Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về nguyên tắc của mặt trận dân tộc thống nhất vào việc đổi mới tổ chức hoạt động của mặt trận tổ quốc việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (454.26 KB, 113 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ



NGUYỄN THỊ HẢI YẾN

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
NGUYÊN TẮC CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC
THỐNG NHẤT VÀO VIỆC ĐỔI MỚI TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ



NGUYỄN THỊ HẢI YẾN

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
NGUYÊN TẮC CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC
THỐNG NHẤT VÀO VIỆC ĐỔI MỚI TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC
VIỆT NAM HIỆN NAY


Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số: 60.31.02.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS. Phạm Ngọc Anh

Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS. Phạm Ngọc Anh. Các số liệu, tài liệu trích dẫn trong
luận văn là trung thực. Các tài liệu tham khảo có nguồn ngốc xuất xứ
rõ ràng. Công trình nghiên cứu của luận văn không trùng với các công
trình khác.
Tác giả

Nguyễn Thị Hải Yến


LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Phạm Ngọc Anh,
với tinh thần trách nhiệm và tấm lòng của một người Thầy đã hướng dẫn, chỉ dạy
và giúp đỡ em trên con đường nghiên cứu khoa học.
Xin cảm ơn các Thầy, Cô trong Khoa Khoa học Chính trị, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQGHN và Thầy, Cô giảng dạy các chuyên đề
trong quá trình học. Các anh, chị học viên cao học đã luôn động viên, giúp đỡ và
tạo điều kiện để tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, xin được gửi tới gia đình, người thân và bạn bè lời biết ơn sâu

sắc vì sự quan tâm, thấu hiểu và sẻ chia.
Xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ..........................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ..........................................................6
6. Đóng góp của luận văn ........................................................................................7
7. Kết cấu luận văn ..................................................................................................7
Chƣơng 1. QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC, HOẠT
ĐỘNG CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT ................................................. 8
1.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về tập hợp lực lƣợng, đại đoàn kết toàn
dân tộc.....................................................................................................................8
1.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của Mặt trận dân tộc thống
nhất trong cách mạng Việt Nam ........................................................................16
1.2.1. Mặt trận dân tộc thống nhất trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ..16
1.2.2. Mặt trận dân tộc thống nhất - hình thức tổ chức, tập hợp mọi lực lượng
cách mạng, yêu nước. ............................................................................................19
1.2.3. Mặt trận dân tộc thống nhất - tổ chức đại diện cho lợi ích và nguyện vọng
chính đáng của nhân dân .......................................................................................22
1.3. Nguyên tắc tổ chức hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất theo tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh .............................................................................................24
1.3.1. Xây dựng trên nền tảng khối liên minh công - nông – trí và dưới sự lãnh
đạo của Đảng. ........................................................................................................24
1.3.2. Nguyên tắc hiệp thương dân chủ, thống nhất hành động, bảo đảm đại đoàn
kết rộng rãi và bền vững ........................................................................................29

1.3.3. Thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc và quyền lợi cơ bản của các tầng lớp
nhân dân.................................................................................................................35


1.3.4. Đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết thực sự, chân thành; thân ái giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ...................................................................................................39
1.4. Giá trị lý luận và thực tiễn của quan điểm Hồ Chí Minh về nguyên tắc
của Mặt trận dân tộc thống nhất .......................................................................41
1.4.1. Giá trị lý luận ...............................................................................................41
1.4.2. Giá trị thực tiễn ............................................................................................43
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ...................................................................................................... 45
Chƣơng 2. ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA MẶT TRẬN TỔ
QUỐC VIỆT NAM HIỆN NAY THEO QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH ................. 47
2.1. Thực trạng tổ chức, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
hiện nay.................................................................................................................47
2.2. Các nhân tố tác động đến quá trình đổi mới Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
hiện nay.................................................................................................................65
2.2.1. Nhân tố quốc tế ............................................................................................65
2.2.2. Nhân tố trong nước ......................................................................................67
2.2.3. Một số quan điểm đổi mới tổ chức, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam trong thời kỳ hiện nay. ..................................................................................71
2.3. Một số giải pháp đổi mới tổ chức, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam theo quan điểm Hồ Chí Minh ....................................................................76
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ...................................................................................................... 98

KẾT LUẬN ................................................................................................. 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 102


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh được thế giới tôn vinh là anh hùng giải phóng dân
tộc, nhà văn hóa kiệt xuất. Trước lúc ra đi, Người đã để lại cho Đảng ta, nhân
dân ta những di sản vô giá và một trong những di sản đó là tư tưởng của
Người - tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam.“Cách mạng là sự
nghiệp chung của quần chúng, chứ không phải của riêng cá nhân anh hùng
nào” [39, 672.]. Cách mạng muốn thành công phải đoàn kết, đoàn kết tạo nên
sức mạnh vô địch. Trong đó, nổi bật là tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất. Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân
tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở những lời kêu gọi chung
chung, mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, thành khẩu hiệu hành
động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nó phải trở thành sức mạnh vật chất, một
lực lượng mạnh có tổ chức. Tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Việc đề xướng thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất không chỉ là sáng tạo
lớn, mà còn là một cống hiến lớn lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
đối với dân tộc ta và các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Kế tục vai trò lịch sử của các hình thức tổ chức Mặt trận trước đây, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức chính
trị - xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức xã hội, các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân
tộc, các tôn giáo, người Việt Nam ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
chủ trương phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực
tự cường, đoàn kết mọi người Việt Nam; không phân biệt quá khứ, thành
phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, ý thức hệ, ở trong nước hay ở nước ngoài;
miễn là tán thành mục tiêu chung là giữ vững độc lập, thống nhất, chủ quyền
quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ; thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa,
1



