Tải bản đầy đủ (.doc) (157 trang)

Phát triển vận tải hành khách nội địa của Hãng hàng không quốc gia Việt Nam (Vietnam Airlines)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 157 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp phải cạnh tranh gay gắt không
những với các doanh nghiệp trong nước mà còn cả với các tập đoàn đa quốc gia có
tiềm lực lớn mạnh. Để tồn tại và phát triển thì doanh nghiệp phải luôn tìm hiểu,
nghiên cứu và đưa ra các giải pháp để duy trì, phát triển các hoạt động kinh doanh
đặc biệt khi Việt Nam tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và gia
nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Là một ngành kinh tế kỹ thuật mũi nhọn của đất nước, Hàng không dân dụng
Việt Nam được Nhà nước ưu tiên phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu giao lưu kinh tế,
văn hoá, chính trị, ngoại giao nhanh nhất và tiện lợi nhất. Cùng với sự phát triển
mạnh mẽ của đất nước, nhờ chính sách mở cửa, hội nhập khu vực và thế giới, Hãng
Hàng không quốc gia Việt Nam (Vietnam Airlines) _ đơn vị nòng cốt của Tổng
công ty Hàng không Việt Nam đã đổi mới và có những bước phát triển vượt bậc.
Vietnam Airlines đã có một đội máy bay hiện đại, dịch vụ phục vụ hành khách ngày
càng hoàn thiện. Với mạng đường bay nội địa bao trùm khắp mọi miền đất nước (18
thành phố trong nước), mạng đường bay quốc tế đến 38 thành phố trên thế giới ở
Châu Âu, Châu Á, Châu Úc và Bắc Mỹ, Vietnam Airlines đã trở thành cầu nối quan
trọng giữa các vùng, miền trong Việt Nam và giữa Việt Nam với thế giới. Theo báo
cáo của Cục Hàng không Việt Nam, tình hình vận tài hành khách nội địa bằng
đường hàng không của Việt Nam những năm gần đây đạt khoảng 4 triệu lượt khách
mỗi năm với mức tăng trưởng trung bình là 17%. Trong đó, Vietnam Airlines
(VNA) vận chuyển được gần 3,6 triệu lượt hành khách/năm, chiếm tỷ trọng khoảng
86% so với mức vận tài hành khách nội địa bằng đường hàng không của Việt Nam.
Cục Hàng không Việt Nam dự báo số lượt hành khách nội địa thông qua các cảng
hàng không trong cả nước sẽ là 5,2 triệu lượt khách trong năm 2008. Tuy nhiên,
cùng với việc đưa vào hoạt động nhà ga hành khách mới tại sân bay Tân Sơn Nhất
và lượng khách du lịch có dấu hiệu tăng cao, con số này cũng sẽ cao hơn nhiều so




2
với dự báo. Với lợi thế là một hãng hàng không duy nhất tại Việt Nam có khả năng
canh trạnh với các hãng hàng không nước ngoài, Vietnam Airlines dự kiến đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu vận tải hành khách nội địa cũng như quốc tế nhằm chiếm
thị phần khoảng 60% thị trường hàng không Việt Nam.
Tuy vậy, với đặc thù của ngành hàng không dân dụng mang tính quốc tế cao,
trước những cơ hội và thách thức của đất nước khi hội nhập kinh tế thế giới đòi hỏi
Vietnam Airlines phải có một chiến lược phát triển, đặc biệt là những hoạch định
chính sách về phát triển vận tải hành khách _ sự sống còn đối với một Hãng hàng
không. Mặt khác, việc phát triển với tốc độ nhanh chóng vừa qua của Hãng cũng đã
bộc lộ những khiếm khuyết và chưa vững chắc cần phải nhanh chóng khắc phục.
Hiện tại quy mô của Vietnam Airlines vẫn còn nhỏ bé so với nhiều Hãng hàng
không có uy tín trong khu vực và trên thế giới, chưa tương xứng với một đất nước
có trên 80 triệu dân, có nền kinh tế tăng trưởng cao và một nhu cầu thị trường vận
tải hàng không trong nước cũng như quốc tế đang phát triển nhanh chóng. Để có thể
vững bước và tiếp tục vươn lên đòi hỏi VNA phải có nhiều đổi mới một cách toàn
diện trong đó công tác phát triển vận tải hành khách nội địa đóng vai trò hết sức
quan trọng bởi thị trường nội địa được coi là thị trường sống còn đối với VNA. Vì
vậy em đã quyết định chọn đề tài: “Phát triển vận tải hành khách nội địa của
Hãng hàng không quốc gia Việt Nam (Vietnam Airlines) làm đề tài nghiên cứu
cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

a) Một số đề tài khoa học sau đây đã đề cập đến một số khía cạnh liên quan
đến vấn đề phát triển vận tải hành khách nội địa của Vietnam Airlines:
*) Đề tài khoa học cấp ngành: Thị trường vận tải hàng không và chiến lược
phát triển ngành vận tải hàng không Việt Nam đến năm 2010.
- Chủ nhiệm đề tài: PTS. Đào Mạnh Nhương- Phó cục trưởng Cục HKDDVN.

*) Đề tài khoa học cấp Tổng công ty: Nghiên cứu các giải pháp hạn chế việc
chậm, hủy chuyến bay nhằm nâng cao chất lượng phục vụ hành khách, đảm bảo an
toàn và hiệu quả khai thác bay của Vietnam Airlines.


3
- Chủ nhiệm đề tài: TS. Trần Quang Châu- Viện trưởng viện Khoa học hàng không.
*) Đề tài khoa học cấp Tổng công ty: Nghiên cứu xây dựng quy trình phục vụ
hành khách, hành lý của Vietnam Airlines tại các nhà ga hành khách.
- Chủ nhiệm đề tài: Kỹ sư Bùi Duy Kế – Trung tâm nghiên cứu ứng dụng, viện
Khoa học hàng không
*) Đề tài khoa học: Thông tin dự báo nhu cầu đi lại hành khách phục vụ hoạt
động kinh doanh của khối thương mại, Tổng công ty HKVN
- Chủ nhiệm đề tài: Kỹ sư Phạm Ngọc Tùng, Phó ban Tiếp thị hành kháchTổng công ty HKVN
*) Đề tài khoa học cấp thạc sĩ- Đại học Kinh tế quốc dân: Giải pháp phát triển
thị trường vận tải quốc tế của hăng hàng không quốc gia Việt Nam
- Người thực hiện: Lê Tuấn
*) Đề tài khoa học cấp thạc sĩ- Đại học Kinh tế quốc dân: Vận dụng Marketing
quan hệ trong hoạt động kinh doanh của Vietnam Airlines
- Người thực hiện: Nguyễn Hữu Tùng
b) Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu: Các đề tài trên chỉ đề cập đến
thị trường vận tải hàng không và các giải pháp phát triển thị trường vận tải hàng
không đối với hoạt động kinh doanh của Vietnam Airlines mà chưa đề cập toàn diện
đến các giải pháp phát triển vận tải hành khách nội địa bằng đường hàng không của
Vietnam Airlines.
3. MỤC ĐÍCH CỦA NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

- Làm rõ cơ sở lý luận về vận tải hành khách bằng đường hàng không
- Phân tích và đánh giá thực trạng vận tải hành khách nội địa bằng đường hàng
không của hãng Hàng không quốc gia Việt Nam

- Đề ra một số giải pháp phát triển vận tải hành khách nội địa của hãng Hàng
không quốc gia Việt Nam
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

* Đối tượng nghiên cứu : nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vận tải hành
khách nội địa bằng đường hàng không của Hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam.


4
* Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động kinh doanh vận tải hành khách nội địa của
Hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam (Vietnam Airlines) trong giai đoạn từ 2001
đến nay.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Các phương pháp nghiên cứu sau đây đã được sử dụng trong luận văn:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh các số liệu thống kê theo thời gian
và không gian và các phương pháp nghiên cứu khác.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luân văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về phát triển vận tải hành khách nội địa bằng
đường hàng không trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2: Phân tích thực trạng phát triển vận tải hành khách nội địa của hãng
Hàng không quốc gia Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Giải pháp phát triển vận tải hành khách nội địa của hãng Hàng
không quốc gia Việt Nam trong những năm tới.


