) .
Đối với ngân hàng thì khoản tiền gửi không kì hạn, ngân hàng
chỉ phải chi phí trả lãi thấp, đồng thời cũng thu phí thanh toán khi
khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Nếu hấp dẫn được
số lượng khách hàng lớn, đảm bảo số dư ổn định, ngân hàng có thể
sử dụng cho vay ngắn hạn thậm chí cả dài hạn, bởi vì các khách
hàng không bao giờ rút hết tất cả tiền gửi thanh toán ở ngân hàng
cùng một lúc.
b. Tiền gửi có kì hạn:
Là loại tiền gửi mà khi gửi tiền vào khách hàng chỉ được rút
ra sau một thời hạn nhất định, từ một vài tháng đến một vài năm.


Mục đích của người gửi tiền có kì hạn là để lấy lãi, ngân hàng có
thể chủ động sử dụng nguồn vốn này để cho vay, vì vậy ngân
hàng phải trả lãi cho loại tiền gửi này, lãi cao hay thấp thường phụ
thuộc vào thời hạn gửi tiền và các yếu tố khác trên thị trường.

Về nguyên tắc ngân hàng chỉ có thể rút tiền ra theo thời hạn đã
qui định, tuy nhiên trên thực tế để nâng cao uy tín và chất lượng
dịch vụ, lôi kéo khách hàng, ngân hàng cho phép khách hàng được
rút trước hạn nhưng không được hưởng lãi hoặc được hưởng lãi
thấp hơn quy định.
c. Tiền gửi tiết kiệm:
Tiền gửi tiết kiệm là tiền gửi của dân cư được gửi vào ngân
hàng nhằm mục đích hưởng lãi. Hình thức phổ biến và cổ điển nhất
là loại tiền gửi tiết kiệm có sổ, người gửi tiền được Ngân hàng cấp
cho một quyển sổ dùng để ghi số tiền gửi vào và rút ra.
Việt nam vừa qua có các loại tiền gửi tiết kiệm sau:
-Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn:
Là loại tiền gửi mà khách hàng có thể gửi nhiều lần và rút ra bất
cứ lúc nào.
-Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Đây là khoản tiền gửi mà khách
hàng chỉ được rút ra khi đến hạn thanh toán. Trên thực tế để thu hút
khách hàng, ngân hàng vẫn cho phép khách hàng rút trước hạn với
điều kiện hưởng lãi suất thấp (thường bằng mức tiền gửi tiết kiệm
không kỳ hạn)
-Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: thường là hình thức tiết kiệm
trung dài hạn nhằm mục đích xây dựng nhà ở. Những người than gia


loại hình này ngoài việc hưởng lãi còn được ngân hàng cho vay
nhằm mục đích bổ xung thêm vốn cho xây dựng nhà ở.
2.2.2 Huy động bằng hình thức đi vay:
Các NHTM có thể vay vốn từ NHTW và các ngân hàng hoặc
trung gian tài chính khác
a.Vay từ NHTW:
Trong hệ thống ngân hàng hai cấp, NHTW luôn đóng vay trò

là người cho vay cuối cùng đối với ngân hàng thương mại. NHTM
sau khi khai thác hết nguồn vốn trên thị trường sẽ vay của NHTW.
Khoản vay này liên quan đến lượng tiền trung ương, đến việc thực
hiện chính sách tiền tệ của NHTW.
NHTW cấp tín dụng cho các NHTM chủ yếu dưới hai hình
thức:
-Tái cấp vốn, mà chủ yếu dưới hình thức tái chiết khấu các
chứng từ có giá
-Cho vay thế chấp ứng trước.

b.Vay các tổ chức tín dụng khác:
Thông thường các ngân hàng được quyền vay lẫn nhau khi cần
thiết, dựa trên mức lãi suất công bố thường xuyên trên thị trường
liên ngân hàng, trường hợp vay bằng ngoại tệ thì hai ngân hàng có
thể có những thoả thuận khác.Các khoản vay này đáp ứng nhu cầu
vốn tạm thời mang tính thời điểm, nó mang lại lợi ích cho cả đôi
bên, có ngân hàng đang có nguồn vốn dư thừa đồng thời có ngân
hàng khác lại thiếu vốn. Các khoản vay này có thời hạn rất ngắn,
thường qua đêm hoặc không quá một tuần.