hiện đại hóa đất nước vì "dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh"; thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh "xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh"; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội trên thế giới.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận dân tộc thống
nhất giữ vai trò quan trọng trong tiến trình lịch sử Việt Nam. Đó là khi nào
Mặt trận giữ vững nguyên tắc tổ chức, hoạt động của tổ chức và giương cao
ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết và phát huy
được sức mạnh của toàn dân tộc thì khó khăn mấy cách mạng cũng vượt
qua. Ngược lại, khi nào coi nhẹ yếu tố dân tộc, không quan tâm đúng mức đến
đại đoàn kết dân tộc, thậm chí phạm sai lầm trong việc thực hiện nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của tổ chức thì cách mạng Việt Nam gặp khó khăn.
Trong tình hình hiện nay, cùng với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập quốc tế đang đặt ra những yêu cầu bức xúc trong công
tác vận động và tập hợp quần chúng. Quá trình công nghiệp hóa đã và đang
tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ đến toàn bộ đời sống xã hội, tạo ra sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, sự biến đổi các tầng lớp nhân dân, các giai cấp xã hội, các
tệ nạn xã hội,…Đặc biệt, tác động mạnh đến khối đại đoàn kết dân tộc và Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam. Do những điều kiện khách quan của kinh tế, xã hội,
nhu cầu và lợi ích của hội viên đã thay đổi nhưng hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chưa kịp thay đổi. Trên thực tế, một bộ phận các tổ chức
cơ sở của Mặt trận Tổ quốc tồn tại hình thức, chưa có hoạt động đủ sức thu
hút quần chúng, hội viên, sinh hoạt chiếu lệ, tham gia miễn cưỡng, không ít
cán bộ không quan tâm, không muốn gắn bó với công tác Mặt trận,... gây ảnh
hưởng đến tính tích cực và niềm tin của nhân dân, hội viên. Mặt khác, cuộc
đấu tranh ở trong nước và trên thế giới không mất đi mà chuyển sang những
hình thức mới, nhất là trong điều kiện toàn cầu hoá ngày nay. Chúng ta có
2



thêm nhiều bạn mới, nhưng cũng xuất hiện những thế lực chống đối mới.
Chúng ta phải có phương thức đấu tranh mới, gắn đấu tranh với hợp tác để
cùng tồn tại và phát triển.
Chính vì lẽ đó mà vấn đề xây dựng Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam đã và đang
đặt ra những yêu cầu mới. Thực tiễn trên đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần giữ
vững và đẩy mạnh hơn nữa việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất vào bối cảnh mới
hiện nay của đất nước.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng đó, tác giả quyết định chọn đề tài: “Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc của Mặt trận dân tộc thống nhất
vào việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện
nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Tư tưởng xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất của Hồ Chí Minh là một
trong những tư tưởng quan trọng của Người và thể hiện tính khoa học, cách
mạng sâu sắc trong tư tưởng của Hồ Chí Minh. Vấn đề này đã thu hút sự quan
tâm nghiên cứu của rất nhiều học giả với các công trình, tác phẩm có liên
quan. Đó là tác phẩm “Một số suy nghĩ về việc nghiên cứu Mặt trận Tổ Quốc,
các đoàn thể và tổ chức xã hội”, in trong: Những vấn đề lý luận cơ bản về Mặt
trận, các đoàn thể và tổ chức xã hội trong hệ thống chính trị, Hà Nội, 1993
của tác giả Vũ Minh Giang. Tác phẩm đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về
Mặt trận; vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Việt Nam trong lịch
sử cách mạng và bối cảnh đất nước đổi mới. Tác phẩm đã đề cập đến vấn đề
xây dựng Mặt trận, tuy nhiên, chưa được nghiên cứu sâu, chưa chỉ ra những
yêu cầu đòi hỏi cần đổi mới nguyên tắc và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam theo quan điểm Hồ Chí Minh.
Tô Huy Rứa – Nguyễn Cúc – Trần Khắc Việt (CB) (2003): Giải pháp đổi
mới hoạt động của hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi nước ta hiện nay,
3



Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác phẩm trình bày vị trí, vai trò của hệ
thống chính trị, trong đó có nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam. Tác phẩm chỉ ra thực trạng hoạt động của các thành phần của
hệ thống chính trị và đề cập đến nội dung đổi mới về nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuy nhiên tác phẩm mới chỉ tiếp
cận theo bề rộng của vấn đề mà chưa đi sâu vào giải pháp cốt lõi nhằm nâng
cao hoạt động của hệ thống chính trị trong đó có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
là giữ vững Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Kỷ yếu của Hội thảo khoa học quốc gia “Mặt trận dân tộc thống nhất Việt
Nam – Những chặng đường vẻ vang”. Nhân kỷ niệm 80 năm ngày thành lập
Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam - nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
(18/11/1930 – 18/11/2010), ngày 10/11 tại Hà Nội, do Ban Thường trực Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ban Tuyên giáo Trung ương,
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức. Kỷ yếu của
Hội thảo có 45 bài tham luận. Các bài tham luận tập trung phân tích, làm sâu
sắc hơn các nội dung về tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của
Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc và xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất
trong các giai đoạn của cách mạng Việt Nam và hiện nay. Đồng thời nêu lên
những vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra trong giai đoạn hiện nay, nhất là
đổi mới nội dung, phương thức tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam.
Ngoài ra, còn có các bài viết được đăng trên báo, các tạp chí, tạp chí khoa
học chuyên ngành tiêu biểu như Tạp chí Mặt trận số 72(10/2009): “Từ kinh
nghiệm của Mặt trận dân tộc thống nhất trong lịch sử, suy nghĩ về đổi mới
Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam ngày nay” PGS.TS. Trần Hậu.
Tạp chí Mặt trận số 77(3/2010): “ Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam tiếp tục đổi
mới nội dung và phương thức hoạt động, thực sự đóng vai trò nòng cốt xây
dựng khối Đại đoàn kết toàn dân tộc” của Ban biên tập Tạp chí Mặt trận.

4


Tạp chí Mặt trận số 85(11/2010): “Phát huy sức mạnh Đại đoàn kết toàn
dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc” của tác giả Huỳnh Đảm (Ủy viên
Trung ương Đảng,Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam).
Một số chuyên đề giáo dục của Tạp chí Xây dựng Đảng như Chuyên đề
“Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam
và các đoàn thể chính trị - xã hội”.
Thông qua tổng quan tài liệu nghiên cứu, với những nội dung cơ bản đã
được khái quát ở trên, có thể thấy phần nào nội dung đã được nghiên cứu liên
quan đến đề tài. Đã có những công trình nghiên cứu, những tác phẩm, bài viết
về Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, đổi mới tổ chức, hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam. Song, chưa có công trình nào đề cập nghiên cứu giá
trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất đối với sự đổi
mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay. Trong tình hình mới hiện nay nảy sinh rất nhiều yếu tố bất cập như
lợi ích chung, tính đồng thuận xã hội, hiệu quả của công tác Mặt trận, chức
năng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam…Vậy, tư
tưởng Hồ Chí Minh cần được vận dụng như thế nào trong bối cảnh mới của
đất nước ta? Chính vì lẽ đó mảng nghiên cứu về vấn đề xây dựng Mặt trận
trong giai đoạn hiện nay và tính thực tiễn của quan điểm trên của Hồ Chí
Minh trong công tác xây dựng Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam cần phải được
đặt ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích, làm rõ nội dung quan điểm của
Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất; đánh giá ý nghĩa lý luận, thực
tiễn của quan điểm đó và đề xuất phương hướng, giải pháp đổi mới tổ chức và
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay.


5


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, đề tài thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất: trình bày cơ sở lý luận hình thành nên quan điểm Hồ Chí
Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất.
- Thứ hai: phân tích ý nghĩa của quan điểm Hồ Chí Minh về Mặt trận dân
tộc thống nhất đối với việc đổi mới Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- Thứ ba: đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ Quốc
Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Quan điểm của Hồ Chí Minh về nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Mặt trận dân tộc thống nhất; thực trạng tổ chức, hoạt động của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: đề tài giới hạn ở việc phân tích, làm rõ những
quan điểm của Hồ Chí Minh về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Mặt trận
dân tộc thống nhất và thực trạng tổ chức, hoạt động của Mặt trận Tổ Quốc
Việt Nam hiện nay (Chủ yếu là từ năm 2001 đến nay). Đề tài sử dụng các tư
liệu trong các công trình nghiên cứu của các tác giả đã được công bố trong
những năm gần đây.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phƣơng pháp luận
Đề tài thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng
Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam hiện nay.
5.2. Phƣơng pháp
Đề tài sử dụng các phương pháp như: phân tích và tổng hợp, phương pháp
logic - lịch sử,..


6


Phương pháp tổng hợp: sử dụng phương pháp tổng hợp trong quá trình
tìm kiếm các thông tin, tài liệu liên quan; sắp xếp, phân loại chúng theo các
luận điểm liên quan đến nội dung chính của đề tài.
Phương pháp phân tích: trên cơ sở các thông tin và tài liệu liên quan đã
được tổng hợp, tiến hành nghiên cứu các vấn đề nhằm nêu bật được nội dung
chính của đề tài. Từ đó rút ra những nhận định, đánh giá cho đề tài.
Phương pháp logic – lịch sử: được sử dụng trong đề tài khi viện dẫn
những quan điểm của Hồ Chí Minh và của Đảng về nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất. Qua đó, vận dụng quan điểm trên
vào công cuộc đổi mới Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ thêm vị trí và vai trò quan trọng của tư tưởng
Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
- Luận văn góp phần phân tích và làm rõ những quan điểm của Hồ Chí
Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất và vận dụng vào công tác xây dựng Mặt
trận Tổ quốc ở Việt Nam hiện nay.
- Luận văn bước đầu đề xuất một số phương hướng, giải pháp đổi mới tổ
chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay theo quan điểm
Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài lời cam đoan, lời cảm ơn, mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo, nội dung của luận văn được kết cấu thành 2 chương, 7 tiết.

