Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Luận văn so sánh thủ tục đầu tư trong luật đầu tư và luật doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (518.59 KB, 78 trang )

Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng và
hướng hoàn thiện.
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Đầu tư là một trong những nhân tố có vai trò quyết định đối với sự phát triển
nền kinh tế của đất nước. Trong bất kỳ giai đoạn nào, ở bất kỳ thời gian nào trong quá
trình phát triển của xã hội thì hoạt động đầu tư luôn tồn tại ở một hình thức nhất định,
nó tác động đến kinh tế, chính trị, đến mọi mặt của đời sống xã hội, đảm bảo cho sự
phát triển bền vững của xã hội. Việc Quốc hội thông qua Luật Doanh nghiệp và Luật
Đầu tư với những quy định thông thoáng và phù hợp với thông lệ quốc tế đã khuyến
khích và thu hút được một nguồn vốn đáng kể từ các tổ chức, cá nhân trong nước và
nước ngoài đầu tư, thành lập doanh nghiệp để phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế
của đất nước. Bên cạnh môi trường pháp lý cởi mở và thông thoáng, việc Việt Nam gia
nhập các tổ chức quốc tế (ASEAN, AFTA, WTO…) và ký kết, thực hiện hiệp định
thương mại với các nước phát triển trên thế giới (Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ…)
cũng tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh mới cho các nhà đầu tư thành lập doanh nghiệp
hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư.Với các quy định của
pháp luật hiện nay, “Giấy phép kinh doanh” là công cụ chủ yếu để nhà nước thực hiện
chức năng quản lý của mình đối với nền kinh tế. Công cụ này ngày càng thực sự có ý
nghĩa trong công tác quản lý nhà nước, đặt biệt là được sử dụng để điều tiết, kiểm soát
các hoạt động kinh doanh; qua đó, hướng đến bảo vệ những lợi ích chung của xã hội và
cộng đồng. Trên phương diện này, có thể nói, hệ thống giấy phép đã góp phần vào hình
thành và phát triển thể chế kinh tế thị trường, ổn định kinh tế vĩ mô, trật tự xã hội và
bảo vệ môi trường và sức khoẻ của cộng đồng. Các giấy phép hợp lý không chỉ góp
phần bảo vệ được những lợi ích chung của xã hội, mà còn góp phần duy trì điều kiện
ổn định thúc đẩy phát triển một số ngành kinh tế kinh tế quan trọng, nhất là các ngành
và lĩnh vực dịch vụ.
Bên cạnh những tác động tích cực, thì hệ thống các quy định về giấy phép kinh
doanh nói chung, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và Giấy chứng nhận đầu tư
nói riêng cũng đã bộc lộ không ít khiếm khuyết. Những khiếm khuyết đó một mặt làm
giảm hiệu lực của hệ thống giấy phép trong quản lý nhà nước, là một trong những


nguyên nhân chủ yếu của tham nhũng phổ biến trên diện rộng ở nước ta hiện nay; mặt
khác, đã và đang tạo nên những khó khăn, trở ngại về hành chính đối với đầu tư và
kinh doanh nói riêng, đối với cải cách và phát triển kinh tế xã hội nói chung.

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 1

SVTH: Nguyễn Phước Nho


Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng và
hướng hoàn thiện.
Việc nghiên cứu và tìm các giải pháp cho các vấn đề trên là một điều cần thiết
trong việc cải thiện môi trường pháp lý về kinh doanh hiện nay, đặc biệt là về hệ thống
giấy phép kinh doanh. Trong phạm vi giới hạn của đề tài, cũng như những hạn chế về
mặt kiến thức, người viết sẽ không đi sâu vào nghiên cứu một cách toàn diện các yếu
tố trên mà chỉ tìm hiểu những yếu tố quan trọng nhất đặc biệt là mối quan hệ giữa thủ
tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành. Bởi vì, đây là
một trong những vấn đề mà các nhà đầu tư trong và ngoài nước rất quan tâm khi tiến
hành hoạt động đầu tư của mình. Vậy những thủ tục đó được quy định như thế nào?
Chúng có mối quan hệ gì lẫn nhau? Tác động của nó đến môi trường kinh doanh như
thế nào? Cũng như những bất cập của nó đối với thực tiễn... Đề tài luận văn “Mối
quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và thủ tục đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng
và hướng hoàn thiện” hi vọng sẽ góp một phần nhỏ những nghiên cứu của cá nhân
người viết để giải quyết các vấn đề trên.
2. Giới hạn của đề tài
Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư là hai đạo luật quan trọng để nhà nước ta
điều chỉnh những vấn đề về thành lập, quản lý doanh nghiệp cũng như hoạt động đầu
tư nhằm mục đích kinh doanh. Về mặt thủ tục Luật Đầu tư hiện hành điều chỉnh cả thủ

tục đầu tư trong nước, thủ tục đầu tư trực tiếp nước ngoài và thủ tục đầu tư ra nước
ngoài; Luật Doanh nghiệp quy định khá nhiều các thủ tục về thành lập doanh nghiệp,
tổ chức lại, giải thể cũng như những thủ tục trong quá trình hoạt động của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, do nguồn tài liệu hạn hẹp, đồng thời để đảm bảo phù hợp với quy
mô đề tài ở cấp độ là một luận văn tốt nghiệp, và cũng nhằm làm rõ vị trí của Luật Đầu
tư trong tổng thể các văn bản quy phạm pháp luật về kinh doanh thương mại cũng như
tác động của đạo luật này đối với môi trường kinh doanh – đầu tư, luận văn này người
viết chỉ nhấn mạnh vào các quy định của thủ tục đăng ký đầu tư trong nước, tìm ra mối
quan hệ với thủ tục thành lập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp được thành lập
mới theo quy định của Luật Doanh nghiệp hiện hành, từ đó nhận diện được những bất
cập và đề ra hướng giải quyết.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn này chính là làm rõ những vấn đề cơ bản của
hoạt động đầu tư, thành lập doanh nghiệp và tác động của thủ tục hành chính đến môi
trường kinh doanh. Đánh giá tính hiệu quả của thủ tục hành chính hiện hành đối với
việc thành lập doanh nghiệp cũng như đối với các hoạt động đầu tư. Trên cơ sở đó, đưa
ra những nhận định, giải pháp nhằm hoàn thiện những vấn đề đã phân tích.
GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 2

SVTH: Nguyễn Phước Nho


Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng và
hướng hoàn thiện.
4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn này là các quy định của pháp luật
về thủ tục đầu tư áp dụng cho nhà đầu tư khi thực hiện hoạt động đầu tư ở Việt Nam và
thủ tục thành lập doanh nghiệp đối với những doanh nghiệp thuộc phạm vi điều chỉnh

của Luật Doanh nghiệp hiện hành, quá trình áp dụng các quy định này trên thực tế.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đảm bảo tính hiệu quả và chính xác của hoạt động nghiên cứu. Trong luận
văn này, người viết sử dụng các phương pháp sau: phương pháp phân tích luật; phương
pháp tập hợp thống kê tài liệu trên cơ sở đó phân tích giải quyết vấn đề.
6. Bố cục của luận văn
Đề tài luận văn tốt nghiệp “Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký
doanh nghiệp - Thực trạng và hướng hoàn thiện” gồm có những phần cơ bản sau:
- Lời mở đầu.
- Nội dung chính của luận văn gồm ba chương:
+ Chương 1: Lý luận về đăng ký doanh nghiệp và đăng ký đầu tư.
+ Chương 2: Pháp luật về đăng ký đầu tư theo Luật Đầu tư và đăng ký
doanh nghiệp thep Luật Doanh nghiệp hiện hành.
+ Chương 3: Thực trạng đăng ký đầu tư hiện nay – Hướng hoàn thiện.
- Kết luận.
Việc đánh giá những tác động của thủ tục đầu tư đối với thủ tục thành lập doanh
nghiệp, cũng như tìm ra những khiếm khuyết từ những quy định của pháp luật và từ đó
đưa ra hướng giải quyết là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi cần phải có sự hiểu biết sâu
rộng trong rất nhiều lĩnh vực, cũng như một quá trình khảo sát thực tế lâu dài. Người
viết do những hạn chế về mặt kiến thức, thời gian và một số nguyên nhân khách quan
khác, luận văn này sẽ không tránh khỏi những sai sót, khuyết điểm trong cách đánh giá
nhìn nhận vấn đề. Chính vì thế rất mong quý Thầy, Cô có thể lượng thứ cho những
thiếu sót ấy, và đóng góp những ý kiến quý giá để cho bài viết nên hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cám ơn.
Người viết
Nguyễn Phước Nho

