Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty cổ phần sơn tổng hợp hà nội trên thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.75 KB, 79 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Dưới tác động của xu hướng toàn cầu hóa các hoạt động kinh tế,
nhu cầu hội nhập và tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế trở thành một
trong những điều kiện quan trọng thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền
vững của nền kinh tế Việt nam. Toàn cầu hóa và khu vực hóa đã trở
thành một trong những xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ quốc tế
hiện đại. Xu thế này sẽ tiếp tục tiến nhanh trong thời gian tới.
Trong trào lưu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới đang nổi lên
như một yếu tố khách quan, thì một quốc gia có nền kinh tế đang phát
triển ở Đông Nam Á như Việt nam không thể đứng ngoài một quá trình
chung đang diễn ra khắp toàn cầu này. Một nền kinh tế cành phát triển
mạnh thì tính cạnh tranh càng diễn ra gay gắt và khốc liệt hơn. Nó tồn tại
như một quy luật khách quan thúc đẩy hoạt động kinh tế, kích thích sản
xuất tăng trưởng. Do vậy đã đặt các doanh nghiệp nước ta trước nhiều
thách thức, đòi hỏi cần phải nhanh chóng khẳng định được vị trí và nâng
cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường.
Xuất phát từ tầm quan trọng cũng như tính biến động không ngừng
của cạnh tranh thì sau một thời gian thực tập, tìm hiểu tại Công ty cổ
phần Sơn tổng hợp, là một công ty nhà nước mới đi vào cổ phần em xin
mạnh dạn chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh
tranh của Công ty cổ phần Sơn tổng hợp Hà Nội trên thị trường” làm nội
dung nghiên cứu cho chuyên đề của mình.
Bản chuyên đề này có kết cấu gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KHẢ NĂNG
CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG CẠNH TRANH
CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN SƠN TỔNG HỢP TRÊN THỊ
TRƯỜNG


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ
NĂNG CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN SƠN TỔNG
HỢP HÀ NỘI TRÊN THỊ TRƯỜNG

2


CHƯƠNG I
MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KHẢ NĂNG
CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
I. KHÁI QUÁT VỀ CẠNH TRANH TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG
1.Khái niệm về cạnh tranh
Nguồn gốc của cạnh tranh là phát sinh từ trong tiềm thức của mỗi
con người khi nhận biết và đánh giá được một cách rõ ràng về sự hơn
thiệt ở nhiều góc độ, nhiều khía cạnh mà đặc biệt là trong kinh doanh.
Thời kỳ bao cấp ở nước ta tính cạnh tranh diễn ra không mạnh bởi lẽ
Nhà nước là chủ thể duy nhất trong quản lý kinh tế. Điều đó dẫn đến việc
kìm hãm sự phát triển nền kinh tế và thủ tiêu cạnh tranh. Nhưng từ khi
nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của
Nhà nước thì tính cạnh tranh diễn ra mạnh hơn, rộng lớn hơn, gay go,
quyết liệt hơn ở tất cả các thành phần kinh tế (gồm kinh tế Nhà nước,
kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân…) trong
đó kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo chi phối toàn bộ nền kinh tế.
Cho tới hiện nay còn tồn tại rất nhiều những quan niệm về cạnh
tranh dưới nhiều góc độ và nhiều loại hình kinh tế. Riêng với nền kinh tế
thị trường thì cạnh tranh được hiểu là một điều kiện kích thích sản xuất
kinh doanh, có tác dụng thúc đẩy tăng năng xuất lao động, từ đó tạo đà
cho sự phát triển xã hội nói chung.
Không những thế, cạnh tranh còn là một quy luật khách quan của

nền sản xuất hàng hoá, là đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường. Ở đâu
có nền kinh tế thị trường là ở đó có tồn tại cạnh tranh. Khi sản xuất hàng
hoá càng phát triển, số lượng hàng bán ra càng nhiều, và số lượng người
cung ứng càng đông thì cạnh tranh càng khốc liệt. Cuối cùng kết quả
3


cạnh tranh sẽ loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn yếu kém đồng thời
càng khẳng định sự tồn tại, phát triển lớn mạnh của các doanh nghiệp
làm ăn có hiệu quả và uy tín trên thương trường.
Như vậy ta có thể hiểu một cách chung nhất: Cạnh tranh là cuộc
đấu tranh gay gắt giữa các chủ thể tham gia hoạt động trên thị trường
nhằm giành giật những điều kiện sản xuất kinh doanh thuận lợi, dịch vụ
có lợi, để đạt được ưu thế trên cùng một loại sản phẩm dịch vụ hoặc
cùng một loại khách hàng về phía mình so với các đối thủ cạnh tranh
khác.
2. Các loại hình cạnh tranh
a. Căn cứ vào các chủ thể tham gia thị trường
* Cạnh tranh giữa người bán với người bán
Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau, thủ tiêu lẫn
nhau để giành khách hàng, thị trường. Cuộc cạnh tranh này dẫn đến kết
quả là giá cả giảm xuống và có lợi cho người tiêu dùng. Trong khi đối
với doanh nghiệp khi tham gia không chịu được sức ép sẽ phải từ bỏ thị
trường, nhường thị phần của mình cho các doanh nghiệp có sức cạnh
tranh mạnh hơn.
*Cạnh tranh giữa người mua với người mua
Là cuộc cạnh tranh trên cơ sở quy luật cung cầu. Khi cung nhỏ
hơn cầu thì cuộc cạnh tranh trở nên quyết liệt, giá cả hàng hoá từ dịch
vụ sẽ tăng. Do hàng hoá trên thị trường khan hiếm nên người mua phải
chấp nhận giá cao để mua hàng hoá mà họ cần.