7



Chƣơng 1
QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC, HOẠT
ĐỘNG CỦA MẶT TRẬN DÂN TỘC THỐNG NHẤT
Ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị
về việc thành lập “Hội Phản đế đồng minh” – hình thức đầu tiên của Mặt trận
dân tộc thống nhất, đánh dấu sự phát triển về chất của phong trào yêu nước,
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân
tộc. Trải qua 84 năm đấu tranh cách mạng, Mặt trận dân tộc thống nhất Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, với những tên gọi và hình thức tổ chức khác
nhau phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong từng thời kỳ cách mạng đã không
ngừng lớn mạnh và tập hợp ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân thống
nhất thành một khối, tạo thành sức mạnh to lớn cho dân tộc trong sự nghiệp
đấu tranh giành độc lập, tự do và hạnh phúc.
1.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về tập hợp lực lƣợng, đại đoàn kết toàn
dân tộc
Lịch sử hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam là
lịch sử đấu tranh giành lại và bảo vệ nền độc lập tử tay kẻ thù. Chính vì vậy,
mà tinh thần yêu nước đã ngấm sâu vào tình cảm, vào tư tưởng của mỗi người
dân Việt Nam qua tất cả các thời đại, làm nên một sức mạnh kỳ diệu, giúp cho
dân tộc ta đánh thắng hết kẻ thù này đến kẻ thù khác cho dù chúng có hùng
mạnh đến đâu.
Tư tưởng tập hợp lực lượng dân tộc để cứu nước, dựng nước trong xây
dựng lực lượng chống giặc ngoại xâm của cha ông. Lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc ta là sự nối tiếp hàng ngàn năm những cuộc đấu tranh không
mệt mỏi chống hạn hán, bão lụt, chống chiến tranh xâm lược của các thế lực
ngoại xâm. Từ trong cuộc đấu tranh trường kỳ đó đã sớm nảy sinh và định
hình ý thức cộng đồng, ý thức tập thể, và cao hơn là ý thức dân tộc. Ý thức
8



này được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, để tạo thành truyền thống
đoàn kết, nhân nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước.
Yêu nước - đoàn kết - nhân nghĩa với các thế hệ người Việt Nam đã trở
thành một tình cảm tự nhiên,
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
đã trở thành một triết lý nhân sinh:
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
Và trở thành phép ứng xử và tư duy chính trị:
“Nhà – Làng – Nước thống nhất,
Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”…
Những giá trị nhân bản sâu sắc và quý giá đó không chỉ được phản ánh
trong kho tàng văn học dân gian, mà còn được những người anh hùng dân tộc
(Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung…) đúc kết, nâng lên
thành kinh nghiệm, thành phép trị nước và đánh giặc như “khoan thư sức dân
làm kế gốc sâu rễ bền”, “trên dưới đồng lòng, cả nước chung sức”, …
Đến thời cận đại, trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và
các thế lực phong kiến phản động, tay sai, một số nhà yêu nước tiền bối đã đề
xuất tư tưởng cứu nước, tiêu biểu nhất là Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh.
Những tư tưởng cứu nước, đặc biệt là tư tưởng tập hợp lực lượng dân tộc, lực
lượng quốc tế của hai cụ đã có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình đi tìm đường
cứu nước và xây dựng đường lối cứu nước của Người.
Sau thất bại của phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX, phong trào
yêu nước, chống Pháp của nhân dân ta đứng trước những khủng hoảng, bế tắc
lớn, trong dân chúng xuất hiện một số khuynh hướng dao động, bi quan, …
Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh kêu gọi mọi người tập hợp lại, tiến vào
9



