Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Một số vấn đề về diện và hàng thừa kế theo qui định của pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.55 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Con người để tồn tại họ cần phải có những lợi ích vật chất nhất định để đáp
ứng nhu cầu ăn, mặc, ở … của mình. Tuy nhiên không như tài sản có thể tồn tại
mãi mãi thì con người theo qui luật tự nhiên là sẽ không thể sống được mãi mà
phải chết đi. Bởi vậy, việc dịch chuyển tài sản của người chết cho người còn
sống đã tồn tại như một yêu cầu khách quan của xã hội và được hiểu đó là việc
thừa kế tài sản. Có một vấn đề đặt ra là nếu chỉ hiểu việc thừa kế tức là một
người trước khi chết đã để lại di chúc phân chia di sản của mình cho những
người khác thì không chính xác. Nếu như vậy thì khi người chết không để lại di
chúc hay dic chúc bị vô hiệu thì di sản của người đó sẽ thuộc về ai ?
Từ những điều trên pháp luật đã qui định thừa kế có hai loại là thừa kê stheo
di chúc và thừa kế theo pháp luật. Trong bài viết lần này em xin đi sâu phân tích
một yếu tố quan tọng của thừa kế theo pháp luật: “Một số vấn đề về diện và
hàng thừa kế theo qui định của pháp luật hiện hành”.

I. Khái niệm chung về thừa kế, diện và hàng thừa kế
1. Thừa kế
Là một quan hệ ra đời và tồn tại từ rất lâu tỏng đời sống xã hội, thừa kế đã
được điều chỉnh bởi các qui phạm pháp luật dân sự, một ngành luật điều chỉnh
mối quan hệ về tài sản mang tính chất ngang giá và giữa các chủ thể đều bình
đẳng về địa vị pháp lý. Như một điều tất yếu quyền thừa kế khi được điều chỉnh
bởi pháp luật nó đã trở thành một phạm trù pháp lý mang tính chủ quan và bị
ảnh hưởng bởi những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội. Có thể nói quan hệ
thừa kế là quan hệ tài sản do Luật dân sự điều chỉnh được được xác định là một
quan hệ tuyệt đối giống quan hệ sở hữu, trong đó chỉ xác định được một bên
chủ thể mang quyền là người để lại di sản hoặc những người thừa kế, còn các
1


chủ thể khác là những người phải có nghĩa vụ tôn trọng quyền để lại di sản thừa
kế và quyền hưởng di sản thừa kế của họ.


Theo nghĩa rộng quyền thừa kế được hiểu là một chế định pháp luật bao gồm
tổng hợp các qui phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ về việc dịch chuyển tài
sản từ người chết cho những người còn sống khác theo ý chí của họ được thể
hiện trong di chúc hoặc theo ý chí của Nhà nước được thể hiện tỏng các qui
phạm pháp luật.
Theo nghĩa hẹp quyền thừa kế được hiểu là một quyền năng dân sự chủ quan
của chủ thể có quyền để lại di sản thừa kế hoặc có quyền hưởng di sản thừa kế
của người chết để lại theo ý chí của người đó hoặc theo quy định của pháp luật
2. Thừa kế theo pháp luật
Tại điều 674 BLDS quy định: “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng
thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật qui định”
Nếu như người chết có để lại di chúc thì di sản của người đó sẽ được chia
theo như di chúc nhằm đảm bảo ý chí của người để lại di chúc cũng như quyền
lợi và nghĩa vụ của những người được hưởng di sản của người chết để lại. Tuy
nhiên có rất nhiều trường hợp người chết là không để lại di chúc hoặc di chúc
của họ bị tuyên bố vô hiệu do vi phạm qui định có hiệu lực của di chúc (điều
652 BLDS). Xuất phát từ lý do này, chế định thừa kế theo pháp luật được coi là
sự phỏng đoán ý chí của người chết để lại di sản.
Nếu như trong thừa kế theo di chúc, người được hưởng thừa kế có thể là cá
nhân hoặc cơ quan, tổ chức (cá nhân phải còn sống còn cơ quan tổ chức phải
còn tồn tại trong thời điểm mở thừa kế). Nhưng trong thừa kế theo pháp luật thì
chỉ có cá nhân mới được hưởng thừa kế và các cá nhân này phải có một trong ba
mối quan hệ với người để lại di sản: Quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống,
quan hệ nuôi dưỡng. Tuy nhiên để được hưởng thừa kế theo pháp luật, các cá
2


nhân này còn phải được xác định theo hàng thừa kế với nguyên tắc ưu tiên của
hàng thừa kế.
3. Diện và hàng thừa kế theo pháp luật