*Cạnh tranh giữa người bán với người mua
Là cuộc cạnh tranh diễn ra theo quy luật mua rẻ bán đắt. Trên thị
trường những người bán luôn luôn mong muốn bán được những sản
phẩm và dịch vụ của mình với giá cao còn người mua lại muốn mua

4


với giá thấp nhất. Sự cạnh tranh được thực hiện trong quá trình mặc cả
với giá chấp nhận và giá thoả thuận giữa người bán và người mua.
b. Căn cứ vào tính chất và mức độ cạnh tranh
* Cạnh tranh hoàn hảo
Là một hình thức đơn giản của cấu trúc thị trường trong đó có
nhiều người mua và người bán nhỏ, không ai trong số họ đủ lớn để có
thể bằng hành động của mình ảnh hưởng đến giá cả của sản phẩm dịch
vụ. Các sản phẩm bán ra đều được người mua xem xét là đồng nhất,
tức là chúng khác nhau không nhiều về quy cách, phẩm chất, mẫu mã.
Nhóm người tham gia vào thị trường này chỉ có cách thích ứng với
mức giá bởi vì cung cầu trên thị trường được tự do hình thành, giá cả
theo thị trường quyết định, tức là ở mức mà số cầu thu hút được tất cả
số cung có thể cung cấp. Tất cả các hãng tham gia thị trường đều có
hành vi tối đa hoá lợi nhuận.
*Cạnh tranh không hoàn hảo
Là cuộc cạnh tranh trên thị trường mà phần lớn các sản phẩm
không đồng nhất với nhau. Mỗi nhãn hiệu đều mang hình ảnh hay uy
tín khác nhau mặc dù sự khác biệt giữa các sản phẩm là không đáng kể.
Người bán có thể cạnh tranh lẫn nhau nhằm lôi kéo khách hàng về phía
mình bằng cách như quảng cáo, khuyến mại, những khoản ưu đãi về
giá cả, các dịch vụ trước và sau khi mua hàng. Đây là loại cạnh tranh
phổ biến trong giai đoạn hiện nay.

*Cạnh tranh độc quyền
Là cuộc cạnh tranh mà ở đó có một số người bán một số sản
phẩm thuần nhất hoặc nhiều người bán một sản phẩm không đồng nhất
với nhau. Họ có thể kiểm soát hầu như toàn bộ số lượng sản phẩm bán
ra trên thị trường. Thị trường có sự pha trộn giữa cạnh tranh và độc
quyền được gọi là thị trường cạnh tranh độc quyền, ở đây xảy ra cạnh
5


tranh giữa các nhà độc quyền với nhau. Điều kiện ra nhập hoặc rút khỏi
thị trường độc quyền có rất nhiều trở ngại do vốn đầu tư lớn hoặc bí
quyết công nghệ độc quyền. Thị trường này không có sự cạnh tranh về
giá mà một số người toàn quyền quyết định về giá cả. Họ có thể quyết
định giá cao hay giá thấp tuỳ thuộc vào địa điểm, mục tiêu của họ,
nhưng thông thường là giá cao hơn giá thị trường nói chung. Những
doanh nghiệp nhỏ khi tham gia thị trường phải chấp nhận bán theo giá
của nhà độc quyền quyết định.
Trong kinh doanh thì ai là người độc quyền sẽ có lợi thế song về
mặt xã hội thì nó lại kìm hãm sự phát triển của sản xuất, làm tổn hại
đến người tiêu dùng. Chính vì vậy mà phải có đạo luật chống độc
quyền để khuyến khích cạnh tranh lành mạnh.
c. Căn cứ theo phạm vi ngành kinh tế
*Cạnh tranh nội bộ ngành
Là cuộc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành,
cùng sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm hay một chủng loại sản
phẩm. Trong cuộc cạnh tranh này có sự thôn tính lẫn nhau. Các doanh
nghiệp không có khả năng sẽ dần bị thu hẹp và thậm chí còn bị phá
sản.
*Cạnh tranh giữa các ngành
Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hay đồng minh giữa các

doanh nghiệp trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm lấy lợi nhuận
cao nhất. Trong quá trình này, có sự phân bổ vốn đầu tư một cách tự
nhiên giữa các ngành khác nhau, kết quả là hình thành tỷ suất lợi nhuận
bình quân.

6


3. Các công cụ cạnh tranh chủ yếu của doanh nghiệp
Mỗi chủ thể khi tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh đều
phải biết phân tích những điểm mạnh, yếu của mình để từ đó tìm ra và
phát huy những thế mạnh của mình, giảm bớt những mặt yếu. Những
mặt mạnh của doanh nghiệp chính là lợi thế cho cạnh tranh thì cần chú ý
phát triển vào lợi thế đó. Để nắm bắt được tác dụng của các công cụ cạnh
tranh, doanh nghiệp cần biết và áp dụng một cách hợp lý và có hiệu quả
các công cụ cạnh tranh. Sau đây là một số công cụ cạnh tranh chủ yếu
mà các doanh nghiệp thường sử dụng.
a. Cạnh tranh bằng sản phẩm và chất lượng sản phẩm
* Cạnh tranh bằng sản phẩm
Việc đa dạng hóa sản phẩm mà doanh nghiệp thực hiện có thể đi
theo 3 hướng sau.
Đa dạng hóa đồng tâm: Là hướng đa dạng hóa trên nền của sản
phẩm chuyên môn hóa dựa trên cở sở khai thác mối liên hệ về nguồn lực
về cở sở vật chất kỹ thuật về công nghệ.
Đa dạng hóa về chiều ngang: Là hình thức tăng trởng bằng cách
mở rộng các danh mục sản phẩm và dịch vụ cung cấp cho khách hàng
hiện có của doanh nghiệp.
Đa dạng hóa hỗn hợp: Thực chất là sự kết hợp hai hình thức
trên sử dụng chiến lược này thường là những tập đoàn kinh doanh lớn
hay những công ty đa quốc gia. Đa dạng hóa hỗn hợp là xu thế của các

doanh nghiệp hiện nay.
Khác biệt hóa về sản phẩm là tạo ra những sản phẩm đặc biệt độc
đáo được thừa nhận trong toàn ngành có thể là nhờ vào vị thế của công
nghệ sản xuất sản phẩm. Khác biệt hóa sản phẩm nếu đạt được sẽ tạo khả
năng cho công ty thu được tỷ lệ lợi nhuận cao hơn bởi nó tạo nên một vị
trí chắc chắn cho công ty trong việc đối phó với các thế lực cạnh tranh.
7


