Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Vận dụng tư tưởng hồ chí minh về văn hóa trong giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc h’mông ở sa pa – lào cai hiện na

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.69 MB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN PHƢƠNG THỦY

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA
TRONG GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA
DÂN TỘC H’MÔNG Ở SA PA – LÀO CAI HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học

Hà Nội-2013

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN PHƢƠNG THỦY

VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA
TRONG GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN
TỘC H’MÔNG Ở SA PA – LÀO CAI HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học
Mã số: 60.31.27


Người hướng dẫn khoa học: TS. VĂN THỊ THANH MAI

Hà Nội - 2013

2


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................

2

Chƣơng 1. TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA VÀ GIỮ
GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC.............................

11

1.1. Khái niệm văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc.................................................................

11

1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc......................................................................................................

26

1.3. Nội dung giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.........................


34

Chƣơng 2. GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA
DÂN TỘC H’MÔNG Ở SA PA – LÀO CAI HIỆN NAY THEO
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH......................................................................................

56

2.1. Những nhân tố tác động đến quá trình giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc H’Mông ở Sa Pa – Lào Cai ................................................

56

2.2. Thực trạng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc H’Mông
ở Sa Pa – Lào Cai hiện nay .............................................................................................

67

2.3. Nội dung và giải pháp trong giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc H’Mông ở Sa Pa – Lào Cai hiện nay........................................................

94

KẾT LUẬN...............................................................................................................................

102

Danh mục tài liệu tham khảo...........................................................................................

104


Phụ lục .....................................................................................................................................................................

111

3


Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh được UNESCO tôn vinh là anh hùng giải phóng
dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của nhân loại. Người đã để lại cho chúng ta một
tài sản tinh thần vô giá, đó là hệ thống tư tưởng của Người. Trong di sản tư
tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về văn hóa là một bộ phận quan trọng, có giá trị lý
luận và thực tiễn đối với dân tộc và nhân loại trong cả hiện tại và tương lai.
Những sáng tạo và đóng góp của Người về văn hóa "là chủ trương làm khởi sắc
và tăng cường truyền thống văn hoá Việt Nam, gắn nó với các nền văn hoá khác
trên thế giới. Các bài thơ, tiểu luận và diễn văn của Người phản ánh một sự hiểu
biết sâu sắc về lịch sử và văn minh nhân loại và một niềm tin chung thuỷ đối với
bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc và quốc gia, kể cả dân tộc mình và các dân tộc
khác trên thế giới" [76, tr.41] đã không chỉ góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc
văn hóa các dân tộc mà còn thiết thực thúc đẩy cho sự hiểu biết lẫn nhau giữa
các dân tộc; góp phần vào sự tiến bộ và phát triển nền văn minh của nhân loại.
Hồ Chí Minh không chỉ là chủ thể sáng tạo giá trị văn hóa mà còn là một
biểu tượng đẹp đẽ của văn hóa, tâm hồn dân tộc Việt Nam. Trong hệ thống di
sản văn hóa của Hồ Chí Minh, quan điểm về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc của Người có ý nghĩa to lớn, giúp chúng ta có cơ sở lý luận và kinh
nghiệm thực tiễn để thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong công cuộc đổi mới hôm nay.
Ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nhận thức được tầm quan trọng của việc giữ

gìn cốt cách dân tộc và bảo tồn bản sắc văn hóa trong quá trình phát triển và tồn
vong của một quốc gia, bởi rằng "càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin bao
nhiêu thì càng phải coi trọng những truyền thống văn hoá tốt đẹp của cha ông
bấy nhiêu”. Bản thân Người là hiện thân của việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân

4


tộc, khẳng định cốt cách dân tộc trong hành trình giao lưu, tiếp biến văn hóa để
làm giàu cho chính bản thân mình, dân tộc mình.
Nhận thức rõ được giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, đã có rất
nhiều nhà khoa học nghiên cứu tư tưởng văn hóa của Người dưới nhiều góc độ,
nhiều phương diện khác nhau, trong đó tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc nói riêng là một vần đề rất quan trọng. Hiện nay, đất
nước ta đang trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế. Bên cạnh những cơ
hội, những thành tựu đã đạt được, Việt Nam cũng đang phải đối diện với những
nguy cơ, thách thức. Trên tinh thần đó, chú trọng đến việc giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hoá của các dân tộc thiểu số theo tinh thần Nghị quyết 22 của Bộ
Chính trị: "Nền văn minh ở miền núi phải được xây dựng trên cơ sở mỗi dân tộc
phát huy bản sắc văn hoá của mình, vừa tiếp thu tinh hoa văn hoá của các dân
tộc khác và góp phần phát triển văn hoá chung của cả nước, tạo ra sự phong phú
đa dạng trong nền văn minh của cộng đồng các dân tộc Việt Nam [16, tr.51] là
vấn đề vô cùng cần thiết. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn
hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn và phát
triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội” [19, tr.33]. Với ý nghĩa đó, việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc Việt Nam nói chung, bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số nói riêng là một
trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng để thực hiện mục tiêu xây dựng và
phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo tinh thần

Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII.
Trong những năm qua, quán triệt tinh thần xây dựng Đảng là then chốt và
xây dựng kinh tế là trung tâm, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc văn hóa dân tộc làm nền tảng tinh thần, là động lực cho sự phát triển bền
vững của đất nước, cùng với cả nước, Đảng bộ, nhân dân các dân tộc tỉnh Lào