5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN VẬN TẢI
HÀNH KHÁCH BẰNG ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1 KHÁI QUÁT VỀ VẬN TẢI VÀ VẬN TẢI HÀNH KHÁCH BẰNG ĐƯỜNG
HÀNG KHÔNG

1.1.1 Khái niệm vận tải và vận tải hành khách bằng đường hàng không
1.1.1.1 Khái niệm vận tải
Trong xã hội có rất nhiều ngành sản xuất phục vụ cho cuộc sống con người,
mỗi ngành, mỗi lĩnh vực đóng vai trò và tầm quan trọng riêng. Chúng ta khó có thể
khẳng định được ngành sản xuất nào quan trọng hơn ngành sản xuất nào vì rằng
cuộc sống của con người và sự phát triển của xã hội ra sao khi thiếu vắng đi một
lĩnh vực sản xuất nào đó. Nhìn chung, các ngành sản xuất, các lĩnh vực sản xuất
trên một góc độ nào đó thì chúng ta có thể tồn tại một cách độc lập nhưng đi sâu
vào nghiên cứu thì chúng ta luôn có mối quan hệ mật thiết lẫn nhau, cùng bổ trợ cho
nhau. Ngành sản xuất vận tải là một sự cần thiết nhất định trong sự tồn tại và phát
triển của xã hội. Khi nghiên cứu kinh tế người ta đã đưa ra nhiều khái niệm về vận
tải, mỗi khái niệm xem xét một góc độ hay một nội dung nào đó.
Trên góc độ không gian, người ta cho rằng: Vận tải là một hoạt động nhằm
thay đổi vị trí của hàng hóa và hành khách trong không gian, sự thay đổi vị trí này
sẽ thỏa mãn nhu cầu của hành khách và chủ hàng. Tuy nhiên các hoạt động này
thường có sử dụng bằng một loại phương tiện vận tải nào đó chẳng hạn ô tô, máy
bay, tàu hỏa...hay các súc vật có khả năng như ngựa, trâu, bò...
Trên góc độ kỹ thuật của hoạt động thì vận tải sẽ xuất hiện khi có sự kết hợp
và sử dụng phương tiện chuyên chở, tuyến đường, ga, cảng, thiết bị động lực, đối
tượng vận chuyển, khi đó vận tải sẽ thực hiện được một khoảng cách nào đó.
Trên góc độ xem xét về mặt kinh tế thì vận tải là một hoạt động tìm kiếm lợi
nhuận từ việc bán sản phẩm phục vụ của mình, vận tải sử dụng hệ thống giá cả



6
riêng, tuy nhiên quy luật cung cầu, quy luật giá trị vẫn chi phối mạnh đến hoạt động
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm vận tải.
Trên góc độ xem xét về công nghệ sản xuất thì người ta cho rằng vận tải là
một quá trình thực hiện một số giai đoạn theo một trình tự và nội dung nhất định,
bao gồm:
-

Giai đoạn chuẩn bị.

- Giai đoạn bố trí phương tiện vận chuyển và nhận hàng (khách).
- Giai đoạn xếp hàng (khỏch) lên phương tiện.
- Giai đoạn lập đoàn phương tiện.
- Giai đoạn vận chuyển.
- Giai đoạn nhận phương tiện tại nơi đến.
- Giai đoạn giải thể đoàn phương tiện.
- Giai đoạn dỡ hàng (đưa khách rời khỏi phương tiện).
- Giai đoạn đưa phương tiện chạy rỗng đến nơi nhận hàng (khách) tiếp theo.
Về nguyên tắc thì quá trình vận tải luôn thực hiện đầy đủ các giai đoạn ở trên
theo trình tự từ trên xuống dưới. Tuy nhiên, tùy thuộc vào phương tiện vận tải là gì
mà quá trình vận tải có thể bỏ qua hoặc tiến hành đồng thời một vài giai đoạn ở
trên. Mỗi giai đoạn chứa đựng nhiều nội dung cụ thể, chiếm một khoảng thời gian
nhất định trong toàn bộ thời gian của quá trình vận tải.
1.1.1.2 Khái niệm vận tải hành khách bằng đường hàng không
Năm 1903 tại Mỹ, anh em nhà Wright đã chế tạo được máy bay 2 tầng, cánh
gỗ động cơ xăng 12HP và hai ông được coi là những người đầu tiên trong lịch sử đã
phát minh ra máy bay. Ngày 25/8/1919, chuyến bay thương mại quốc tế đầu tiên theo
hành trình quốc tế xuất phát từ London đến Paris được thực hiện. Sau chiến tranh thế
giới lần thứ II, công nghiệp hàng không và ngành vận chuyển hàng không dân dụng

phát triển nhanh chóng. Từ các loại máy bay động cơ cánh quạt bay tốc độ chậm, sức
tải nhỏ đã được thay thế bằng các loại máy bay phản lực khổng lồ bay với vận tốc siêu
thanh, khả năng chở khách lớn và đặc biệt giá trị cao tới hàng trăm triệu USD như
ATR-72, Fokker-70, Boieng 767, 777, 727, 7E7, Airbus 320, 321, 340, đặc biệt là sự


7
xuất hiện của máy bay thương mại khổng lồ Boeing 747 và hiện đại nhất là A380. Các
máy bay có tải trọng lớn đang dần chiếm ưu thế trong vận tải hàng không dân dụng.
Con đường phát triển của ngành hàng không thế giới đang rộng mở.
Vận tải hàng không là ngành vận tải quan trọng của vận tải quốc tế. Đó là
một hoạt động kinh tế có mục đích của con người, có kết hợp các yếu tố kinh tế - kỹ
thuật nhằm chuyên chở bằng máy bay sao cho có hiệu quả nhất. Theo định nghiã
của ICAO (Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế) thì : “Vận tải hành khách bằng
đường hàng không giữa hai địa điểm nào đó là việc vận chuyển có hay ở dạng tiềm
năng đối với hành khách giữa các địa điểm này bằng dịch vụ hàng không thương
mại”. Trong khái niệm này có hai điểm cần lưu ý: thứ nhất, hoạt động vận tải hàng
không này chỉ áp dụng với các chuyến bay thương mại; thứ hai, tại các địa điểm đó
phải có đổ và/hoặc nhận hành khách. Vì vậy, tuỳ thuộc vào phân bố của các địa
điểm đi và đến của hành khách có thể phân chia hoạt động vận tải hành khách bằng
đường hàng không thành hai loại : vận tải hành khách nội địa và vận tải hành khách
quốc tế. Vận tải hành khách quốc tế bằng đường hàng không là hoạt động vận chuyển
hành khách bằng dịch vụ hàng không thương mại giữa 2 địa điểm nào đó mà trong đó
có ít nhất một địa điểm không nằm trên lãnh thổ của quốc gia mà nhà vận chuyển
đăng ký. Ngược lại, vận tải hành khách nội địa bằng đường hàng không là hoạt động
vận chuyển hành khách bằng dịch vụ hàng không thương mại giữa 2 địa điểm nếu cả 2
địa điểm này đều nằm trên lãnh thổ của quốc gia mà nhà vận chuyển đăng ký.
1.1.2 Đặc điểm và vai trò của vận tải hành khách bằng đường hàng không
1.1.2.1 Đặc điểm của vận tải hành khách bằng đường hàng không
 Ngành hàng không là một ngành dịch vụ. Dịch vụ chủ yếu của vận tải

hàng không là dịch vụ vận chuyển hành khách. Bên cạnh đó cũng có nhiều dịch vụ
khác như dịch vụ đặt giữ chỗ, giải trí trên máy bay, dịch vụ trước trong và sau
chuyến bay ...Các dịch vụ này thường được bán trọn gói cho khách hàng.
 Giá cước đối với hành khách sử dụng dịch vụ vận tải hàng không cao hơn
so với các loại hình vận tải khác do chi phí trang thiết bị, chi phí sân bay, chi phí
khấu hao máy bay, chi phí dịch vụ,…cao.