Khác biệt hóa sản phẩm tạo ra sự trung thành của khách hàng vào nhãn
hiệu của sản phẩm điều này sẽ dẫn đến khả năng ít biến động hơn về giá
cả. Người mua có thể sẵn sàng hi sinh một vài đặc tính tốt của sản phẩm,
dịch vụ khác biệt hóa để tiết kiệm một khoản tiền lớn mặc dù khác biệt
hóa sản phẩm sẽ nâng cao chất lượng sản phẩm. Vì thế các doanh nghiệp
cần cân nhắc kỹ lưỡng các nguy hiểm khi thực hiện chính sách này.
* Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm
Xã hội ngày càng phát triển thì người tiêu trong thị trường ngày
càng đòi hỏi có nhiều sản phẩm chất lượng cao. Khi doanh nghiệp thực
hiện các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm để nâng cao khả
năng cạnh tranh thì lúc đó sản phẩm của doanh nghiệp là khác biệt hóa.
Còn ở đây nâng cao chất lượng sản phẩm là để tăng cường sức cạnh
tranh khi hàng hóa có công cụ như nhau, giá cả bằng nhau thì người tiêu
dùng sẽ mua hàng hóa nào có chất lượng cao hơn.
Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu các đặc trưng kinh tế
kỹ thuật được thể hiện qua sự thỏa mãn nhu cầu trong những điều kiện
tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng sản phẩm mà người tiêu dùng
mong muốn. Chất lượng sản phẩm được hình thành từ khi thiết kế sản
phẩm khâu thiết kế sản xuất chất lượng nguyên vật liệu chất lượng máy
móc thiết bị chất lợng đội ngũ lao động…Để nâng cao chất lượng sản
phẩm trong quá trình sản xuất cán bộ quản lý chất lượng phải chú ý tất

cả các khâu trên đồng thời phải có chế độ kiểm tra chất lợng sản phẩm ở
tất cả các khâu của quá trình sản xuất do các nhân viên kiểm tra chất
lượng thực hiện, bên cạnh đó phải có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các
bộ phận Marketing, phải cung cấp cho bộ phận thiết kế các thông tin đầy
đủ về nhu cầu thị trường như kiểu dáng, mẫu mã, màu sắc…để từ đó sản
phẩm chế tạo đúng với tiêu chuẩn thiết kế đảm bảo chất lượng về mặt kỹ
thuật mới có thể đảm bảo thích ứng và phù hợp với nhu cầu thị trường.
8


b. Cạnh tranh bằng giá bán sản phẩm.
*Cạnh tranh bằng chính sách định giá
Mức giá có vai trò cực kỳ quan trọng trong cạnh tranh, việc định
giá giúp doanh nghiệp nắm được khả năng tài chính của mình. Doanh
nghiệp thường đưa ra 3 chính sách xác định giá cụ thể như sau:
Chính sách định giá cao: Thực chất của chính sách này là định giá
bán sản phẩm cao hơn giá trên thị trường và cao hơn giá trị. Việc định
giá cao hơn phần nào cho biết lợi thế và chỗ đứng của doanh nghiệp có
tính vượt trội hơn hẳn so với đối thủ cạnh tranh khác, thị trường sản
phẩm của doanh nghiệp gần như độc quyền.
Chính sách định giá ngang bằng với giá thị trường: Là việc định ra
mức giá bán sản phẩm xung quanh mức giá trên thị trường. Mức giá này
là mức giá được nhiều doanh nghiệp đặt ra vì tính cạnh tranh về sản
phẩm, về giá của doanh nghiệp trên thị trường là ngang bằng.
Chính sách định giá thấp: Là chính sách định giá bán sản phẩm
thấp hơn giá thị trường để thu hút khách hàng về phía mình nhằm tăng
khối lượng tiêu thụ.
Việc định giá theo 3 mức trên sẽ được bản thân mỗi doanh nghiệp
xem xét và áp dụng sao cho phù hợp và đem lại hiệu quả, kinh tế hiệu
quả sản xuất kinh doanh cao nhất.

* Cạnh tranh bằng việc hạ giá thành
Việc hạ giá thành sản phẩm thực chất là giảm chi phí đầu vào (chi
phí tính giá thành) cho một đơn vị sản phẩm, chi phí đầu vào ở đây bao
gồm:
Chi phí về nguyên vật liệu: Chi phí về nguyên vật liệu trong sản
xuất thường chiếm từ 50%-70% tổng giá thành tùy thuộc sản phẩm mà
doanh nghiệp sản xuất. Vì vậy việc giảm chi phí nguyên vật liệu có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm.
9


Việc giảm chi phí nguyên vật liệu không làm cho sản phẩm thiếu đi một
hay một số bộ phận cấu hình tính kinh tế kỹ thuật của nó mà việc giảm
chi phí là việc tận dụng nguyên vật liệu thừa đem vào chế biến tái tạo lại
nhằm tận dụng một cách tối đa nguyên vật liệu đầu vào.
Chi phí về nhân công: Chi phí về nhân công là loại chi phí được
trả tính bằng tiền lương, thưởng, trợ cấp, BHXH.. việc giảm chi phí nhân
công trong giá thành sản phẩm đợc giảm bằng cách tăng năng suất lao
động, sử dụng yếu tố kỹ thuật thay thế cho yếu tố lao động thông qua
đầu tư đổi mới kỹ thuật công nghệ, kích thích khả năng lao động của
người công nhân tính nhiệt tình với công việc, sự trung thành…
Chi phí cố định: Là khoản chi phí bao gồm khấu hao tài sản cố
định, chi phí quản lý doanh nghiệp… Để giảm chi phí cố định trong giá
thành sản phẩm cần phải tận dụng thời gian của máy móc thiết bị áp
dụng phương thức khấu hao nhanh để giảm bớt hao mòn vô hình…Bên
cạnh đó sắp xếp tổ chức đội ngũ cán bộ quản trị hợp lý để giảm chi phí
quản lý.
Chi phí thương mại: Chi phí liên quan đến hoạt động tiêu thụ sản
phẩm như hoạt động Marketing đến các chi phí liên quan khác như: chi
phí quản lý khách hàng, chi phí lưu thông, khuyến mại, giảm giá…

c. Cạnh tranh qua hệ thống kênh phân phối và xúc tiến bán
hàng
*Hệ thống kênh phân phối:
Trước hết, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu thị trường, lựa chọn
thị
trường, và lựa chọn hệ thống kênh phân phối để sản phẩm sản xuất
ra được tiêu thụ nhanh chóng và có hiệu quả hơn. Tiêu thụ nhanh với
khối lượng lớn sẽ tăng nhanh vòng quay của vốn, thúc đẩy sản xuất, tạo
tiền đề cho quá trình tích tụ tái đầu tư.
10