cuộc đấu tranh mới với những phương thức mới. Tư tưởng yêu nước của hai
cụ Phan đều lấy chủ nghĩa yêu nước làm nền tảng, đồng thời lại có những sắc
thái khác nhau, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau, đem đến cho phong trào yêu nước
chống Pháp đầu thế kỷ XX của nhân dân ta. Về phương diện tuyên truyền,
kêu gọi, tập hợp lực lượng yêu nước chống Pháp Phan Bội Châu đã viết nhiều
tác phẩm (Hải ngoại huyết thư, Việt Nam Quốc sử khảo...) cổ súy cho sự
đồng tâm, hợp lực, kêu gọi dân ta đoàn kết đứng lên cứu nước.
“Nghìn, muôn, ức, triệu người chung góp
Xây dựng nên cơ nghiệp nước nhà
Người dân ta, của dân ta
Dân là dân nước, nước là nước dân” [55, tr.228-229]
Theo cụ Phan Bội Châu, tất cả dân Việt đều là “cháu con một họ”, “chú
bác anh em”, đều có tài sản chung là giang sơn gấm vóc của ông cha để lại,
cho nên phải có trách nhiệm “chung nhau một lòng” mà giữ lấy. Có thể nói
trên phương diện đoàn kết dân tộc, Cụ Phan Bội Châu là một trong số ít người
Việt Nam có ý tưởng mới mẻ, đặt nhiệm vụ cứu nước thành trách nhiệm của
hàng triệu người. Năm 1906, trong Hải ngoại huyết thư, cụ Phan Bội Châu đã
nói tới “mười hạng người đồng tâm”, bao gồm: các nhà hào phú, cá quan lại
tại chức, các con nhà quyền quý, giáo đồ Thiên chúa giáo, lính tập, hội đảng,
thông ngôn, ký lục, bồi bếp, giới phụ nữ, con em các gia đình bị giặc tàn sát,
những người đi du học. Điều mới mẻ trong tư tưởng đoàn kết của cụ Phan Bội
Châu không chỉ là sự đồng tâm của mười hạng người nói trên, mà còn ở chỗ,
lần đầu tiên cụ Phan Bội Châu nhấn mạnh và hô hào đoàn kết giáo lương,
đoàn kết các tín đồ tôn giáo trên lập trường cứu nước, trên nguyên tắc tự do
tín ngưỡng.
Tuy nhiên, do những hạn chế của cá nhân và của lịch sử, tư tưởng đoàn
kết của cụ Phan Bội Châu không tránh khỏi những thiếu sót. Nói về lực lượng
10



yêu nước của dân chúng, Cụ chưa thấy được vai trò, vị trí của hai lực lượng
đông đảo và quan trọng nhất là nông dân và công nhân, khi đề cập đến các
hội, Cụ chưa nêu ra được một lý luận khoa học dẫn đường, chưa có đường lối
tổ chức hội một cách hệ thống, hoàn chỉnh,…Song, tư tưởng đoàn kết xuất
phát từ lòng yêu nước nhiệt thành của cụ Phan Bội Châu đã thức tỉnh và tập
hợp được nhiều người cứu quốc, đặc biệt là lớp người trẻ tuổi vào cuộc đấu
tranh chống Pháp vì độc lập dân tộc. Hồ Chí Minh là một người sớm chịu ảnh
hưởng của cụ Phan Bội Châu, tuy nhiên Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu
nguyên vẹn những tư tưởng đó mà kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục
những điểm hạn chế, thiếu sót.
Thêm vào đó, tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà cách mạng lớn
trong khu vực, trên thế giới cũng là những cơ sở quan trọng giúp Hồ Chí
Minh hình thành tư tưởng về tập hợp lực lượng, đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đồng thời, bổ sung những khiếm khuyết để sáng tạo ra một chiến lược đại
đoàn kết trên lập trường vô sản. Hồ Chí Minh thường nhắc tới hai nhân vật
Tôn Dật Tiên và Mahatma Gandhi.
Tôn Dật Tiên là người tổ chức, lãnh đạo Cách mạng Tân Hợi 1911,
người sáng lập Quốc dân đảng Trung Hoa và có một hệ tư tưởng được gọi là
chủ nghĩa Tôn Dật Tiên. Cốt lõi trong tư tưởng cách mạng của Tôn Dật Tiên
là sáng lập một tổ chức cách mạng (Quốc dân đảng), vũ trang cho đảng một
học thuyết (chủ nghĩa tam dân: Dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh
hạnh phúc) và tiến hành chủ nghĩa đó trong nhân dân, lãnh đạo cuộc đấu tranh
chống các thế lực đế quốc và quân phiệt. Về đoàn kết dân tộc, ông chủ trương
tập hợp 400 dòng họ trong cả nước không phân biệt giai cấp, chủ trương hợp
tác với Đảng Cộng sản Trung Quốc để tạo thành một mặt trận dân tộc thống
nhất rộng rãi, ủng hộ công nông – lực lượng chiếm đa số trong nhân dân.