8
 Tuyến đường trong vận tải hàng không là không trung và hầu như là
đường thẳng, không phụ thuộc vào địa hình mặt đất một nước, không phải đầu tư
xây dựng. Tuyến đường trong vận tải hàng không được hình thành trong không
gian, căn cứ và định hướng là chính, cho nên có thể nói khoảng cách giữa 2 điểm
vận tải chính là khoảng cách giữa hai điểm đó. Tuy nhiên, việc hình thành các
đường bay trực tiếp nối liền giữa hai sân bay cũng phụ thuộc ít nhiều vào điều kiện
địa lý, đặc thù khí tượng của từng vùng, nhưng cơ bản, tuyến đường di chuyển của
máy bay là tương đối thẳng nên không kể đến sự thay đổi độ cao của máy bay trong
quá trình di chuyển. Thông thường, đường hàng không bao giờ cũng ngắn hơn vận
tải đường sắt và đường ô tô khoảng 20% và 30% so với vận tải đường sông.
 Tốc độ vận tải hàng không cao: hơn 27 lần so với vận tải đường biển, 10
lần so với vận tải đường bộ, 8 lần so với vận tải đường sắt. Cho nên thời gian vận
tải ngắn. Đây là yếu tố quyết định tính cạnh tranh cho vận tải hàng không.
 Do tuyến đường hoạt động trong vận tải hàng không là không trung cộng
với tốc độ là rất lớn nên phạm vi hoạt động của vận tải hàng không cực kỳ rộng.
Phạm vi không chỉ bó hẹp trong một nước hoặc một khu vực nhất định nào đó mà là
toàn thế giới.
 Vận tải hàng không cũng là phương thức vận tải an toàn hơn cả so với các
phương thức vận tải khác, có hệ thống trang thiết bị hiện đại nhất, máy bay thường
bay trên tầng điện li nên ít chịu ảnh hưởng của thời tiết (trừ lúc hạ và cất cánh).
 Vận tải hàng không đòi hỏi rất khắt khe về công nghệ kỹ thuật, độ chính xác

tuyệt đối trong điều hành bay. Trong vận tải hàng không luôn sử dụng những công nghệ
hiện đại nhất, các công nghệ ứng dụng trong ngành luôn đổi mới. Đổi mới công nghệ sẽ
làm giảm mức tiêu thụ nhiên liệu, an toàn hơn, khả năng chuyên chở sẽ lớn hơn...
 Mức dịch vụ hàng không cung cấp cũng cao hơn hẳn so với các phương
thức vận tải khác. Khách hàng phải trả tiền trước khi nhận được dịch vụ vận chuyển
của hãng hàng không.
 Mặc dù số vụ tai nạn thấp hơn vận tải đường bộ, đường biển nhiều nhưng
mức độ về mất an toàn, an ninh có tỷ lệ cao, tai nạn hàng không rất thảm khốc.


9
 Vận tải hàng không đòi hỏi sự đầu tư lớn về cơ sở vật chất hạ tầng kỹ
thuật cho sân bay, máy bay, đội ngũ nhân lực cũng như hoà nhập vào hệ thống kiểm
soát không lưu…Do vậy, các nước đang phát triển, các nước nghèo gặp rất nhiều
khó khăn đối với sự phát triển vận tải hàng không, do thiếu vốn để mua máy bay,
xây dựng sân bay, kho bãi hàng hoá, mua sắm trang thiết bị và công nghệ hiện đại,
do đó khó có thể tạo ra được một sân chơi bình đẳng với các nước có tiềm lực kinh
tế mạnh, khoa học công nghệ phát triển.
 Vận tải hành khách bằng đường hàng không là một ngành kinh doanh
trong lĩnh vực hàng không với sản phẩm chính là dịch vụ vận chuyển hành khách.
Đặc điểm của sản phẩm này là tính phân hoá của nó (Product Differentiation) và
sản phẩm thay thế. Đối với không ít hành khách, bay theo cùng chặng đường bay
bằng các hãng hàng không có chất lượng dịch vụ khác nhau và / hoặc mức giá cước
khác nhau là hoàn toàn khác nhau (đặc biệt là đối với các đường bay quốc tế trên
chặng đường dài). Cũng như vậy, ngay cả khi có cùng chất lượng và cùng mức giá
cước thì đi lại bằng đường hàng không giữa hai thành phố (thí dụ, Hà Nội – TP
Hồ Chí Minh) bằng các giờ khác nhau (thí dụ, chuyến 07h00 và 08h30) là hoàn
toàn khác nhau, vì để bay chuyến 07h00 thì phải dậy quá sớm để kịp di chuyển
bằng đường bộ từ trung tâm Hà Nội đến Cảng Hàng không Sân bay Nội Bài, vì
vậy nhiều người thích bay chuyến 08h30 hơn. Ngoài ra, để di chuyển giữa 2 địa

điểm thì ngoài phương tiện máy bay hành khách có thể lựa chọn một số loại hình
vận tải khả dĩ khác. Thí dụ, từ Hà Nội đến Huế có thể đi bằng máy bay, tầu hoả
hay ô tô. Chính những đặc điểm này của dịch vụ vận chuyển hàng không là cơ sở
để thực hiện cạnh tranh về giá (Price Competition) và cạnh tranh ngoài giá
(Nonprice Competition) giữa các hãng hàng không với nhau và với các loại hình
vận chuyển hàng không khác.
 Do vận tải đường hàng không có tốc độ cao nên các quy định về thủ tục
giấy tờ, ngôn ngữ có liên quan đến hoạt động hàng không ở những nước khác nhau
thường tương tự như nhau và thống nhất trên phạm vi toàn cầu. Thực tế hầu hết các
nước có ngành hàng không dân dụng đều tuân thủ các quy định và giám sát chặt chẽ


10
của các tổ chức hàng không dân dụng quốc tế (ICAO-International civil aviaiton
organization), hiệp hội vận tải hàng không quốc tế (IATA-International Air
Transport Association)
1.1.2.2 Vai trò của vận tải hành khách bằng đường hàng không
Ngành hàng không là ngành kinh tế - kỹ thuật hiện đại và năng động, có tốc
độ đổi mới công nghệ cao, hiện đại hoá nhanh, có tính liên ngành, liên quốc gia và
đa quốc gia trong hoạt động kinh doanh và nằm trong một hệ thống kinh tế - xã hội
phức tạp bao gồm nhiều yếu tố cấu thành có quan hệ chặt chẽ khăng khít với nhau
tạo thành dây chuyền công nghệ thống nhất. Vai trò của vận tải hành khách bằng
đường hàng không ngày càng trở nên quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội của tất cả các quốc gia trong đó có Việt Nam nhằm đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Vận tải hành khách bằng đường hàng không là phương tiện vận tải có tính ưu
việt cao mà các phương tiện vận tải khác không làm được; là công cụ quan trọng
trong việc thực hiện chính sách mở cửa, góp phần không nhỏ vào thúc đẩy thương
mại quốc tế, du lịch, đầu tư nước ngoài và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Nó là nhịp cầu nối liền Việt Nam với thế giới nhanh nhất, tiện lợi nhất, đáp ứng nhu

cầu giao lưu kinh tế, văn hoá, chính trị, ngoại giao và sự đi lại của nhân dân; là một
trong những ngành thu nhiều ngoại tệ cho ngân sách Nhà nước và góp phần đưa lại
hiệu quả cho các ngành kinh tế quốc dân; nó còn là lực lượng dự trữ chiến lược khi
đất nước có chiến tranh. Đây là một ngành sản xuất vật chất đặc biệt và có tính đặc
thù rất cao.
Vận tải hàng không là một ngành vận tải huyết mạch trong hệ thống giao
thông vận tải của đất nước khi mà kinh tế ngày càng phát triển. Nó đáp ứng nhu cầu
vận tải hành khách ngày càng tăng trong nền kinh tế một an toàn nhất, thuận lợi
nhất. Ngoài ra nó còn tạo ra một số lượng lớn việc làm cho người lao động.
Vận tải hành khách của hãng hàng không còn góp phần vào nâng cao uy tín
và hình ảnh của quốc gia trên trường quốc tế. Hãng hàng không chính là một “đại
sứ” rất dễ thấy của quốc gia. Mọi người ở các quốc gia khác chưa có hiểu biết