Việc lựa chọn kênh phân phối phải dựa trên đặc điểm sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp cũng như đặc điểm kinh tế kỹ thuật của sản
phẩm cần tiêu thụ. Đồng thời cần dựa trên đặc điểm của thị trờng tiêu
thụ, đặc điểm về khoảng cách giữa doanh nghiệp đến thị trường để từ đó
doanh nghiệp sẽ lựa chọn cho mình một kênh phân phối hợp lý đạt hiệu
quả cao.

Người sản xuất

Người sản
xuất

Người sản
xuất

Người
sản
xuất


Người tiêu dùng
cuối cùng

Người bán
lẻ

Người bán
buôn

Người
bán
buôn

Người tiêu
dùng cuối
cùng

Người
bán lẻ

Người
bán lẻ

Người
môi
giới

Người tiêu
dùng cuối

cùng

Người tiêu
dùng cuối
cùng

Sơ đồ 0.1: Hệ thống kênh phân phối của doanh nghiệp
Vậy đối với những doanh nghiệp đang sử dụng nhiều kênh phân
phối và trực tiếp quản lý các kênh phân phối đó thì phải tìm ra được kênh
phân phối chủ đạo, chiếm tỷ trọng chính trong tỷ lệ tiêu thụ sản phẩm
của doanh nghiệp.
*Một số biện pháp xúc tiến bán hàng
11


Để việc tiêu thụ bán hàng được tốt, doanh nghiệp phải có hệ thống
bán hàng phong phú, như địa điểm bán hàng cần được trang bị cơ sở vật
chất hiện đại, thuận tiện tối đa cho việc tiêu thụ sản phẩm. Kho tàng bến
bãi phục vụ cho công tác bảo quản, dự trữ sản phẩm phải được quan tâm
đặc biệt để việc lưu thông hàng hoá là liên tục, không bị gián đoạn. Nhân
viên bán hàng phải luôn là những người có trình độ nghiệp vụ chuyên
môn cao, hiểu rõ về sản phẩm để giới thiệu với khách hàng. Qua đó giúp
người mua lựa chọn được những mặt hàng phù hợp nhất với nhu cầu và
khả năng thanh toán của từng người. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng
cần phải thiết lập, và sử dụng một cách linh hoạt các kênh phân phối,
đồng thời cũng cần thực hiện tốt các chính sách về hỗ trợ bán hàng như:
Chính sách về quảng cáo
Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện thông tin để truyền tin
về sản phẩm cho mọi đối tượng tiêu dùng, giới thiệu cung cấp thông tin
hớng dẫn kích thích tiêu dùng các loại sản phẩm hàng hóa của doanh

nghiệp. Việc thông tin về sản phẩm không chỉ để cho đối tượng là khách
hàng hiện có mà còn cho khách hàng tiềm năng và bên cạnh đó cho tất cả
đối tợng có thể trở thành khách hàng của doanh nghiệp.
Một số chính sách xúc tiến bán hàng
Xúc tiến bán hàng là nhóm công cụ truyền thông hỗn hợp kích
thích khách hàng nhằm tăng nhu cầu về sản phẩm tại chỗ. Là hình thức
khuyến mại góp phần tác động tích cực và trực tiếp tới việc tăng doanh
số bằng những lợi ích vật chất kèm theo trong lúc bán cho người mua.
Thực chất đây là công cụ kích thích để thúc đẩy các hoạt động cung ứng,
phân phối và tiêu dùng đối với một hoặc một nhóm sản phẩm hàng hóa
của doanh nghiệp. Ví dụ như phiếu thưởng, hàng mẫu, quà tặng…hay
việc tổ chức các buổi hội nghị khách hàng, triển lãm thương mại.
II. KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
12


1. Khái niệm về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Cho tới hiện nay, khả năng cạnh tranh vẫn còn là một khái niệm
khá mới mẻ đối với nước ta. Chính vì vậy nó vẫn chưa có một định nghĩa
chung nhất mà ta chỉ có thể hiểu qua các cách tiếp xúc như sau:
- Khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng doanh
nghiệp có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn
giá cả của nó trên thị trường. Theo cách hiểu này doanh nghiệp nào có
khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự sản phẩm của
doanh nghiệp khác nhưng chi phí thấp hơn thì được coi là khả năng cạnh
tranh cao hơn.
Hay khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là năng lực và tiềm
năng mà doanh nghiệp có thể duy trì vị trí của mình một cách lâu dài trên
thương trường kinh doanh. Hoặc khả năng cạnh tranh là khả năng cung
cấp sản phẩm của chính doanh nghiệp trên các thị trường khác mà không

phân biệt nơi bố trí sản xuất của doanh nghiệp đó.
Vậy từ các cách tiếp cận trên, ta có thể hiểu: Khả năng cạnh tranh
là năng lực và tiềm năng mà doanh nghiệp có thể duy trì vị trí của mình
trên thương trường kinh doanh một cách lâu dài và có ý nghĩa.
Nếu doanh nghiệp tham gia vào thị trường mà không có khả năng
cạnh tranh hoặc có năng lực cạnh tranh yếu thì khó hoặc không thể tồn
tại được. Vì vậy phần thị trường chiếm lĩnh của doanh nghiệp được coi
là chỉ số tổng hợp đo lường tính cạnh tranh của nó. Qua chỉ số đồng nhất
này có thể đánh giá thành tích của doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh
tranh, cũng như so sánh thắng lợi giữa các đối thủ cạnh tranh với nhau.
2. Các yếu tố cấu thành khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
a. Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực có vai trò quan trọng trong mọi hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Con người điều khiển mọi quá
13