Ngoài ra có thể vay từ các ngân hàng nước ngoài, các khoản
vay này thường rất lớn, lãi suất ưu đãi nhưng điều kiện vay lại rất
cao, phải được cơ quan kiểm toán quốc tế kiểm tra sổ sách kế toán,
các khoản vay thường dành cho các dự án khả thi.
2.2.3. Huy động thông qua phát hành các công cụ Nợ:
Các NHTM phát hành các chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu ngân
hàng, trái phiếu ngân hàng để huy động vốn trong một thời gian
nhất định. Đây là bộ phận chiếm tỷ trọng thấp hơn so với vốn tiền
gửi, nguồn này tuỳ theo thời điểm khi nào ngân hàng cần thì mới

huy động. Nguồn này ngân hàng chủ động được thời gian sử dụng,
số lượng và giá cả của vốn. Tuy nhiên ngân hàng phải trả mức lãi
suất cao hơn mức lãi suất huy động tiền gửi. Việc phát hành kì
phiếu, trái phiếu ngoài mục đích huy động vốn còn có tác dụng
kiềm chế lạm phát và góp phần cho sự hình thành và phát triển của
thị trường chứng khoán.
2.2.4. Huy động vốn dưới hình thức mở tài khoản cá nhân:
Đối tượng mở tài khoản cá nhân là tât cả các tầng lớp dân cư,
bao gồm doanh nghiệp tư nhân, hộ sản xuất kinh doanh, những
người buôn bán hàng hoá,.. Mục đích của người mở tài khoản này là
để đảm bảo an toàn và sử dụng các dịch vụ của ngân hàng, khi đó
ngân hàng sẽ sử dụng được số vốn đó trong những khoảng thời gian
rỗi từ khi gửi tiền vào tài khoản đến khi sử dụng tiền.
Ở các nước,sử dụng tài khoản này khách hàng chỉ được hưởng
các dịch vụ của ngân hàng chứ không được hưởng lãi.Nhưng ở


nước ta, để kích thích hình thức này phát triển, ngân hàng để người
gửi tiền được hưởng một mức lãi suất thấp và không phải trả lệ phí.
2.2.5. Các hình thức tạo vốn khác:
Ngân hàng có thể tạo vốn khi thực hiện chức năng trung gian
thanh toán: L/C, Uỷ nhiệm thu, Uỷ nhiệm chi, Séc, tài sản thu hộ,
chi hộ...
Vốn thu hút từ nước ngoài dưới hình thức như nhận tiền gửi
ngoại tệ, chuyển ngoại tệ, kinh doanh ngoại hối...
3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NGHIỆP VỤ HUY
ĐỘNG VỐN:
Nguồn vốn huy động có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt
động kinh doanh của NHTM, nhưng mức độ ổn định, quy mô, cơ
cấu của nó lại phụ thuộc vào nhiều nhân tố - cả nhân tố khách quan

lẫn nhân tố chủ quan của ngân hàng.
3.1. Các nhân tố khách quan:
3.1.1. Tâm lý tập quán của dân cư:
Mặc dù nước ta là nước đang phát triển, cuộc sống của người
dân tuy đã khá hơn nhưng họ vẫn có thói quen sử dụng tiền mặt, giữ
tiền tại nhà hoặc mua vàng bạc, đá quý tích luỹ. Do vậy nhân tố này
ảnh hưởng lớn đến nguồn vốn huy động tiết kiệm của ngân hàng.
3.1.2. Thu nhập của dân cư:
Muốn có tiền gửi vào ngân hàng, trước tiên người gửi phải có
thu nhập, mức thu nhập này phải đủ lớn để người dân có khoản dư
thừa gửi vào ngân hàng. Như thế mức thu nhập của dân cư càng cao
thì mức gửi vào ngân hàng càng nhiều.