5


Cai đã xây dựng và phát triển văn hóa, trong đó có giữ gìn và phát huy di sản
văn hóa của các dân tộc thiểu số nói chung, dân tộc H’Mông ở Sa Pa nói riêng
trong tiến trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, quá trình thực hiện vẫn còn những
hạn chế, những tồn tại cần phải khắc phục…Từ thực tế đó, nhằm đẩy mạnh việc
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần không ngừng nâng cao
đời sống văn hóa, tinh thần, phát triển kinh tế du lịch… của nhân dân các dân tộc
huyện Sa Pa nói chung, dân tộc H’Mông nói riêng, tôi chọn đề tài: “Vận dụng
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về văn hóa trong giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc H’Mông ở Sa Pa – Lào Cai hiện nay” làm luận văn Thạc sĩ khoa
học, chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nội dung có sức hấp dẫn lớn đối với nhiều nhà
nghiên cứu. Đã có nhiều đề tài khoa học xã hội, nhiều công trình nghiên cứu các
cấp về tư tưởng Hồ Chí Minh được nghiên cứu một cách sâu sắc và hệ thống,
trong đó các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa ngày càng
phong phú, đề cập nhiều mặt, nhiều khía cạnh của văn hóa dưới các góc độ khác
nhau.
2.1. Nhóm các công trình sách
Hiện đã có nhiều cuốn sách nghiên cứu chuyên sâu tư tưởng Hồ Chí Minh

về văn hóa nói chung, về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc nói riêng,
đặc biệt là các dân tộc ít người. Trong số đó có thể kể: Huy Cận: "Suy nghĩ về
bản sắc văn hóa dân tộc", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; Đỗ Huy: "Tư
tưởng văn hóa Hồ Chí Minh", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; Thành
Duy: "Cơ sở khoa học và nền tảng văn hóa của tư tưởng Hồ Chí Minh", Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998; Đại học quốc gia Hà Nội - Trường Đại học khoa

6


học xã hội và nhân văn: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa Việt
Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; Bùi Đình Phong: “Đỉnh cao tư
tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa”, Nxb Lao động, Hà Nội, 2001; Đinh Xuân Lâm
– Bùi Đình Phong: “Văn hóa và triết lý phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh”,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008; Phạm Ngọc Anh - Bùi Đình Phong: "Hồ
Chí Minh - Văn hóa và phát triển", Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2009;
Song Thành: “Hồ Chí Minh, nhà văn hóa kiệt xuất”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2010, v.v..
Những công trình nghiên cứu của các tác giả nêu trên đề cập, từng bước
làm rõ nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, những quan điểm cơ bản
của Hồ Chí Minh về văn hóa, những cống hiến và sự nghiệp văn hóa đồ sộ của
Người cho dân tộc và nhân loại, v.v.. Đồng thời, có đánh giá, nhìn nhận của các
học giả về danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh và sự vận dụng tư tưởng của Người
vào quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa
dân tộc.
Các công trình này đã cho chúng tôi những kiến thức chung, tổng quát và
tiếp cận một cách hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, quan điểm của
Người về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Đây là cơ sở quan trọng
giúp tôi giải quyết nội dung của luận văn.
2.2. Nhóm các luận văn

Liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận văn, ở các góc độ tiếp cận
khác nhau, đã có một số luận văn sau:
“Tìm hiểu đời sống văn hóa của người Mông ở Huyện Sa Pa – Lào Cai”,
Luận văn thạc sĩ của Lê Huy Phú, 2002; "Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về
tính dân tộc của văn hóa nghệ thuật vào xây dựng nền văn hóa nghệ thuật đậm
đà bản sắc dân tộc ở nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thu
Hiền, 2008; “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa vào việc giữ gìn và

7


phát huy di sản văn hóa của dân tộc Êđê ở Đắk Lắk trong giai đoạn hiện nay”,
Luận văn thạc sĩ của Bùi Thị Hiền, 2009; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và sự vận dụng vào xây
dựng nền văn hóa ở nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ của Doãn Thị Mai
Thủy, 2010; “Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở Tỉnh Thái Nguyên
hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Luận văn thạc sĩ của Cao Thị Thu Lương,
2011; "Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mông ở tỉnh Sơn La hiện
nay", Luận văn thạc sĩ của Lê Minh Phước, 2013, v.v..
Trong những luận văn đó, các tác giả đã trình bày quan điểm, tư tưởng Hồ
Chí Minh về văn hóa, văn hóa - nghệ thuật, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và
sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc ở các địa phương khác nhau. Trên cơ sở phân tích thực trạng giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, các tác giả đã đưa ra một số giải pháp nhằm
giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí
Minh. Các luận văn trên đã cho chúng tôi một cách nhìn đa dạng, sâu sắc quan
điểm của Hồ Chí Minh về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc phù hợp
với thực tiễn vùng, miền, địa phương. Kết quả nghiên cứu này sẽ được kế thừa,
làm cơ sở cho những luận giải trong quá trình viết luận văn của tôi.
2.3. Nhóm các bài đăng trên tạp chí khoa học chuyên ngành

Có rất nhiều nhà nghiên cứu khoa học, các chuyên gia đầu ngành nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
các dân tộc, trong đó có:
"Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển giá trị văn hóa dân tộc và nhân loại",
Hồ Văn Chiểu, Tạp chí Cộng sản, số 34, 2003; "Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn
hóa và vấn đề bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc", Nguyễn Ngọc Quyến, Tạp chí
Triết học, số 11, 2004; “Quan điểm của Hồ Chí Minh về giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc”, Nguyễn Danh Tiên, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 7, 2010;