trình thông qua các công cụ, lĩnh vực nhân sự hay quản lý con người là
một kiểu quản lý đặc biệt, bởi đó là sự tác động trực tiếp từ chủ thể - là
con người - đến khách thể - cũng là con người. Vậy nguồn nhân lực của
doanh nghiệp gồm:
+ Ban giám đốc.
+ Cán bộ quản lý ở cấp doanh nghiệp.
+ Cán bộ quản lý ở cấp trung gian và đội ngũ công nhân viên.
Ban giám đốc doanh nghiệp: là những quản trị viên cao cấp nhất
trong doanh nghiệp, chịu trách nhiệm về từng phần công việc và đường
lối chiến lược tổng hợp cuả doanh nghiệp
Cán bộ quản lý ở cấp doanh nghiệp: là trợ thủ đắc lực giúp tham
mưu trực tiếp cho ban giám đốc về tình hình khác hàng, tình hình nhân
sự cấp dưới trong công ty ....nhằm cung cấp những thông tin cần thiết

chính xác và cập nhập phục vụ cho việc ra quyết định của ban giám đốc
một cách đúng đắn và kịp thời.
Cán bộ quản lý ở cấp trung gian và các công nhân viên là những
người giúp việc năng nổ, sáng tạo, và nhiệt tình cho các cán bộ cấp trên.
Lực lượng này thường là chiếm số đông trong công ty, họ tham gia trực
tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Vì vậy để góp phần tăng năng xuất lao động và tăng chất lượng
sản phẩm dịch vụ làm thế mạnh trong cạnh tranh thì doanh nghiệp phải
có những chế độ đãi ngộ thoả đáng và tạo môi trường làm việc thuận lợi,
cũng như quan tâm chăm lo tới sức khỏe, đời sống đến các cán bộ công
nhân viên trong doanh nghiệp. Để giúp họ yên tâm tự nguyện đóng góp
hết mình cho công việc.
b. Nguồn lực tài chính
Tài chính là một yếu tố hết sức quan trọng đối với bất kỳ một
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào. Khả năng tài chính của doanh
14


nghiệp có tốt thì mới đảm bảo rằng hoạt động sản xuất kinh doanh diễn
ra ổn định và lâu dài. Có đủ số vốn thì doanh nghiệp mới đầu tư nhằm
mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh đầu tư đổi mới công nghệ mở
rộng thị trường… nhằm đạt hiệu quả trong kinh doanh. Nhìn vào hiệu
quả sản xuất kinh doanh của bất kỳ một doanh nghiệp nào, thì thường
nhìn vào thực lực tài chính của doanh nghiệp ấy thể hiện qua một số chỉ
tiêu: tổng doanh thu, tổng lợi nhuận, tổng tiền lương, tiền thưởng, tiền
nộp ngân hàng và khi ấy các nhà đầu tư mới dám bỏ vốn để đầu tư, liên
doanh liên kết nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh.
c. Năng lực quản trị
Quản trị vừa là nghệ thuật vừa là khoa học. Nhà quản trị bằng
những năng lực và hiểu biết của mình sẽ tạo nên cách thức quản trị riêng

thể hiện qua việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện kế hoạch, phân bổ
nguồn nhân lực và vật lực sao cho có hiệu quả nhất. Như vậy nó đòi hỏi
các nhà quản trị phải có trình độ, có khả năng quan sát và tập hợp trí tuệ
của mọi người ở trong doanh nghiệp vào việc thực hiện mục tiêu chung.
Nói về các nhà quản trị thì vấn đề năng lực cá nhân là vô cùng
quan trọng vì nó có ảnh hưởng trực tiếp đến việc ra quyết định. Vì vậy
một nhà quản trị giỏi có năng lực thực sự phải là người dám mạo hiểm
có lòng quyết tâm theo đuổi khát vọng làm giàu và giám chịu trách
nhiệm về tất cả các quyết định của mình.Việc khởi sự một công việc
kinh doanh bao giờ cũng chứa đựng cả các thời cơ và cả các rủi ro.
Trong nền kinh tế thị trường, phần thưởng giành cho những người chấp
nhận mạo hiểm bởi vì nếu không mạo hiểm thì cũng chẳng mất gì nhưng
cũng chẳng được gì. Tuy nhiên mạo hiểm ở đây không có nghĩa là làm
liều, làm ẩu mà nó được quyết định dựa trên kinh nghiệm của nhà quản
trị. Kinh nghiệm sẽ cho ta nhìn nhận thấy nhiều điều về tính chất của sản
phẩm hàng hoá, về khách hàng, về nhân viên, về người cung ứng,...của
15


doanh nghiệp. Đồng thời cũng làm giảm bớt những bất ngờ cho người
mới bắt đầu khởi sự kinh doanh. Đó quả là tài sản vô giá của doanh
nghiệp.
d. Cơ sở vật chất và bí quyết công nghệ:
*Về cơ sở vật chất kỹ thuật
Để dánh giá được cơ sở vật chất kỹ thuật của một doanh nghiệp
người ta căn cứ vào trình độ máy móc thiết bị mà doanh nghiệp đang sử
dụng và hệ thống nhà xưởng,kho bãi của doanh nghiệp. Trình độ máy
móc và thiết bị sản xuất hiện tại có ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp. Nó là yếu tố quan trọng hàng đầu thể hiện năng lực
sản xuất và chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Nếu một doanh

nghiệp có hệ thống sản xuất bằng công nghệ hiện đại thì sản phẩm của
họ chắc chắn có chất lượng cao, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao khả
năng cạnh tranh trên thị trường.
*Về bí quyết công nghệ:
Nói đến bí quyết công nghệ không chỉ đơn thuần nói đến trình độ
máy móc thiết bị mà doanh nghiệp tiếp thu được từ bên ngoài. Mà nó
còn bao gồm cả việc sử dụng, vận hành một cách có hiệu quả hệ thống
máy móc đó cũng như những tính năng siêu việt trong dây truyền công
nghệ độc đáo của cá nhân doanh nghiệp mà doanh nghiệp sáng tạo ra.
Chính những khả năng này góp phần tạo nên ưu thế cạnh tranh riêng cho
doanh nghiệp mà các đối thủ khác không sao có được. Máy móc thiết bị
có thể giống nhau song khả năng sử dụng nó thì lại không như vậy, bởi
mỗi một người khác nhau tác động vào nó sẽ cho một kết quả khác nhau.
Đây chính là bí quyết tạo nên công nghệ kinh doanh riêng.
Vậy công nghệ kinh doanh của doanh nghiệp là tập hợp các
phương tiện cần thiết cho việc biến đổi các yếu tố đầu vào thành các sản