3.1.3. Mức độ ổn định của nền kinh tế:
Khi nền kinh tế phát triển và ổn định thì trình độ dân trí của
người dân được nâng lên, việc nắm giữ tiền trong dân cư giảm
xuống, mọi hoạt động giao dịch của khách hàng đều thông qua ngân
hàng. Đây là yếu tố làm cho nguồn vốn huy động của ngân hàng
tăng lên.
3.1.4. Lạm phát:
Lạm phát ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy động vốn của
ngân hàng, người dân gửi tiền vào ngân hàng hy vọng sẽ thu được
khoản tiền lãi nhất định. Lạm phát cao hoặc biến động mạnh có thể
làm trượt giá đồng tiền, người dân sẽ chuyển các tài sản của họ dưới
dạng tiền gửi thành các hình thái giá trị khác có giá trị và tính ổn
định cao hơn.
3.2. Các nhân tố thuộc về ngân hàng:
Địa điểm giao dịch, lãi suất do ngân hàng đưa ra, đội ngũ cán
bộ nhân viên ngân hàng, cơ sở vật chất kỹ thuật, chất lượng dịch vụ

của ngân hàng cung ứng...Tất cả các nhân tố này tạo nên sức mạnh
tổng hợp của NHTM trong hoạt động kinh doanh nói chung và
trong hoạt động huy động vốn nói riêng.
3.2.1. Mức lãi suất ngân hàng đưa ra:
Lãi suất huy động là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng
huy động vốn của NHTM, việc duy trì lãi suất tiền gửi cạnh tranh
với các ngân hàng khác là một yếu tố cực kỳ quan trọng trong việc
thu hút các khoản tiền gửi mới cũng như duy trì các khoản tiền gửi
hiện có.


3.2.2. Các hình thức huy động vốn của ngân hàng:
Hình thức huy động vốn đưa ra càng phong phú, đa dạng, linh
hoạt, thuận tiện thì khả năng thu hút vốn trong nền kinh tế càng lớn.
Chính sự đa dạng hoá các hình thức huy động vốn của ngân hàng đã
giúp cho mỗi người dân, mỗi doanh nghiệp tìm cho mình một hình
thức đầu tư hợp lý. Vì vậy các hình thức huy động vốn có tác động
rất lớn đến việc huy động vốn của ngân hàng.
3.2.3. Các dịch vụ mà ngân hàng cung ứng:
Một ngân hàng đưa ra được các dịch vụ tốt và đa dạng hơn các
ngân hàng khác thì sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn, nếu đáp
ứng được tối đa nhu cầu của khách hàng thì số lượng khách hàng
đến giao dịch sẽ đông và thường xuyên hơn. Điều này tạo cho ngân
hàng có uy tín vị thế trên thương trường.
3.2.4. Chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng:
Hoạt động tín dụng có vai trò rất quan trọng trong việc tập
trung huy động vốn của ngân hàng. Nếu nghiệp vụ huy động vốn là
cơ sở để ngân hàng thực hiện kinh doanh thì chất lượng tín dụng
quyết định đến việc đem lại lợi nhuận cho ngân hàng và hiệu quả
cho nền kinh tế. Nếu công tác tín dụng, chất lượng đầu tư cho các

dự án lớn có hiệu quả nó kích thích việc huy động vốn nhiều hơn và
ngược lại.


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG NGHIỆP VỤ HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHCT
ĐỐNG ĐA
1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA NHCT ĐỐNG ĐA:
1.1. Môi trường hoạt động của NHCT Đống Đa:
NHCT Đống Đa là một ngân hàng công thương cấp Quận,
trực thuộc NHCT Việt nam, Có trụ sở tại 187-Tây Sơn, Đống Đa,
Hà nội.
NHCT Đống Đa hiện nay có 287 cán bộ công nhân viên, trong
đó phần lớn các cán bộ công nhân đã có trình độ đại học và cao
đẳng, số cán bộ công nhân viên này đang được đào tạo thêm để
không ngừng nâng cao trình độ.
Đống Đa là một Quận có địa bàn rộng lớn, với 36 vạn dân, là
nơi tập trung nhiều các công ty lớn và các doanh nghiệp tư nhân,
các tổ hợp sản xuất, các hợp tác xã, các tiểu thủ công nghiệp và các
hộ công thương. Đồng thời trên khu vực Quận Đống Đa cũng có rất
nhiều điểm thương mại lớn, do đó đã tạo nên một môi trường thuận
lợi cho hoạt động của NHCT Đống Đa.
Tuy có rất nhiều thuận lợi song ngân hàng vẫn còn nhiều khó
khăn trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình: Do kinh
doanh trên địa bàn mang tính chất nội địa nhiều, số lượng hàng hoá
xuất khẩu chiếm tỷ trọng nhỏ, dịch vụ du lịch và các dịch khác còn
hạn chế, chính vì thế nó cũng phần nào làm giảm khối lượng tín
dụng. Mặt khác, nguồn vốn huy động của ngân hàng chủ yếu là
nguồn tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu với lãi suất đầu vào hơi cao
trong khi nguồn vốn của các tổ chức kinh tế chiếm tỷ trọng 30-35%