11
nhiều về đất nước Việt Nam sẽ có những cảm nhận tốt về đất nước qua những gì
họ thấy từ hình ảnh của hãng hàng không. Thiết kế bề ngoài máy bay, biểu tượng,
quảng cáo, đồng phục của tiếp viên sẽ phản ánh văn hoá và tính cách của con
người Việt Nam.
1.1.3 Xu hướng vận tải hành khách bằng đường hàng không trên thế giới
1.1.3.1 Tốc độ tăng trưởng vận tải hành khách
Tổng giám đốc Hiệp hội các hãng hàng không quốc tế (IATA) đã dự báo
rằng vận tải hành khách quốc tế tăng mạnh, từ 760 triệu lượt khách quốc tế lên 980
triệu lượt vào năm 2011, mức tăng bình quân hàng năm là 5,1%. Tuy nhiên, con số
này vẫn thấp hơn nhiều so với 7,4%/năm kết quả đạt được trong giai đoạn 20022007. Nguyên nhân của sự suy giảm này là do kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm lại
trong khi chi phí nhiên liệu lại tăng quá cao. Hành khách nội địa do các dịch vụ bay
thường lệ đảm nhận được sẽ tăng từ 1,37 tỷ lượt người đạt được trong năm 2007 lên
1,77 tỷ lượt người vào năm 2011. Tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm là 5,3%.
Trung Quốc, Ấn độ và Việt Nam sẽ là những thị trường chính góp phần đáng kể
trong việc kích thích sự tăng trưởng hàng không toàn cầu vì tại 3 thị trường này

ngày càng có thêm nhiều đường bay nội địa mới được đưa vào khai thác. Trung
Quốc sẽ dẫn đầu khu vực và thế giới về tốc độ tăng trưởng vận tải hành khách, với
tỷ lệ 8,8%/năm, thứ nhì là Ấn Độ với 8,6%/năm và thứ 3 là Việt Nam với tỷ lệ
7,7%/năm. Trong khi đó tốc độ trung bình của toàn khu vực châu Á là 5,9%/năm.
Thị trường được coi là có tốc độ tăng trưởng chậm nhất thụôc về khu vực Bắc Mỹ,
với tỷ lệ 4,2%/năm. Điều đó cho thấy thị trường này đó quá trưởng thành. Tiếp đó
là Mỹ La Tinh với tốc độ tăng trưởng là 4,4%/năm. Khu vực Trung Đông được coi
là khu vực dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng, với tỷ lệ là 6,8%/năm. Tại khu vực này,
các hãng hàng không quốc gia Vương quốc Ả Rập sẽ dẫn đầu với mức tăng trưởng
về vận tải hành khách là 8,4%/năm. Tuy nhiên, nếu xét về số lượng hành khách tăng
trưởng thì khu vực này không cao lắm, chỉ cao hơn năm 2007 là 30 triệu lượt khách
(năm 2011 khu vực này sẽ đảm nhận được 105 triệu lượt khách). Các hãng hàng
không của Latvia sẽ dẫn đầu khu vực châu Âu với tốc độ tăng trưởng về vận tải


12
hành khách là 12,1%/năm, tiếp đó là Ba Lan với 9,2% và Ukraina là 8,8%/năm và
Rumani là 7,3%/năm. Nếu so với 5%/năm- tỷ lệ trung bình mà châu Âu đạt đựơc thì
tốc độ tăng trưởng của các quốc gia nói trên là rất cao.
1.1.3.2 Kỹ thuật mới sân bay và sự phân chia thị trường máy bay dân dụng thế giới
Do sự phát triển của ngành hàng không, đồng thời lưu lượng hành khách
ngày một tăng dẫn đến cơ sở hạ tầng sân bay và trang thiết bị điều hành bay bị quá
tải. Kể từ mùa hè năm 2001, hiện tượng nhiều chuyến bay chậm trễ đã tiếp tục gia
tăng. Châu Á đang xây dựng một loạt sân bay mới, như sân bay mới ở Hồng Kông,
sân bay Phố Đông ở Thượng Hải, sân bay quốc tế thứ hai ở Băng Cốc. Yêu cầu lớn
nhất của sân bay thế kỷ 21 là cửa ra sân bay, hệ thống xử lý hành khách, hành lang,
băng chuyền tự động. . . phải thích hợp với việc khai thác các loại máy bay thân
rộng có sức chở từ 600 tới 1.000 hành khách.
Chiến lược phát triển của các hãng hàng không là yếu tố đầu tiên có tác động
tích cực đến việc lựa chọn máy bay. Việc thực hiện tự do hoá thị trường hàng không

phi điều tiết đã tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, buộc các hãng HK phải
sắp xếp lại hoạt động sản xuất kinh doanh, dẫn đến sự phân chia thị trường máy
bay.Các quốc gia thực hiện mở cửa, Nhà nước giảm tối đa sự can thiệp trực tiếp của
Nhà nước vào quá trình điều tiết thương mại, tự do hoá thương mại, trong đó có tự
do hoá các qui định về dịch vụ hàng không, cho phép các hãng hàng không huy
động các nguồn vốn đầu tư phát triển đội ngũ máy bay, đáp ứng nhu cầu đi lại của
hành khách và thực hiện nhiều hơn nữa những chuyến bay thẳng giữa nhiều thành
phố. Thay vì sử dụng những loại máy bay lớn cho các tuyến bay giữa các trung tâm
thành phố lớn, các hãng hàng không sẽ sử dụng các máy bay nhỏ tầm trung, và thị
trường máy bay khai thác được phân chia khi xuất hiện nhiều tuyến bay từ điểm này
tới điểm khác. Trong vòng 20 năm tới, các hãng hàng không thế giới sẽ đầu tư
khoảng 570 tỷ USD cho thị trường máy bay trung bình có hai lối đi như B-767 và
B-777, trong đó riêng thị trường châu Á chiếm gần một nửa. Hiện với trên 450
chiếc máy bay loại này đã được đặt hàng, khoảng trên 40% đơn đặt hàng thuộc về
các hãng hàng không châu Á, như : Air China, All Nippon Airways, Cathay Pacific


13
Airways, China Southern, JAL, Korean Air, Singapore Airlines, Thai Airways
International và Vietnam Airlines.
1.1.3.3 Môi trường kinh doanh vận tải hành khách bằng đường hàng không
Trong thế kỷ 21, hiện tượng tư nhân hoá, cổ phần hoá ngày càng phát triển bởi
các quốc gia thực hiện mở cửa. Nhà nước ban hành các chính sách tự do hoá thương
mại, trong đó có tự do hoá các qui định về dịch vụ hàng không, giảm tối đa sự can
thiệp trực tiếp của Nhà nước vào quá trình điều tiết thương mại; Cho phép các hãng
hàng không huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển kinh doanh, phục vụ nhu cầu
đi lại ngày càng tăng của hành khách. Những hãng mới gia nhập hoặc sẽ phát triển
mạnh nếu biết tận dụng lợi thế người đi sau và sẽ tiếp tục gia nhập thị trường hoặc
là sẽ bị thị trường đào thải. Hãng hàng không kinh doanh trong nước mở thêm
đường bay quốc tế, hãng hàng không quốc tế sẽ chi viện cho tuyến nội địa.Trong

môi trường tự do đó, hãng hàng không có quyền thay đổi cơ cấu, dẫn đến hiện
tượng ngày càng có nhiều hãng hàng không có cổ phần lớn trong các hãng hàng
không nước ngoài. Môi trường cạnh tranh ngày càng ác liệt sẽ làm cho hiệu quả
kinh doanh của ngành hàng không càng cao, lãi suất thu được càng lớn. Hiện tại, ở
Mỹ cứ 4 người đi máy bay thì có 1 người mua vé của các hãng chuyên bán vé giá
rẻ, con số này tại châu Âu là một nửa. Các đại lý bán vé máy bay sẽ phải bươn trải
để tồn tại. Các hãng hàng không sẽ bán vé trực tiếp và cắt giảm hoa hồng trả lại cho
đại lý. Khách hàng thì muốn mua vé rẻ hơn thông qua mạng. Nhưng vì tiền lãi thấp
quá, sẽ chỉ có 5% trên tổng số hãng hàng không mở chiến dịch bán vé qua mạng.
Dự tính từ nay tới năm 2020, giá vé hàng không quốc tế mỗi năm sẽ hạ với
tốc độ 1,1%, do hiệu quả cạnh tranh ngày càng gay gắt, hiệu quả sản xuất của các
hãng đi lên, sự tiến bộ của khí động học và kỹ thuật thúc đẩy hãng hàng không kinh
doanh có hiệu quả, đồng thời phía hành khách đi máy bay được hưởng giá vé thấp,
du lịch quốc tế phát triển nhanh chóng, kinh doanh du lịch công vụ và du lịch nội
địa hành trình ngắn sẽ lãi cao.
Đứng trước xu thế giá vé ngày càng hạ, các hãng hàng không cần tiếp tục
điều chỉnh chính sách kinh doanh để thu lãi trong từng thời kỳ. Phương pháp chủ


