Tải bản đầy đủ (.doc) (108 trang)

BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG vốn tại AGRIBANK AN DƯƠNG hải PHÒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (567.8 KB, 108 trang )

BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM

CN. PHẠM THỊ HIỀN

BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN
TẠI AGRIBANK AN DƯƠNG - HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

HẢI PHÒNG - 2016


BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM

CN. PHẠM THỊ HIỀN

BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN
TẠI AGRIBANK AN DƯƠNG - HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ

MÃ SỐ: 60340410



CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Từ Sĩ Sùa

HẢI PHÒNG - 2016


LỜI CẢM ƠN
Luận văn được thoàn thành tại Trường Đại học Hàng Hải Việt Nam, có
được bản luận văn này, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất
đến Trường Đại học Hàng Hải Việt Nam, Khoa Quản lý kinh tế đặc biệt là
PGS.TS. Từ Sĩ Sùa đã trực tiếp hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình thực hiện
luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo - Các nhà khoa học đã trực tiếp
giảng dạy, truyền đạt những kiến thức chuyên ngành Quản lý kinh tế cho bản thân
tác giả suốt những năm tháng qua.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến bạn bè, đồng nghiệp, và gia đình
đã động viên, khích lệ, tạo điều kiện giúp đỡ tác giả hoàn thành luận văn này.
Luận văn là kết quả của quá trình nghiên cứu khoa học công phu, nghiêm túc
của bản thân tác giả, tuy nhiên do điều kiện tài liệu, thời gian và kiến thức có hạn
nên không thể tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Tác giả rất mong nhận
được sự tham gia góp ý và chỉ bảo của các Thầy cô giáo và bạn bè, đồng nghiệp.
Cuối cùng, một lần nữa tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, các
cơ quan, đơn vị và cá nhân đã giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và hoàn thành
luận văn này.
Hà Nội, ngày 15 tháng 03 năm 2016
Tác giả luận văn

Phạm Thị Hiền


i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Tác giả luận văn

Phạm Thị Hiền

ii


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN..................................................................................................................................i
LỜI CAM ĐOAN............................................................................................................................ii

iii


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
AGRIBANK
BHXH
CBCNV
CBNV
CNH – HĐH
GTCG

HĐBT
HĐQT
HĐV
KBNN
NNL
NH
NHNN
NHNo&PTNT
NHTM

Nghĩa đầy đủ
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Bảo hiểm xã hội
Cán bộ công nhân viên
Cán bộ nhân viên
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
Giấy tờ có giá
Hội đồng bộ trưởng
Hội đồng quản trị
Huy động vốn
Kho bạc nhà nước
Nguồn nhân lực
Ngân hàng
Ngân hàng nhà nước
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
Ngân hàng thương mại

NHTMCP
NHTW
TCKT

TCTD
UBND

Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngân hàng trung ương
Tổ chức kinh tế
Tổ chức tín dụng
Ủy ban nhân dân

iv


DANH MỤC BẢNG
Số bảng
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
2.6
2.7
2.8
2.9
2.10

Tên bảng
Kết quả phát hành thẻ giai đoạn 2011 – 2015
Kết quả kinh doanh giai đoạn 2011 – 2015
Kết quả huy động vốn giai đoạn 2011 – 2015
Cơ cấu vốn huy động theo kỳ hạn giai đoạn 2011 –

2015
Cơ cấu nguồn vốn huy động theo loại tiền giai đoạn
2011 – 2015
Hình thức huy động vốn giai đoạn 2011 – 2015
Mối quan hệ giữa sử dụng vốn và huy động vốn giai
đoạn 2011 – 2015
Cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn cho vay
theo kỳ hạn giai đoạn 2011 – 2015
Cân đối giữa huy động vốn cho vay theo loại tiền giai
đoạn 2011 – 2015
Các chỉ tiêu về thu lãi tiền vay, trả lãi tiền gửi

v

Số trang
43
44
45
48
51
54
59
60
61
63


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Số biểu đồ
2.1

2.2
2.3
2.4

Tên biểu đồ
Tổng nguồn vốn huy động giai đoạn 2011 – 2015
Cơ cấu vốn huy động theo kỳ hạn giai đoạn 2011 –
2015
Cơ cấu nguồn vốn huy động theo loại tiền giai đoạn
2011 – 2015
Hình thức huy động vốn giai đoạn 2011 – 2015

vi

Số trang
41
50
53
58


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nền kinh tế phát triển đòi hỏi một lượng vốn lớn bởi vì vốn là yếu tố quan
trọng góp phần vào thành quả chung của công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước, đưa nước ta dần thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, tụt hậu, từ đó tiến nhanh,
tiến chắc ngang với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Nguồn vốn là yếu tố đầu vào quan trọng và cần thiết đối với mọi chủ thể của
nền kinh tế, với Nhà nước nếu không có vốn sẽ không thực hiện được các mục tiêu
kinh tế xã hội, đối với các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh cá thể vốn là yếu tố đầu