trong tổng nguồn vốn huy động. Mặc dù vậy, trong những năm qua
ngân hàng công thương Đống Đa vẫn là một ngân hàng hoạt động
kinh doanh tốt, thích ứng với nền kinh tế thị trường, bộ máy tổ chức
hành chính của ngân hàng được bố trí thành các phòng ban chức
năng tương dối hoàn chỉnh. Các bộ phận này được chuyên môn hoá
theo nghiệp vụ của ngân hàng, nhưng nó có quan hệ hữu cơ với
nhau, hỗ trợ cho nhau trong quá trình kinh doanh. Cùng đóng góp
vào công cuộc đổi mới của NHCT Đống Đa nói riêng và toàn hệ
thống ngân hàng nói chung.
NHCT Đống Đa được thành lập từ năm 1988. So với nhiều
NHTM khác thì bề dầy kinh nghiệm của NHCT Đống Đa còn có
phần khiêm tốn nhưng với 13 năm hoạt động cũng là một khoảng
thời gian dài đủ để khẳng định hướng đi đúng đắn cũng như vai trò,
vị trí của ngân hàng trong thời kỳ đổi mới của đất nước.
Với phương châm "nhanh chóng, chính xác, an toàn" trong tất
cả các lĩnh vực của ngân hàng, ứng dụng công nghệ ngân hàng tiên
tiến, tiết kiệm thời gian, giảm chi phí và phong cách phục vụ ngân
hàng tận tình, NHCT Đống Đa ngày càng chiếm được tình cảm và
sự tín nhiệm của khách hàng. Mục tiêu của NHTM là doanh lợi,
nhưng với NHCT Đống Đa còn là sự an toàn, thúc đẩy phát triển
kinh tế xã hội thực thi chính sách tiền tệ. Quán triệt tinh thần này
NHCT Đống Đa luôn chủ động trong kinh doanh và ngày càng có
vai trò quan trọng đối với nền kinh tế trên địa bàn.
1.2. Mô hình tổ chức của NHCT Đống Đa:
Ban lãnh đạo gồm: Giám đốc và hai Phó giám đốc


Có 10 phòng ban: Phòng kinh doanh, phòng kế toán, phòng

tiền tệ kho quỹ, phòng tổ chức hành chính, phòng kiểm soát, phòng
nguồn vốn, phòng thông tin điện toán, phòng kinh doanh đối ngoại,
hai phòng giao dịch Kim Liên và Cát Linh. Ngoài ra còn có 14 quỹ
tiết kiệm nằm rải rác trên địa bàn Quận Đống Đa:


Giám đốc
P. Giám đốc

Phòng
Giao
dịch
Kim
Liên

Phòng
Giao
dịch
Cát
Linh

Phòng
Kinh
doanh

Phòng
Kinh
Doanh
đối
ngoại


P.Giám đốc

Phòng
Kế
toán
Tài
chính

Phòng
Kiểm
tra

Phòng
Tiền
Tệ Kho
quỹ

Phòng
Nguồn
Vốn

14 Quỹ TK

Phòng
Tổ
Chức
Hành
chính


Phòng
Thông
Tin
điện
toán


1.3. Một số nghiệp vụ chủ yếu của NHCT Đống Đa:
1.3.1. Huy động vốn:
Ngay từ khi mới thành lập, NHCT Đống Đa luôn xác định
công tác huy động vốn là một chiến lược quan trọng và hết sức cần
thiết trong hệ thống chiến lược kinh doanh của mình. Sử dụng các
hình thức huy động vốn như: Huy động tiền gửi tiết kiệm không kỳ
hạn, có kỳ hạn, tiền gửi của tổ chức kinh tế , cá nhân bằng VNĐ và
ngoại tệ, kỳ phiếu mục đích. Nguồn vốn huy động của ngân hàng đã
không ngừng tăng lên qua các năm:
Năm 1999 tổng huy động được 1429 tỷ (gồm cả VNĐ và
ngoại tệ quy dổi ). Năm 2000 tổng huy động là 1850 tỷ. Năm 2001
là 2010 tỷ. Đặc biệt, ngoài việc tự cân đối vốn tại chỗ ngân hàng
còn một bộ phận vốn thừa điều chuyển về NHCT Việt nam.
1.3.2. Sử dụng vốn:
Với phương châm "đi vay để cho vay" NHCT Đống đa đã kế
hoạch hợp lý trong việc sử dụng vốn làm sao có hiệu quả nhất.
NHCT Đống đa luôn luôn quan tâm đến việc đầu tư tín dụng,
từ việc tìm kiếm khách hàng, mở rộng thị trường đến công tác điều
tra khảo sát khách hàng, thẩm định các dự án, thực hiện đúng quy
trình nghiệp vụ cho vay. Tiến hành kiểm tra trước, trong và sau khi
cho vay. Luôn sàng lọc và phân loại khách hàng, phân loại dư nợ để
từ đó có những biện pháp xử lý kịp thời như thu lợi trước hạn,xử lý
tài sản đảm bảo...