14
yếu là dùng hệ thống quản lý hữu hiệu để có được công suất chuyên chở cao và giá
vé hỗn hợp lãi suất cao, đồng thời còn liên minh với các hãng hàng không khác để
có được nguồn khách mới. Các hãng hàng không sẽ hình thành một chiến lược lợi
dụng triệt để sự thay đổi của nhiều tầng lớp hành khách và sẽ bố trí đội hình máy
bay ở những tuyến bay có lợi nhất.
1.2 PHÁT TRIỂN VẬN TẢI HÀNH KHÁCH VÀ HỆ THỐNG CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ
ĐỘNG THÁI PHÁT TRIỂN VẬN TẢI HÀNH KHÁCH BẰNG ĐƯỜNG HÀNG KHÔNG

1.2.1 Phát triển vận tải hành khách bằng đường hàng không
Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng đều phải tiến hành hoạt động sản xuất

kinh doanh trong một thời gian nhất định và với mục tiêu là phải thu được lợi
nhuận. Tuy nhiên để tồn tại và phát triển bền vững trong một môi trường kinh
doanh với nhiều đối thủ cạnh tranh hiện có cũng như tiềm năng, doanh nghiệp phải
thực hiện công tác phát triển hoạt động kinh doanh nhằm mục đích nâng cao khả
năng cạnh tranh, từ đó góp phần tăng doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Điều này đặc biệt quan trong đối với các doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh
doanh vận tải hàng không. Sản phẩm chủ yếu của các doanh nghiệp này là dịch vụ
vận tải hành khách bằng đường hàng không với đặc điểm là mức độ tiêu chuẩn hoá
cao, sự hoàn hảo về dịch vụ tương đối đồng đều, trong khi sự khác biệt về sản phẩm
trong vận chuyển hàng không rất nhỏ đó dẫn đến việc mức độ cạnh tranh giữa các
hãng hàng không là rất lớn.
Hiện nay, xu hướng phi điều tiết hoá hoạt động không tải đang hình thành
ngày một rõ nét. Xu hướng này xuất phát từ sự phát triển mạnh mẽ của ngành hàng
không dân dụng thế giới trong những thập kỷ qua và tính chất toàn cầu của nó dẫn
đến việc các hãng hàng không gây sức ép đòi hỏi các chính phủ phải có một cơ chế
quản lý mới về ngành hàng không dân dụng trong đó yêu cầu phải nới lỏng sự điều
tiết và hạn chế hoạt động không tải. Theo đó, các hãng hàng không có thể tự do khai
thác tới bất kỳ một điểm bay nào trên thế giới kể cả việc khai thác các chuyến bay
trong nội địa của các nước khác mà không bị ngăn trở từ phía các nhà chức trách
của các nước đó.Vì vậy, có thể dự báo cạnh tranh trên mạng đường bay nội địa của
các quốc gia cũng sẽ vô cùng khốc liệt.


15
Đối với một doanh nghiệp kinh doanh vận tải hàng không thì phát triển vận
tải hành khách là tổng hợp các cách thức, biện pháp để nâng cao khả năng cạnh
tranh của hãng trong hoạt động vận tải hành khách, giúp Hãng đạt được mục tiêu
tăng lợi nhuận.
Trong cơ chế thị trường, hoạt động kinh doanh vận tải hành khách của các
hãng hàng không chịu tác động rất lớn của môi trường kinh doanh bên trong và môi

trường kinh doanh bên ngoài. Do đó các hãng hàng không cần phải có những chiến
lược phát triển hoạt động kinh doanh một cách hiệu quả và đạt được các mục tiêu
cơ bản của mình. Trong điều kiện tự do cạnh tranh hiện nay, nếu một hãng hàng
không không chú trọng tới công tác phát triển hoạt động kinh doanh, hãng sẽ có
nguy cơ bị giảm lợi nhuận bởi chính sự chiếm thị phần của các đối thủ cạnh tranh.
Hoạt động vận tải hành khách cũng được xem xét như một quá trình kinh tế bao
gồm nhiều khâu cơ bản, từ việc xác định nhu cầu thị trường cho đến việc đưa ra các
sản phẩm dịch vụ phù hợp, giá cả cạnh tranh nhằm thực hiện đúng các kế hoạch đã
hoạch định của hãng hàng không. Phát triển hoạt động vận tải hành khách giúp
Hãng thu hút thêm nhiều khách hàng sử dụng dịch vụ, từ đó hãng có khả năng thu
hồi được vốn, thực hiện quỏ trình tái sản xuất và thu được lợi nhuận tối ưu.
1.2.2 Hoạt động vận tải hành khách bằng đường hàng không
1.2.2.1 Nghiên cứu thị trường vận tải hành khách bằng đường hàng không
Nghiên cứu thị trường là việc phân tích, đánh giá về lượng và chất của cung
và cầu một sản phẩm dịch vụ vận tải hành khách bằng đường hàng không. Mục tiêu
của việc nghiên cứu thị trường là để có được những thông tin cần thiết phục vụ quá
trình hoạch định ra phương án kinh doanh. Các nguồn thông tin này nhằm trả lời
các câu hỏi: Hãng hàng không nên hướng vào thị trường nào? Tiềm năng của thị
trường? Làm thế nào để nâng cao doanh thu? Sản phẩm, dịch vụ như thế nào? Giá
cả bao nhiêu? Mạng đường bay nên được tổ chức như thế nào?
Nghiên cứu thị trường có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vì đây là cơ sở để xác
định khối lượng bán, giá bán, mạng lưới bay, lịch trình bay và so sánh với năng lực
vận chuyển hành khách thực tế mà hãng mình có thể đáp ứng được hay không.


16
Nghiên cứu thị trường còn giúp các hãng biết được xu hướng, sự biến động
nhu cầu của khách hàng, sự phản ứng của họ đối với sản phẩm dịch vụ của hãng, thấy
được các biến động nhu cầu và giá cả, từ đó có các biện pháp điều chỉnh phù hợp.
Do kinh doanh vận tải hành khách bằng đường hàng không mang tính đặc

thù, còn có một số giới hạn và các quy định khắt khe riêng của từng hãng hàng
không khác nhau và năng lực vận chuyển hành khách của loại máy bay mà mình sở
hữu cũng rất khác nhau, việc nghiên cứu thị trường sẽ giúp các hãng có kế hoạch
đầu tư cơ sở vật chất, máy móc kỹ thuật cơ sở hạ tầng, các loại máy bay phù hợp để
đón trước các cơ hội kinh doanh trong tương lai, cạnh tranh được với các hãng hàng
không lớn mạnh khác. Nhu cầu của thị trường vận tải hành khách bằng đường hàng
không tăng mạnh, việc xác lập các chủ thể kinh tế của thị trường vận tải hàng không
bao gồm: các nhà vận chuyển hàng không thương mại (còn gọi là các hãng hàng
không), đó là chủ thể tạo nên “cung”(supply) của dịch vụ vận tải hành khách bằng
đường hàng không. Các khách hàng, bao gồm những người có nhu cầu (có khả năng
thanh toán) đi lại bằng đường hàng không. Cầu của hành khách trên thị trường vận
tải hàng không có thể gồm 2 nhóm đối tượng: đối tượng hành khách phổ biến nhất
và số lượng cũng chiếm tuyệt đại đa số đó là khách du lịch, khách thăm thân nhân,
du học, lao động,..., đối tượng khách thương nhân với số lượng ít nhưng có thể đem
lại lợi nhuận rất cao do tần suất đi lại bằng máy bay lớn và có khả năng trả giá vé
cao hơn các hành khách thông thường khác.
Để hỗ trợ hiệu quả hơn và mở rộng quy mô kinh doanh của hãng trước sự
cạnh tranh quyết liệt của thị trường vận tải hàng không, nhu cầu khách hàng thay
đổi, sản phẩm cạnh tranh...các hãng hàng không cần phải khai thác một cách hữu
hiệu các công cụ Marketing như: Quảng cáo và khuyến khích bán hàng với chất
lượng đảm bảo như đã cam kết với mức giá linh động.
Quảng cáo là tạo điều kiện để các cá nhân và tập thể người tiêu dùng thuận
tiện mua hoặc sử dụng sản phẩm dịch vụ của hãng hàng không. Ngoài những thông
tin về sản phẩm dịch vụ thông qua quảng cáo, các hãng hàng không cố gắng đem
đến cho khách hàng tiềm năng những lý lẽ đưa họ đến quyết định mua hoặc sử dụng