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 3


SVTH: Nguyễn Phước Nho


Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng và
hướng hoàn thiện.
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ ĐẦU TƯ VÀ ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP
1.1 Lịch sử phát triển Luật Đầu tư và những khái niệm cơ bản
1.1.1 Lịch sử phát triển của Luật Đầu tư
Điều kiện về lịch sử đã tạo nên sự ra đời muộn và chậm phát triển pháp luật về
đầu tư kinh doanh ở Việt Nam. Trước năm 1945 đặc biệt là giai đoạn thực dân Pháp đô
hộ, vấn đề về đầu tư hầu như không được chú trọng pháp triển, nếu có chỉ là đầu tư của
thực dân Pháp vào Việt Nam như xây dựng các nhà máy giấy, nhuộm, các đồn điền cao
su… nhưng thực chất đây chỉ là thủ đoạn bốc lột của thực dân Pháp. Cách mạng tháng
8 thành công mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc, chủ trương của Đảng Cộng Sản
Việt Nam lúc này là “kháng chiến kiến quốc”; nhiệm vụ của nhà nước ta trong giai
đoạn này hết sức khó khăn vừa phải đối phó với các thế lực thù địch trong và ngoài
nước, trong điều kiện lịch sử và chính trị hết sức khó khăn đó, nhà nước ta đã có những
quan tâm nhất định đến việc tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư
thuộc các thành phần kinh tế khác. Cùng với sự cho phép sự tồn tại và hoạt động của
các doanh nghiệp từ chế độ cũ (Sắc lệnh số 48 ngày 09/10/1945 về việc cho phép
những công ty và các hãng ngoại quốc được phép tiếp tục công việc doanh nghiệp ở
Việt Nam), các văn bản pháp luật được ban hành trong thời kỳ đầu xây dựng chính
quyền còn quy định hoạt động đầu tư của nhà nước thành lập các đơn vị kinh tế quốc
doanh cụ thể Sắc lệnh số 104 ngày 01/01/1948 ấn định những nguyên tắc căn bản về
các doanh nghiệp quốc gia; Sắc lệnh số 127-SL ngày 04/11/1952 của Chủ tịch nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ban hành bản Điều lệ về doanh nghiệp quốc gia. Bên
cạnh đó, để thúc đẩy hoạt động đầu tư phù hợp với kinh tế nhiều thành phần, nhà nước
còn cho phép nhà đầu tư thành lập các đơn vị kinh doanh với sự hợp tác đầu tư vốn của

cả nhà nước và tư nhân (Sắc lệnh số 6-SL ngày 20/1/1950 về việc thành lập các công
ty…) Xuất phát từ điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của thời kỳ này, pháp luật về đầu
tư chưa thể hiện tính ổn định, chưa có văn bản pháp luật do cơ quan quyền lực nhà
nước ban hành quy định về đầu tư.
Trong thời kỳ trước 1975 ở miền Bắc và từ 1975 đến 1986 trên phạm vi cả
nước, Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế
hoạch hóa tập trung với hai thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế quốc doanh và kinh
tế tập thể. Các đơn vị kinh tế thời kỳ này được tổ chức với hai loại hình là các tổ chức
kinh tế quốc doanh (với rất nhiều tên gọi khác nhau như xí nghiệp, công nghiệp quốc
doanh, xí nghiệp liên hợp và liên hiệp các xí nghiệp…) và các hợp tác xã, gọi chung là
GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 4

SVTH: Nguyễn Phước Nho


Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng và
hướng hoàn thiện.
các tổ chức kinh tế xã hội chủ nghĩa. Để điều chỉnh hoạt động đầu tư vào các tổ chức
kinh tế này, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật. Tuy nhiên, với sự chi phối
kế hoạch của nhà nước theo cơ chế tập trung bao cấp, pháp luật về đầu tư trong giai
đoạn này không thật sự là phương tiện để nhà nước điều chỉnh nền kinh tế nói chung
và hoạt động đầu tư nói riêng. Giai đoạn này hoạt động đầu tư của khu vực kinh tế tư
nhân không được thừa nhận. Tháng 12-1986 Đại hội Đại biều toàn quốc lần thứ VI của
Đảng với đường lối đổi mới toàn diện đành dấu một bước ngoặc quan trọng trong
chiến lược phát triền kinh tế với quyết định phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, pháp luật về đầu tư của Việt Nam phát triển mạnh. Một loạt các văn bản pháp
luật về đầu tư được ban hành, cụ thể Quyết định số 217/HĐBT ngày 14/11/1987 về
chuyển hoạt động của các đơn vị cơ sở kinh tế quốc doanh sang hoạch toán kinh doanh

xã hội chủ nghĩa, thực hiện chế độ tự sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà
nước. Nghị định số 50/HĐBT ngày 22/03/1988 quy định về Điều lệ xí nghiệp công
nghiệp quốc doanh, Nghị định 27/HĐBT ban hành Điều lệ về liên hiệp xí nghiệp… với
cơ chế kinh tế thị trường, mà giai đoạn đầu là xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, một yêu cầu có tính nguyên tắc căn bản là phải đảm bảo quyền tự do và
bình đẳng trong đầu tư kinh doanh đòi hỏi phải mở rộng quyền đầu tư cho các chủ thể
thuộc các thành phần kinh tế. Trên cơ sở đó nhà nước ta đã ban hành và từng bước xây
dựng, hoàn thiện các văn bản mới về đầu tư như: Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp
tư nhân năm 1990 (đã được thay thế bởi Luật Doanh nghiệp năm 1998 và hiện nay là
Luật Doanh nghiệp năm 2005); Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995 (đã được thay
thế bởi Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003); Luật Khuyến khích đầu tư trong nước
năm 1994 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 1998), Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày
08/07/1999 ban hành kèm theo quy chế quản lý đầu tư và xây dựng… Các văn bản
pháp luật này cùng với các văn bản hướng dẫn thi hành và các văn bản pháp luật có
liên quan, đã tạo thành một hệ thống pháp luật về đầu tư khá quy mô. Các quy định này
đã góp phần không nhỏ vào việc tăng cường hiệu quả huy động vốn trong thời gian
qua. Kể từ khi có Luật Khuyến khích đầu tư năm 1994, số lượng dự án đầu tư ở Việt
Nam ngày càng tăng, đặc biệt là số lượng lớn tư nhân, số việc làm mới được tạo ra
ngày càng nhiều.
Để phát triển đất nước không chỉ huy động tối đa nguồn lực trong nước mà còn
phải thực hiện chính sách tăng cường hợp tác quốc tế. Cùng với việc mở rộng kinh tế
đối ngoại, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hướng ưu tiên quan trọng. Pháp
luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hướng ưu tiên quan trọng. Pháp luật về đầu
GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 5

SVTH: Nguyễn Phước Nho



Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng và
hướng hoàn thiện.
tư trực tiếp nước ngoài thật sự phát triển mạnh khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam thông qua ngày 29/12/1987, càng về sau hệ thống đầu tư nước ngoài ngày càng
được hoàn thiện, điều này được minh chứng qua hai lần sửa đổi bổ sung năm 1990 và
1992, đến năm 1996 chúng ta lại có Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mới, Luật
này tiếp tục được sửa đổi bổ sung bởi Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2000, cũng trên cơ sở này một số lượng lớn các văn
bản hướng dẫn thi hành cũng được ban hành tạo nên một hệ thống khá toàn diện về
pháp luật đầu tư nước ngoài. Một trong những nội dung cơ bản của các văn bản này là
quy định về hình thức đầu tư, theo đó, tổ chức, cá nhân nước ngoài (gọi là bên nước
ngoài), có thể bỏ 100% vốn thành lập “doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài” hoặc cùng
góp vốn với bên Việt Nam để thành lập “doanh nghiệp liên doanh” tại Việt Nam. 1 Mặc
dù vậy, nhưng thủ tục xin cấp phép đầu tư lúc này cũng như thủ tục “xin” thành lập
doanh nghiệp đã tạo ra cơ chế xin – cho, điều này đã từng gây cái nhìn thiếu thiện cảm
đối với môi trường đầu tư ở Việt Nam.
Việc tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế tạo ra cho Việt Nam nhiều cơ hợi và
thách thức. Đặc biệt là các nguyên tắc đối xử quốc gia và tối huệ quốc, buộc pháp luật
đầu tư phải đối xử bình đẳng giữa nhà đầu tư nước ngoài cũng như nhà đầu tư trong
nước. Vì vậy, pháp luật về đầu tư tại Việt Nam cần phải thay đổi cho phù hợp với xu
hướng hội nhập kinh tế quốc tế, phù hợp với pháp luật về đầu tư trên thế giới. Trước
yêu cầu đó, Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện môi trường pháp lý về đầu tư, Luật
Đầu tư năm 2005 là một bước tiến lớn trong sự phát triển của pháp luật đầu tư hướng
vào việc tạo cơ sở pháp lý bình đẳng, thống nhất trong khuyến khích và đảm bảo đầu
tư ở Việt Nam.
1.1.2 Khái niệm đầu tư, nhà đầu tư và dự án đầu tư
Cùng với sự phát triển của Luật Đầu tư các khái niệm pháp lý liên quan đến đầu
tư dần dần được ra đời nhằm xác định phạm vi cũng như đối tượng điều chỉnh của Luật
Đầu tư.
Về khái niệm đầu tư trước khi Luật Đầu tư năm 2005 ra đời, các hoạt động về

đầu tư được điều chỉnh bởi Luật Khuyến khích đầu tư và Luật Đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam, cả hai văn bản luật này đều không có quy định thế nào là đầu tư mà chỉ quy
định về đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo đó, đầu tư trong nước
là việc sử dụng vốn để sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam của tổ chức, cá nhân. Tổ
chức, cá nhân bao gồm: nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân Việt Nam, nhà đầu tư là người
1

Từ năm 1990 trở về trước gọi là xí nghiệp liên doanh và xí nghiệp 100% vốn nhà nước, và được gọi chung là xí
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 6

