Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Tổng hợp câu hỏi ôn tập Mac-Lenin 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 11 trang )

 Câu 1: Hãy phân tích những điều kiện quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Hãy liên hệ với giai cấp
Công nhân Việt Nam.
 Câu 2: Hãy phân tích những nguyên nhân ra đời tôn giáo. Hãy liên hệ với tình hình tôn giáo ở Việt Nam.
 Câu 3: Bằng kiến thức đã học về tư bản chủ nghĩa hãy trả lời: “CNTB ra đời chưa đầy một thế kỷ nhưng đã tạo ra
khối lượng của cải khổng lồ bằng các xã hội trước cộng lại nhưng lịch sử của nó lại dính đầy máu và bùn dơ”.
 Câu 4: Theo anh/chị, quy luật giá trị hiện nay đang tác động đến nền kinh tế Việt Nam như thế nào? Với tác động
đó Đảng và nhà nước đã có những chính sách gì để phát huy mặt tích cực và hạn chế tiêu cực của quy luật giá trị.
 Câu 5: Hãy chứng minh khẳng định sau của C.MÁC: “Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể
xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải xuất hiện trong lưu
thông”. (Giáo trình Macle, T224)
 Câu 6: Phân tích sự mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản T – H – T’. (Giáo trình Macle, T222)
 Câu 7: Phân tích tính chất hai mặt của lao dộng sản xuất hàng hóa.? Ý nghĩa của việc phát hiện tính chất 2 mặt
đối với việc làm rõ thực chất của giá trị hàng hóa.

TRẢ LỜI:
Câu 1:
* Định nghĩa Giai cấp công nhân: Trang 363.
*Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động đấu tranh xóa bỏ chế độ áp bức bóc lột
và xây dựng xã hội mới-xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
phải trải qua 2 bước:
-Bước 1 : giành lấy chính quyền nhà nước và xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
-Bước 2 : lãnh đạo nhân dân tiến hành xây dựng xã hội mới XHCN đó là một quá trình lịch sử lâu dài và đầy khó khăn.
*Những điều kiện khách quan qui định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Địa vị kinh tế- xã hội của giai cấp công hân trong xã hội tư bản:
-Giai cấp công nhân là giai cấp ra đời ,tồn tại và phát triển gắn liền với nền sản xuất đại công nghiệp nên họ là lực lượng
sản xuất tiên tiến,có trình độ xã hội hóa cao,là nhân tố quyết định trong việc thủ tiêu quan hệ sản xuất TBCN và đại diện
cho xu hướng phát triển của xã hội loài người.
-Trong xã hội tư bản,giai cấp công nhân không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất phải đi làm thuê cho giai cấp tư sản và bị
bóc lột giá trị thặng dư,vì vậy mà họ trở thành giai cấp trực tiếp đối kháng với giai cấp tư sản.
- Giai cấp công nhân hiện đại là lực lượng xã hội có tính năng động lịch sử,có khả năng đấu tranh tự giải phóng mình và


toàn nhân loại ra khỏi áp bức,bóc lột,bất công..
Những đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân:
-Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng.


-Giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất.
-Giai cấp công nhân là giai cấp có tính tổ chức và kỉ luật cao nhất.
-Giai cấp công nhân là giai cấp có bản chất quốc tế.
Liên hệ với giai cấp công nhân Việt Nam: Giai cấp công nhân Việt Nam có các đặc điểm cơ bản, chung nhất của giai cấp
công nhân thế giới, nhưng có những đặc điểm riêng do hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam tạo ra, đó là:
- Là sản phẩm của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
-. Trình độ khoa học kĩ thuật, tay nghề và mức sống còn thấp, vì chưa có nền công nghiệp hiện đại. Chịu ảnh hưởng tư
tưởng của người sản xuất nhỏ, tiểu nông.
- Ra đời trước cả giai cấp tư sản Việt Nam . Có truyền thống lao động cần cù, yêu nước nồng nàn, gắn bó mật thiết với
dân tộc, nhất là nông dân và các tầng lớp lao động.
- Sớm được giác ngộ cách mạng và sớm có Đảng tiên phong do Hồ Chí Minh - người đưa Chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt
Nam và Đông Dương - sáng lập và rèn luyện
Câu 2:
Khái niệm tôn giáo:
- Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hoang đường và hư ảo hiện thực khách quan. Qua sự phản ánh của tôn
giáo mọi sức mạnh tự phát của tự nhiên và xã hội đều trở thành thần bí.
- Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội xác định. Do đó xét về
mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội.
- .Cần phân biệt tôn giáo với mê tín dị đoan.
Mê tín dị đoan là những hiện tượng (ý thức, hành vi) cuồng vọng của con người đến mức mê muội, trái với lẽ
phải và hành vi đạo đức, văn hoá cộng đồng, gây hậu quả tiêu cực trực tiếp đến đời sống vật chất tinh thần của cá
nhân, cộng đồng xã hội. Đây là một hiện tượng xã hội tiêu cực, phải kiên quyết bài trừ, nhằm lành mạnh hoá đời
sống tinh thần xã hội.

Nguyên nhân ra đời của tín ngưỡng, tôn giáo

- Nguyên nhân nhận thức: Trình độ dân trí chưa thật cao, nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội đến nay khoa học chưa giải
thích được. Do đó trước sức mạnh tự phát của giới tự nhiên và xã hội mà con người vẫn chưa thể nhận thức và chế ngự
được đã khiến cho một bộ phận nhân dân đi tìm sự an ủi, che chở và lý giải chúng từ sức mạnh của thần linh.
- Nguyên nhân kinh tế: Sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội...=> những yếu tố may rủi ngẫu nhiên vẫn
tác động mạnh mẽ đến con người, làm cho họ dễ trở nên thụ động với tư tưởng nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng
siêu nhiên.
- Nguyên nhân tâm lý: Tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử loài người, ăn sâu vào trong tiềm thức, tâm lý của nhiều
người dân qua nhiều thế hệ cho nên nó không thể xóa bỏ ngay được


- Nguyên nhân chính trị - xã hội:
+ Trong các nguyên tắc tôn giáo có những điểm còn phù hợp với CNXH, với đường lối chính sách của Nhà nước XHCN.
Đó là mặt giá trị đạo đức, văn hoá của tôn giáo, đáp ứng được nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân,đó là sự tự
biến đổi của tôn giáo để thích nghi theo xu hướng đồng hành với dân tộc, sống tốt đời đẹp đạo.
+ Ngoài ra các thế lực phản động trong và ngoài nước chưa từ bỏ âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống CNXH nên chúng
ra sức duy trì và dung dưỡng tôn giáo.Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột sắc tộc tôn giáo, khủng bố ở nhiều nơi.
Nỗi lo sợ về chiến tranh, bệnh tật, đói nghèo cùng với những đe doạ khác là điều kiện thuận lợi cho tôn giáo tồn tại.
- Nguyên nhân văn hoá: Tôn giáo có những giá trị văn hoá nhất định, do đó sinh hoạt tôn giáo đáp ứng một phần nhu cầu
đời sống tinh thần của một bộ phận nhân dân. Mặt khác, tín ngưỡng, tôn giáo có liên quan đến tình cảm, tư tưởng của một
bộ phận dân cư nên nó tồn tại như là một hiện tượng xã hội khách quan.
Tình hình tôn giáo ở Việt Nam và chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
-Khái quát tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay:
+Bốn tôn giáo thế giới: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo
+Tám tôn giáo việt nam :Cao đài ,Phật giáo, Hòa Hảo, Tịnh độ cư sĩ Phật hội, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, đạo Ba’hai, Minh
Chơn đạo, Minh Lý đạo, Bửu Sơn Kỳ Hương
Trong những năm gần đây các tôn giáo đẩy mạnh hoạt động nhằm phát triển tổ chức, phát huy ảnh hướng trong đời sống
tinh thần xã hội. Đại đa số tín đồ chức sắc tôn giáo hoạt động đúng pháp luật, theo hướng “tốt đời, đẹp đạo”.
Tuy nhiên tình hình tôn giáo còn có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Vẫn còn có chức
sắc, tín đồ mang tư tưởng chống đối, cực đoan, vẫn còn các hoạt động tôn giáo xen lẫn với mê tín dị đoan.
Các thế lực thù địch vẫn luôn lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng gắn vấn đề “dân chủ”,