8


“Văn hóa Hồ Chí Minh: đổi mới, hội nhập để phát triển”, Hoàng Chí Bảo, Tạp
chí Lý luận chính trị, số 7, 2010; v.v..
Những bài viết này ở các chiều cạnh khác nhau đã giúp chúng tôi hiểu sâu
sắc hơn về quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về việc tất yếu phải bảo tồn, phát
huy giá trị của văn hóa các dân tộc, có thể kế thừa, giúp ích cho quá trình làm
luận văn.
2.4. Nhóm các đề tài khoa học
Trong số các đề tài khoa học, Đề tài khoa học cấp Bộ “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam” (1995) do TS Bùi Đình Phong
làm chủ nhiệm, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì, đã phân tích
hệ thống quan điểm lý luận của Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới, từ
đó, đề xuất các quan điểm, giải pháp vận dụng vào xây dựng nền văn hóa ở nước
ta trong tiến trình đổi mới…
Đề tài khoa học cấp Nhà nước KHXH 04.01 “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng con người và phát triển văn hóa” (2001 – 2005) do GS Đặng Xuân Kỳ
làm chủ nhiệm, đã đi sâu làm rõ những sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh trong hoạt
động văn hóa, khẳng định giá trị lý luận và thực tiễn hệ thống quan điểm của
Người trong phát triển văn hóa dân tộc, văn hóa nhân loại hiện nay…

Tìm hiểu các đề tài này đã giúp cho chúng tôi tiếp cận một cách hệ thống
lý luận của Hồ Chí Minh về văn hóa nói chung, trong đó có giữ gìn bản sắc văn
hóa các dân tộc nói riêng.
2.5. Nhóm các công trình nghiên cứu về văn hóa của dân tộc thiểu số
nói chung và Tây Bắc nói riêng
Cư Hòa Vần - Hoàng Nam, "Dân tộc Mông ở Việt Nam", Nxb Văn hóa
dân tộc, 1994; "Văn hóa H’Mông", Nxb Văn hóa dân tộc, 1996; "Văn hóa dân
gian Lào Cai", Nxb dân tộc, 1997; Hồ Bá Thâm “Bản sắc văn hóa dân tộc”,
Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 2003; "Xây dựng đời sống văn hóa ở vùng

9


cao", Nxb Văn hóa dân tộc, 2004; Trần Hữu Sơn, "Lễ hội cổ truyền Lào Cai",
Nxb Văn hóa dân tộc, 1998; "Văn hóa tâm linh người Mông ở Việt Nam truyền
thống và hiện đại", Nxb Văn hóa – Thông tin và Viện văn học Việt Nam, Hà
Nội, 2005, v.v.. đã cung cấp cho chúng tôi một cách nhìn tổng quan về văn hóa
các dân tộc thiểu số trong đó có văn hóa của dân tộc H’Mông, làm cơ sở cho
việc nghiên cứu đề tài này.
Như vậy, có thể thấy các công trình, bài viết nêu trên đều đã đề cập quan
điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa, về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc ở những
góc độ khác nhau, song, chưa có một công trình nghiên cứu có tính hệ thống và
chuyên biệt tập trung nghiên cứu làm rõ vấn đề như đề tài luận văn chúng tôi đã
lựa chọn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
- Trình bày quan điểm của Hồ Chí Minh văn hóa, về giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc;
- Phân tích thực trạng giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
H’Mông ở Sa Pa;

- Đề xuất một số giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc H’Mông ở Sa Pa hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc;
- Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc;
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc H’Mông ở Sa Pa – Lào Cai;

10


- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc H’Mông ở Sa Pa – Lào Cai hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí
Minh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc;
- Thực trạng việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc H’Mông ở
Sa Pa – Lào Cai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn này, tác giả không trình bày toàn bộ các vấn đề tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hóa, chỉ tập trung nghiên cứu những quan điểm của Người
về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Đồng thời, trên cơ sở nghiên cứu
những nét chính về văn hóa người H'Mông ở Sa Pa, luận văn đi sâu phân tích,
đánh giá việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc H’Mông ở Sa Pa –
Lào Cai (từ năm 1998 đến nay).
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước ta về văn hóa, về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lênin và tư tưởng của Hồ Chí Minh;
- Kết hợp các phương pháp nghiên cứu phân tích - tổng hợp, quy nạp và
diễn dịch, lịch sử và lôgíc, hệ thống và khảo sát thực tiễn để thực hiện luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận

11


Luận văn góp phần làm sáng tỏ nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí
Minh về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Trên cơ sở phân tích thực
trạng, nêu rõ thành tựu và hạn chế để cung cấp thêm những luận cứ khoa học cho
việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc H’Mông ở Sa Pa - Lào Cai,
góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu và giảng dạy các bộ môn: Văn hóa, lịch sử, đạo đức, dân tộc
học, tư tưởng Hồ Chí Minh... ở các trường Đại học và Cao đẳng; làm tài liệu cho
các đề tài nghiên cứu và cho những ai quan tâm, nghiên cứu tìm hiểu vấn đề này.
Đồng thời, kết quả nghiên cứu của luận văn cũng là tài liệu tham khảo hữu ích
cho các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể của huyện Sa Pa
trong việc xây dựng và phát triển văn hóa huyện Sa Pa nói riêng, dân tộc
H’Mông nói chung.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục nội

dung của luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.