SVTH: Nguyễn Phước Nho


Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng và
hướng hoàn thiện.
Việt Nam định cư ở nước ngoài, nhà đầu tư là người nước ngoài thường trú ở Việt
Nam. Cũng theo những quy định này thì nhà đầu tư là người nước ngoài góp vốn, mua
cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam với mức không quá 30% vốn điều lệ của doanh
nghiệp thì cũng được xem là đầu tư trong nước nhưng phải được sự cho phép của Thủ
tướng Chính phủ.2 Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào
Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư 3. Để
tạo môi trường pháp lý thống nhất và thông thoáng cho các nhà đầu tư Luật Đầu tư
năm 2005 đã định nghĩa chung về đầu tư không còn phân biệt giữa nhà đầu tư trong
nước và nhà đầu tư nước ngoài. Khoản 1 Điều 3 Luật Đầu tư hiện hành quy định như
sau: “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để
hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các

quy định khác của pháp luật có liên quan.”
Xuất phát từ tính chất của hoạt động đầu tư, để bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ
chức và của toàn xã hội, pháp luật quy định những chủ thể được tham gia quan hệ pháp
luật đầu tư và những điều kiện cần đáp ứng để tham gia quan hệ pháp luật đó. Các chủ
thể đáp ứng các điều kiện do pháp luật quy định để tham gia quan hệ pháp luật đầu tư
được coi là có năng lực chủ thể pháp luật đầu tư. Chủ thể cơ bản của quan hệ pháp luật
đầu tư là nhà đầu tư và các cơ quan quản lí nhà nước về đầu tư.4
Trước khi Luật Đầu tư 2005 được ban hành, đối tượng nhà đầu tư không được
quy định giống nhau giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Theo các văn bản
pháp luật trong thời kỳ này5 chủ thể của các quan hệ pháp luật đầu tư trong nước rất
rộng, bao gồm tổ chức, cá nhân không bị cấm đầu tư thì đều có thể bỏ vốn để thực hiện
đầu tư. Đối với nhà đầu tư nước ngoài, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định
“Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt
Nam.”6 Theo Luật Đầu tư năm 2005, khái niệm về nhà đầu tư được mở rộng và được
quy định thống nhất giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư được
hiểu là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật
Việt Nam, bao gồm: (i) Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành lập theo Luật
Doanh nghiệp; (ii) Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập theo Luật Hợp tác xã; (iii)
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập trước khi Luật Đầu tư năm
2

Điều 2 và Điều 5 Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998.
Điều 2 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 sửa đổi bổ sung năm 2000.
4
Trong phần này xuất phát từ phạm vi nghiên cứu người viết chỉ trình bày về nhà đầu tư.
5
Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) năm 1998, Luật doanh nghiệp nhà nước 2003, Luật doanh
nghiệp 1999 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
6
Khoản 2 điều 2 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

3

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 7

SVTH: Nguyễn Phước Nho


Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng và
hướng hoàn thiện.
2005 có hiệu lực; (iv) Hộ kinh doanh, cá nhân; (v) Tổ chức, cá nhân nước ngoài, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở Việt Nam; (vi) Các tổ
chức khác theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Quy định về nhà đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2005 thể hiện một trong những
chính sách quan trọng của nhà nước ta về đầu tư, đó là đối xử bình đẳng giữa nhà đầu
tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động đầu tư. Luật Đầu tư hiện hành lại còn quy định: Nhà đầu tư nước ngoài là tổ
chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam. Từ khái
niệm này dựa vào biện pháp loại trừ, dễ dàng suy ra nội hàm của khái niệm “nhà đầu tư
trong nước”. Với các quy định của hệ thống pháp luật hiện nay, tiêu chí về quốc tịch là
tiêu chí cơ bản nhất để xem xét một tổ chức, cá nhân là tổ chức, cá nhân trong nước
hay ngoài nước. Theo quy định tại Điều 3 của Nghị định số 138/2006/NĐ-CP ngày
15/11/2006 của Chính phủ về Quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật Dân
sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài: (i) “Người nước ngoài” là người không có
quốc tịch Việt Nam, bao gồm người có quốc tịch nước ngoài và người không quốc
tịch; (ii) “Cơ quan, tổ chức nước ngoài” là các cơ quan, tổ chức không phải là cơ
quan, tổ chức Việt Nam được thành lập theo pháp luật nước ngoài, bao gồm cả cơ
quan, tổ chức quốc tế được thành lập theo pháp luật quốc tế. Khoản 20 Điều 4 của Luật
Doanh nghiệp 2005 quy định: “Quốc tịch của doanh nghiệp là quốc tịch của nước,

vùng lãnh thổ nơi doanh nghiệp thành lập, đăng kí kinh doanh”. Căn cứ vào khái niệm
trên có thể khẳng định, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp FDI – tổ
chức Việt Nam) là nhà đầu tư Việt Nam. Khái niệm này nhìn chung là khá rõ ràng và
không gây nhiều tranh cãi, tuy nhiên, không phải không bị lầm lẫn trong thực tiễn áp
dụng. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay khái niệm này không được sử dụng
một cách thống nhất, trong Quyết định số 88/2009/QĐ-TTg ngày 18/06/2009 về việc
ban hành quy chế góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh
nghiệp Việt Nam, Điều 2 trong Quy chế ban hành kèm quyết định này xác định:
Nhà đầu tư nước ngoài quy định tại Quy chế này bao gồm tổ chức và cá nhân
nước ngoài, cụ thể như sau: (i) Tổ chức thành lập và hoạt động theo pháp luật nước
ngoài và chi nhánh của các tổ chức này tại nước ngoài và tại Việt Nam; (ii) Tổ chức
thành lập và hoạt động ở Việt Nam có tỷ lệ tham gia góp vốn của bên nước ngoài
trên 49%. (iii) Quỹ đầu tư, công ty đầu tư chứng khoán có tỷ lệ tham gia góp vốn
của bên nước ngoài trên 49%.

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 8

SVTH: Nguyễn Phước Nho


Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng và
hướng hoàn thiện.
Ở những dòng đầu quyết định này, chủ thể ban hành văn bản đã khẳng định
Luật Đầu tư 2005 và Luật Doanh nghiệp 2005 là một trong những căn cứ pháp lí quan
trọng để ban hành quyết định này. Vậy việc quyết định này mâu thuẫn với chính các
căn cứ mà nó ban hành thì hiệu lực pháp lí của quyết định này cần thiết có sự xem xét.
Thiết nghĩ, dù xuất phát từ nguyên nhân nào thì cũng không nên đưa ra những quy định
trái với văn bản trên có hiệu lực cao hơn.

Để thực hiện được quá trình đầu tư nhà đầu tư phải tiến hành các hoạt động đầu
tư, theo quy định hoạt động đầu tư là hoạt động của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư
bao gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư. Qua đó có thể
thấy dự án đầu tư là trung tâm và cũng là đầu mối gắn kết quan trọng giữa nhà đầu tư
với hoạt động đầu tư. Vì vậy việc tìm hiểu thế nào là dự án đầu tư có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc nhận diện được những dấu hiệu pháp lý của một dự án đầu tư cũng
như nhận thấy được cơ chế điều chỉnh của pháp luật đối với mỗi dự án đầu tư.
Khoản 8 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2005 quy định: dự án đầu tư là tập hợp các
đề xuất bỏ vốn trung và dài hạn để tiến hành các hoạt động đầu tư trên địa bàn cụ thể,
trong khoảng thời gian xác định.
Từ định nghĩa trên chúng ta có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của một dự án
đầu tư là7:
- Thứ nhất: Nội dung của dự án đầu tư chỉ mang tính đề xuất. Vì là dự án nên dự
án đầu tư chỉ là các hoạt động kinh tế dự kiến của doanh nghiệp và luôn thay đổi, luôn
chứa đựng những yếu tố rủi ro, mặc dù được xây dựng trên những cơ sở khoa học và
thực tiễn vững chắc.
- Thứ hai: Dự án đầu tư luôn xác định về mặt không gian và thời gian. Một dự
án dù có quy mô lớn hay nhỏ thì đều nằm trên một địa bàn cụ thể và có thời gian tiến
độ thực hiện xác định. Việc xác định địa bàn, thời gian và tiến độ thực hiện dự án là
yêu cầu bắt buộc để dự án được đầu tư, xây dựng đúng kế hoạch và đạt được mục tiêu
đề ra đồng thời làm căn cứ để kiểm tra đánh giá hiệu quả của dự án. Vì vậy, tất cả các
khâu, các bước triển khai dự án đều phải đảm bảo yêu cầu này.
- Thứ ba: Dự án đầu tư luôn gắn với các quan hệ đầu tư cụ thể. Hiện nay, với
các quy định của pháp luật hiện hành, dự án đầu tư bao gồm dự án đầu tư trực tiếp và
dự án đầu tư gián tiếp.

7

Trường đại học luật Hà Nội: Giáo trình Luật Đầu tư, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, năm 2009, tr. 42-43.


GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 9

SVTH: Nguyễn Phước Nho


Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng và
hướng hoàn thiện.
1.1.3 Phân loại các dự án đầu tư
Hoạt động đầu tư rất đa dạng nên các dự án đầu tư cũng rất phong phú và có thể
chia thành nhiều loại theo những tiêu chí khác nhau.
1.1.3.1 Theo tiêu chí nguồn vốn đầu tư:
- Dự án đầu tư bằng vốn nhà nước, gồm: vốn ngân sách, vốn tín dụng do Nhà
nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn đầu tư khác của
Nhà nước.8
- Dự án đầu tư bằng vốn của các tổ chức, cá nhân khác thực hiện các hoạt động
đầu tư theo pháp luật Việt Nam, gồm vốn thuộc sở hữu hoặc vốn vay của các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế thành lập theo Luật Doanh nghiệp; hợp tác xã,
liên hiệp hợp tác xã thành lập theo Luật Hợp tác xã; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài được thành lập trước ngày 01/07/2006 theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam; của hộ kinh doanh, cá nhân trong nước; của các tổ chức, cá nhân nước ngoài;
người Việt Nam định cư ở nước ngoài; người nước ngoài thường trú ở Việt Nam. 9
- Dự án đầu tư bằng vốn hỗn hợp, gồm cả vốn nhà nước lẫn vốn của các tổ
chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế khác.
1.1.3.2 Theo tiêu chí nội dung hoạt động đầu tư10
- Dự án đầu tư thành lập mới tổ chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế
(thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc 100% vốn của
nhà đầu tư nước ngoài hoặc thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư
trong nước và nhà đầu tư nước ngoài).

- Dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO,
hợp đồng BT.
- Dự án đầu tư vào khu công nghiệp, khu chế xuất khu công nghệ cao và khu
kinh tế.
- Dự án mua cổ phần hoặc góp vốn để quản lý hoạt động đầu tư.
- Dự án đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp.
- Dự án mua cổ phần, cổ phiếu và các giấy tờ có giá khác .
- Dự án đầu tư thông qua quỹ đầu tư chứng khoán và các chế định tài chính
trung gian khác.
1.1.3.3 Theo tiêu chí tính chất quản lý của quan hệ đầu tư
- Dự án đầu tư trực tiếp.
8

Khoản 10 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2005.
Khoản 4 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2005.
10
Điều 21 và Điều 26 Luật Đầu tư năm 2005.
9

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 10

SVTH: Nguyễn Phước Nho


Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng và
hướng hoàn thiện.
- Dự án đầu tư gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia

quản lý hoạt động đầu tư. Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ
phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông
qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia
quản lý hoạt động đầu tư.
1.1.3.4 Theo tiêu chí lãnh thổ đầu tư11
- Dự án đầu tư nước ngoài.
- Dự án đầu tư trong nước.
- Dự án đầu tư ra nước ngoài.
Theo quy định, đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào
Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư.
Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và các tài sản hợp
pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
1.1.3.5 Theo tiêu chí thủ tục đầu tư12
- Dự án đầu tư không phải làm thủ tục đăng ký đầu tư.
- Dự án đầu tư phải làm thủ tục đăng ký đầu tư.
- Dự án đầu tư phải thực hiện thủ tục thẩm tra đầu tư.
1.2 Lịch sử phát triển Luật Doanh nghiệp và những khái niệm cơ bản
1.2.1 Lịch sử phát triển của Luật Doanh nghiệp
Cùng với sự phát triển của lịch sử, Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư cũng
được điều chỉnh để phù hợp với chính sách kinh tế của từng thời kỳ lịch sử. Vào thời
kỳ Pháp thuộc, Luật Thương mại của Pháp được áp dụng trên từng vùng lãnh thổ của
nước ta, trong Luật Thương mại này không có khái niệm về doanh nghiệp mà chỉ có
khái niệm về công ty để điều chỉnh hầu hết những hành vi thương mại của cá nhân và
pháp nhân khi họ thực hiện các hành vi thương mại. Luật lệ về công ty có thể được quy
định lần đầu tại Việt Nam trong “Bộ dân luật thi hành tại các tòa Nam An Bắc Kì” năm
1931. Năm 1944, vua Bảo Đại cho ban hành Bộ luật thương mại trung phần áp dụng
cho xứ bảo hộ. Năm 1972, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu kí sắc lệnh ban hành Bộ luật
thương mại của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Trong thời kỳ này không có luật
công ty riêng mà chỉ có các quy định về công ty trong luật thương mại, lúc này người
ta gọi là các hội. Từ sau năm 1954, đất nước chia làm hai miền, do đó có hai hệ thống

pháp luật khác nhau, ở Miền Bắc bắt đầu xây dựng nền kinh tế kế hoạch tập trung với
11
12

Khoản 12, 13, 14 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2005.
Chương VI, mục 1 Luật Đầu tư năm 2005.

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 11

SVTH: Nguyễn Phước Nho


Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng và
hướng hoàn thiện.
hai thành phần kinh tế chủ yếu là quốc doanh và tập thể, do đó công ty không tồn tại và
cũng không có Luật công ty mà chỉ có luật kinh tế và các xí nghiệp quốc doanh, hợp
tác xã.
Bắt đầu từ năm 1986, những nội dung của Luật kinh tế cũng chuyển đổi để phù
hợp với nhu cầu và mục tiêu chung của đất nước, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, với
chính sách đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho công ty ra đời. Để thực hiện đường lối
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, huy động và sử dụng có hiệu quả các
nguồn vốn, lao động và tài nguyên của đất nước, tạo thêm việc làm, bảo hộ lợi ích hợp
pháp của người góp vốn đầu tư, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, tăng cường hiệu
lực quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh. Luật Công ty và Luật Doanh
nghiệp tư nhân được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1990. Đến mùa hè năm 1997,
khủng hoảng tài chính khu vực xảy ra, nó gây không ít tác động xấu đến nền kinh tế
nước ta. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài suy giảm, vốn đầu tư trong nước không huy
động được, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm… Trong bối cảnh đó, việc huy động và

sử dụng hiệu quả nguồn lực trong nước để phát triển được đặt lên hàng đầu và được
xem là nhân tố quyết định; còn nguồn lực bên ngoài được xem là yếu tố quan trọng. Vì
vậy, vào thời kỳ đó có hàng loạt thay đổi về chính sách và pháp luật theo hướng thực
sự tạo điều kiện thuận lợi và an toàn hơn cho người bỏ vốn kinh doanh. Luật Doanh
nghiệp năm 1999 được Quốc hội khóa X thông qua ngày 12 tháng 6 năm 1999 đã đáp
ứng được các yêu cầu mà hoàn cảnh và chính sách thời kỳ này đã đặt ra, đạo luật mới
này đã thay thế Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990. Có thể nói nội
dung Luật Doanh nghiệp năm 1999 hầu như khác hoàn toàn so với hai luật trước. Tuy
vậy xét về việc thành lập doanh nghiệp và phát triển các loại hình doanh nghiệp, có
một số điểm đáng lưu ý sau đây 13: (i) Luật Doanh nghiệp năm 1999 quy định thêm hai
loại hình mới, đó là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh; (ii) Đạo luật này
đã thay đổi tư duy một cách đột phá về chính sách cho doanh nghiệp tư nhân trong
nước sở hữu gia nhập thị trường. Quyền bỏ vốn thành lập doanh nghiệp để kinh doanh
đã thực sự là quyền của người dân; vì vậy, việc thành lập doanh nghiệp không cần phải
xin phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền, mà chỉ cần đăng ký là đủ. (iii) Ngoài ra,
Luật Doanh nghiệp năm 1999 cũng đã bổ sung và cơ cấu lại các quy định về doanh
nghiệp từ tổ chức, thành lập đến các quyền và nghĩa vụ cơ bản của doanh nghiệp, đặt
13

Nguyễn Ngọc Bích – Nguyễn Đình Cung: Công ty: vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật Doanh nghiệp

năm 2005, Nxb. Tri thức, năm 2009. tr. 54-55.

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 12

SVTH: Nguyễn Phước Nho



Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng và
hướng hoàn thiện.
cơ sở cho việc định hướng phát triển đồng bộ, thống nhất giữa các hình thức doanh
nghiệp.
Vào những năm 2005- 2006, áp lực và yêu cầu gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới WTO ngày càng tăng; và việc gia nhập WTO cũng đã ngày càng trở nên bức
thiết. Một khuôn khổ pháp lý thống nhất về đầu tư và thương mại bình đẳng, không
phân biệt đối xử và phù hợp với các nguyên tắc thương mại quốc tế là một trong những
điều kiện không thể thiếu để chúng ta có thể gia nhập WTO. Vì vậy, hàng loạt luật
được ban hành mới hoặc phải sửa đổi, bổ sung; trong số đó có Luật Đầu tư và Luật
Doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp 2005 đã ra đời trong hoàn cảnh đó. Có hiệu lực vào
ngày 01/07/2006; thay thế Luật Doanh nghiệp 1999; Luật Doanh nghiệp nhà nước
2003 các quy định về doanh nghiệp của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Cùng với Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp ra đời đã thể chế hóa một cách cụ thể
các quyền tự do kinh doanh quy định trong Hiếp pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2001). Nhà đầu tư đã được tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh và địa điểm cũng
như quy mô kinh doanh tùy theo năng lực và nguyện vọng của họ. Luật Doanh nghiệp
với vị trí là một luật chuyên ngành về thành lập, tổ chức và quản lý doanh nghiệp, còn
Luật Đầu tư điều chỉnh hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh. Từ đó cho thấy,
hoạt động đầu tư của doanh nghiệp phần nào cũng được điều chỉnh bởi các quy định
của Luật doanh nghiệp, theo nguyên tắc chung đầu tư là một trong những hình thức
kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế đầu tư cũng là một trong những hình thức của
hoạt động kinh doanh và cùng chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp. Hay nói
cách khác đầu tư và kinh doanh là những hoạt động tiền đề cho một chủ thể nào đó
thực hiện các hành vi thương mại.
Xuất phát từ phạm vi điều chỉnh chung, Luật Doanh nghiệp không định nghĩa
thế nào là đầu tư mà dùng khái niệm kinh doanh để bao trùm hầu hết những hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động. Trong các văn bản pháp luật
vừa nêu khái niệm về kinh doanh hoàn toàn giống nhau giữa các đạo luật. “Kinh
doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình

đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm
mục đích sinh lợi.”14
1.2.2 Khái niệm doanh nghiệp
14

Đoạn 2 điều 2 Luật doanh nghiệp tư nhân năm 1991; Khoản 1 điều 3 Luật công ty năm 1991; Khoản 1 điều 3
Luật doanh nghiệp năm 1999; Khoản 2 điều 4 Luật doanh nghiệp năm 2005.