“nhân quyền” với cái gọi là “tự do tôn giáo” để chia rẽ tôn giáo, dân tộc .
- Quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
Về chính sách tôn giáo, Đảng ta khẳng định: “Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc.
Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công
dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo
tôn giáo và không theo tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Động viên, giúp đỡ
đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo sống “tốt đời, đẹp đạo”. Các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp
luật và được pháp luật bảo hộ. Thực hiện tốt các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn
hoá của đồng bào các tôn giáo. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo. Đấu tranh ngăn
chặn các hoạt động mê tín dị đoan, các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm phương hại đến lợi ích chung của đất
nước, vi phạm quyền tự do tôn giáo của nhân dân".
Câu 4:
-Tác động của quy luật giá trị đến nền kinh tế Việt Nam:
1. Trong lĩnh vực sản xuất:
a) Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế:


b) Sự bắt nhịp của Việt Nam đối với nền kinh tế thị trường:


c) Hội nhập quốc tế:


2. Trong lĩnh vực lưu thông.
a)Tạo lập giá cả:

b)Nguồn hàng trong lưu thông:


Chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của PLGT:



Câu 5:
Lưu thông là quá trình trong đó diễn ra các hành vi mua và bán.
Nếu mua bán ngang giá thì chỉ có sự thay đổi hình thái từ tiền thành hàng hoặc hàng thành tiền. Còn tổng số giá trị
cũng như phần giá trị trong tay mỗi người tham gia trao đổi không thay đổi.
Trong trường hợp trao đổi không ngang giá, nếu hàng hóa được bán cao hơn giá trị, thì người bán được lời, còn nếu
bán thấp hơn giá trị thì người mua được lời. Nhưng trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất đều vừa là người
bán, vừa là người mua. Không thể có người chỉ bán mà không mua hoặc ngược lại.Vì vậy, cái lợi mà họ thu được khi
bán sẽ bù lại cái thiệt khi mua.
Trong trường hợp có những kẻ chuyên mua rẻ, bán đắt thì tổng giá trị toàn XH cũng không hề tăng lên, bởi vì số giá trị
mà những người này thu được chẳng qua là sự ăn chặn, đánh cắp số giá trị của người khác mà thôi.
Theo phân tích trên ta thấy:
Lưu thông không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư.
Và ngược lại nếu không có lưu thông, tức là nếu tiền để trong tủ sắt, hàng hóa để trong kho thì cũng không thể có được
giá trị thặng dư.
Như vậy, giá trị thặng dư vừa sinh ra trong quá trình lưu thông, lại vừa không thể sinh ra trong quá trình lưu thông.
Do đó, ý kiến nêu trên là hoàn toàn đúng đắn : “Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở
bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải xuất hiện trong lưu thông ".