16


phẩm đầu ra theo ý muốn. Vì vậy công nghệ kinh doanh của các doanh
nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau thì rất khác nhau.
3. Các chỉ tiêu phản ánh khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp
a. Thị phần của doanh nghiệp
Thị phần là chỉ tiêu mà các doanh nghiệp thường dùng để đánh giá
mức độ chiếm lĩnh thị trường của mình so với các đối thủ cạnh tranh. Thị
phần càng lớn càng thể hiện rõ khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
càng mạnh. Phần mà doanh nghiệp chiếm lĩnh sẽ thể hiện được đích thực
vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, thể hiện uy tín của doanh nghiệp

đối với khách hàng, bạn hàng thậm chí cả với đối thủ cạnh tranh. Vậy
khi đánh giá thị phần của một doanh nghiệp người ta xem xét các loại thị
phần sau đây:

Thị phần tuyệt đối của doanh nghiệp =
Doanh thu của doanh
nghiệp
Tổng doanh thu tiêu thụ trên thị
trường
-Thị phần tương đối của doanh nghiệp : là tỷ lệ so sánh về doanh số
của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất,nó cho biết vị thế
sản phẩm của doanh nghiệp đang cạnh tranh trên thị trường là bao nhiêu.
Thông qua sự biến động của các chỉ tiêu này mà doanh nghiệp biết
mình đang ở vị trí nào trên thị trường và từ đó có những kế hoạch hành
động hợp lý ứng với từng giai đoạn cụ thể.
b. Tỷ suất lợi nhuận

17


Tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp và cũng thể hiện tính hiệu quả trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tỷ suất lợi nhuận = Lợi nhuận của doanh nghiệp
Doanh thu của doanh nghiệp
Có thể thấy rằng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận còn thể hiện sự phát
triển về chiều sâu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.Vì thế chỉ tiêu này có ý nghĩa rất lớn trong việc đánh giá khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
c. Năng suất lao động

Được đánh giá qua hai chỉ tiêu: Năng suất lao động bình quân năm
và hệ số doanh lợi lao động. Trong đó
Năng suất lao động bình quân năm = Doanh thu năm/ Số lao động
bình quân năm
Chỉ tiêu này phản ánh bình quân mỗi một lao động có thể làm ra
bao nhiêu đồng doanh thu trong một kỳ lao động.
Hệ số doanh lợi lao động = Lợi nhuận / Số lao động
Chỉ tiêu này phản ánh mỗi kỳ mỗi người lao động tạo ra bao nhiêu
đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Đây là hai chỉ tiêu cơ bản dùng để xem xét đánh giá hiệu quả sử
dụng lao động của doanh nghiệp.
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp
a. Môi trường vĩ mô
*Các nhân tố về mặt kinh tế .
Các nhân tố về mặt kinh tế có vai trò quan trọng và quyết định đối
việc hình thành và hoàn thiện môi trường kinh doanh. Không những thế

18


các nhân tố này cũng ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp.
Các nhân tố về mặt kinh tế bao gồm: Góc độ tăng trưởng kinh tế
(GDP, GNP) Tỷ giá hối đoái, Lãi suất ngân hàng, lạm phát…
*Các nhân tố về mặt chính trị luật pháp.
Một thể chế chính trị, một hệ thống luật pháp rõ ràng, ổn định sẽ là
cơ sở vững chắc đảm bảo cho sự thuận lợi, bình đẳng và hành lang pháp
lý vững chắc bảo vệ doanh nghiệp khi tham gia vào kinh doanh ngược lại
những chính sách của Chính phủ ban hành không hợp lý rõ ràng sẽ gây

trở ngại cho các doanh nghiệp không tạo được sự thu hút cho đầu tư từ
các nguồn lực trong và ngoài nước.
*Các nhân tố về văn hóa- xã hội.
Phong tục tập quán, lối sống thói quen , tín ngưỡng tôn giáo của
người tiêu dùng ảnh hưởng đến cơ cấu , nhu cầu người tiêu dùng, ở
những khu vực khác nhau thì nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng khác
nhau điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải có chính sách sản phẩm và tiêu
thụ sản phẩm khác nhau. Sự phù hợp của các điều kiện kinh doanh với
các yếu tố văn hóa xã hội sẽ phần nào làm tăng năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
*Các nhân tố thuộc về khoa học công nghệ.
Quá trình sản xuất diễn ra theo một quy trình công nghệ có quyết
định tới lượng sản xuất đầu ra của doanh nghiệp. Công nghệ sản xuất
bao gồm nhiều quy trình mà ở đó có trình độ, thông số kỹ thuật của máy
móc thiết bị, của dây chuyền sản xuất của các đơn vị đơn lẻ phối kết hợp
với nhau để tạo ra sản phẩm đạt tiêu chuẩn. Công nghệ sản xuất đạt tiêu
chuẩn cao sẽ tạo ra sản phẩm có chất lượng tốt tương ứng, năng suất lao
động tăng lên, chi phí sản phẩm sẽ giảm và tính đồng bộ sẽ làm hạn chế
tối thiểu sản phẩm hỏng, sản phẩm dở dang trên dây chuyền sản xuất
19


dẫn đến giảm chi phí cho việc xử lý những sản phẩm đó, đồng thời giảm
chi phí cho việc sửa chữa, bổ xung, thay thế máy móc thiết bị mới.
Công nghệ có quan hệ tỷ lệ thuận với năng suất chất lượng sản
phẩm nhưng lại tỷ lệ nghịch với chi phí sản xuất (chi phí giá thành).
Điều này làm cho các nhà quản lý sản xuất luôn tìm tòi, học hỏi, vận
dụng những tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, tạo nên một quy
trình sản xuất đồng bộ, đạt hiệu quả cao nhất có thể được.
2.4.2. Môi trường vi mô