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 13

SVTH: Nguyễn Phước Nho


Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng và
hướng hoàn thiện.
Trước tháng 07/2006, khái niệm “doanh nghiệp” được định nghĩa khác nhau
trong các văn bản pháp luật khác nhau, và được phân biệt theo thành phần kinh tế.
Trong khi doanh nghiệp do tư nhân trong nước sở hữu lấy mục tiêu sinh lợi làm tiêu
chí đặc trưng hàng đầu, doanh nghiệp trong khu vực kinh tế nước ngoài và khu vực
kinh tế nhà nước chủ yếu dựa vào tiêu chí sở hữu. Thậm chí lợi nhuận không được coi
là mục tiêu chủ yếu của doanh nghiệp nhà nước.
Về loại hình doanh nghiệp, khu vực kinh tế tư nhân trong nước được lựa chọn
cả bốn loại là đặc trưng phổ biến trong kinh tế thị trường; còn khu vực có vốn đầu tư
nước ngoài chỉ có duy nhất là công ty trách nhiệm hữu hạn. Loại hình doanh nghiệp
trong khu vực kinh tế nhà nước nhìn chung không tương thích với các loại hình doanh
nghiệp của kinh tế thị trường. Sau năm 2003, doanh nghiệp nhà nước mới bắt đầu sử
dụng loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
Bản chất và nội dung của cùng một loại hình doanh nghiệp thuộc thành phần

kinh tế khác nhau là không giống nhau. Ví dụ, việc các bên hay các thành viên phải
chịu rủi ro tương ứng với tỷ lệ vốn góp trong công ty trách nhiệm hữu hạn nói chung
và công ty trách nhiệm hữu hạn của khu vực kinh tế tư nhân nói riêng. Các loại hình
khác của doanh nghiệp nhà nước như tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước độc
lập… không được định nghĩa rõ về bản chất và các dấu hiệu pháp lý đặc trưng.
Nói tóm lại, trước tháng 07/2006, khái niệm “doanh nghiệp” được phân biệt
theo thành phần kinh tế; và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau thì
không giống nhau về bản chất, về loại hình và nội dung của từng loại hình. Chỉ riêng
bản chất và loại hình doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân trong nước về cơ bản
là có bước phát triển vượt trội so với các thành phần kinh tế khác. Từ sau tháng
07/2006, lần đầu tiên chúng ta có một Luật Doanh nghiệp duy nhất, áp dụng thống nhất
và không phân biệt đối xử đối với tất cả các doanh nghiệp, không phân biệt tính chất sở
hữu; người trong nước và người nước ngoài có quyền tự chủ lựa chọn bất kỳ loại hình
doanh nghiệp nào trong bốn loại hình doanh nghiệp do luật quy định: doanh nghiệp tư
nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Cũng từ thời
điểm đó không còn hiện tượng “đồng sàn, dị mộng” khi nói và viết về doanh nghiệp.
Khái niệm “doanh nghiệp”, bản chất và thuộc tính của các loại hình doanh nghiệp cũng
đã được hiểu và áp dụng một cách thống nhất.15
Theo quy định của pháp luật hiện hành khi một doanh nghiệp tiến hành các hoạt
động đầu tư thì nguyên tắc chung doanh nghiệp đó được gọi là nhà đầu tư với dự án
15

Nguyễn Ngọc Bích – Nguyễn Đình Cung: Công ty: vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật Doanh nghiệp năm
2005, Nxb. Tri thức, năm 2009. tr. 59-60.

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 14

SVTH: Nguyễn Phước Nho



Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng và
hướng hoàn thiện.
đầu tư mà doanh nghiệp thực hiện. Vì thế để tìm hiểu rõ hơn về nhà đầu tư chúng ta
cần phải tìm hiểu về “doanh nghiệp.” Theo lý luận chung doanh nghiệp được hiểu dưới
hai góc độ:
- Doanh nghiệp như một công cụ kinh doanh - tức là công cụ thông qua đó các
các nhân, tổ chức tiến hành các hoạt động kinh doanh.
- Doanh nghiệp là một thực thể pháp luật tồn tại độc lập như một nhà đầu tư.
Như vậy, ở đây có hai nhóm nhà đầu tư với địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ
khác nhau và chịu sự điều chỉnh của các quy định pháp luật khác nhau. Nhóm thứ nhất
là cá nhân, tổ chức thành lập nên một doanh nghiệp để tiến hành các hoạt động đầu tư
kinh doanh. Nhóm nhà đầu tư này được gọi là thành viên, cổ đông công ty thực hiện
hoạt động góp vốn, mua cổ phần theo quy định Luật Doanh nghiệp. Nhóm thứ hai là
chính doanh nghiệp do các nhà đầu tư nhóm một thành lập nên và trực tiếp thực hiện
các hoạt động đầu tư, kinh doanh. Nhà đầu tư nhóm này thường gọi là “chủ đầu tư”.
Nhóm nhà đầu tư thứ hai này mới là đối tượng điều chỉnh chủ yếu của Luật Đầu tư
nhưng lại không được phân biệt và làm rõ trong luật.
Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 định nghĩa: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế
có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. 16 Từ định
nghĩa này có thể rút ra những đặc điểm pháp lý cơ bản của doanh nghiệp:
- Doanh nghiệp có tên riêng: theo quy định hiện hành tên doanh nghiệp gồm có
hai thành phần đó là, loại hình doanh nghiệp và tên riêng của doanh nghiệp. Hơn nữa,
doanh nghiệp chỉ được sử dụng ngành, nghề kinh doanh, hình thức đầu tư để cấu thành
tên riêng của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp có đăng ký ngành, nghề đó hoặc thực
hiện đầu tư theo hình thức đó.17 Tên doanh nghiệp là yếu tố hình thức nhưng là dấu
hiệu đầu tiên xác định tư cách chủ thể của doanh nghiệp trên thương trường và là cơ sở
để nhà nước thực hiện quản lý đối với doanh nghiệp. Khi tiến hành đặt tên doanh

nghiệp ngoài việc tuân thủ về hình thức thể hiện của tên doanh nghiệp, doanh nghiệp
cũng cần phải chú ý tới những điều cấm trong đặt tên doanh nghiệp cũng như tên trùng
và tên gây nhầm lẫn.
- Có tài sản: mục đích của doanh nghiệp là hoạt động kinh doanh nhằm thu lợi
nhuận là tài sản. Do vậy, điều kiện đặc trưng của doanh nghiệp là phải có tài sản. Ngay
từ lúc thành lập, dù kinh doanh dịch vụ hay sản xuất, doanh nghiệp phải có tài sản ở
16
17

Khoản 1 điểu 4 Luật doanh nghiệp năm 2005.
Điều 13 Nghị định 102/2010/NĐ-CP.