Câu 6 :
1.Công thức chung của tư bản.
Trong lưu thông hàng hóa giản đơn H-T-H, T không phải là tư bản. Ở đây T chỉ là phương tiện để đạt tới một mục đích
bên ngoài lưu thông.
Chỉ trong lưu thông T-H-T thì T mới là tư bản. Ở đây T vừa là điểm khởi vừa là điểm kết thúc của quá trình lưu thông, H
chỉ là khâu trung gian. Tiền ở đây không chi ra dứt khoát mà chỉ ứng ra rồi thu về nhiều hơn.
Mục đích của lưu thông tư bản T-H-T không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Chính vì thế
công thức chung của tư bản là T-H-T’, trong đó T’=T+∆T. ∆T là số tiền trội hơn so với số tiền đã ứng ra (giá trị thặng
dư). T-H-T’ đúng cho vận động của tư bản: Với tư bản công nghiệp là những giai đoạn T-H và H-T’, còn tư bản cho vay

lấy lãi là từ công thức chung được rút gọn thành T-T’.
Như vậy: “Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư (GTTD)”.
Sau khi nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư trong CNTB, có thể định nghĩa đầy đủ: “Tư bản là giá trị mang lại
giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động không công của công nhân làm thuê”.
2. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản:
- Công thức chung của tư bản: T-H-T' (T’ = T + ∆T). Vậy ∆T xuất hiện từ đâu?
+ Trong lưu thông:
Trong lưu thông, dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá thì cũng không tạo ra ∆T
* Trường hợp trao dổi ngang giá: Chỉ là sự thay đổi của hình thái giá trị từ T-H và từ H-T nhưng tổng giá trị và phần giá
trị của mỗi bên tham gia trao đổi trước và sau đều không thay đổi. Tuy nhiên, về giá trị sử dụng thì đôi bên đều có lợi.
* Trường hợp trao đổi không ngang giá, có thể có ba trường hợp xảy ra:
Thứ 1, Trong trường hợp nhà tư bản bán hàng hóa cao hơn giá trị, nhưng đến lượt anh ta lại là người đi mua (vì không có
ai chỉ bán mà không mua) thì phải mua hàng hóa cao hơn giá trị ấy. Hành vi bán hàng hóa cao hơn giá trị không mạng lại
bất cứ chút thặng dư (∆T) nào.
Thứ 2, Trường hợp nhà tư bản cố mua hàng hóa thấp hơn giá trị cũng không mang lại chút thặng dư (∆T) nào. Vì đến khi
anh ta bán cũng buộc phải bán hàng hóa thấp hơn giá trị.
Thứ 3, nếu xã hội có một số kẻ lường gạt chuyên mua rẻ, bán đắt thì cái ∆T hắn có là do chiếm đoạt của người khác mà
có. Cái hắn được là cái người khác mất đi, nhưng trong toàn xã hội thì tổng giá trị của hàng hóa là không thay đổi.
Như vậy, trong lưu thông dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá đều không tạo ra giá trị thặng dư cho các nhà tư
bản.
+ Ngoài lưu thông:
Nếu người trao đổi vẫn đứng 1 mình với hàng hóa của anh ta, thì giá trị của hàng hóa ấy không hề tăng lên.
Nếu người sản xuất muốn sáng tạo thêm thặng dư thì phải bằng lao động của chính mình. Chẳng hạn da thuộc phải trở
thành giày da, ở đó giày da có giá trị lớn hơn da thuộc vì nó đã thu hút nhiều lao động vào trong giày da. Còn giá trị của
da thuộc vẫn không đổi.
Vậy là "Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện
trong lưu thông, đồng thời không phải trong lưu thông"[1].
Đó chính là mâu thuẩn trong công thức chung của tư bản. Để giải quyết mâu thuẩn đó, C.Mác đã chỉ rõ: "Phải lấy những
quy luật nội tại của lưu thông hàng hoá làm cơ sở".
3. Hàng hoá sức lao động là chìa khoá để giải quyết mâu thuẩn trong công thức chung của tư bản:

a) Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa:
“Sức lao động, đó là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong cơ thể một con người, trong nhân cách sinh động của con người,
thể lực và trí lực mà con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích”[2].
Không phải sức lao động nào cũng trở thành hàng hóa. Trong xã hội nô lệ thì sức lao động của nô lệ không phải là hàng
hóa vì bản thân anh ta đã thuộc sở hữu của chủ nô, anh ta không có quyền bán sức lao động. Người thợ thủ công tự do tuy