12


Chƣơng 1: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA VÀ GIỮ GÌN
VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC
1.1. Khái niệm văn hóa, bản sắc văn hóa dân tộc
1.1.1 Khái niệm văn hóa
* Một số quan niệm về văn hóa
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác
nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Về
mặt thuật ngữ khoa học: Văn hóa được bắt nguồn từ chữ Latinh "Cultus" mà
nghĩa gốc là gieo trồng, được dùng theo nghĩa Cultus Agri là "gieo trồng
ruộng đất" và Cultus Animi là "gieo trồng tinh thần" tức là "sự giáo dục bồi
dưỡng tâm hồn con người". Theo nhà triết học Anh Thomas Hobbes (15881679), thì "Lao động giành cho đất gọi là sự gieo trồng và sự dạy dỗ trẻ em
gọi là gieo trồng tinh thần".
Theo ngôn ngữ của phương Tây, từ tương ứng với văn hóa của tiếng
Việt (culture trong tiếng Anh và tiếng Pháp, kultur trong tiếng Đức,...) có
nguồn gốc từ các dạng của động từ Latin colere là colo, colui, cultus với hai
nghĩa: (1) - Giữ gìn, chăm sóc, tạo dựng trong trồng trọt; (2) - Cầu cúng.
Ở Phương Đông, thuật ngữ văn hóa được sử dụng từ rất sớm. Thời Tây
Hán (thế kỷ II trước Công nguyên), văn hóa được hiểu theo nghĩa là cách thức
giáo hóa con người. Thời nhà Chu đã xuất hiện từ “văn” và từ “hóa”. Trong
sách Chu Dịch có câu: “Quan hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ”, tức là xem
dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hóa thiên hạ. Hay trong bài “Chỉ vũ”, sách
Thuyết Uyển, Lưu Hướng viết: “Thánh nhân cai trị thiên hạ, trước dùng văn
đức sau mới dùng vũ lực. Phàm dùng vũ lực đều để đối phó kẻ bất phục tùng,
dùng văn hóa không thay đổi được thì sau đó sẽ chinh phạt” [20, tr.13-14].
Còn Tuân Tử quan niệm “hóa tính khởi ngụy”, tức là qua nhân vi để cải tạo


13


con người thành thực thể văn hóa… Những khái niệm nêu trên cho thấy, văn
hóa được hiểu như là giáo hóa.
Ngày nay đã có nhiều thuật ngữ văn hóa khác nhau, ngày càng được bổ
sung thêm nhiều nội dung mới do sự phát triển của xã hội và sự nhận thức của
con người.
Trên thế giới hiện nay có khoảng trên 400 định nghĩa về văn hóa. Mỗi
định nghĩa nhìn nhận văn hóa ở một khía cạnh khác nhau. Năm 1982, tại
Mêhicô, Hội nghị thế giới về chính sách văn hóa vì sự phát triển thông qua
Tuyên bố ngày 6/8 đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau:
Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa hiện nay có thể coi là tổng thể những
nét riêng biệt, tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính
cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa
bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ
bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những
tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản
thân. Chính văn hóa làm chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt
nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý.
Chính nhờ văn hóa mà chúng ta xét đoán được những giá trị và thực thi
những sự lựa chọn. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý
thức được bản thân, tự biết mình, là một phương án chưa hoàn thành
đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt
những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên
bản thân” [90, tr.23-24].
Theo đó, văn hóa là một tổng thể các đặc trưng: Tinh thần và vật chất,
tri thức, nghệ thuật, văn chương, quyền cơ bản của con người, v.v..
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: "Văn

hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn,

14


vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội
và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức
chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức tin"[92. tr.1].
Trong Tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học
thức, lối sống. Theo nghĩa chuyên biệt, văn hóa để chỉ trình độ phát triển của
một giai đoạn; trong khi theo nghĩa rộng, văn hóa bao gồm tất cả, từ những
sản phẩm tinh vi, hiện đại, cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống...
Theo Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt
Nam - Bộ Giáo dục và đào tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nxb Văn hóa –
Thông tin, xuất bản năm 1998 thì “Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần
do con người sáng tạo ra trong lịch sử”. Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ
học đưa ra quan niệm về văn hóa là: (1)- Văn hóa là tổng thể nói chung những
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử.
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa
con người với môi trường tự nhiên - xã hội. (2)- Văn hóa là những hoạt động
của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần (nói tổng quát) [75,
tr.1100].
Trong cuốn Việt Nam văn hóa sử cương, GS Đào Duy Anh cho rằng
văn hóa với tư cách là phương thức sinh hoạt văn hóa. PGS.TS Trần Ngọc
Thêm nhấn mạnh: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn,
trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [73,
tr.10]. Còn GS Phạm Minh Hạc thì cho rằng: "Văn hóa là tất cả những sản
phẩm vật chất và không vật chất của hoạt động con người, là giá trị phương