Hiện nay trên thị trường, trong một ngành sản xuất nhiều doanh
nghiệp có thể cùng đưa ra một loại sản phẩm dịch vụ gần giống hoăc
tương tự nhau hoặc có thể thay thế được cho nhau và cùng thoả mãn
những nhu cầu tiêu dùng cơ bản. Nhiệm vụ đặt ra cho các doanh nghiệp
là phải luôn phân tích, phán đoán các thế lực cạnh tranh trong môi
trường ngành để tận dụng, chớp lấy cơ hội kinh doanh đồng thời hạn chế
bớt những đe doạ đối với mình.
Theo Michael Porter một nhà lý luận và thực tiễn thì có năm lực
lượng chính trong môi trường ngành kinh doanh của doanh nghiệp.Đó là
Cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh hiện tại.
Sức ép từ phía khách hàng
Sức ép từ nhà cung ứng
Sự đe doạ của đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn
Sản phẩm thay thế
Một trong số năm lực lượng này càng mạnh thì càng hạn chế khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
*Cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh hiện tại

20


Các doanh nghiệp cần phải phân tích từng đối thủ cạnh tranh để
nắm và hiểu được các phản ứng và hành động của họ mà họ có thể thông
qua.
Các doanh nghiệp khi có ý định tham gia vào một ngành kinh
doanh nào đó, cần xem xét cường độ cạnh tranh trong ngành là mạnh hay
yếu để từ đó xem xét mình có khả năng để cạnh tranh được với các
doanh nghiệp hiện có trong ngành hay không đồng thời tính tới những
chi phí cạnh tranh có thể bỏ ra và những cơ hội có thể đạt được.
Để phân tích cường độ cạnh tranh trong ngành cần xem xét tới

+ Tốc độ tăng trưởng của ngành.
+ Mức độ hiểu biết về nhau giữa các đối thủ trong ngành.
+ Số lượng các doanh nghiệp trong ngành.
+ Công suất máy móc thiết bị của các doanh nghiệp sản xuất trong
ngành.
+ Hàng rào cản trở việc nhập và rút ra khỏi ngành
*Sức ép từ phía khách hàng
Những khách hàng mua sản phẩm của một doanh nghiệp có thể
làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp đó bằng việc yêu cầu chất lượng
sản phẩm cao hơn hoặc dịch vụ sau khi bán nhiều hơn. Như vậy khách
hàng cũng gây ảnh hưởng đến cạnh tranh của doanh nghiệp. Trên thực
tế, khách hàng thường gây sức ép đối với doanh nghiệp nếu họ có một số
lợi thế sau:
- Họ mua với khối lượng lớn.
- Sản phẩm của doanh nghiệp được phân hóa.
- Họ là khách hàng thường xuyên và quan trọng của doanh nghiệp.
- Họ có đầy đủ thông tin về giá cả thị trường.
- Họ cũng là nhà sản xuất và có khả năng khép kín sản xuất.

21


Điều quan trọng đối với doanh nghiệp là không chỉ bán được hàng
mà còn phải giữ được khách hàng sao cho họ bằng lòng mua sản phẩm
hàng hóa của doanh nghiệp, hợp tác trong thời gian lâu dài. Để làm được
điều này, doanh nghiệp phải nâng cao uy tín, nâng cao chất lượng sản
phẩm của mình để thỏa mãn tối đa nhu cầu khách hàng mang lại cho họ
sự hài lòng trong khuôn khổ của nguồn lực của doanh nghiệp sao cho
hiệu quả kinh tế là cao nhất.
*Sức ép từ các nhà cung ứng

Các nhà cung cấp sẽ cung cấp các yếu tố đầu vào cho sản xuất có
thể chia sẻ lợi nhuận của doanh nghiệp đó trong trường hợp doanh
nghiệp có khả năng trang trải các chi phí tăng thêm trong đầu vào các
nhà cung cấp có khả năng gây khó khăn cho doanh nghiệp nếu:
+ Họ là nhà cung cấp duy nhất của doanh nghiệp.
+ Doanh nghiệp không phải là khách hàng quan trọng của họ.
+ Loại vật tư của nhà cung cấp là yếu tố quan trọng của doanh
nghiệp quyết định đến quá trình sản xuất , đến chất lượng sản phẩm.
+ Khi các nhà cung cấp có khả năng về các nguồn lực để khép kín
sản xuất.
Để giảm bớt những ảnh hưởng xấu từ các nhà cung cấp, các
doanh nghiệp cần có mối quan hệ tốt với họ, hoặc mua vật tư từ nhiều
nguồn cung ứng khác nhau trong đó chọn ra một nguồn cung cấp chính
xác, hoặc nghiên cứu tìm ra vật liệu dự trữ thay thế.
*Sự đe doạ của đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn
Cạnh tranh trong ngành sẽ trở nên gay gắt và khốc liệt nếu xuất
hiện thêm các doanh nghiệp tham gia vào kinh doanh trong ngành, các
doanh nghiệp trong ngành có nhiều lợi thế về kinh nghiệm, uy tín sản
phẩm, khách hàng, và các kênh phân phối.Tuy nhiên nếu các đối thủ mới
có quy mô lớn về tài chính, sự vượt trội về công nghệ thì đó có thể là
22


nguy cơ đối với bất cứ một doanh nghiệp nào đang hoạt động trong
ngành. Lúc đó doanh nghiệp cũng cần có biện pháp tích cực để đối phó
với mối nguy hiểm này có thể họ sẽ quay lại kiên kết với nhau để tạo ra
những hàng rào cản trở xâm nhập tập trung vào một thị trường trọng
điểm hay có kiến nghị đối với Nhà nước… Các hàng rào gia nhập của
các đối thủ mới càng cao, khi đó năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
sẽ yếu đi nếu các doanh nghiệp trong ngành không tạo được một hàng