được tùy ý sử dụng sức lao động của mình nhưng sức lao động của anh ta cũng không phải là hàng hóa vì anh ta chỉ sản
xuất tự cung tự cấp nuôi sống mình, chứ chưa buộc phải bán sức lao động để kiếm sống.
Sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi đồng thời thỏa mãn hai điều kiện sau: Người lao động phải được tự do về thân
thể, làm chủ được sức lao động của mình và có quyền bán sức sức lao động của mình như một hàng hóa.; Người có sức
lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt trở thành “vô sản”, để tồn tại anh ta buộc phải bán
sức lao động của mình để kiếm sống.
Sức lao động biến thành hàng hóa là điều kiện quyết định để tiền biến thành tư bản. Nhưng trước CNTB thì hàng hóa sức
lao động chưa xuất hiện. Chỉ dưới CNTB thì hàng hóa sức lao động mới xuất hiện và trở thành phố biến.
b) Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động:
Giá trị hàng hóa sức lao động cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động quyết
định. Muốn sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động người công nhân phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt cần thiết
về ăn, ở, mặc, học nghề... Ngoài ra họ còn phải thỏa mãn những nhu cầu của gia đình và con cái.
Giá trị của hàng hóa sức lao động được đo gián tiếp bằng giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức
lao động. Giá trị ấy được hợp thành bởi: Giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất
sức lao dộng, duy trì đời sống của bản thân người công nhân; Phí tổn đào tạo người công nhân; Giá trị những tư liệu sinh
hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái người công nhân. Sự biến đổi giá trị hàng hóa sức lao động một mặt
tăng lên do sự tăng lên của nhu cầu trung bình của xã hội về hàng hóa, dịch vụ, học tập, học nghề... mặt khác lại bị giảm
xuống do sự tăng năng suất lao động xã hội.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng chỉ thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động. Nhưng khác với
hàng hóa thông thường, quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động lại là quá trình tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của
bản thân hàng hóa sức lao động.
Nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường một loại hàng hoá đặc biệt, đó là hàng hoá sức lao động, mà giá trị sử dụng của nó
có tính chất đặc biệt là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Phần

lớn hơn đó là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt. Chính đặc tính này đã làm cho hàng hoá sức lao động trở
thành điều kiện để tiền tệ chuyển thành tư bản. Do đó việc tìm ra và lý giải phạm trù hàng hoá sức lao động được coi là
chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản. Nếu "T" của tư bản không dùng để bóc lột sức lao
động của công nhân thì không thể có "T'=T+∆T”.

Câu 7:
Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính gia trị sử dụng và giá trị do tính chất 2 mặt của LĐ SX hàng hóa quyết định tính chất 2
mặt đó là tính chất cụ thể( lao động cụ thể) và tính chất trừu tượng(LĐ trừu tượng) C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra
tính chất hai mặt đó.
a) Lao động cụ thể:
+Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
+Mỗi một lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng.
Chính những cái riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác nhau. Chẳng hạn, lao động của người thợ may và lao
động của người thợ mộc là hai loại lao động cụ thể khác nhau. Lao động của người thợ may có mục đích là làm ra quần áo
chứ không phải là bàn ghế; còn phương pháp là may chứ không phải là bào, cưa; có công cụ lao động là kim, chỉ, máy
may chứ không phải là cái cưa, cái bào...; và lao động của người thợ may thì tạo ra quần áo để mặc, còn lao động của
người thợ mộc thì tạo ra ghế để ngồi...
+Điều đó có nghĩa là: lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.
+Trong xã hội có nhiều loại hàng hóa với những giá trị sử dụng khác nhau là do có nhiều loại lao động cụ thể khác nhau.
Nếu phân công lao động xã hội càng phát triển thì càng có nhiều giá trị sử dụng khác nhau để đáp ứng nhu cầu của xã hội.
b) Lao động trừu tượng:
+Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ những hình thức cụ thể của nó, hay nói cách
khác, đó chính là sự tiêu hao sức lao động (tiêu hao sức bắp thịt, thần kinh) của người sản xuất hàng hóa nói chung. Như