thức xử thế được công nhận, đã khách thể hóa và thừa nhận trong một cộng

15


đồng truyền lại cho một cộng đồng khác và cho các thế hệ mai sau" [25,
tr.11].
Như vậy, có thể thấy rằng có nhiều quan niệm khác nhau về văn hóa,
theo đó, mỗi định nghĩa phản ánh một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau
nhưng cũng nói nên rằng văn hóa là lĩnh vực có phạm vi rất rộng lớn. Cụ thể,
văn hóa có mặt trong toàn bộ đời sống của con người, trong hoạt động sáng
tạo của con người, đồng thời cũng là thước đo trình độ phát triển và sự hoàn
thiện của con người. Qua nghiên cứu các cách tiếp cận khác nhau về văn hóa,
có thể khái quát đặc điểm chính của văn hóa là: (1)- Văn hóa được xem như
hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra để đáp ứng nhu
cầu tồn tại và phát triển của mình trong tiến trình đi lên của lịch sử. Tất cả
những gì liên quan đến con người, đến mọi cách thức tồn tại của con người
đều mang trong nó cái gọi là văn hóa - Văn hóa là đặc trưng toàn bộ cuộc
sống của con người. (2)- Văn hóa được hiểu như những giá trị tinh thần, là
đời sống tinh thần của xã hội: đạo đức, tôn giáo, thẩm mỹ, v.v.. Văn hóa chỉ là
một mặt của đời sống xã hội loài người. (3)- Văn hóa được hiểu là trình độ
học vấn của con người.
* Quan niệm của Hồ Chí Minh về văn hóa
Hồ Chí Minh là nhà văn hóa kiệt xuất, góp phần sáng tạo ra một nền văn
hóa mới trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam. Bằng sự kết tinh tinh
hoa văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc, chắt lọc và kế thừa những tinh hoa
văn hóa nhân loại, kết hợp với những hoạt động thực tiễn phong phú, trong thời
gian (1942 - 1943), khi viết tác phẩm Nhật ký trong tù, ở mục đọc sách nằm
cuối tập thơ, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm của mình về văn hóa:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng

tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày

16


về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp mọi phương thức
sinh hoạt cùng với những biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra
nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [39,
tr.431].
Khắc phục được tính phiến diện trong trong các quan niệm về văn hóa,
từ một góc nhìn, quan niệm Hồ Chí Minh nêu ra là một cách tiếp cận cách
toàn diện về văn hóa. Theo Hồ Chí Minh: (1)- Văn hóa là tính đặc thù của xã
hội, thể hiện mức độ phát triển lịch sử mà con người đạt được; là toàn bộ
những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra và nhằm đáp ứng
nhu cầu sinh tồn của con người. (2)- Văn hoá là biểu hiện sự thống nhất của
tự nhiên và xã hội, là đặc tính về khả năng và sức sáng tạo của con người, nó
bao hàm những giá trị cụ thể như máy móc, công cụ kỹ thuật, kết quả nhận
thức, các tác phẩm nghệ thuật, các chuẩn mực pháp quyền, đạo đức, v.v..; cả
sức mạnh chủ quan của con người và những khả năng trong hoạt động như tri
thức, sự khéo léo, thói quen nghề nghiệp, mức độ phát triển của khả năng cảm
thụ thẩm mỹ, thế giới quan, phương thức và hình thức giao tiếp của con người
trong xã hội. (3)- Văn hóa là những giá trị tinh thần, được đặt ngang với các
vấn đề quan trọng khác như chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa thuộc kiến
trúc thượng tầng. (4)- Văn hóa được hiểu là trình độ học vấn của con người,
nên ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, Chủ tịch nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đã đặc biệt chú trọng đến vấn đề chống giặc dốt,
xóa nạn mù chữ, từng bước nâng cao trình độ dân trí cho nhân dân.
Quan niệm về văn hóa của Hồ Chí Minh gần với quan điểm hiện đại về

văn hóa, khái quát văn hóa với những nội dung rộng nhất của phạm trù văn
hóa. Theo đó, văn hóa không chỉ bao hàm các hoạt động tinh thần của con
người, mà còn bao gồm cả những hoạt động vật chất. Văn hóa là hoạt động

17


sáng tạo của con người, mà nguồn gốc là do nhu cầu sinh tồn của con người
với tư cách là chủ thể của sự sáng tạo ra các giá trị văn hóa. Văn hóa bao hàm
hai lĩnh vực là văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần tương ứng với hai hình
thức sản xuất của xã hội loài người là sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần.
Văn hoá vật chất biểu hiện lĩnh vực hoạt động vật chất và toàn bộ kết quả của
hoạt động này, bao gồm: công cụ lao động, nhà ở và những vật dụng cần thiết
cho đời sống hàng ngày như ăn, mặc, đi lại, thông tin, giao lưu, v.v.. Văn hoá
tinh thần được phản ánh trong hoạt động ý thức, hoạt động sản xuất tinh thần,
cùng với toàn bộ kết quả của nó như: hoạt động nhận thức, đạo đức, pháp
luật, nghệ thuật, giáo dục đào tạo, tôn giáo tín ngưỡng, v.v.. Việc phân định
hai lĩnh vực văn hoá trên đây chỉ là tương đối vì mỗi kết quả của những hoạt
động này đều hàm chứa trong mình nó cả hai giá trị, giá trị vật chất và giá trị
tinh thần.
Còn về văn hóa dân tộc, có thể hiểu văn hóa theo hai nghĩa, hai cấp độ
khác nhau. Trong phạm vi hẹp, văn hóa dân tộc đồng nghĩa với văn hóa một
tộc người. Văn hóa dân tộc hoặc văn hóa tộc người + tộc danh là một chi tiết
của văn hóa nói chung. Ở phạm vi rộng, văn hóa dân tộc là văn hóa chung của
cả cộng đồng người (Nation) sống trong cùng một quốc gia. Văn hóa tộc
người là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần, cũng như những quan hệ
xã hội được sáng tạo trong điều kiện môi trường sinh tụ của một tộc người,
phản ánh những nhận thức, tâm lý, tình cảm, tập quán riêng biệt được hình
thành trong lịch sử của dân tộc đó.
Ở các quốc gia đa dân tộc, văn hóa của các tộc người đan xen, hấp thụ