vào cơ bản trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Nước ta đang trong quá trình
đổi mới, phát triển đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì vốn càng trở nên bức thiết hơn bao giờ
hết. Chúng ta cần vốn để phát triển sản xuất, đầu tư, tạo chuyển biến về chất lượng
trong quản lý, khoa học công nghệ đồng thời đổi mới cơ cấu và chất lượng sản phẩm
cũng như giải quyết được những tình trạng thâm hụt Ngân sách Nhà nước.
Nguồn vốn không chỉ đơn thuần là tiền mặt mà chúng ta phải xem xét nó cả
dưới dạng vật chất và phi vật chất. Hoạt động huy động vốn không chỉ đơn thuần
là thu hút mọi nguồn lực mà còn phải chọn lọc và sử dụng vốn đó sao cho có hiệu
quả nhất. Muốn huy động được vốn thì phải thông qua thị trường tài chính, trong
đó ngân hàng thương mại là nòng cốt. Bản chất của NHTM là tổ chức tài chính
trung gian, kinh doanh tiền tệ dựa vào các biện pháp thích hợp tập trung mọi nguồn
vốn còn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức, doanh nghiệp để cho vay và
đầu tư số tiền huy động được, đồng thời làm các dịch vụ ngân hàng khác. Vì vậy
trong thời kỳ hiện nay, NHTM gánh trên vai trọng trách to lớn là tiếp tục hoàn
thiện và phát triển làm tốt chức năng dẫn vốn cho nền kinh tế thông qua việc di
chuyển vốn từ nơi có hiệu quả thấp sang đầu tư nơi có hiệu quả cao hơn nhằm xây
dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, đổi mới công nghệ.

1


NHTM cung cấp phần lớn vốn cho nền kinh tế. Vốn của ngân hàng bao gồm
nhiều loại nhưng vốn huy động luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Huy động vốn là điều
kiện đầu tiên và là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ ở các nước trên thế giới
nhưng quá trình này thường kèm theo sự bất ổn định và nó được thể hiện rất rõ trong
lĩnh vực ngân hàng, một lĩnh vực nhạy cảm với các yếu tố tác động bên ngoài. Muốn
tồn tại và phát triển bền vững, mỗi ngân hàng cần phải lựa chọn con đường đi phù
hợp nhất và nâng cao được uy tín của mình, uy tín đó được thể hiện trước hết thông

qua khả năng tài chính.
Do nguồn vốn có vị trí quan trọng như vậy đối với sự phát triển của nền kinh
tế nói chung và của ngân hàng nói riêng, nên vấn đề huy động vốn như thế nào để
đạt hiệu quả cao đang rất được quan tâm hiện nay.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác huy động vốn đối với NHTM
trong giai đoạn hiện nay, tác giả đã chọn đề tài “Biện pháp nâng cao hiệu quả
huy động vốn tại Agribank An Dương - Hải Phòng” làm đề tài luận văn thạc sĩ
của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
• Luận giải những vấn đề lý luận cơ bản liên quan tới hoạt động huy động
vốn, hiệu quả và các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả huy động vốn của các ngân
hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
• Phân tích và đánh giá thực trạng hiệu quả huy động vốn tại Agribank An
Dương để thấy rõ những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân
của nó.
• Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Agribank An Dương
trong điều kiện tự do hóa cạnh tranh đang diễn ra ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
•Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu lý luận và thực tiễn hiệu quả huy động
vốn của ngân hàng thương mại.
•Phạm vi nghiên cứu:

2


Hiệu quả huy động vốn tại Agribank An Dương giai đoạn 2011 - 2015, từ đó
đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn
đến 2020.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn đã tập trung làm rõ các vấn đề cơ bản về vốn, huy động vốn và hiệu

quả huy động vốn của Ngân hàng thương mại, trong đó trọng tâm là nghiên cứu
các tiêu chí đánh giá và các nhân tố ảnh hướng tới hiệu quả huy động vốn của
Ngân hàng thương mại.
Luận văn đã phân tích rõ thực trạng hiệu quả huy động vốn tại Agribank An
Dương, những kết quả đạt được, tồn tại và nguyên nhân của nó, từ đó đề xuất một
số giải pháp và kiến nghị có căn cứ khoa học và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu của
huy động vốn tại Agribank An Dương trong điều kiện tự do cạnh tranh hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong quá trình thực hiện luận
văn:
- Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phân tích tổng hợp, phân
tích thống kê kết hợp các công thức, bảng biểu để tính toán, minh họa, so sánh từ
đó rút ra kết luận.
- Phương pháp kế thừa những nghiên cứu đã có, thu thập thông tin, tài liệu
phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
6. Kết cấu của Luận văn
Luận văn được trình bày theo 3 chương với nội dung cơ bản sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng
thương mại
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại Agribank Chi nhánh An Dương
– Hải Phòng giai đoạn 2011-2015
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại
Agribank Chi nhánh An Dương – Hải Phòng

3


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ
HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Vốn của Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm về vốn của NHTM
Hoạt động của NHTM luôn gắn liền với công tác huy động vốn. Vậy ta hiểu
như thế nào là vốn?
Vốn là các tài sản trong xã hội được đưa vào đầu tư nhằm mang lại hiệu quả
trong tương lai. Vì thế trong nền kinh tế thị trường dù hoạt động trong lĩnh vực
nào thì vốn cũng là một yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của hoạt động đó.
Ngân hàng cũng vậy, muốn hoạt động kinh doanh có hiệu quả, mang lại hiệu quả
cao thì công tác huy động vốn cần phải được quan tâm đúng mức.
Nước ta cũng như bất kỳ nước nào trên thế giới, muốn thực hiện CNH, HĐH
thì cần phải có vốn. Vốn là chìa khóa, là điều kiện hàng đầu để thực hiện CNH,
HĐH. Song vốn được tạo lập từ đâu, bằng cách nào phụ thuộc rất lớn vào cơ chế,
chính sách tạo vốn.
Các NHTM có thể được tổ thức theo nhiều loại hình thức khác nhau, chẳng
hạn như Nhà nước tư nhân, ngân hàng Cổ phần, ngân hàng Thương mại Nhà nước
và các ngân hàng liên doanh. Dưới bất kỳ hình thức nào, các NHTM vẫn luôn đặt
mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận lên hàng đầu. Và để làm được điều đó, công cụ mà
các Ngân hàng phải có đó là nguồn vốn.
Nguồn vốn của NHTM đóng vai trò quan trọng không chỉ trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng mà còn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội. Vậy, nguồn vốn của NHTM là gì?
Các nhà kinh tế đưa ra định nghĩa về nguồn vốn của NHTM như sau:
Nguồn vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do bản thân
ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được, dùng để đầu tư cho vay, hoặc