Kết quả đạt được là dư nợ và các khoản đầu tư khác tiếp tục
tăng so với các năm khác.


Bên cạnh chủ trương trọng yếu đầu tư cho thành phần kinh tế
quốc doanh, ngân hàng còn đầu tư cho thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh. Mặc dù đầu tư cho lĩnh vực ngoài quốc doanh hay có tỷ
lệ rủi ro cao nhưng ngân hàng không loại bỏ nó mà tìm cách để đầu
tư cho lĩnh vực này làm sao cho có hiệu quả và hợp lý nhất:


Bảng: Tình hình sử dụng vốn:
Đơn vị: tỷ đồng
N
ăm
Tổng dư nợ
1.Theo thành phần kinh
tế
- Quốc doanh
- Ngoài quốc doanh
2.Theo thời gian
- Ngắn hạn
- Dài hạn

1999
TT(%
DS
)

2000

TT(%
DS
)

700

100

950

100

1490

100

570

81,4

800

84,2

1320

88,6

130


18,6

150

15,8

170

11,4

584

83,4

550

57,9

834

56

116

16,6

400

42,1


656

44

DS

2001
TT(%
)

Qua số liệu trên cho thấy NHCT Đống đa đã tập trung cho vay
nhiều vào thành phần kinh tế quốc doanh. Năm 1999 là 570 tỷ, năm
2000 là 800 tỷ, năm 2001 là 1320 tỷ
Dư nợ ngoài quốc doanh năm 2001 đạt 170 tỷ, tăng hơn các
năm trước nhưng về tỷ trọng trong tổng dư nợ thì lại thấp hơn các
năm 1999 và 2000.
Dư nợ ngắn hạn tăng dần, năm 1999 đạt 584 tỷ, đến năm 2001
lên tới 834 tỷ.
Dư nợ dài hạn được ngân hàng chú trọng hơn, từ chỗ chỉ có
116 tỷ với tỷ trọng 16.6% năm 1999 thì đến năm 2001 là 656 tỷ
chiếm 44% tổng dư nợ.


Ngoài dư nợ tăng trưởng liên tục thì chất lượng tín dụng cũng
được tăng lên, tỷ lệ nợ quá hạn giảm xuống, cụ thể:
Bảng: Tình hình nợ quá hạn
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Tổng dư nợ
Trong đó:

Nợ quá hạn
Tỷ lệ (%)

1999
700

2000
950

2001
1490

20
2,9%

16
1,7%

14
1,67%

Ta thấy nợ quá hạn của NHCT Đống đa đã giảm nhiều. Năm
1999 nợ quá hạn là 2,9%, con số này cao nhưng vẫn ở mức cho
phép (<3%). Năm 2001 chỉ còn 1,67% chứng tỏ ngân hàng sử dụng
tốt công tác sử dụng vốn, thẩm định đúng đắn trước khi cho vay, có
biện pháp thu nợ kịp thời khi phát hiện những khoản cho vay có vấn
đề...
1.3.3. Hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh đối ngoại:
a. Thanh toán quốc tế:
Năm 2000 chi nhánh đã mở :

286 món L/C nhập khẩu, giá trị 22,042.000 USD
20 món L/C xuất khẩu, giá trị 313.000 USD
Năm 2001 chi nhánh mở :
384 món L/C nhập khẩu giá trị 41,736,511.35 USD
32 món L/C xuất khẩu giá trị 381,889.94 USD
Do chi nhánh có rất ít khách hàng là doanh nghiệp làm xuất
khẩu nên chi nhánh thường xuyên phải mua ngoại tệ của NHCT


×