11



Mahatma Gandhi là lãnh tụ của Đảng Quốc đại Ấn Độ và cũng là một
nhà ái quốc tiêu biểu, trong đó tư tưởng đoàn kết dân tộc của ông có ảnh
hưởng sâu rộng ở nhiều nước châu Á. “Ông nổi lên từ trong hàng triệu người
Ấn Độ, nói tiếng nói của họ và không ngừng quan tâm đến họ và hoàn cảnh
đáng sợ của họ” [38, tr.235]. Cống hiến lớn lao của Gandhi là đã tập hợp,
thức tỉnh, phát huy sức mạnh của nhân dân Ấn Độ vào cuộc đấu tranh giành
độc lập dân tộc.
Cơ sở lý luận quan trọng nhất về tập hợp lực lượng, đại đoàn kết toàn
dân tộc chính là nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lênin, trong
đó có những quan điểm cốt lõi: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân
dân là người sáng tạo ra lịch sử. Chủ nghĩa Mác – Lênnin là học thuyết khoa
học, tiên tiến của thời đại và có sức hấp dẫn. Sức hấp dẫn của học thuyết đó
chính là ở chỗ, các nhà sáng lập đã đặt giai cấp vô sản - giai cấp làm thuê, bị
bóc lột trong xã hội tư bản trở thành chủ thể sáng tạo của lịch sử, sáng tạo ra
một thế giới mới tự do, bình đẳng, bác ái thực sự, không có người bóc lột
người.
Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, là vì chủ nghĩa Mác,
Lênin đã đề cập đến sự cần thiết và con đường tập hợp, đoàn kết các lực
lượng cách mạng toàn thế giới, lực lượng cách mạng từng nước vào cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Người chăm chú học tập, tiếp thu những
nguyên lý mácxit về liên minh công - nông, về quan hệ giữa phong trào cách
mạng vô sản các nước tư bản chủ nghĩa với phong trào giải phóng dân tộc ở
thuộc địa…, đồng thời, trên nhiều phương diện, nhất là việc nhận thức, giải
quyết mối quan hệ dân tộc – giai cấp, cách mạng thuộc địa – cách mạng chính
quốc…Người có nhiều sáng tạo riêng, độc đáo và hiệu quả.

12


Quan điểm Hồ Chí Minh về tập hợp lực lượng, đại đoàn kết toàn dân tộc

xuất phát trực tiếp từ quan điểm của Người về vai trò quần chúng nhân dân
trong lịch sử, về đoàn kết toàn dân tộc trong quá trình cách mạng.
Phát huy, tiếp thu truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định nhân
dân là gốc của nước, gốc của cách mạng. Nhân dân là lực lượng vô địch, là
lực lượng làm cho xã hội biến đổi có tính cách mạng. Người viết “Lực lượng
toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng
đó” [17, tr.19]. “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không
chống lại” [15, tr.297]. Hay “Nước lấy dân làm gốc…Gốc có vững cây mới
bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Nhân dân là gốc của cách mạng, là
nền tảng, lực lượng của Đảng. Người yêu cầu phải giữ chặt mối liên hệ với
dân chúng và luôn luôn lắng nghe ý kiến dân chúng nhờ đó Đảng mới vững,
cách mạng mới thắng lợi.
Với Hồ Chí Minh, nhân dân không chỉ là lực lượng, động lực của cách
mạng, mà còn là mục đích phục vụ tối cao của cách mạng. “Trong bầu trời
không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng
đoàn kết của nhân dân…Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục
vụ cho lợi ích của nhân dân…” [22, tr.453]. Quần chúng nhân dân là lực
lượng to lớn quyết định sự thành công của cách mạng. Việc xác định đúng vai
trò to lớn có tính quyết định của quần chúng trong sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc, xây dựng xã hội là cơ sở khoa học quan trọng, điểm xuất phát
để Hồ Chí Minh xác lập quan điểm tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc.
Mục tiêu của việc tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc theo Hồ Chí Minh là nhằm giải phóng con người, xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Khi đất nước đang bị đế quốc, thực
dân thì mục tiêu đầu tiên mà Hồ Chí Minh hướng tới là giải phóng dân tộc
13


khỏi ách áp bức, bóc lộ của ngoại bang. Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc rằng, phải

tập hợp lực lượng đông đảo của toàn dân tộc mới có thể thực hiện thắng lợi sự
nghiệp vẻ vang. Và hơn ai hết, Người là linh hồn của khối đại đoàn kết; là nhà
lãnh đạo, tổ chức, tập hợp, xây dựng lực lượng cách mạng; sáng lập ra Đảng
Cộng sản Việt Nam, các tổ chức Mặt trận, đoàn thể cách mạng để tập hợp,
đoàn kết mọi người, mọi giai tầng cùng đồng tâm, hợp lực, đánh đổ thực dân,
phong kiến, giành độc lập, tự do cho dân tộc. Thực tế, lịch sử cách mạng đã
chứng minh: Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách
mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà,
Nhà nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, nay là nước
Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt,
nhân dân ta vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, làm nên chiến thắng Điện Biên
Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, lập lại hoà bình ở Đông Dương,
đưa miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đoàn kết trong Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và
Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam, nhân dân ta
đã “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Nguỵ nhào”, làm nên đại thắng mùa Xuân
1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành cách
mạng dân tộc, dân chủ, đưa cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh chỉ rõ cơ sở của việc đoàn kết, tập hợp lực lượng, phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là lấy lợi ích tối cao của đất nước và
quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động làm nền tảng; kết hợp hài hoà lợi ích
cá nhân với lợi ích tập thể, lợi ích gia đình với lợi ích xã hội, lợi ích giai cấp
với lợi ích dân tộc. Lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, thống nhất, chủ
quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh. Đó là một mục
tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Đấy là nguyên tắc
“bất biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Lấy cái bất biến, cái thống nhất, cái
14