4



thực hiện các hoạt động kinh doanh khác của mình.
Theo như định nghĩa trên thì nguồn vốn mà NHTM tạo lập được là một phần
lợi nhuận hoặc là vốn góp của các chủ sở hữu hàng năm, vốn huy động là một phần
thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu
dùng, được người chủ sở hữu của khoản vốn đó gửi vào ngân hàng để thực hiện
các mục đích khác nhau. Nói cách khác, họ chuyển quyền sử dụng khoản sử dụng
đó. Như vậy, NHTM đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại vốn cho nền
kinh tế dưới hình thức tiền tệ, kết quả là làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn,
phục vụ và kích thích mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh phát triển. Nguồn vốn
mà ngân hàng tạo lập và huy động được đã góp phần quan trọng trong việc đầu tư
phát triển sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp nói riêng cũng như sự phát
triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung. Đồng thời cũng chính các hoạt
động đó lại là yếu tố mang tính chất quyết định đến sự tồn tại và phát triển hoạt
động kinh doanh của bản thân ngân hàng.
1.1.1.2. Các nguồn vốn của Ngân hàng thương mại
Trong hoạt động kinh doanh, tuỳ thuộc vào tính chất, yêu cầu quản lý hay
nguồn hình thành mà người ta chia nguồn vốn theo các loại khác nhau.
Nhưng cơ bản nguồn vốn của NHTM bao gồm: Vốn chủ sở hữu (vốn tự có),
vốn huy động, vốn đi vay, vốn khác.
- Vốn chủ sở hữu:
Vốn chủ sở hữu của NHTM là vốn thuộc sở hữu của ngân hàng. Vốn tự có
chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của NHTM, song lại là điều kiện pháp lý
bắt buộc khi bắt đầu thành lập ngân hàng. Do tính chất thường xuyên ổn định của
vốn tự có mà ngân hàng có thể sử dụng nó vào các mục đích khác nhau: Phục vụ
cho bản thân ngân hàng, cho vay cũng như tham gia đầu tư góp vốn liên doanh.
Vốn chủ sở hữu còn được coi là tài sản đảm bảo, gây lòng tin với khách hàng, duy
trì khả năng thanh toán trong trường hợp ngân hàng gặp thua lỗ.
Vốn chủ sở hữu = Tổng tài sản Có - Tổng tài sản Nợ
Vốn chủ sở hữu của NHTM có thể được phân chia vào các tài sản có tạm thời


5


dài hạn như: Tài sản cố định, các khoản cho vay trung và dài hạn, các khoản đầu tư
chứng khoán dài hạn. Các loại tài sản cố định như nhà cửa, thiết bị văn phòng là
không thể thiếu để có thể vận hành hoạt động của ngân hàng. Các loại tài sản có dài
hạn là phần bổ sung vào khoản mục cho vay đầu tư mà nguồn vốn huy động không
đáp ứng đủ với lý do về mặt thời gian. Vốn chủ sở hữu của NHTM bao gồm:
+ Vốn điều lệ:
Là vốn do các cổ đông đóng góp và được ghi vào điều lệ hoạt động của ngân
hàng. Nó có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau tùy thuộc vào hình
thức sở hữu, ví dụ: Đối với các NHTM cổ phần, vốn điều lệ và vốn do các cổ đông
đóng góp dưới hình thức mua cổ phiếu; còn đối với các NHTM Nhà nước, vốn
điều lệ là vốn ban đầu do ngân sách cấp, đối với Ngân hàng tư nhân thì đó là vốn
thuộc sở hữu tư nhân,…
+ Vốn chủ sở hữu bổ sung trong quá trình hoạt động:
Vốn chủ sở hữu của NHTM có thể gia tăng theo nhiều phương thức khác nhau
tuỳ thuộc vào điều kiện hoạt động kinh doanh cụ thể của NHTM đó, bao gồm:
Nguồn bổ sung từ lợi nhuận
Nguồn bổ sung từ việc phát hành thêm cổ phần góp thêm, cấp thêm để mở
rộng quy mô hoạt động, để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng nhu cầu gia tăng
vốn chủ do NHNN quy định.
+ Các quỹ:
NHTM có nhiều các quỹ khác nhau, mỗi quỹ được sử dụng cho những mục
đích nhất định tuỳ thuộc vào tình hình kinh doanh của NHTM. Các quỹ này được
hình thành từ thu nhập của ngân hàng, bao gồm: Quỹ bổ sung vốn điều lệ, Quỹ dự
phòng bù đắp rủi ro.
Ngoài ra vốn chủ sở hữu bổ sung là một bộ phận trong nguồn vốn tự có của
NHTM, nó tồn tại dưới dạng các quỹ chuyên dụng, các quỹ đặc biệt của Ngân
hàng như: quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ phát triển kỹ thuật, quỹ phúc lợi,

quỹ khen thưởng.