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 15

SVTH: Nguyễn Phước Nho


Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng và
hướng hoàn thiện.
hai dạng hữu hình hoặc vô hình dù ít hay nhiều. Không thể nói đến việc thành lập hoạt
động của một doanh nghiệp trong bất cứ lĩnh vực nào mà không cần tài sản.
- Trụ sở giao dịch ổn định: trụ sở giao dịch là nơi đặt văn phòng doanh nghiệp
phục vụ hoạt động giao tiếp với các khách hàng, các cơ quan chức năng và được ghi
nhận trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, còn địa điểm kinh doanh là nơi
giao nhận hàng hóa, trên thực tế có khi trụ sở giao dịch là địa điểm kinh doanh. Quyết
định trụ sở giao dịch và địa điểm kinh doanh là một trong những quyết định quan trọng
của một doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có thể thường xuyên thay đổi các kế hoạch
kinh doanh và chiến lược bán hàng, nhưng khi ký kết một hợp đồng thuê hay mua lại

trụ sở giao dịch, địa điểm kinh doanh đồng nghĩa với một sự ổn định lâu dài và không
thể thay đổi dễ dàng vì liên quan đến quan hệ khách hàng.
- Đăng ký kinh doanh: để thực hiện hoạt động kinh doanh và cũng để bảo vệ
chính mình doanh nghiệp phải thực hiện thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp theo
quy định của pháp luật doanh nghiệp. Tùy theo từng loại hình doanh nghiệp cũng như
ngành nghề kinh doanh doanh nghiệp phải tiến hành đăng ký kinh doanh, đối với một
số ngành nghề nhà nước cần hạn chế hoặc đặc biệt hạn chế kinh doanh do có liên quan
tới vấn đề môi trường, vấn đề trật tự an toàn xã hội hoặc phải tuân thủ những nguyên
tắc nghề nghiệp chặt chẽ… pháp luật không cấm kinh doanh nhưng kiểm soát chủ thể
kinh doanh bằng việc buộc họ phải đáp ứng đủ các điều kiện kinh doanh cần thiết.
1.2.3 Khái niệm về đăng ký doanh nghiệp
Điều 57 Hiến pháp năm 1992 ghi nhận mọi công dân có quyền tự do kinh
doanh, chắc chắn trong bất cứ nền kinh tế hàng hóa nào cũng có các chủ thể muốn kinh
doanh một cách tự do. Ngay cả trong nền kinh tế tập trung bao cấp trước đây cũng có
không ít người muốn tham gia vào quá trình sản xuất tiêu thụ sản phẩm hay cung ứng
dịch vụ nhằm mưu lợi cho bản thân. Tuy nhiên, nhu cầu đó có được đảm bảo thực hiện
trên thực tế hay không lại phụ thuộc rất nhiều vào chế độ xã hội, đặc biệt là sự thông
thoáng của môi trường pháp luật về đầu tư kinh doanh. Quyền tự do đăng ký doanh
nghiệp (thành lập doanh nghiệp) là một trong những nội dung cơ bản của quyền tự do
kinh doanh, nó cũng được xem là nội dung pháp lý quan trọng về địa vị pháp lý của
doanh nghiệp, có ý nghĩa xác lập tư cách pháp lý cho doanh nghiệp. Với nguyên tắc tự
do kinh doanh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc thành lập
doanh nghiệp có ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích của toàn xã hội, nên phải được thực
hiện trong khuôn khổ pháp lý cụ thể, đó chính là sự ghi nhận của pháp luật thông qua
cơ chế “đăng ký doanh nghiệp”.
GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 16

SVTH: Nguyễn Phước Nho



Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng và
hướng hoàn thiện.
Theo quy định tại Điều 3 Nghị định 43/2010/NĐ-CP thì: “Đăng ký doanh
nghiệp quy định tại Nghị định này bao gồm nội dung về đăng ký kinh doanh và đăng
ký thuế đối với các loại hình doanh nghiệp thành lập theo quy định của Luật Doanh
nghiệp. Đăng ký doanh nghiệp bao gồm đăng ký thành lập mới doanh nghiệp và đăng
ký thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp.” Từ khái niệm này và căn cứ vào những
dấu hiệu chung về đăng ký doanh nghiệp, chúng ta có thể hiểu “đăng ký doanh
nghiệp” là hành vi mang tính chất tiền đề quan trọng của chủ thể kinh doanh nhằm
thực hiện nhu cầu kinh doanh của mình hay nói cách khác là khi họ muốn thành lập
doanh nghiệp, tham gia thị trường để thực hiện những mục đích đầu tư, kinh doanh của
mình. Hành vi đăng ký doanh nghiệp phải được thực hiện theo những trình tự thủ tục
luật định, và doanh nghiệp sẽ được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp khi đã
hoàn thành những điều kiện mà pháp luật quy định.
1.2.4 Phân loại doanh nghiệp căn cứ vào tính chất pháp lý
Về lý thuyết cũng như thực tiễn có thể nói công ty là kết quả của sự liên kết của
các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư thông qua công ty như một công cụ kinh doanh để tiến
hành các hoạt động kinh doanh, hay nói cách khác công ty chính là nhà đầu tư. Về
phân loại công ty hay doanh nghiệp hiện nay có nhiều tiêu chí để phân loại, 18 nhưng
phân loại theo tiêu chí pháp lý mới thể hiện được rõ và đầy đủ các loại hình doanh
nghiệp mà pháp luật về doanh nghiệp hiện hành điều chỉnh. Dựa vào tiêu chí này thì
hiện nay có bốn loại hình doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam. Đó là: doanh nghiệp
tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) là doanh nghiệp: (i) do một cá nhân sở hữu và
cá nhân đó chỉ làm chủ sở hữu một DNTN; không được đồng thời làm chủ sở hữu của
một DNTN khác hoặc chủ sở hữu hộ kinh doanh và thành viên hợp danh trong công ty
hợp danh; (ii) cá nhân chủ sở hữu tự quyết định cơ cấu tổ chức và đích thân trực tiếp
quản lý, thực hiện các hoạt động kinh doanh và là người đại diện theo pháp luật của

doanh nghiệp; (iii) cá nhân chủ sở hữu tự chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản
của mình đối với các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Công ty hợp danh (CTHD) là doanh nghiệp: (i) có ít nhất hai thành viên là cá
nhân, trong đó phải có ít nhất có một thành viên hợp danh; ngoài thành viên hợp danh
có thể có thành viên góp vốn; thành viên hợp danh phải là cá nhân còn thành viên góp
vốn có thể là cá nhân hay tổ chức; (ii) thành viên hợp danh chịu trách nhiệm liên đới và
vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ và các nghĩa vụ khác của
18

Tiêu chí để phân loại doanh nghiệp hiện nay là: tiêu chí về tính chất pháp lý, tiêu chí về chế độ trách nhiệm,
tiêu chí về tư cách pháp nhân…

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 17

SVTH: Nguyễn Phước Nho


Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng và
hướng hoàn thiện.
doanh nghiệp; còn thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi giá trị số
vốn góp vào công ty; thành viên hợp danh có quyền quản lý và điều hành hoạt động
kinh doanh của công ty; còn thành viên góp vốn không có quyền quản lý công ty;
trường hợp thành viên góp vốn tham gia quản lý và điều hành hoạt động kinh doanh
của công ty, thành viên đó đương nhiên được coi là thành viên hợp danh; (iii) công ty
hợp danh có tư cách pháp nhân; và (iv) không được phát hành chứng khoán.
Như vậy, tương tự như Luật Doanh nghiệp năm 1999, CTHD quy định tại Luật
Doanh nghiệp năm 2005 có thể tồn tại dưới hai hình thức. Một là, tất cả các thành viên
đều là thành viên hợp danh (không có thành viên góp vốn); trong trường hợp này công

ty là một CTHD thông thường tương tự như ở các nước khác. Hai là, có cả thành viên
hợp danh và thành viện góp vốn; vậy nó là công ty hợp danh hữu hạn tương tự như
pháp luật ở các nước khác. Tóm lại, CTHD theo quy định tại Luật Doanh nghiệp năm
2005 có thể là hợp danh thông thường hoặc hợp danh hữu hạn.19
Công ty trách nhiệm hữu hạn(TNHH), theo quy định hiện hành công ty TNHH
được chia làm hai loại căn cứ vào số lượng thành viên: (i) công ty TNHH một thành
viên và (ii) công ty TNHH hai thành viên trở lên 20. Sự khác biệt cơ bản giữa hai loại
này nằm ở cơ cấu tổ chức quản lý hay cách thức thực hiện quyền sở hữu. Công ty
TNHH có những đặc điểm chung như sau: (i) số lượng thành viên không quá 50; (ii)
trách nhiệm của các thành viên giới hạn trong số vốn cam kết góp vào công ty; (iii)
phần vốn góp chuyển nhượng được; nhưng có điều kiện; (iv) công ty là một pháp nhân
độc lập và tách biệt về trách nhiệm với các thành viên; và (v) không được phát hành
chứng khoán.
Công ty cổ phần (CTCP) là một loại hình kinh doanh: (i) có tư cách pháp nhân
độc lập và là loại hình công ty có tính tổ chức cao, hoàn thiện về vốn hoạt động mang
tính xã hội cao; (ii) chịu trách nhiệm đối với mọi khoản nợ bằng tài sản riêng của công
ty. Điều này có nghĩa là công ty chịu trách nhiệm bằng tài sản của chính công ty, các
cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi
số vốn đã góp vào công ty; (iii) vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần
bằng nhau gọi là cổ phần. Đây là đặc trưng rất cơ bản của CTCP. Trong quá trình hoạt
động CTCP có quyền phát hành cổ phiếu ra công chúng qua thị trường chứng khoán để
công khai huy động vốn, và cũng thông qua thị trường chứng khoán việc chuyển
19

Nguyễn Ngọc Bích – Nguyễn Đình Cung: Công ty: vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật Doanh nghiệp năm
2005, Nxb. Tri thức, năm 2009. tr. 61.
20
Sự phân chia này thể hiện sự đặc thù trong lịch sử phát triển của hệ thống pháp luật về doanh nghiệp ở Việt
Nam. Cũng chỉ mới gần đây, luật pháp mới cho phép một cá nhân hay tổ chức được thành lập loại hình công ty
TNHH này.


GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 18

SVTH: Nguyễn Phước Nho


Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng và
hướng hoàn thiện.
nhượng cổ phần cũng được thực hiện dễ dàng; (iv) có số lượng cổ đông tối thiểu là 3
và không hạn chế tối đa. Vì vậy, số lượng cổ đông của CTCP có thể rất lớn, điều kiện
này cho phép CTCP có thể huy động vốn rộng rãi trong công chúng trong cũng như
ngoài nước để đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau; (v) đặc trưng quan trọng nhất của
CTCP đó là cổ phần (đây cũng chính là đặc tính quyết định để phân biệt với công ty
trách nhiệm hữu hạn). Khi một CTCP muốn huy động vốn, số vốn cần huy động được
chia thành nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần và người mua cổ phần được gọi cổ
đông. Cổ đông được công ty cấp một giấy chứng nhận sở hữu cổ phần (chúng chỉ hoặc
bút toán ghi sổ) gọi là cổ phiếu – chứng thư chứng minh quyền sở hữu của một cổ
đông đối với một cổ phần trong CTCP. Cổ đông là người có cổ phần thể hiện bằng cổ
phiếu.
Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp là hai luật luôn đi đôi với nhau để điều chỉnh
hoạt động thành lập doanh nghiệp, tổ chức quản lý doanh nghiệp, hoạt động đầu tư của
doanh nghiệp.... Tất cả các doanh nghiệp có thể được thành lập thông qua hoạt động
cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của pháp luật về doanh nghiệp. Tuy nhiên,
doanh nghiệp cũng có thể được thành lập thông qua hoạt động cấp Giấy chứng nhận
đầu tư bởi quy định “Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp”21 Mục đích của quy định này nhằm rút ngắn thời gian đăng ký kinh
doanh, giảm bớt những thủ tục hành chính không cần thiết… Tuy nhiên, quy định này
lại gây ra những khó khăn nhất định cho doanh nghiệp (nhà đầu tư) và cơ quan có thẩm

quyền khi cấp giấy phép cho doanh nghiệp để doanh nghiệp thực hiện hoạt động đầu
tư.

21

Điều 6 Nghị định 108/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư;
Khoản 4 Điều 12 Nghị định 102/2010/NĐ-CP Hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp.

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 19

SVTH: Nguyễn Phước Nho


Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng và
hướng hoàn thiện.
CHƯƠNG 2
PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ ĐẦU TƯ THEO LUẬT ĐẦU TƯ VÀ ĐĂNG
KÝ DOANH NGHIỆP THEO LUẬT DOANH NGHIỆP HIỆN HÀNH
2.1 Thủ tục đăng ký đầu tư
Môi trường pháp lý về đầu tư được đánh giá là yếu tố then chốt vì nó xác lập
khuôn khổ cho hoạt động đầu tư, quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư cũng như các biện
pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư cho chủ đầu tư. Môi trường pháp lý cũng được
xem là yếu tố linh hoạt nhất của môi trường đầu tư bởi khả năng dễ điều chỉnh của nó
nhưng đồng thời cũng là yếu tố nhạy cảm bởi tính chất thay đổi thất thường, làm ảnh
hưởng đến quyền lợi của nhà đầu tư. Ngoài các khía cạnh như: tính đồng bộ và ổn định
của hệ thống pháp luật, tính công khai, minh bạch và có thể dự đoán trước của các quy
phạm pháp luật, hiệu lực thi hành của đạo luật… thì các thủ tục hành chính liên quan
đến hoạt động đầu tư nói chung và thủ tục đăng ký dự án đầu tư nói riêng là một khía

cạnh cũng như một giai đoạn quan trọng trong quá trình đầu tư, thủ tục đầu tư đơn giản
sẽ giúp nhà đầu tư chủ động về thời gian, chi phí… để từ đó có thể nhanh chóng đi vào
thực hiện cũng như quản lý hoạt động đầu tư của mình. Nhìn một cách tổng quát có thể
thấy quy định của pháp luật Việt Nam về các thủ tục khi đăng ký đầu tư là nhằm đảm
bảo vai trò quản lý của nhà nước đối với các dự án đầu tư cũng như các hoạt động sản
xuất kinh doanh nói chung, tránh sự lãng phí, thất thoát kém hiệu quả trong đầu tư,
đảm bảo hoạt động đầu tư diễn ra theo đúng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội chung của đất nước. Đồng thời thông qua đó nhà nước thừa nhận tính hợp pháp của
hoạt động đầu tư, trên cơ sở đó làm căn cứ pháp lý để bảo vệ các quyền và lợi ích
chính đáng của nhà đầu tư.
2.1.1 Thẩm quyền chấp thuận và cấp Giấy chứng nhận đầu tư:
2.1.1.1 Dự án, công trình quan trọng quốc gia trình Quốc hội quyết định chủ
trương đầu tư22
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì dự án, công trình quan trọng quốc gia
là dự án đầu tư, dự án công trình độc lập hoặc một cụm công trình liên kết chặt chẽ với
nhau có tiêu chí theo quy định. Theo đó, một cụm công trình liên kết chặt chẽ với nhau
là cụm công trình gồm một hoặc một số công trình chính và các công trình khác có mối
liên kết về kinh tế - kỹ thuật mà nếu không đầu tư công trình chính sẽ không đầu tư các
công trình khác đó.
22

Nghị quyết số 49/2010/QH12 Về dự án, công trình quan trọng quốc gia trình Quốc hội quyết định chủ trương
đầu tư.

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 20

SVTH: Nguyễn Phước Nho



Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng và
hướng hoàn thiện.

Dự án, công trình đầu tư tại Việt Nam có một trong các tiêu chí sau
đây là dự án, công trình quan trọng quốc gia:
- Tổng vốn đầu tư từ 35.000 tỷ đồng trở lên, trong đó vốn nhà nước từ 11.000 tỷ
đồng trở lên. Vốn nhà nước bao gồm vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng

do nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà n ước, v ốn
đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước và vốn khác do nhà n ước qu ản
lý.
- Dự án, công trình có ảnh hưởng lớn đến môi trường hoặc tiềm ẩn khả năng ảnh
hưởng nghiêm trọng đến môi trường, bao gồm:
+ Nhà máy điện hạt nhân.
+ Dự án, công trình sử dụng đất có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất vườn
quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu bảo vệ cảnh quan, khu rừng nghiên cứu, thực
nghiệm khoa học từ 50 hécta (ha) trở lên; rừng phòng hộ đầu nguồn từ 50 hécta (ha) trở
lên; rừng phòng hộ chắn gió, chắn cát bay, chắn sóng lấn biển, bảo vệ môi trường từ 500
hécta (ha) trở lên; rừng sản xuất từ 1000 hécta (ha) trở lên;
- Dự án, công trình sử dụng đất có yêu cầu chuyển mục đích sử dụng đất trồng
lúa nước từ hai vụ trở lên với quy mô từ 500 hécta (ha) trở lên.
- Dự án, công trình phải di dân tái định cư từ 20.000 người trở lên ở miền núi, từ
50.000 người trở lên ở các vùng khác.
- Dự án, công trình đầu tư tại địa bàn có di tích quốc gia có giá trị đặc biệt quan
trọng về lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh được xếp hạng cấp quốc gia.
- Dự án, công trình đầu tư tại địa bàn đặc biệt quan trọng đối với quốc gia về
quốc phòng, an ninh. Chính phủ quy định tiêu chí địa bàn đặc biệt quan trọng đối với
quốc gia về quốc phòng, an ninh sau khi xin ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
- Dự án, công trình đòi hỏi phải áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt cần được

Quốc hội quyết định.
2.1.1.2 Dự án do Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư
Các dự án đầu tư không phân biệt nguồn vốn, quy mô đầu tư trong những lĩnh
vực sau:
- Xây dựng và kinh doanh cảng hàng không, vận tải hàng không.
- Xây dựng và kinh doanh cảng biển quốc gia.
- Thăm dò, khai thác, chế biến dầu khí, thăm dò, khai thác khoáng sản.
- Phát thanh, truyền hình.
- Kinh doanh casino.
GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 21

SVTH: Nguyễn Phước Nho


Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng và
hướng hoàn thiện.
- Sản xuất thuốc lá điếu.
- Thành lập cơ sở đào tạo đại học.
- Thành lập khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế.
Dự án đầu tư không thuộc vào các dự án trên, không phân biệt nguồn vốn và có
quy mô vốn đầu tư từ 1.500 tỷ đồng Việt Nam trở lên trong những lĩnh vực sau:
- Kinh doanh điện, chế biến khoáng sản, luyện kim.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa.
- Sản xuất, kinh doanh rượu, bia.
Dự án có vốn đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực sau:
- Kinh doanh vận tải biển.
- Thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ bưu chính, chuyển phát, viễn thông và
internet, thiết lập mạng truyền dẫn phát sóng.

- In ấn, phát hành báo chí, xuất bản.
- Thành lập cơ sở nghiên cứu khoa học độc lập.
Trường hợp dự án đầu tư vừa nêu nằm trong quy hoạch đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt hoặc ủy quyền phê duyệt và đáp ứng các điều kiện theo quy định
của pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên thì cơ quan cấp Giấy
chứng nhận đầu tư thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư mà không phải trình
Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư. Nếu các dự án này không nằm
trong quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hoặc ủy quyền phê duyệt
hoặc dự án không đáp ứng các điều kiện mở cửa thị trường quy định tại điều ước quốc
tế mà Việt Nam là thành viên thì cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư chủ trì, lấy ý
kiến Bộ quản lý ngành, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan khác có liên quan để
tổng hợp, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư. Trường hợp dự án
này thuộc lĩnh vực chưa có quy hoạch thì cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư lấy ý kiến
Bộ quản lý ngành, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan khác có liên quan để tổng
hợp, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định chủ trương đầu tư.
2.1.1.3 Dự án do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện việc đăng ký đầu tư, cấp
Giấy chứng nhận đầu tư
Dự án đầu tư ngoài khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh
tế, bao gồm cả các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của
Thủ tướng Chính phủ.