lẫn nhau, tạo nên nét chung của văn hóa quốc gia, của cả cộng đồng dân tộc,
của vùng, miền, địa phương; và theo đó, mỗi nền văn hóa đều có bản sắc và
những giá trị riêng của nó. Cộng đồng sẽ bền vững khi nó trở thành dân tộc.
Giá trị văn hóa của mỗi cộng đồng, dân tộc như là "mật mã di truyền xã hội"

18


của tất cả các thành viên sống trong cộng đồng, dân tộc đó đã được tích lũy,
lắng đọng trong quá trình hoạt động của mình. Chính quá trình đó đã hình
thành nên bản sắc văn hóa riêng của dân tộc họ, và trong đó yếu tố dân tộc là
một trong những yếu tố quyết định nhất của một nền văn hóa, bởi: "Nói đến
văn hóa là nói đến dân tộc; một dân tộc đánh mất truyền thống văn hóa và bản
sắc dân tộc thì dân tộc ấy sẽ mất tất cả" [62, tr.13]. Có thể nói, "ngày nay văn
hóa được coi là một yếu tố nội sinh, không phải chỉ là kết quả mà còn là
nguyên nhân của sự phát triển xã hội, phải đặt trên nền tảng văn hóa mang
bản sắc dân tộc, đồng thời tiếp thu những giá trị tinh hoa của loài người. Văn
hóa phải kết tinh thành trí tuệ của cả dân tộc, được kế thừa, phát triển qua
nhiều thế hệ, tạo ra sức mạnh vật chất, tinh thần to lớn của toàn dân để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc" [54, tr.81]. Chính vì vậy, việc giữ gìn và phát huy
các giá trị văn hóa tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc là vấn đề có ý nghĩa
hết sức lớn lao đối với sự tồn vong của mỗi dân tộc.
* Vai trò nền tảng tinh thần của văn hóa
Theo Hồ Chí Minh, văn hóa có vai trò to lớn trong đời sống xã hội, vì
văn hóa không chỉ là một hiện tượng tinh thần tách rời đời sống vật chất của
con người, mà ngược lại văn hóa bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và
tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Hơn nữa, văn hóa
không chỉ thu hẹp trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật mà còn bao trùm lên
toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, không chỉ phản ánh trình độ học vấn
của con người mà còn là thước đo trình độ phát triển của xã hội. Văn hóa là

đời sống tinh thần của xã hội, thuộc kiến trúc thượng tầng, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, văn hóa và chính trị, kinh
tế, xã hội tạo thành 4 vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội, có mối quan hệ mật
thiết với nhau.

19


Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, muốn đất nước phát triển thì phải
coi trọng cả bốn yếu tố này như nhau và điều này được Hồ Chí Minh nêu rõ
trong bài viết đăng trên báo Cứu quốc số ra ngày 8/10/1945: “Trong công
cuộc kiến thiết nước nhà, có 4 vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi
trọng ngang nhau: Chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”. Theo đó, chính trị, xã
hội được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng. Chính trị giải phóng sẽ
mở đường cho văn hóa phát triển, vì: “Xã hội thế nào, văn nghệ thế ấy… dưới
chế độ thực dân và phong kiến, nhân dân ta bị nô lệ, thì văn nghệ cũng bị nô
lệ, bị tồi tàn, không thể phát triển được” [42, tr.434]. Tiếp đó, tại Đại hội văn
hóa toàn quốc 24/11/1946, Người nhấn mạnh: “Văn hóa có liên lạc với chính
trị rất mật thiết”, nên không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính
trị, phải phục vụ nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế.
Cũng theo Hồ Chí Minh, kinh tế thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của
việc xây dựng văn hóa, nên phải chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở
hạ tầng để có điều kiện xây dựng và phát triển văn hóa. Người viết, văn hóa
thuộc kiến trúc thượng tầng, nhưng cơ sở hạ tầng có kiến thiết rồi, văn hóa
mới kiến thiết được và có đủ điều kiện để phát triển. Kinh tế phải đi trước một
bước vì: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn
hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế. Tục ngữ ta có câu: Có
thực mới vực được đạo, vì thế kinh tế phải đi trước” [45, tr.59].
Một nền chính trị đúng đắn bao giờ cũng được xây dựng trên cơ sở một
nền văn hóa tiến bộ; một nền văn hóa tiến bộ phải hướng vào mục tiêu phục

vụ nhiệm vụ chính trị cao cả của đất nước chính là một quan điểm hết sức
biện chứng của Hồ Chí Minh về văn hóa khi Người tiếp thu và vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong thực tiễn. Người không chỉ nhấn mạnh một
chiều sự phụ thuộc của văn hóa vào kinh tế, chính trị mà còn chỉ rõ vai trò,
sức mạnh to lớn của văn hóa tác động trở lại đối với kinh tế và chính trị. Văn