6


+ Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần
Vốn chủ sở hữu là nguồn vốn quan trọng của ngân hàng, là căn cứ pháp lý để
tính toán các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng. Bởi vậy ngân
hàng thường quyết định mức vốn chủ sở hữu tối thiểu khi thành lập hoặc các
NHTM chỉ được huy động vốn không quá bội số nhất định của vốn chủ sở hữu.
- Vốn huy động
Đây là nguồn vốn chủ yếu và chiếm tỷ lệ trọng lớn nhất trong tổng nguồn
vốn của một NHTM, thông thường tỷ lệ này là 70 - 80%.
Vốn huy động không phải là nguồn vốn thuộc sở hữu của NHTM, ngân hàng
có quyền sử dụng tạm thời nguồn vốn này, nhưng nó lại là yếu tố quan trọng trong
hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vốn huy động của NHTM được xem là
những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và các cá
nhân trong xã hội thông qua việc thực hiện các nghiệp vụ huy động vốn và được
dùng làm vốn kinh doanh. Ngân hàng có thể sử dụng nhiều công cụ huy động vốn
khác nhau nhưng chủ yếu là các công cụ:
a) Tiền gửi
Tiền gửi tại NHTM gồm có tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn Trong đó:
+ Tiền gửi không kỳ hạn: Là tiền gửi mà người gửi có thể rút ra sử dụng bất
cứ lúc nào và NHTM có trách nhiệm phải thỏa mãn yêu cầu đó. Do tính lỏng cao
nên loại tiền gửi này thường được NHTM trả lãi thấp hoặc không được trả lãi.
+ Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi có sự thỏa thuận trước giữa khách hàng
và NHTM về lãi suất và thời hạn rút tiền. Phần lớn nguồn tiền gửi này có nguồn
gốc từ tích luỹ và xét về bản chất chúng được gửi với mục đích để hưởng lãi.
b. Tiền gửi tiết kiệm:
Về bản chất, tiền gửi tiết kiệm là một bộ phận thu nhập của người lao động

chưa sử dụng cho tiêu dùng, họ gửi vào Ngân hàng với mục đích tích luỹ tiền một
cách an toàn và hưởng lãi trên khoản tiền gửi đó. Trong nền kinh tế thị trường tiền
gửi tiết kiệm được phát triển dưới hai hình thức đó là: Tiền gửi tiết kiệm không kỳ
hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn

7


+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi có thể rút ra
bất cứ lúc nào song ít được sử dụng cho việc thanh toán.
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn là loại tiền gửi có sự thỏa thuận giữa ngân hàng và
người gửi về thời gian rút tiền (thường có lãi suất cao hơn tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn).
c) Các nguồn huy động khác:
Bên cạnh nghiệp vụ nhận tiền gửi, các NHTM còn sử dụng một số nghiệp vụ
trên thị trường mở để huy động vốn như: Phát hành Chứng chỉ tiền gửi và trái
phiếu: Trong đó, chứng chỉ tiền gửi là công cụ nợ ngắn hạn và trái phiếu là công cụ
nợ trung và dài hạn. Việc phát hành hai loại phiếu nợ này tuỳ thuộc vào mục đích
HĐV của NHTM cũng như sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước. Đặc điểm của
các loại giấy nợ này là chúng có lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi và tiền gửi
tiết kiệm, có tính ổn định cao.
Nguồn vốn tiền gửi là nguồn vốn lớn nhất mà NHTM thu hút được. Thông
qua việc thu hút nguồn vốn này ngân hàng sẽ nắm bắt được những thông tin về
tình hình tài chính của khách hàng để thiết lập mối quan hệ tín dụng. Hơn thế nó
còn là cơ sở của các tổ chức thanh tra, kiểm toán thực hiện chính xác những công
việc của mình. Thông qua việc thu hút vốn tiền gửi là góp phần ổn định giá trị của
đồng tiền.
- Vốn đi vay là nguồn vốn mà NHTM phải vay mượn thêm trong trường hợp
khả năng huy động bị thiếu hụt khi nhu cầu thanh toán, chi trả cho khách hàng tăng
cao. Vốn đi vay được hình thành trên quan hệ vay mượn giữa NHTM với NHTW
hoặc với các tổ chức tín dụng khác. Nguồn vốn này thường được sử dụng khi

NHTM đã sử dụng hết lượng vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn hoạt động kinh
doanh. Khoản vốn vay là khoản vốn bù đắp những thiếu hụt cấp bách của nguồn
vốn ngân hàng.
- Vốn khác: ngoài các nguồn vốn trên, NHTM còn có thể tạo lập vốn kinh
doanh cho mình thông qua việc thực hiện một số nghiệp vụ như: Làm trung gian
thanh toán, làm nghiệp vụ đại lý, phát hành các công cụ nợ như: Kỳ phiếu, trái
phiếu, tín phiếu trên thị trường vốn qua đó NHTM có thể sử dụng một lượng vốn

8


tạm thời nhàn rỗi đáng kể trong quá trình thu hộ hoặc chi hộ khách hàng. Các
khoản vay này có ý nghĩa rất quan trọng nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp
ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung, dài hạn; là giải pháp tình thế cho NHTM
trong hoàn cảnh khó khăn.
Tóm lại, vốn huy động là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn
vốn của NHTM. Điều này hoàn toàn phù hợp về mặt cơ sở lý luận vì NHTM luôn
được xem là doanh nghiệp kinh doanh đồng vốn, lấy vốn đi vay để cho vay. Vốn
huy động là công cụ chính, giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các
NHTM, quyết định trực tiếp tới những nguồn lợi cũng như uy tín của ngân hàng.
1.1.2. Huy động vốn của Ngân hàng thương mại
* Khái niệm về huy động vốn
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và
cung cấp các dịch vụ ngân hàng khác. Huy động vốn - Hoạt động tạo nguồn vốn
cho Ngân hàng thương mại - đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng
hoạt động của NHTM; nó được xem là lẽ sống quan trọng nhất của các NHTM,
đặc biệt là những ngân hàng có quy mô lớn. Nghiên cứu hoạt động huy động vốn
là một việc hết sức cần thiết để có những phương pháp quản lý cũng như sử dụng
một cách hợp lý đồng vốn huy động nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn đáp
ứng yêu cầu hoạt động kinh doanh của mình..