chung, cái ổn định làm điểm tương đồng mà điều hoà, giải quyết cái “vạn

biến”, tức cái khác biệt về lợi ích, về ý kiến, về thị hiếu, về thành phần xã hội
vốn có trong nhân dân, trong xã hội.
Nguyên tắc tập hợp lực lượng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
được Hồ Chí Minh xác định “…công nông là gốc của cách mạng…”, đặt lợi
ích của dân tộc gắn liền với lợi ích của công nông và Người nhấn mạnh phải
thực hiện cho bằng được liên minh công nông, vì đó là cơ sở đảm bảo cho
thắng lợi của cách mạng. “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa
số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp
nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền
của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các
tầng lớp nhân dân khác. Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ thì dù những người trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng
ta cũng thật thà đoàn kết với họ” [21, tr.244]
Về phương pháp đoàn kết, tập hợp lực lượng của Hồ Chí Minh là tùy đối
tượng cần tập hợp, đoàn kết cụ thể mà có phương pháp cụ thể, không rập
khuôn, máy móc theo một mô thức, phương pháp nào. Theo Người, “Chân lý
là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân”. Nét độc đáo của phương pháp đại
đoàn kết của Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ “đã hóa giải khôn ngoan những đối
kháng về quyền lợi bộ phận trong những hoàn cảnh nhất định, phục vụ tập
trung cao nhất cho quyền lợi toàn cục…” [62, tr.59]. Rất nhạy cảm với những
đặc thù, nét riêng của giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, tôn giáo, các lứa
tuổi, nên khi đến với từng đối tượng cụ thể, Hồ Chí Minh đều gắn chặt lợi ích
riêng với lợi ích chung, tìm ra điểm đại đồng, tôn trọng sự khác biệt để thuyết
phục, cảm hóa, tập hợp họ vào trong khối đại đoàn kết dân tộc, phấn đấu vì
lợi ích chung của cả dân tộc, phù hợp với lợi ích của từng bộ phận. Người
cũng căn dặn, trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng có thể và cần thiết
15


phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp cho phù hợp với những

đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc phải luôn luôn được nhận
thức là vấn đề sống còn của cách mạng.
Từ những luận điểm trên có thể thấy cách mạng muốn giành được thắng
lợi, thì một trong những nhân tố rất quan trọng là phải đại đoàn kết toàn dân
tộc. Lực lượng quần chúng là vĩ đại, là tác giả của lịch sử, song phải biết tập
hợp, tổ chức lại thì mới phát huy được sức mạnh to lớn ấy. Muốn đại đoàn kết
toàn dân tộc thì phải tổ chức để đoàn kết tập hợp quần chúng. Tổ chức lực
lượng đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất. Điều kiện cơ bản để đảm bảo
cho sự tồn tại của Mặt trận dân tộc thống nhất là kết hợp giữa điểm tương
đồng và sự khác biệt. Không có điểm tương đồng, chúng ta không thể tập hợp
được mọi giai tầng trong xã hội. Song, do Mặt trận gồm nhiều giai tầng nên
có sự khác biệt là tất yếu. Trong quá trình cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng
ta đã biết cách “đánh thức”, khơi dậy những điểm tương đồng nên đã tập hợp,
xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc tạo sức mạnh to lớn, đưa sự
nghiệp cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và vững
bước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa.
1.2. Quan điểm Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của Mặt trận dân tộc
thống nhất trong cách mạng Việt Nam
1.2.1. Mặt trận dân tộc thống nhất trong xây dựng khối đại đoàn kết
toàn dân tộc
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh có ý nghĩa chiến lược. Đó
là tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được vào trong một
đoàn thể rộng lớn nhằm tạo thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong
cuộc đấu tranh với kẻ thù. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Muốn đoàn kết toàn dân,
cần phải có một đoàn thể rộng lớn, rất độ lượng thì mới có thể thu hút được
16


mọi đoàn thể và cá nhân có lòng thiết tha yêu nước, không phân biệt tuổi tác,

gái trai, tôn giáo, nghề nghiệp, giai cấp, đảng phái. Mục đích của đoàn thể ấy
phải thiết thực tiêu biểu cho những yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân cả
nước” [16, tr.480]. Người khẳng định: “Cái sức mạnh vô địch mà ta có thể
thắng quân địch giành độc lập thống nhất là sự đoàn kết” [18, tr.74], “Bất kỳ
khó khăn gì, bất kỳ công việc to mấy ta đoàn kết đều làm được hết cả” [22,
tr.602], “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công” [26, tr.186].
Theo Người, đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư
tưởng, ở những lời kêu gọi, mà phải trở thành đường lối chiến lược cách
mạng, thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
Nó phải trở thành sức mạnh vật chất, một lực lượng mạnh có tổ chức. Tổ chức
đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất. Trên báo Thanh niên, số 61 ra ngày
10/10/1926, Hồ Chí Minh viết: “Người không có tổ chức thì cũng như chiếc
đũa lẻ loi, ai bẻ cũng gãy. Người có đoàn thể thì cũng như nhiều chiếc đũa,
cột thành một bó, không ai bẻ gãy được”. Thực tiễn cách mạng chỉ ra rằng,
không thể phát huy cao nhất sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc nếu không
xây dựng, củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận dân tộc thống nhất là
hiện thân của khối đại đoàn kết dân tộc và có vai trò đặc biệt quan trọng trong
vận động, tập hợp quần chúng trong khối đại đoàn kết dân tộc. Hồ Chí Minh
cho rằng: “Việc lớn chưa thành không phải vì đế quốc mạnh, nhưng một là vì
cơ hội chưa chín, hai là vì dân ta chưa hiệp lực đồng tâm” [16, tr.230]. Do đó,
Người khẳng định “Trong công việc to tát kháng chiến kiến quốc, Mặt trận
Liên Việt - Việt Minh, công đoàn, nông hội và các đoàn thể quần chúng có
một tác dụng rất to lớn” [ 20, tr.39].
Củng cố và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu,
phương hướng, yêu cầu hoạt động của Mặt trận. Đó là mối quan hệ biện
chứng giữa vấn đề đoàn kết và phương thức, cách thức tổ chức để có được
17