20


hóa không phụ thuộc một cách máy móc vào điều kiện sinh hoạt vật chất, mà
văn hóa, tư tưởng phải đi trước một bước, phải "soi đường cho quốc dân đi"
để thúc đẩy cho kinh tế và xã hội phát triển. Hồ Chí Minh từng nói: “Trình độ
văn hóa của nhân dân được nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc
khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân
cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh” [43, tr.281-282].
Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị theo Hồ Chí Minh, nghĩa là
văn hóa phải tham gia thực hiện những nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng
và phát triển kinh tế. Quan điểm này đã định hướng cho việc xây dựng một
nền văn hóa mới ở Việt Nam, theo đó, văn hóa có vai trò như một mặt trận,
đồng hành cùng cuộc kháng chiến của dân tộc, là "văn hóa hóa kháng chiến"
và "kháng chiến hóa văn hóa".
Văn hóa phải ở trong kinh tế và chính trị nghĩa là hoạt động kinh tế và
chính trị cũng phải có tính văn hóa, bởi rằng chính trị mà thiếu văn hóa thì sơ
cứng và thô thiển; kinh tế mà thiếu văn hóa thì phát triển nhưng không bền
vững… vì vậy văn hóa phải là sức mạnh nội sinh của sự phát triển.
Cùng với định nghĩa về văn hóa, khẳng định vai trò của văn hóa, Hồ
Chí Minh còn đưa ra năm điểm lớn định hướng cho việc xây dựng một nền
văn hóa dân tộc
“1. Xây dựng tâm lý: Tinh thần độc lập tự cường

2. Xây dựng luân lý: Biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: Mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân
dân trong xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền
5. Xây dựng kinh tế” [38, tr.431].

21


1.1.2 Khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc
* Một số quan niệm về bản sắc văn hóa dân tộc
Mỗi dân tộc trong quá trình hình thành và phát triển đã tạo nên đặc
trưng về văn hóa và cả những nét tương đồng về văn hóa giữa các dân tộc
trong cộng đồng dân tộc. Tuy nhiên, trong sự tương đồng ấy thì mỗi một dân
tộc có những điểm khác biệt về văn hóa mà các dân tộc khác không có. Sự
khác biệt ấy đã tạo nên sự đa dạng, phong phú về văn hóa giữa các dân tộc mà
người ta gọi đó là bản sắc văn hóa dân tộc.
Xét về mặt ngữ nghĩa, bản sắc văn hóa dân tộc là một từ ghép có gốc
Hán – Việt. “Bản” là cái gốc, cái cốt lõi, cái căn bản, “sắc” là sự biểu hiện cái
căn bản, cái cốt lõi ấy ra ngoài. Thuật ngữ bản sắc thường được sử dụng gắn
với văn hóa và dân tộc. Vì vậy, nói đến dân tộc là nói đến văn hóa, bản sắc
văn hóa; nói đến văn hóa là nói đến dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc.
Bản sắc văn hóa dân tộc là tổng hợp những hiện tượng văn hóa - xã hội,
bao gồm các chuẩn mực giao tiếp, các khuôn mẫu văn hóa, tư tưởng xã hội,
phong tục tập quán, các nghi lễ, thiết chế xã hội… được hình thành, giữ gìn
qua năm tháng; trở thành thói quen trong các hoạt động sống của con người.
Nó được in dấu trong mọi mặt của đời sống xã hội thuộc một dân tộc nhất
định, của một cộng đồng riêng biệt.
Khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc đã được nhiều nhà nghiên cứu về
văn hóa quan tâm, tiếp cận nên khái niệm về bản sắc văn hóa dân tộc cũng rất

phong phú. Theo đó, nhà nghiên cứu văn hóa Phạm Đức Dương cho rằng,
mỗi nền văn hóa có luật chơi riêng, quy định kiểu lựa chọn và tạo nên những
nét độc đáo riêng. Nét độc đáo ấy chính là bản sắc văn hóa của dân tộc đó.
Bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc là cơ sở để khu biệt các dân tộc với nhau với
điều kiện các dân tộc ấy phải có một truyền thống văn hóa vững chắc đã được
thử thách trong quá trình vận động của lịch sử [8, tr.47].

22


Tác giả Huy Cận nhấn mạnh rằng: Bản sắc văn hóa không phải là một
di sản bất di, bất dịch, cũng không phải đơn thuần là một danh mục về những
truyền thống. Bản sắc văn hóa dân tộc đúng hơn là một động thái nội bộ, bên
trong, là một quá trình sáng tạo không ngừng của chính bản thân một xã hội,
một sự tự nhào nặn mình của cả cộng đồng cần được phát triển và sống mãi
[6, tr.152-153].
Bản sắc văn hóa là "những biểu hiện giá trị tinh thần hay vật chất, nói
lên đặc điểm của một tộc người nhất định, phân biệt họ với dân tộc khác".
Trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998), Đảng ta đã khẳng định:
Bản sắc văn hóa dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh
hoa của cộng đồng dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử
hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước
nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng
gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan
dung, trọng tình nghĩa, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động;
sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống… Bản sắc văn hóa
dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc
độc đáo [17, tr.56].
Bản sắc văn hóa của một dân tộc là di sản vô cùng quý giá; đó là tinh
hoa, cốt lõi đồng thời bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện tinh thần, linh hồn, cốt

cách, bản lĩnh của một dân tộc, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc nhận
định chỗ đứng của mỗi quốc gia trên trường quốc tế. Bản sắc văn hóa được
coi là dấu hiệu khác biệt về chất giữa các dân tộc với nhau, quyết định dân tộc
đó còn hay mất, phát triển hay tiêu vong, thể hiện sức sống của dân tộc đó.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, chính bản sắc dân tộc đã làm nên cái cốt
lõi vững chắc, giúp cho nền văn hóa vừa giàu cá tính, vừa đủ bản lĩnh để
không ngừng tích tụ, biến đổi, phát triển, sáng tạo thêm những giá trị mới, tìm