Huy động vốn là việc tổ chức huy động tập chung mọi nguồn vốn nhàn rỗi
trong nền kinh tế để hình thành nên nguồn vốn kinh doanh của NHTM.
* Các hình thức huy động vốn
Để có đủ vốn cho hoạt động kinh doanh thì các NHTM phải tiến hành huy
động vốn từ bên ngoài. Thông thường nguồn vốn huy động này chiếm một tỷ trọng
lớn trong kết cấu nguồn vốn của NHTM, nó rất cần thiết để đảm bảo cho NHTM
có thể hoạt động một cách bình thường. Quá trình huy động vốn của NHTM chủ
yếu dưới các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi
+ Huy động vốn bằng nhận tiền gửi không kỳ hạn

9


Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền mà chủ sở hữu của khoản tiền này có thể
rút tiền hoặc trả cho đối tác kinh doanh của họ bất kỳ lúc nào bằng hình thức phát
hành séc. Ở những nước có hệ thống ngân hàng phát triển hoạt động dựa trên công
nghệ cao, thì việc rút tiền từ tài khoản này phần lớn được thực hiện bằng điện thoại
hoặc thực hiện qua các máy rút tiền tự động ATM được lắp đặt rộng rãi.
Khách hàng gửi tiền vào tài khoản này với mục đích chủ yếu là thanh toán và
chi trả cho các hoạt động kinh doanh, các hoạt động dịch vụ phát sinh một cách
thường xuyên. Việc dễ dàng thanh toán được xem là yếu tố rất quan trọng, còn
việc hưởng lãi đối với khoản tiền gửi này chỉ là thứ yếu. Bởi vậy, loại tiền gửi này
còn được gọi là tiền gửi thanh toán. Ngược lại, đối với NHTM thì đây lại là một
nguồn vốn huy động có mức chi phí thấp nhất trong tất cả các nguồn vốn huy động
khác. Ngân hàng chỉ phải bỏ ra khoản chi phí nhỏ để quản lý tài khoản hoặc trả lãi,
bù lại là được sử dụng một phần lớn làm vốn kinh doanh. Do tỷ trọng thanh toán
không dùng tiền mặt ở Việt Nam còn quá thấp, để khuyến khích việc thực hiện
thanh toán qua ngân hàng, các NHTM thực hiện trả lãi cho loại tiền gửi này (hiện
nay khoảng từ 0,2- 0,25%/tháng). Ở các nước phát triển loại tiền gửi này chiếm

khoảng 30% tiền gửi của các NHTM và việc tạo nguồn tiền gửi trên tài khoản
thanh toán này được NHTM đặc biệt coi trọng.
NHTM còn có thể huy động vốn thông qua tài khoản tiền gửi thanh toán của
các NHTM khác. Tuy nhiên, quy mô của nguồn vốn này thường không lớn hình
thức này chỉ được áp dụng trong trường hợp NHTM khác có nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi chưa đầu tư, cho vay hoặc hiệu quả đầu tư, cho vay không hiệu quả bằng
tiền gửi ở NHTM khác.
Loại tài khoản tiền gửi này đối với ngân hàng rất có lợi do chi phí đầu vào
thấp, khối lượng lớn, nhưng nó cũng khó khăn cho việc cân đối do tính chất biến
động thường xuyên của loại tiền gửi này. Do vậy NHTM chỉ có thể sử dụng hiệu
quả nguồn vốn này khi và chỉ khi dự đoán được về sự biến động số dư trên tài
khoản tiền gửi này một cách chính xác.
+ Huy động vốn bằng nhận tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm
Khác với tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm là hai

10


loại tiền gửi có tính ổn định hơn, chi phí huy động và quản lý cao hơn. Hai loại tiền
gửi này lại cũng có độ nhạy cảm cao về lãi suất nên trong quá trình huy động cũng
có những điểm khác biệt.
• Huy động tiền gửi có kỳ hạn
Đây là loại tiền gửi đã có sự thỏa thuận giữa người gửi tiền và ngân hàng về
lãi suất và thời hạn rút tiền. Về cơ bản, các khoản tiền gửi này thường có kỳ hạn
tương đối dài và không được sử dụng để tiến hành thanh toán như các khoản trên
tiền gửi thanh toán. Chính vì vậy, yếu tố lãi suất có tác động rất lớn đến loại tiền
gửi này. Mức lãi suất đối với loại tiền gửi này có thể cố định hoặc linh hoạt tuỳ
thuộc vào sự thỏa thuận giữa hai bên. Đối với các khoản tiền gửi có lãi suất linh
hoạt, khách hàng có thể gửi thêm tiền trước hạn định.
Để thu hút người gửi tiền, các NHTM đã liên tục đưa ra các hình thức nhận