rào xâm nhập hữu hiệu.
*Sức ép của sản phẩm thay thế
Sản phẩm thay thế được thể hiện dưới 2 dạng:
+ Sản phẩm thay thế thông thường.
+ Sản phẩm thay thế hoàn toàn.
Sự ra đời của sản phẩm thay thế là tất yếu nhằm đáp ứng sự biến
động của nhu cầu thị trường theo hướng ngày càng đa dạng và phong
phú hơn sản phẩm thay thế làm giảm đi sự cần thiết, mức độ quan trọng
của sản phẩm bị thay thế.
Sản phẩm thay thế hầu như được sản xuất trên những dây chuyền
máy móc tiên tiến hiện đại hơn, do đó sức cạnh tranh cao hơn, sản phẩm
thay thế sẽ làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có sản phẩm
thay thế.
Vậy việc nghiên cứu, phân tích, tìm hiểu về năm lực lượng cạnh
tranh trong môi trường kinh doanh là cơ sở giúp tìm ra các biện pháp để
đẩy mạnh lợi thế cạnh tranh, và tìm được chỗ đứng trên thị trường qua
việc mở ộng thị phần, giành thế chủ động trong cạnh tranh.

23


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNH KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦACÔNG TY
CỔ PHẦN SƠN TỔNG HỢP HÀ NỘI TRÊN THỊ TRƯỜNG
HIỆN NAY
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÔNG TY SƠN TỔNG HỢP
1. Quá trình hình thành và phát triển
Công ty Sơn Tổng hợp Hà Nội với tiền thân là Nhà máy Sơn và
Mực in được thành lập theo quyết định số 1083/HC-QLKT ngày
11/8/1970 của Tổng cục Hoá chất, Công ty Sơn Tổng hợp Hà Nội được

thành lập lại theo quyết định số 295/QĐ/TCNSĐT ngày 24/5/1993 của
Bộ Công nghiệp nặng (nay là Bộ Công nghiệp), là doanh nghiệp Nhà
nước thành viên hạch toán độc lập trực thuộc Tổng Công ty Hoá chất
Việt Nam.
Giấy phép đăng ký kinh doanh số 108851 do Trọng tài kinh tế Hà
Nội cấp ngày 25/6/1993 và thay đổi đăng ký kinh doanh ngày
24/10/1997 do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp.
Trong năm 2005 thực hiện quyết định số 3491/QĐ-TCCB ngày
28/12/2004 của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp về việc Cổ phần hoá Công ty
Sơn Tổng hợp Hà Nội. Công ty đã tiến hành Cổ phần hoá doanh nghiệp
theo các quyết định của các cơ quan có thẩm quyền và được chấp nhận
tại quyết định số 2060/QĐ-TCKT ngày 17/6/2005 của Bộ trưởng Bộ
Công nghiệp về việc xác định giá trị Công ty Sơn Tổng hợp Hà Nội.
Ngày 10/10/2005 Bộ trưởng Bộ Công nghiệp đã có quyết định só
3294/QĐ-BCN phê duyệt phương án và chuyển Công ty Sơn Tổng hợp
Hà Nội thành Công ty Cổ phần Sơn Tổng hợp Hà Nội. Công ty Sơn
Tổng hợp Hà Nội chính thức là Công ty Cổ phần Sơn Tổng hợp Hà Nội
từ năm 2006.

24


Từ khi mới thành lập, cơ sở vật chất ban đầu của Công ty còn rất
nghèo nàn và thô sơ, sản phẩm chủ yếu là sơn gốc dầu và mực in để phục
vụ cho các nàh in báo của Đảng và Nhà nước.
Nhưng chỉ sau 10 năm đổi mới (từ 1989 trở đi), với sự đầu tư đúng
hướng, từng bước chắc chắn, Nhà máy Sơn Mực in không những đã sản
xuất nâng cao sản lượng sơn và mực in hàng năm mà nhà máy còn cho
lắp đặt thêm một số máy móc thiết bị như. Hệ thống tổng hợp nhựa
Phenol, xây dựng xưởng sản xuất bột ôxit sắt, xưởng cao su vòng hoá...

Nhờ đó Công ty đã có mức tăng trưởng bình quân 20%/năm và đã khẳng
định được vị trí của mình trên thị trường sơn Việt Nam.
Đặc biệt tháng 7/1999 hệ thống quản lý chất lượng của Công ty đã
được cấp chứng chỉ ISO 9002. Giúp cho sản phẩm của Công ty khi tung
ra thị trường đã được khẳng định hơn về mặt chất lượng và độ uy tín cao.
Năm 2001, Dự án "ứng dụng công nghệ nhập để sản xuất sơn xe
máy với mục tiêu hoàn thiện công nghệ và xây dựng dây chuyền sản
xuất sơn xe máy dựa trên công nghệ chuyển giao của Nhật Bản quy mô
500 tấn/năm đã được Công ty trình lên Bộ Khoa học và công nghệ phê
duyệt. Công ty trở thành doanh nghiệp đi đầu trong sản xuất sơn xe máy.
Trong những năm trở lại đây, với lực lượng cán bộ kỹ thuật, các
nhà quản lý với trình độ chuyên môn cao và truyền thống sẵn có, Công
ty không ngừng thắt chặt quan hệ hợp tác với các nhà khoa học đầu
ngành trong nước và mở rộng hợp tác quốc tế. Hiện nay Công ty có
cường độ quản lý công nghệ sản xuất ngang tầm các nước tiên tiến trong
khu vực.
2. Đặc điểm cơ cấu, tổ chức bộ máy quản lý của Công ty
Cũng như các doanh nghiệp sản xuất khác, do đặc điểm của ngành
hoá chất là sản phẩm sản xuất có nhiều loại khác nhau nên việc tổ chức
bộ máy quản lý cũng mang những đặc thù riêng rất rõ ràng và ngày càng
25


×