23


kiếm những hình thức biểu hiện mới mà vẫn giữ được tính nhất quán so với
bản thân mình trong quá trình phát triển.
Bản sắc văn hóa được hình thành cùng với quá trình hình thành dân tộc,
nó gắn liền với hoàn cảnh không gian, địa lý, phương thức sản xuất, tâm lý
của dân tộc... Một dân tộc càng có chiều sâu cội nguồn, bề dày lịch sử và có ý
thức cao về bản thân mình, càng có cơ hội bộc lộ cái tính riêng độc đáo của
mình trong văn hóa. Bản sắc văn hóa như mạch ngầm thẩm thấu vào mọi giá
trị văn hóa, xuyên qua thời gian, làm nên mối liên hệ thiêng liêng, bền vững
giữa các thế hệ, các giai đoạn phát triển của một nền văn hóa.
Bản sắc văn hóa dân tộc không chỉ là dấu hiệu hình thức để phân biệt
dân tộc này với dân tộc khác, mà điều quan trọng hơn là cần đánh giá giá trị
của những đặc trưng bản sắc đó theo tiêu chí nhân văn. Vì vậy, nếu một dân
tộc nếu như đánh mất bản sắc văn hóa của mình, thì thực chất dân tộc ấy đã
đánh mất chính mình. Chính vì vậy, việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn
hóa tạo nên bản sắc văn hóa các dân tộc là vấn đề có ý nghĩa to lớn đối với sự
tồn vong của mỗi dân tộc.
Cùng với sự hình thành và phát triển của dân tộc, Việt Nam là một
quốc gia đa dân tộc, có nền văn hóa lâu đời, đa dạng, có bản sắc riêng. Bản
sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là tổng thể những giá trị bền vững do cộng

đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Nền văn hóa này đã trải qua bao biến thiên của lịch sử, luôn tự ý thức về bản
thân mình, không ngừng dung hòa, đổi mới, tự cường. Vì thế, trước những
thử thách nghiệt ngã nhất của lịch sử như bị áp đặt văn hóa, thậm chí cưỡng
bức văn hóa, đất nước dù bị xóa tên song văn hóa dân tộc Việt Nam vẫn tồn
tại và phát triển. Không những thế, dân tộc Việt Nam còn tự tìm cho mình
một ứng xử văn hóa thông minh khi không co mình lại, không từ chối văn hóa

24


bên ngoài và cũng không cam chịu bị đồng hóa trên tinh thần thấm nhuần
quan điểm "một nền văn hóa khép kín là dấu hiệu của sự suy thoái" [8, tr.47].
Văn hóa Việt Nam không chỉ là sự kết tinh tinh hoa ngàn năm của dân
tộc, mà còn có sự tiếp thu, chắt lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại để làm giàu
cho văn hóa của mình. Với ý nghĩa đó, bản sắc văn hóa Việt Nam là nội lực,
là sức mạnh, là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, là điểm tựa và là
bệ đỡ vững chắc đưa văn hóa nước ta ngày càng phát triển bền vững muôn
đời.
Như vậy, nói đến bản sắc văn hóa dân tộc là nói đến những giá trị gốc,
căn bản, cốt lõi, hạt nhân của một nền văn hóa dân tộc, là nói đến những sắc
thái biểu hiện đặc sắc của mỗi dân tộc thể hiện qua tính đa dạng và thống
nhất, truyền thống và hiện đại, tự tôn dân tộc và hòa hợp dân tộc. Bản sắc văn
hóa dân tộc là tiền đề, sức mạnh nội sinh cho sự phát triển văn hóa của mỗi
dân tộc trong hành trình xây dựng và phát triển.
* Quan niệm của Hồ Chí Minh về bản sắc văn hóa dân tộc
Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh: Trên dải đất
hình chữ S, đồng bào các dân tộc Việt Nam, miền xuôi cũng như miền núi,
dân tộc Kinh cũng như dân tộc Tày, Nùng, H’Mông, Ba Na, Khơ Me, v.v..
phải đoàn kết, đồng tâm, góp sức trong cuộc đấu tranh giành độc lập, bảo vệ

chủ quyền quốc gia, lãnh thổ và có trách nhiệm chung để xây dựng và không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần để ngày càng văn minh, tiến
bộ. Làm được điều đó, cũng chính là thiết thực góp phần bảo vệ bản sắc văn
hoá dân tộc, phát triển văn hoá của dân tộc mình trong nền văn hoá chung của
dân tộc. Theo Người, để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thì điều
cần thiết nhất là “mỗi dân tộc phải chăm lo đặc tính của mình” [50, tr. 359]
trong văn hoá, nghệ thuật và các dân tộc “nên chú ý phát huy cốt cách dân
tộc”, giữ gìn và phát huy những bản sắc văn hoá riêng của dân tộc mình trong

25


×