tiền gửi hấp dẫn, theo đó ngoài việc được hưởng một khoản lợi tức tiền gửi, khách
hàng còn có thể chuyển nhượng được chứng chỉ tiền gửi của mình.
Bằng hình thức này, NHTM có thể thu hút vốn từ các nhà đầu tư lớn mà lẽ ra
các nhà đầu tư này đã có thể dùng vốn đó đầu tư vào trái phiếu kho bạc hay thị
trường tiền tệ.
Bên cạnh đó là hình thức gửi tiền có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi với kỳ
hạn 3, 6, 9, 12 tháng hoặc kỳ phiếu ngân hàng có mục đích. Chỉ sau một thời gian ngắn
hình thức huy động vốn này đã phát huy tác dụng và ngày càng chiếm tỷ trọng vốn huy
động cao trong quá trình huy động vốn của NHTM.
• Huy động tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi tiết kiệm từ lâu đã được coi là công cụ HĐV truyền thống của các
NHTM. Vốn huy động tiền gửi tiết kiệm thường chiếm một tỷ trọng tương đối trong
cơ cấu tiền gửi vào ngân hàng, tiền gửi tiết kiệm tại các NHTM Việt Nam chiếm
khoảng 70 - 80% tổng tiền gửi, còn ở Mỹ là khoảng 25%.
Tiền gửi tiết kiệm bao gồm các loại chủ yếu sau:
+ Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là hình
thức gửi tiền mà người gửi có thể đến ngân hàng rút tiền bất kỳ lúc nào mà không
phải báo trước. Số dư tiền gửi này thường không lớn, nhưng nó lại có ưu điểm hơn

11


hẳn so với các tài khoản tiền gửi giao dịch đó là: Số dư trên tài khoản này thường ít
biến động.
+ Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi vào NHTM trên cơ sở có
sự thỏa thuận về thời hạn, lãi suất giữa khách hàng với ngân hàng. Về nguyên tắc thì
một khi khách hàng đã gửi tiền vào ngân hàng, họ sẽ không được rút tiền ra trừ khi
đến hạn rút tiền. Tuy nhiên, để khuyến khích người dân gửi tiền, ngân hàng vẫn cho
phép khách hàng rút tiền trước thời hạn. Khi dó, khách hàng thường chỉ được hưởng
một mức lãi suất đã thỏa thuận ban đầu.

Mục đích chính của khách hàng khi gửi tiền theo hình thức này là tìm kiếm lợi
tức và tích luỹ một cách an toàn nên vấn đề lãi suất tiền gửi là rất quan trọng. Đối
với NHTM, đây là nguồn vốn khá ổn định. Nhằm mục đích phục vụ cho các nhu cầu
khác nhau của khách hàng cũng như các nhu cầu về vốn của mình, các NHTM
thường áp dụng các loại tiết kiệm với kỳ hạn 1, 3, 6, 9, 12 tháng hay kỳ hạn 18, 24
tháng và ứng với nó là các mức lãi suất thích hợp, thường là theo nguyên tắc thời
hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
+ Tiền gửi tiết kiệm có bảo đảm:
Trước nguy cơ tỷ lệ lạm phát ngày càng cao dẫn đến tâm lý lo sợ đồng tiền bị
mất giá thì đây là một trong những hình thức hấp dẫn để HĐV trung và dài hạn.
Theo hình thức này, số tiền khách hàng gửi vào ngân hàng sẽ được quy ra giá trị
vàng hoặc ngoại tệ mạnh với giá trị tương đương. Khi hết hạn, khách hàng sẽ nhận
lại số tiền tương đương với giá trị vàng hoặc ngoại tệ đó cộng thêm phần tính lãi
trên số dư tiền gửi. Hình thức này có ưu điểm ở chỗ người gửi được đảm bảo về
giá trị vốn gốc của mình, đồng thời vẫn có lãi. Có thể nói, loại hình tiết kiệm này
không chỉ tốt đối với người gửi tiền mà còn tốt đối với cả NHTM. Do vậy, NHTM
cần phải đặc biệt quan tâm đến hình thức huy động vốn này nhằm tạo ra những
nguồn vốn có tính ổn định cao phục vụ cho nhu cầu sử dụng vốn trung và dài hạn
của mình.
- Huy động vốn qua phát hành công cụ nợ (giấy tờ có giá)
Để đa dạng hóa các kênh khai thác nhằm tập trung vốn đáp ứng nhu cầu phát
triển kinh tế, NHTM còn chú trọng nguồn vốn hình thành từ nghiệp vụ phát hành
12


công cụ nợ ra thị trường.
Các NHTM có thể phát hành các loại công cụ nợ như: Chứng chỉ tiền gửi có
mệnh giá lớn, tín phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu các công cụ nợ của NHTM là các giấy
chứng nhận nợ mà NHTM bán cho công chúng. Đây là cách thức vay vốn của
NHTM, bởi vì những người sở hữu các công cụ này được hoàn trả vốn vào thời gian

đáo hạn cộng thêm khoản tiền lãi nhất định.
- Huy động vốn qua đi vay các ngân hàng (NHTW và NHTM khác)
Các khoản vốn vay ngày càng chiếm tỷ trọng cũng như vị trí đặc biệt quan
trọng trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Vốn vay của ngân hàng có thể
hình thành từ nhiều nguồn khác nhau nhưng chủ yếu vẫn bao gồm những nguồn cơ
bản sau:
+ Vay từ Ngân hàng trung ương
Để tồn tại và phát triển thì NHTM phải cho vay, nó cho vay với mức mà
NHTW cho phép để tối đa hóa lợi nhuận. Thế nhưng dù có thận trọng đến mức nào
đi chăng nữa trong hoạt động cho vay thì NHTM cũng khó tránh khỏi thiếu khả
năng chi trả hay thanh toán cho khách hàng. Trong những trường hợp đó, giải pháp
cuối cùng sau khi đã thực hiện các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn không tìm
kiếm đủ vốn là đi vay NHTW. NHTW với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng
sẽ trở thành vị cứu tinh cho các NHTM trong trường hợp thiếu vốn thanh toán.
Nước ta hiện nay, các NHTM vay vốn từ NHTW chủ yếu dưới các hình thức sau:
• Vay vốn ngắn hạn bổ sung: Đây là hình thức các NHTM xin vay vốn bổ
sung cho vốn ngắn hạn của mình. Trong hình thức vay này, các NHTM chỉ được
vay khi còn hạn mức tín dụng và trong hạn mức tín dụng đã thỏa thuận.
• Vay để thanh toán: Là khoản vay có thời hạn tương đối ngắn, được NHTM
sử dụng để bù đắp những thiếu hụt tạm thời trong thanh toán.
• Tái cấp vốn: Là hình thức NHTW cho các NHTM vay trên cơ sở những
chứng từ có giá. Các chứng từ này phải là những chứng từ có chất lượng, có thể
chuyển đổi thành tiền khi cần thiết. Tái cấp vốn được thực hiện dưới hai hình thức:
Cho vay tái chiết khấu và cho vay có đảm bảo. Trong đó:

13


* Vay chiết khấu là hình thức NHTW nhận các chứng từ có giá mà các
NHTM đã chiết khấu trước đây và thực hiện các nghiệp vụ cho vay giống như

NHTM đã làm.
* Vay có bảo đảm là hình thức NHTM đem các chứng từ có giá đến để làm
đảm bảo xin vay vốn.
Đây là nguồn vốn tương đối quan trọng khi gặp khó khăn trong cân đối nguồn
vốn và sử dụng vốn. Bởi vì cho đến bây giờ không một NHTM nào là chưa hề vay
tiền NHTW từ khi thành lập và vì đây còn là nguồn vốn vay mạnh nhất, đảm bảo
giúp NHTM có thể vượt qua khó khăn trong trường hợp xấu nhất.
+ Vay từ các tổ chức tín dụng khác
Khi đối đầu với những tình huống khó khăn về tài chính, để tránh nguy cơ
mất khách hàng, bảo đảm uy tín cho ngân hàng thì giải pháp tốt nhất là đi vay.
NHTM có thể đi vay từ các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên quan ngân
hàng hay thị trường tiền tệ trong và ngoài nước.
Việc vay mượn vốn giữa các NHTM, giữa NHTM với các tổ chức tín dụng
khác được diễn ra liên tục trong quá trình hoạt động kinh doanh của NHTM. Nó
hình thành lên một loại tài sản nợ khá thường xuyên trong bảng cân đối tài sản.
Mặt khác nó còn đảm bảo cho NHTM có những mối quan hệ tốt với các NH khác,
tạo ra cơ hội cho các NHTM giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình kinh doanh.
- Các hình thức huy động vốn khác
Ngoài các hình thức HĐV trên, NHTM cũng có thể có thu hút nguồn vốn nhàn
rỗi từ dân cư, từ nền kinh tế thông qua các hoạt động uỷ thác về các dịch vụ xã hội
như: Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh hoặc đứng ra làm dịch vụ đại lý phát chứng
khoán cho các công ty, làm trung gian thanh toán nhờ đó, ngân hàng có thể sử dụng
một lượng vốn tạm thời nhàn rỗi đáng kể trong quá trình thu hộ hoặc chi hộ.
1.1.3. Vai trò của nguồn vốn huy động
Huy động vốn có vai trò rất quan trọng không chỉ đối với ngân hàng, doanh
nghiệp, mà thậm chí cả với nền kinh tế. Các doanh nghiệp không thể mở rộng hoạt
động sản xuất kinh doanh, các ngân hàng không thể tăng thu nhập, mở rộng thị

14



phần kinh doanh, nền kinh tế không thể phát triển bền vững nếu chỉ căn cứ vào
nguồn vốn tự có. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động này, các chủ thể
kinh doanh trong trong xã hội luôn tìm mọi cách để gia tăng nguồn vốn của mình.
a. Đối với nền kinh tế
Nước ta đang trong tiến trình xây dựng một nền kinh tế vững mạnh vận động
theo cơ chế thị trường, việc này phải đồng thời với vấn đề phải phát triển một thị
trường tài chính xứng tầm. Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh của các tổ chức kinh tế và cá nhân đều chịu sự tác động của thị trường,
của các quy luật kinh tế: Quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị.
Chính vì vậy các doanh nghiệp để tồn tại được trên thương trường phải không
ngừng đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Vấn đề này thực hiện được khi và chỉ khi doanh nghiệp huy động được đủ lượng vốn
cần thiết và sử dụng có hiệu quả chúng vào đúng mục đích. Nguồn vốn tự có của
doanh nghiệp thường không đáp ứng được nhu cầu vốn doanh nghiệp, do đó doanh
nghiệp phải đi vay vốn nhằm bù đắp cho nhu cầu đầu tư của mình. Với sự xuất hiện
của thị trường tài chính và hệ thống NHTM thì việc vay vốn của các doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế và cá nhân trở nên dễ dàng hơn. Doanh nghiệp có thể chủ dộng tìm kiếm
vốn từ nhiều nguồn khác nhau với chi phí tiết kiệm và thủ tục đơn giản hơn rất nhiều.
Chính phủ trong nhiều trường hợp cũng cần phải huy động lượng vốn nhất
định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình. Ngân sách Nhà nước là nguồn cung
cấp chủ yếu cho kế hoạch chi tiêu của Chính phủ, song không phải lúc nào nó cũng
ở trong trạng thái lành mạnh, đủ khả năng đáp ứng. Giải pháp đặt ra là có thể in
thêm tiền hoặc tăng thuế, vay nợ nước ngoài nhưng việc này sẽ gây ảnh hưởng tiêu
cực lên toàn bộ nền kinh tế, qua đó nảy sinh các vấn đề về xã hội. Đây là điều mà
các nhà hoạch định chính sách vĩ mô không muốn nó xảy ra. Vì vậy nhà nước có
thể sử dụng biện pháp tích cực hơn là tìm kiếm nguồn vốn huy động trong và ngoài
nước thông qua việc phát hành các công cụ nợ như trái phiếu Chính phủ, tín phiếu
kho bạc.
Qua những dẫn chứng trên có thể thấy được tầm quan trọng của nguồn vốn