đoàn kết; là mối quan hệ giữa vấn đề đoàn kết với vấn đề Mặt trận trong cách

mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Người chỉ rõ “có đoàn kết mới có lực
lượng, có lực lượng mới giành được ĐỘC LẬP, TỰ DO” [16, tr.595].Thấy rõ
sự cần thiết và vai trò hết sức quan trọng của việc tập hợp lực lượng, phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Người thiết tha hiệu triệu toàn thể đồng
bào “đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra
khỏi nước sôi lửa bỏng” [16, tr. 230]. Tinh thần đó đã được thể hiện trong
Chương trình hoạt động của Việt Minh: liên hiệp hết thảy các giới đồng bào
yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn
giáo và xu hướng chính trị đặng cùng nhau mưu cuộc giải phóng và sinh tồn,
nhằm mục tiêu làm cho nước nhà được độc lập, dân tộc ấm no, hạnh phúc.
Vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất còn được thể hiện cụ thể ở chỗ tổ
chức, tập hợp quần chúng, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện
các nhiệm vụ cách mạng. Lịch sử minh chứng đoàn kết toàn dân đấu tranh để
giữ vững chính quyền non trẻ sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, một
điển hình về việc kết hợp giữa chiến lược và sách lược tập hợp lực lượng.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong lúc tình hình thế giới và trong
nước có những biến chuyển to lớn. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đối mặt với
nhiều thù trong giặc ngoài đến như vậy, thêm vào đó là thiên tai và nạn đói,
tài chính kiệt quệ… sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta ở vào tình thế
“ngàn cân treo sợi tóc”. Ưu điểm nổi bật của Mặt trận Việt Minh trong lúc
này là đã tuyên truyền vận động, khơi dậy lòng yêu nước và sự giác ngộ về ý
thức dân tộc của nhân dân, động viên toàn dân đoàn kết chặt chẽ, ủng hộ
Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Trong muôn vàn khó khăn,
Việt Minh đã động viên toàn dân tham gia phong trào tăng gia sản xuất, vận
động tương thân, tương ái trong nhân dân để chống giặc đói, động viên toàn

18


dân xây dựng lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân để chống giặc ngoại xâm.

Nhờ vậy, Mặt trận đã mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.
Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất là một sáng tạo lớn, đồng thời là
một cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đối với dân tộc ta và
các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Trong lịch sử Đảng ta, khi nào Đảng có
chính sách Mặt trận đúng đắn, coi trọng vai trò của Mặt trận, tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận, tập hợp được ngày càng đông đảo các
tầng lớp nhân dân, thật lòng đoàn kết, thì sẽ động viên được sức mạnh to lớn
của toàn dân tộc, tranh thủ được sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế
giới…Những lúc đó, thế và lực của nhân dân ta sẽ được nhân lên gấp bội,
cách mạng sẽ vượt qua được khó khăn thử thách và ngày càng tiến lên giành
thắng lợi to lớn hơn. Trái lại, khi nào chúng ta xem nhẹ Mặt trận dân tộc
thống nhất, cường điệu đấu tranh giai cấp, phân biệt đối xử trong nội bộ nhân
dân, thì lúc đó sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc bị suy yếu, cách mạng sẽ
gặp khó khăn. Bài học đó vẫn còn ý nghĩa thiết thực đối với công cuộc đổi
mới đất nước ngày nay. Có thể coi đó là một vấn đề có tính quy luật trong
mối quan hệ giữa Mặt trận với sự nghiệp cách mạng của toàn dân ta, với khối
đại đoàn kết dân tộc.
1.2.2. Mặt trận dân tộc thống nhất - hình thức tổ chức, tập hợp mọi lực
lƣợng cách mạng, yêu nƣớc.
Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam trong thực tế không những đã thể
hiện tính liên hiệp giai cấp, mà còn thể hiện tính quần chúng rộng rãi. Mặt
trận tập hợp đoàn kết công nhân, nông dân, trí thức, các chính đảng, các đoàn
thể, các cá nhân yêu nước, kể cả những người thuộc tầng lớp trên, những
người còn có những ý kiến khác nhau về những vấn đề cụ thể của công cuộc
đấu tranh giành độc lập của dân tộc,…vì vậy, Mặt trận mang tính quần chúng
rộng rãi. Đây chính là điểm khác nhau căn bản giữa Mặt trận với các chính
19



×