17
dịch vụ vận chuyển của mình, các hãng hàng không có thể lựa chọn cho các phương
tiện quảng cáo khác nhau sao cho đạt được hiệu quả nhất và tiết kiệm chi phí.

1.2.2.2 Xây dựng chiến lược, kế hoạch vận tải hành khách của Hãng hàng
không Kinh doanh vận tải hành khách bằng đường hàng không là quá trình đầu tư
cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện máy bay, tổ chức bộ máy nhân sự nhằm cung
ứng cho khách hàng các sản phẩm dịch vụ tốt nhất, đồng thời được khách hàng chấp
nhận thanh toán. Để cho quá trình kinh doanh đạt hiệu quả cao các hãng hàng
không đều phải xây dựng một chiến lược kinh doanh riêng của mình phù hợp với
quá trình phát triển của Hãng, tiềm năng kinh tế, tình hình thị trường trong từng giai
đoạn nhất định. Mục tiêu xây dựng các chiến lược kinh doanh là làm thế nào để
hãng hàng không có thể cạnh tranh thành công trên một thị trường cụ thể. Nó liên
quan đến các quyết định chiến lược về việc lựa chọn sản phẩm, đáp ứng nhu cầu
khách hàng, dành lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ, khai thác và tạo ra được các
cơ hội mới. Xây dựng chiến lược kinh doanh là nhu cầu đổi mới không ngừng của
các DN nói chung và của các DN vận tải hàng không nói riêng. Các hãng hàng
không muốn không thất bại phải không ngừng đổi mới vì xã hội không ngừng thay
đổi, kỹ thuật không ngừng tiến bộ, những người làm việc ở Hãng không ngừng thay
đổi. Trong hoàn cảnh đó, nếu Hãng cố định sự nghiệp của mình trong một thời gian
dài là không thể được. Tiến bộ kỹ thuật và mức sống của người dân được nâng cao
đang thúc đẩy sự hình thành của những ngành dịch vụ mới, xuất hiện nhiều đối thủ
cạnh tranh mới. Trong tình hình đó, nếu Hãng dậm chận tại chỗ thì sẽ bị đào thải.
Vì vậy Hãng phải không ngừng đổi mới, mà muốn đổi mới thì phải có chiến lược.
Một trong các công cụ được dùng phổ biến để xây dựng chiến lược vận tải hành
khách cho hãng hàng không là ma trận SWOT. Các yếu tố, hoàn cảnh bên trong của
một doanh nghiệp thường được coi là các điểm mạnh (S - Strengths) hay điểm yếu
(W – Weaknesses) và các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp được gọi là cơ hội (O –
Opportunities) và Nguy cơ (T – Threats). Phân tích Swot cung cấp những thông tin
hữu ích cho việc kết nối các nguồn lực và khả năng của Hãng đối với môi trường
cạnh tranh mà Hãng đang hoạt động.


18

Bảng 1.1 : Ma trận SWOT
Cơ hội
(Opportunities)

Nguy cơ
(Threat)

S/O

S/T

W/O

W/T

Sức mạnh
(Strength)
Điểm yếu
(Weakness)

Điểm mạnh (Strength): Điểm mạnh của một Hãng hàng không bao gồm các
nguồn lực và khả năng có thể sử dụng như cơ sở, nền tảng để phát triển lợi thế cạnh
tranh, như:
- Các hệ thống chứng chỉ, tiêu chuẩn chất lượng liên quan đến hoạt động
khai thác bay.
- Thương hiệu có tên tuổi
- Giá cả cạnh tranh
- Được khách hàng đánh giá là danh tiếng tốt
- Đội máy bay trẻ và hiện đại
- Mạng đường bay nội địa và quốc tế hợp lý, phân thị khu vực nội địa cao và ổn.

- Mức đảm bảo an toàn an ninh trong hoạt động khai thác vận tải hành
khách ở mức Khá trong khu vực
- Nguồn lực: cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, lao động đặc thù như tiếp viên,
phi công theo tiêu chuẩn quốc tế,…
Điểm yếu (Weakness): việc không có điểm mạnh được coi là một điểm yếu.
Những đặc điểm sau đây có thể coi là những điểm yếu đối với một hãng hàng
không
- Thiếu các chứng chỉ, tiêu chuẩn chất lượng liên quan đến hoạt động khai
thác bay.
- Thưong hiệu chưa được nhiều khách hàng biết đến
- Bị khách hàng cho rằng có tiếng xấu
- Cơ cấu vận hành đòi hỏi chi phí cao


19
- Số lượng máy bay ít với tỉ lệ sở hữu thấp
- Mạng đường bay hạn chế trong nước và khu vực
- Nguồn lực tài chính hạn chế, đặc biệt là vốn đầu tư cho lĩnh vực kinh
doanh vận tải hành khách. Thiếu cán bộ lãnh đạo giỏi và đội ngũ lao động đặc thù
chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Trong một số trường hợp điểm yếu có thể chính là những điểm mạnh nếu xét
từ một góc độ khác
Cơ hội (Opportunities): Việc phân tích môi trường bên ngoài có thể hé mở
những cơ hội mới để tạo ra lợi nhuận và phát triển cho Hãng, như:
- Thị trường vận tải hành khách gia tăng mạnh về cầu
- Sự xuất hiện những công nghệ mới
- Tranh thủ được nguồn ngoại lực từ hội nhập như vốn, kiến thức
- Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hoá vận tải hàng không quốc tế
làm cho Hãng có điều kiện phát triển mạnh, nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải
hành khách và các dịch vụ đồng bộ.

- Các đối tác liên doanh, liên danh (code share) hoặc ký kết hợp đồng
(interlines) với hãng có khả năng cải thiện về mặt giá cả và cơ hội đầu tư.
- Trong khu vực đang có những cải thiện về cơ sở hạ tầng như: đường giao
thông, sân bay, hệ thống kiểm soát không lưu,…
Nguy cơ (Threats): Những thay đổi của điều kiện, hoàn cảnh môi trường bên
ngoài có thể tạo ra nguy cơ đối với Hãng, như:
- Xu hướng phi điều tiết hoá hoạt động không tải sẽ khiến hình thành nhiều
hãng hàng không nước ngoài vào khai thác thị trường nội địa mà không gặp khó
khăn gỡ từ các nhà chức trách. Từ đó, hình thành nhiều đối thủ cạnh tranh mới.
- Thị hiếu khách hàng chuyển dần sang sử dụng sản phẩm dịch vụ của Hãng khác
- Sự phát triển của các phương tiện vận tải khác như ô tô, tàu hoả, tàu điện ngầm,…
- An toàn an ninh hàng không uy hiếp do chiến tranh, khủng bố, dịch bệnh,…
- Sức ép giảm giá từ phía các đối thủ cạnh tranh
Trong đó:


20
- Chiến lược S-O nhằm theo đuổi những cơ hội phù hợp với các điểm mạnh
của Hãng.
- Chiến lược W-O nhằm khắc phục các điểm yếu để theo đuổi và nắm bắt cơ
hội.
- Chiến lược S-T xác định những cách thức mà Hãng có thể sử dụng điểm
mạnh của mình để giảm khả năng bị thiệt hại vì các nguy cơ từ bên ngoài,
- Chiến lược W-T nhằm hình thành một kế hoạch phòng thủ để ngăn không
cho các điểm yếu của chính Hãng làm cho nó trở nên dễ bị tổn thương trước các
nguy cơ từ bên ngoài
Khi xây dựng chiến lược, kế hoạch vận tải hành khách nội địa của hãng hàng
không, ngoài việc phân tích môi trường bên ngoài, bên trong, các hãng hàng không
đều phải quan tâm đến các vấn đề chủ yếu sau của ngành hàng không:
Thứ nhất, vấn đề sản phẩm vận tải: Phần lớn các hãng hàng không trên thế

giới đều xác định rõ ràng trong một chuyến bay kinh doanh vận tải hàng không:
hành khách là sản phẩm chính và hàng hóa là sản phẩm phụ. Kinh doanh vận tải
hành khách đem lại phần lớn lợi nhuận cho hãng. Chuyến bay chỉ đạt hiệu quả kinh
tế nhất khi tận dụng hết số ghế hành khách trên máy bay. Hành khách chính là
khách hàng của hãng và không thể tách rời khỏi dịch vụ và có tác động qua lại với
hãng hàng không, trở thành một phần của sản phẩm chung. Một sản phẩm vận tải
được đánh giá là hoàn chỉnh khi nó có kèm theo các sản phẩm vật chất như: thức ăn,
đồ uống, có phục vụ báo, tạp chí, giải trí,…
Thứ hai, vấn đề công nghệ thay đổi nhanh: Đổi mới công nghệ trong vận
tải hàng không là một quá trình liên tục kể từ khi ra đời cho đến nay, nhưng nổi
bật nhất là các thành tựu trong những năm Thế chiến thứ II để rồi sau đó những
máy bay quân sự tiên tiến được đưa vào phục vụ mục tiêu dân dụng. Đầu những
năm 60 sự ra đời của động cơ phản lực cánh quạt đã làm tăng tốc độ và kích cỡ
máy bay, làm tăng hiệu suất máy bay lên nhiều lần: chỉ sau 10 năm hiệu suất máy
bay tăng gấp 3 lần nhờ chuyển từ B729B (1960) đến B747 (1970). Năm 1980 trở
lại đây đánh dấu bằng việc áp dụng công nghệ tin học cao vào sản xuất và điều


21
khiển máy bay (điển hình là A320), nâng cao hiệu suất khai thác máy bay có động
cơ kép để khai thác các tuyến bay tầm trung và tầm xa thay thế máy bay tầm xa
truyền thống (B777).
Đổi mới công nghệ chế tạo máy bay đã có ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều khía
cạnh kinh tế – kỹ thuật trong ngành vận tải hàng không thế giới. Đó là:
- Giảm mức tiêu thụ nhiên liệu;
- giảm chi phí khai thác trên một đơn vị tải cung ứng;
- Tăng nhu cầu tài trợ để mua máy bay mới;
Thứ ba, vấn đề tăng trưởng nhanh về số lượt khách vận chuyển: So với nhiều
ngành kinh tế khác, vận tải hàng không có mức tăng trưởng cao và ổn định trong
thời gian dài. Trong hơn 50 năm qua, ngành hàng không dân dụng quốc tế đã

chuyên chở được 25 tỷ lượt người, 36.000 tỷ hành khách-km. Tốc độ tăng trưởng
trung bình hàng năm của ngành hàng không dân dụng là 10.5% tính từ 1960 đến
nay. Đối tượng khách vận chuyển trong vận tải đường hàng không ngày càng đa
dạng. Những năm trước đây, do chi phí vận tải đường hàng không quỏ cao, vì thế
vận tải đường hàng không chủ yếu phục vụ những hành khách công vụ. Ngày nay,
ngoài mục đích công vụ, hành khách lựa chọn phương tiện đi lại bằng máy bay còn
vì mục đích du lịch, thăm nhân, du học,…
Thứ tư, vấn đề mức lợi nhuận thấp: Mặc dù có mức tăng trưởng cao về khối
lượng vận tải và giá cước vận tải hàng không cũng có xu thế tăng lên, nhưng mức
lợi nhuận của các hãng hàng không trên thế giới vẫn ở mức thấp, đặc biệt là trong
1/4 thế kỷ trở lại đây, do đầu tư cơ bản rất lớn về máy bay, điều khiển bay và hàng
loạt các dịch vụ hỗ trợ khác, mức độ cạnh tranh gay gắt với cung tăng nhanh quá
cầu nên mức tăng giá cước không theo kịp với mức tăng chi phí. Mặt khác, thời
gian thu hồi vốn thường rất dài, do đó lợi nhuận trực tiếp từ vận tải đường không
thường rất thấp, thậm chí các hãng hàng không thuộc IATA còn chịu thua lỗ kéo
dài. Các hãng hàng không không mong đợi lợi nhuận cao trực tiếp từ việc chuyên
chở hành khách mà họ thường thu lợi nhuận từ nhiều nguồn kinh doanh khác như:
dịch vụ khách sạn, du lịch, dịch vụ bảo dưỡng máy bay và các dịch vụ trên mặt đất


22
để bù đắp. Vì vậy ngoài đầu tư vào lĩnh vực vận chuyển, các hãng hàng không còn
đầu tư vào nhiều lĩnh vực kinh doanh khác có liên quan hoặc tham gia vào nhiều
liên doanh, liên kết khác. Lợi nhuận thu được từ những lĩnh vực kinh doanh khác
chính là nguồn vốn hỗ trợ để ngành vận tải hàng không bù đắp chi phí và phát triển
việc chuyên chở hành khách.
Thứ năm, vấn đề điều tiết hoạt động hàng không dân dụng trong khuôn khổ
quốc gia: Điều tiết trong khuôn khổ quốc gia là sự điều tiết của Nhà nước đối với
các cá nhân và pháp nhân cả trong nước lẫn nước ngoài trong phạm vi lãnh thổ của
mình nhằm thực hiện chủ quyền của mình đối với lãnh thổ và vùng trời trên đó.

Những mục tiêu cụ thể của điều tiết trong khuôn khổ quốc gia khác nhau giữa các
quốc gia và chịu ảnh hưởng của các chính sách kinh tế, quy mô và vị trí địa lý,
phương hướng phát triển kinh tế – xã hội, các chính sách đối nội và đối ngoại ... .
Nhìn chung, có thể liệt kê những mục tiêu sau đây: đáp ứng những yêu cầu phát
triển kinh tế – xã hội, hỗ trợ một số ngành kinh tế khác (như du lịch); tạo nguồn thu
ngoại tệ; củng cố quốc phòng; giải quyết việc làm; khác phục hậu quả thiên tai ... .
Điều tiết trong khuôn khổ quốc gia đối với vận tải hàng không bao gồm các
nội dung:
 Xây dụng hệ thống pháp luật (xây dựng luật, hoạch định chính sách, ban
hành quy định và quy tắc)
 Cấp chứng chỉ (cấp, xác định điều kiện, từ chối hoặc ngăn cấm quyền thực
hiện các dịch vụ vận tải hàng không trên cơ sở dài hạn hoặc kéo dài hiệu lực)
 Cấp thương quyền (Ad hoc Authorization – cấp, xác định điều kiện, từ
chối hoặc ngăn cấm quyền về giá cước, chuyến bay ...).
Về cơ cấu tổ chức của điều tiết trong khuôn khổ quốc gia, cơ quan quyền lực
cao nhất là nhà chức trách về hàng không dân dụng (Civil Aviation Authority – ở
Việt Nam hiện nay là Cục Hàng không Dân dụng Việt Nam với cơ quan tham mưu
là Ban Không vận – Không tải, Ban Kỹ thuật – Công nghệ ...). Ngoài ra còn có các
cơ quan quản lý nhà nước phi hàng không đối với vận tải hàng không để thực hiện
các chức năng: kiểm tra hải quan (về xuất- nhập khẩu hàng hóa), kiểm tra xuất –