15


huy động với nền kinh tế, tác động trực tiếp đến mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu
dùng. Chính sách huy động vốn trong nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng trực tiếp
đến các hoạt động tài chính, tình hình lạm phát và ổn định tiền tệ để khai thông
nguồn vốn đầu tư phát triển cho nền kinh tế chúng ta phải tận dụng tốt lượng vốn
nhàn rỗi từ dân cư, các tổ chức kinh tế thông qua các kênh huy động của NHTM,
các tô chức tín dụng, và có thể từ ngân sách ngân hàng cho đầu tư phát triển. Trong
đó, công tác huy động vốn của NHTM đóng vai trò quyết định và được chú trọng
hơn cả.
Như vậy, việc chú trọng đến các nguồn vốn của nền kinh tế là điều kiện cần
thiết của các NHTM khi quan tâm đến sự phát triển chung của nền kinh tế mà
NHTM là một trong những thành viên chính góp phần tạo nên sự phát triển đó.
Việc đẩy mạnh công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển đang giữ một vị trí đặc
biệt quan trọng trong quá trình CNH, HĐH của nước ta hiện nay.
b. Đối với ngân hàng
Nguồn vốn của ngân hàng thương mại bao gồm hai loại chính, nếu phân chia
theo hình thức sở hữu: Nguồn vốn chủ sở hữu và các khoản nợ. Khác với nhiều
loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng
nguồn vốn, các khoản nợ là nguồn chủ yếu của ngân hàng. Chất lượng và số lượng
của nó ảnh hưởng đáng kể tới chất lượng và số lượng của các khoản cho vay và
đầu tư. Phần lớn các khoản nợ của ngân hàng liên quan đến chi phí trả lãi. Chi phí
trả lãi là bộ phận chi phí lớn nhất đối với ngân hàng, vì vậy có ảnh hưởng quyết
định đối với thu nhập của ngân hàng.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, vai trò của NHTM ngày càng quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. NHTM cũng là doanh nghiệp nhưng là
một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng.
Các NHTM ngày càng năng động sáng tạo trong kinh doanh và có xu hướng

phát triển đa năng. Các nguồn vốn huy động sẽ quyết định quy mô cũng như định
hướng hoạt động của NHTM.
NHTM thực hiện nghiệp vụ tín dụng, đầu tư chủ yếu dựa vào nguồn này.

16


* Vốn là cơ sở nền tảng để ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh
Đối với NHTM, vốn còn là cơ sở nền tảng để tiến hành tổ chức mọi hoạt động
kinh doanh. Thật vậy, với đặc trưng của NHTM là tổ chức kinh doanh loại hàng
hóa đặc biệt trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn, thì vốn không còn đơn thuần
là phương tiện kinh doanh mà nó còn là đối tượng kinh doanh chính của NHTM,
trực tiếp quyết định tới quy mô hoạt động kinh doanh của NHTM. Như vậy, những
NHTM có vốn lớn sẽ có nhiều thế mạnh trong kinh doanh, ngược lại những ngân
hàng không có hoặc có ít vốn cũng đồng nghĩa với việc gặp nhiều khó khăn khi
tiến hành kinh doanh.
* Quyết định khả năng cạnh tranh của Ngân hàng thương mại
Những NHTM có quy mô lớn, trình độ nghiệp vụ của đội ngũ nhân viên cao
cũng như trang bị phương tiện kỹ thuật hiện đại là tiền đề quan trọng cho việc thu
hút vốn. Đồng thời khả năng vốn lớn là điều kiện thuận lợi đối với NHTM trong
việc mở rộng trong quan hệ tín dụng với các tổ chức kinh tế xã hội trong nền kinh
tế. Khi đó, NHTM sẽ thu hút được ngày càng nhiều khách hàng đến với mình, kết
quả là doanh số hoạt động sẽ tăng lên nhanh chóng và NHTM sẽ có nhiều thuận lợi
hơn trong kinh doanh. Mặt khác, vốn lớn sẽ giúp cho NHTM có đủ khả năng tài
chính để kinh doanh đa năng trên thị trường, mở rộng các lĩnh vực kinh doanh như:
Kinh doanh chứng khoán, kinh doanh dịch vụ thuê mua và chính các hình thức
kinh doanh đa dạng này đã góp phần phân tán, giảm thiểu rủi ro, tạo thêm vốn
cũng như tăng sức cạnh tranh cho NHTM trên thị trường.
* Đảm bảo khả năng thanh toán và uy tín của Ngân hàng thương mại
Trong hoạt động ngân hàng, uy tín có thể nói là yếu tố quan trọng, quyết định

trực tiếp đến sự sống còn của NHTM. Uy tín của NHTM trong kinh doanh được
thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán chi trả cho khách hàng. Khả
năng thanh toán chi trả của NHTM càng cao thì uy tín cũng như vốn khả dụng của
ngân hàng càng lớn.
Như vậy, với khả năng cung ứng vốn lớn, các NHTM có thể tiến hành hoạt
động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, cạnh tranh có hiệu quả nhưng

17


×