vậy, có thể nói, giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng
chính là mặt chất của giá trị hàng hóa.
+ Chính lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa mới tạo ra giá trị của hàng hóa. Lao động trừu tượng là 1 phạm
trù lịch sử riêng có của sản xuất hàng hóa.
+ Ở đây ko phải có 2 thứ lao động khác nhau mà chỉ là lao động của người sản xuất hàng hóa nhưng lao động đó mang

tính 2 mặt: vừa lao động cụ thể vừa lao động trừu tượng.
+ Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa phản ảnh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao động của người
sản xuất hàng hóa.
+ Như trên đã chỉ ra, mỗi người sản xuất hàng hoá sản xuất cái gì, sản xuất nhưthế nào là việc riêng của họ. Vì vậy, lao
động đó mang tính chất tư nhân, và lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân.
+ Đồng thời, lao động của người sản xuất hàng hóa là lao động xã hội vì nó là một bộ phận của toàn bộ lao động xã hội
trong hệ thống phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản
xuất hàng hóa.. Do đó, lao động trừu tượnglà biểu hiện của lao động xã hội.
+ Giữa lao động tư nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn với nhau. Mâu thuẫn đó được biểu hiện cụ thể trong hai trường
hợp sau:
- Sản phẩm do những người sản xuất hàng hóa riêng biệt tạo ra có thể không ăn khớp với nhu cầu của xã hội. (hoặc không
đủ cung cấp cho xã hội hoặc vượt quá nhu cầu của xã hội...). Khi sản xuất vượt quá nhu cầu của xã hội, sẽ có một số hàng
hóa không bán được, tức không thực hiện được giá trị.
- Mức tiêu hao lao động cá biệt của người sản xuất hàng hóa cao hơn so với mức tiêu hao mà xã hội có thể chấp nhận, khi
đó hàng hóa cũng không bán được hoặc bán được nhưng không thu hồi đủ chi phí lao động bỏ ra.
+Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là mầm mống của mọi mâu thuẫn trong nền sản xuất hàng hoá.
Chính vì những mâu thuẫn đó mà sản xuất hàng hoá vừa vận động phát triển, vừa tiềm ẩn khả năng khủng hoảng.
Vậy: Xét lao động cụ thể là xem lao động đó tiến hành như thế nào, sản xuất ra cái gì. Lao động trừu tượng là tốn bao
nhiêu sức lực, hao phí bao nhiêu thời gian lao động. Cần thấy rằng không phải có hai thứ lao động được kết tinh trong
một hàng hoá mà chí có lao động của ngươì sản xuất hàng hoá. Nhưng lao động đó có tính 2 mặt: 1 mặt là lao động cụ thể
và một mặt là lao động trừu tượng.
ý nghĩa: Việc phát hiện ra tính chất hai mặt của Lđ SX hàng hóa của Cmác có ý nghĩa rất to lớn.
- Đem lại học thuyết gia giá trị lđmột cơ sở khoa học thực sự . Các nhà KT học trước Mác cho rằng LĐ tạo ra giá
trị nhưng khong biết mặt nào tạo ra giá trị , Các mác phát hiện ra mặt LĐ người của SX hh tạo ra giá trị hàng hóa
- Nhờ phát hiện ra tính chất 2 mặt của lđ sx hh. Cac mác đã giải thích được gồm gốc thực sự của GT thặng dư ,
phân tích được bản chất cơ bản bất biến và tư bản khả biến do đó đem lại cơ sở vững chắc cho học thuyết gia trị thặng dư
, học thuyết tích lũy , hoc thuyết tái SX




×