23
nhập cảnh (tại các điểm đến và đi của hành khách quốc tế), các tiêu chuẩn y tế công
cộng đối với hành khách và hàng hóa), kiểm tra tài chính (bao gồm cả thu nhập của
các hãng hàng không nước ngoài), đánh thuế (đối với thu nhập của các hãng hàng
không, cung ứng xăng dầu ...), kiểm tra môi trường (thí dụ như tiếng ồn tại sân bay),
phát triển du lịch, lao động .... .
1.2.2.3


Huy động các nguồn lực của Hãng hàng không cho vận tải hành
khách
Các nguồn lực của hãng hàng không gồm: nguồn nhân lực, nguồn lực phương

tiện đội máy bay, nguồn tài chính và nguồn lực vật chất kỹ thuật trên mặt đất.
Thứ nhất, nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng nhất trong bất kỳ các hình
thức tổ chức kinh doanh trên thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh vận tải
hành khách bằng đường hàng không thì chất lượng của nguồn lực này đóng vai trò
sống còn trong quỏ trình tổ chức kinh doanh vận tải hành khách. Phần nguồn lực
này bao gồm mọi năng lực của con người về công nghệ, kỹ năng, kinh nghiệm trong
quá trình làm việc. Do mạng đường bay của các hãng hàng không được thiết lập mở
rộng khắp các nước và khu vực trên toàn thế giới nên nguồn nhân lực trong lĩnh vực
này cũng rất đa dạng và khó quản lý nhất. Mặt khác, tốc độ phát triển của ngành vận
tải hành khách trên thế giới tăng khá nhanh, nó đòi hỏi bổ sung kịp thời và thay đổi
nguồn nhân lực cho phù hợp với xu hướng phát triển chung của ngành. Đặc điểm
của ngành hàng không là kinh doanh dịch vụ nên yếu tố con người đóng vai trò cực
kỳ quan trọng quyết định đến chất lượng của sản phẩm và uy tín của từng hãng.
Với đội ngũ cán bộ kinh doanh năng động, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, hãng sẽ dần
thích nghi với mọi thay đổi của nền kinh tế, nhanh chóng phán đoán được tình thế,
chớp được thời cơ phát triển thị trường. Khai thác tốt nguồn nhân lực là một bí
quyết dẫn đến sự thành công của hãng khi mở rộng quy mô kinh doanh. Với các
máy bay mới, hiện đại của hãng Boeing, Airbus đòi hỏi phải có đội ngũ người lái,
cán bộ kỹ thuật có trình độ và được đào tạo bài bản để vận hành, sửa chữa đảm bảo
an toàn, chất lượng cho các chuyến bay. Về bộ máy quản lý phải có sự thống nhất
nhịp nhàng trong điều hành hoạt động của hãng. Ngoài ra mối quan hệ xã hội của


24
ban lãnh đạo, của các cán bộ công nhân viên cũng góp phần đáng kể vào việc phát
triển hoạt động kinh doanh vận tải hành khách của hãng. Các mối quan hệ rộng rãi

sẽ giúp các hãng tìm được những đối tác kinh doanh, điều này đặc biệt cần thiết vỡ
xu hướng vận tải hàng không hiện nay là liên kết, liên minh giữa các hãng hàng
không. Các hãng còn có thể nhận được những sự hỗ trợ hữu ích trong quỏ trình kinh
doanh nhờ những mối quan hệ đó.
Thứ hai, nguồn lực phương tiện đội máy bay cung cấp cho hãng hàng không
những loại máy bay phù hợp với khả năng khai thác của hãng. Nếu một loại máy
bay mà thiết kế ra càng lớn thì khả năng chuyên chở khách của nó cũng tăng theo.
Để tối đa hoá lợi nhuận, ngày nay xu hướng các hãng hàng không đó sử dụng chủ
yếu các loại máy bay dân dụng được thiết kế khoang trên để chở hành khách,
khoang dưới để chở hàng hoá. Sự kết hợp này đã phát huy được tối đa công suất của
máy bay, thu được hiệu quả kinh tế cao trong quá trình kinh doanh của các hãng
hàng không.
Căn cứ vào đối tượng chuyên chở có 2 loại máy bay dân dụng được sử dụng
trong kinh doanh vận tải hành khách:
- Máy bay chở khách (Passenger Aircraft) là loại chuyên dùng để chở hành
khách, do thiết kế đó tận dụng để chuyên chở hàng hoá, hành lý của hành khách ở
khoang bụng dưới của máy bay (Lower deck) trong khi hành khách được thiết kế
ngồi ở khoang phía trên.
- Máy bay chở kết hợp (mixed/combination aircraft): loại này có thể chở cả
hành khách và hàng hoá trên boong chính (main deck) và khoang bụng dưới (lower
deck) máy bay tạo ra sự cơ động cho việc điều chỉnh khả năng, chở hàng và hành
khách phù hợp với nhu cầu vận chuyển.
Căn cứ vào động cơ có: máy bay động cơ Piston như máy bay DC3, Lockheed
của Mỹ; máy bay động cơ tua bin cánh quạt như Viscount 700, Britana310; máy bay
động cơ tua bin phản lực như A320, Boeing 747, Boeing 767,…
Căn cứ vào nước nước sản xuất: những nước sản xuất máy bay dân dụng lớn
trên thế giới là Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Italia, Hà Lan,…


25

Căn cứ vào mô hình cấu tạo, trọng tải thương mại của từng loại máy bay
cũng như khả năng khai thác tại nhiều thị trường khác nhau, mỗi hàng hàng không
sẽ lựa chọn loại máy bay phù hợp để khai thác có hiệu quả nhất. Đối với mạng
đường bay nội địa, Vietnam Airlines lựa chọn máy bay Airbus A320 để khai thác.
Nếu như Boeing 777 đang được coi là điểm nhấn trong khai thác chặng châu Âu,
đặc biệt hấp dẫn khách hàng bởi tính tiện nghi của chặng bay thẳng, nội thất hiện
đại, dịch vụ hoàn hảo thì A320, A321 đáp ứng mọi yêu cầu cho những chặng bay
trung bình. Với chính sách đa dạng hóa sản phẩm thì lựa chon A320 là lời giải cho
bài toán phát triển.
Thứ ba, nguồn lực tài chính là yếu tố quan trọng phản ánh sức mạnh của bất
kỳ một hãng hàng không nào thông qua khối lượng vốn có thể huy động vào kinh
doanh, khả năng quản lý, phân phối có hiệu quả các nguồn vốn. Hàng không là một
lĩnh vực cần phải đầu tư ban đầu rất nhiều tiền của lên đến hàng trăm triệu USD,
nhất là đầu tư để mua sắm máy bay và các thiết bị đồng bộ khác. Trong quá trình
hoạt động kinh doanh cần phải tái đầu tư, mở rộng phạm vi kinh doanh, đáp ứng với
sự thay đổi của khoa học công nghệ hiện đại và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao từ
phía khách hàng. Khả năng tài chính của một hãng thường được xem xét qua các
chỉ tiêu như: số vốn sở hữu, vốn huy động, tỷ lệ tái đầu tư từ lợi nhuận, khả năng trả
nợ. Thông thường, hãng nào có khả năng và nguồn lực tài chính mạnh thì việc tiến
hành các hoạt động kinh doanh sẽ thuận lợi hơn nhiều so với các hãng khác.
Khả năng tài chính phản ánh quy mô của hãng và quy mô cơ hội có thể khai
thác được. Hãng không thể tăng số lượng dịch vụ cung ứng cho thị trường mới nếu
không có đủ vốn phục vụ cho việc tăng đủ số lượng, đạt tiêu chuẩn chất lượng cho
các dịch vụ như khách hàng yêu cầu. Nếu nguồn lực tài chính không mạnh thì hãng
cũng không thể cấp tín dụng cho khách hàng trong những trường hợp cần thiết.
Đồng thời khó có thể tiến hành các hoạt động nghiên cứu thị trường, xúc tiến
thương mại vì những hoạt động này thường đòi hỏi chi phí khá tốn kém. Ngược lại,
nếu nguồn lực tài chính dồi dào, hãng có thể dễ dàng đáp ứng các khoản chi trong
quá trình phát triển hoạt động kinh doanh; nhưng cần phải quản lý, phân bố nguồn



×