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 22

SVTH: Nguyễn Phước Nho


Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng và
hướng hoàn thiện.

Dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công
nghệ cao đối với những địa phương chưa thành lập Ban Quản lý khu công nghiệp, khu
chế xuất và khu công nghệ cao.
Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan tiếp nhận hồ sơ các dự án đầu tư thực hiện
trên địa bàn tỉnh thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân tỉnh.
Đối với dự án đầu tư thực hiện trên địa bàn nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương nhưng nhà đầu tư đặt hoặc dự kiến đặt trụ sở chính hoặc chi nhánh hoặc
văn phòng điều hành để thực hiện dự án đầu tư đó tại địa bàn tỉnh nào thì hồ sơ đầu tư
được nộp tại Sở Kế hoạch và Đầu tư của tỉnh đó.
2.1.1.4 Dự án do Ban Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao,
khu kinh tế (sau đây gọi là Ban Quản lý) thực hiện việc đăng ký đầu tư, cấp Giấy chứng
nhận đầu tư
Dự án đầu tư trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh
tế, bao gồm cả các dự án đầu tư thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của
Thủ tướng Chính phủ.
Dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công
nghệ cao.
2.1.2 Dự án đầu tư không phải làm thủ tục đăng ký đầu tư
Đối với dự án đầu tư trong nước có quy mô vốn đầu tư dưới 15 tỷ đồng Việt
Nam và không thuộc Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì nhà đầu tư không phải
làm thủ tục đăng ký đầu tư. Tuy nhiên, nếu nhà đầu tư có nhu cầu được xác nhận ưu
đãi đầu tư hoặc cấp Giấy chứng nhận đầu tư thì thực hiện đăng ký đầu tư để được cấp
Giấy chứng nhận đầu tư theo quy định.
2.1.3 Dự án đầu tư phải làm thủ tục đăng ký đầu tư
 Đối với dự án đầu tư trong nước có quy mô vốn đầu tư từ 15 tỷ đồng Việt
Nam đến dưới 300 tỷ đồng Việt Nam và không thuộc Danh mục lĩnh vực đầu tư có
điều kiện, không thuộc dự án thuộc thẩm quyền chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ,
thì nhà đầu tư làm thủ tục đăng ký đầu tư theo mẫu tại cơ quan nhà nước quản lý đầu tư
cấp tỉnh khi thực hiện dự án đầu tư.
Hồ sơ đăng ký đầu tư bao gồm:

- Tư cách pháp lý của nhà đầu tư (bản sao quyết định thành lập hoặc Giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc các tài liệu tương đương khác đối với nhà đầu tư là tổ
chức; bản sao hộ chiếu hoặc chứng minh nhân dân đối với nhà đầu tư là cá nhân).
- Mục tiêu, quy mô và địa điểm thực hiện dự án đầu tư.
GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 23

SVTH: Nguyễn Phước Nho


Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng và
hướng hoàn thiện.
- Vốn đầu tư, tiến độ thực hiện dự án.
- Nhu cầu sử dụng đất và cam kết về bảo vệ môi trường.
- Kiến nghị ưu đãi đầu tư (nếu có).
Nhà đầu tư đăng ký đầu tư tại cơ quan tiếp nhận hồ sơ (Sở Kế hoạch và Đầu tư
nếu dự án đầu tư do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp Giấy chứng nhận đầu tư, Ban quản
lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế đối với dự án do Ban
quản lý cấp Giấy chứng nhận đầu tư), Cơ quan tiếp nhận hồ sơ dự án đầu tư trao giấy
biên nhận ngay sau khi nhận được văn bản đăng ký đầu tư. Trường hợp nhà đầu tư có
yêu cầu cấp Giấy chứng nhận đầu tư hoặc xác nhận ưu đãi đầu tư thì cơ quan cấp Giấy
chứng nhận đầu tư căn cứ vào nội dung văn bản đăng ký đầu tư để cấp Giấy chứng
nhận đầu tư trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản đăng ký
đầu tư hợp lệ.
Trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đầu tư, cơ quan
cấp Giấy chứng nhận đầu tư sao gửi Giấy chứng nhận đầu tư đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, Bộ quản lý ngành và các cơ quan có liên quan.
 Đối với dự án có vốn đầu tư nước ngoài có quy mô vốn đầu tư dưới 300 tỷ

đồng Việt Nam và không thuộc Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì nhà đầu tư
làm thủ tục đăng ký đầu tư tại cơ quan nhà nước quản lý đầu tư cấp tỉnh để được cấp
Giấy chứng nhận đầu tư.
Hồ sơ đăng ký đầu tư bao gồm:
- Văn bản đăng ký đầu tư (theo mẫu)23.
- Báo cáo năng lực tài chính của nhà đầu tư (do nhà đầu tư lập và chịu trách
nhiệm).
- Hợp đồng liên doanh hoặc hợp đồng BCC, Điều lệ doanh nghiệp (nếu có).
Ngoài ra, đối với trường hợp dự án đầu tư gắn với việc thành lập tổ chức kinh
tế, nhà đầu tư phải nộp kèm theo:
- Hồ sơ đăng ký kinh doanh tương ứng với mỗi loại hình doanh nghiệp theo quy
định của pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật có liên quan.
- Hợp đồng liên doanh đối với hình thức đầu tư thành lập tổ chức kinh tế liên
doanh giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng ký đầu tư và
hồ sơ đăng ký kinh doanh hợp lệ, cơ quan cấp Giấy chứng nhận đầu tư kiểm tra tính hợp
23

Các mẫu văn bản này được trình bày cụ thể trong Quyết định số 1088/QĐ-BKH ngày 19/10/2006 của Bộ
trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc ban hành các mẫu thực hiện thủ tục đầu tư tại Việt Nam

GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 24

SVTH: Nguyễn Phước Nho


Mối quan hệ giữa thủ tục đăng ký đầu tư và đăng ký doanh nghiệp – Thực trạng và
hướng hoàn thiện.

lệ của hồ sơ đăng ký đầu tư, hồ sơ đăng ký kinh doanh (đối với trường hợp thành lập tổ
chức kinh tế gắn với dự án đầu tư) và cấp Giấy chứng nhận đầu tư mà không được yêu
cầu bổ sung thêm giấy tờ nào khác.
Trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đầu tư, cơ quan
cấp Giấy chứng nhận đầu tư sao gửi Giấy chứng nhận đầu tư đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam, Bộ quản lý ngành và các cơ quan có liên quan.
2.1.4 Dự án đầu tư phải thực hiện thủ tục thẩm tra đầu tư
Đối với một số loại dự án phải thẩm tra đầu tư theo quy định của pháp luật thì
cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thẩm tra hồ sơ trước khi cấp Giấy chứng nhận
đầu tư. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì có ba loại dự án phải thẩm tra: dự
án, công trình quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư, dự án có
quy mô vốn đầu tư từ 300 tỷ đồng Việt Nam trở lên và không thuộc Danh mục lĩnh vực
đầu tư có điều kiện, dự án thuộc Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện.
2.1.4.1 Dự án, công trình quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ
trương đầu tư
Hồ sơ bao gồm:
- Tờ trình của Chính phủ.
- Báo cáo đầu tư (Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi).
- Báo cáo của Hội đồng thẩm định nhà nước.
- Tài liệu khác có liên quan.
Trường hợp dự án, công trình có tổng vốn đầu tư rất lớn, thời gian thực hiện kéo
dài trong nhiều năm thì sau khi Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư chung
trên cơ sở báo cáo đầu tư (báo cáo nghiên cứu tiền khả thi), Quốc hội có thể giao Chính
phủ tổ chức lập dự án đầu tư (báo cáo nghiên cứu khả thi) để trình Quốc hội xem xét,
quyết định chủ trương đầu tư cụ thể.
Chính phủ chịu trách nhiệm về tính đầy đủ, chính xác của hồ sơ trình Quốc hội
đối với dự án, công trình quan trọng quốc gia. Hồ sơ của Chính phủ về dự án, công
trình quan trọng quốc gia phải được cơ quan có liên quan của Quốc hội thẩm tra. Thủ
tục và nội dung thẩm tra được quy định như sau:

Chậm nhất là 60 ngày, trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội, Chính phủ gửi hồ
sơ đến cơ quan thẩm tra để tiến hành thẩm tra. Cơ quan thẩm tra có quyền yêu cầu

chủ đầu tư, cơ quan lập dự án, cơ quan thẩm định dự án báo cáo về những
vấn đề thuộc nội dung dự án, công trình quan trọng quốc gia, tự mình hoặc
GVHD: Đoàn Nguyễn Phú Cường

Trang 25

SVTH: Nguyễn Phước Nho


×