Diện những người thừa kế theo pháp luật là phạm vi những người có quyền
hưởng di sản thừa kế được chia theo pháp luật mà khi còn sống người để lại di
sản có mối quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng với
những người trong phạm vi thuộc một hoặc các mối quan hệ đó:
- Quan hệ hôn nhân: Xuất phát từ việc kết hôn giữa vợ và chồng.
- Quan hệ huyết thống: Quan hệ giữa những người cùng dòng máu (Cụ với ông,
bà; Ông, bà với cha mẹ; Cha mẹ với các con; Anh chị em ruột...)
- Quan hệ nuôi dưỡng: Xuất phát từ sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn
nhau giữa những người không cùng huyết thống hay không có quan hệ hôn
nhân (Cha mẹ nhận nuôi con nuôi)
Trên cơ sở xác định diện thừa kế, pháp luật quy định hàng thừa kế theo pháp
luật là nhóm những người có cùng mức độ gần gũi với người chết và sẽ được
hưởng phần di sản theo nguyên tắc ưu tiên hàng thừa kế và những người thừa kế
cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

II. Một số vấn đề về diện và hàng thừa kế theo quy định của pháp
luật hiện hành
1. Về diện thừa kế theo pháp luật hiện hành

a. Diện thừa kế dựa trên quan hệ hôn nhân
Theo như khoản 6 điều 8 Luật hôn nhân và gia đình đã quy định: “Hôn nhân
là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn”. Khoản 2 điều 8 ghi rõ: “Kết
3


hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo qui định của pháp luật về
điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn”. Như vậy, quan hệ hôn nhân hợp pháp là
quan hệ giữa vợ và chồng khi kết hôn đã tuân thủ các điều kiện và các thủ tục
pháp luật quy định. Sau khi kết hôn, vợ và chồng có quyền và nghĩa vụ đối với
nhau và một trong những quyền mà vợ chồng được pháp luật thừa nhận theo

khoản 1 điều 31 Luật hôn nhân và gia đình: “Vợ, chồng có quyền thừa kế tài
sản của nhau theo qui định của pháp luật về thừa kế”
Để quan hệ hôn nhân được pháp luật bảo vệ cũng như vơ chồng trở thành
người thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau thì quan hệ hôn nhân đó phái
đáp ứng các điều kiện và thủ tục do pháp luật qui định. Trước hết quan hệ hôn
nhân đó phải được được xác lập thông qua đăng ký kết hôn. Tại điều 8 Luật hôn
nhân và gia đình đã giải thích: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ
chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”. Để
được đăng ký kết hôn, thì hai bên nam, nữ phải thỏa mãn các điều kiện kết hôn
quy định tại các điều 9,10,11 và 14 của luật hôn nhân và gia đình về độ tuổi kết
hôn, ý chí tự do, tự nguyện trong kết hôn, không vi phạm chế độ một vợ một
chồng, người mất năng lực hành vi không được kết hôn. Quan hệ hôn nhân cũng
không được vi phạm các điều cấm khác của pháp luật như việc kết hôn giữa
những người có dòng máu trực hệ với nhau, trong phạm vi ba đời hay giữa
những người có quan hệ thân thích với nhau Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi,
giữa người đã từng là cha mẹ, cha nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu,mẹ
vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.
Đặc biệt pháp luật nước ta không chấp nhận hôn nhân giữa những người cùng
giới tính. Thỏa mãn những điều kiện trên, để được pháp luật công nhận và bảo
vệ thì việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thực hiện theo nghi thức tổ chức đăng ký kết hôn (điều 13, 14 Luật hôn nhân và
gia đình). Như vậy , hôn nhân của vợ chồng là hôn nhân hợp pháp thì vợ và

4


chồng thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau và còn là người thừa kế tài
sản của nhau không phụ thuộc vào di chúc (điều 669 BLDS).
Tuy nhiên do điều kiện thực tế của Đất nước trong giai đoạn chiến tranh nên
trước khi Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực thì Nhà nước ta vẫn

thừa nhận những trường hợp nam nữ lấy nhau tuy không đăng ký kết hôn nhưng
vẫn chung sống trong quan hệ vợ chồng là hôn nhân thực tế. Đó là các trường
hợp cán bộ, bộ đội miền Nam đã có vợ hoặc chồng ở miền Nam, tập kết ra Bắc
(1954) đã lấy vợ hoặc chồng khác. Do vậy quan hệ vợ chồng chưa đăng ký mà
được xác lập trước 3-1-1987, thì việc kết hôn không bị hạn chế và được pháp
luật cho phép. Nhưng đối với nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ 31-1987 đến ngày 1-1-2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của luật
hôn nhân và gia đình năm 2000, thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn. Từ sau ngày
1-1-2001 mà họ không đăng ký kết hôn, thì pháp luật không công nhận họ là vợ
chồng.

b. Diện thừa kế dựa trên quan hệ huyết thống
Quan hệ huyết thống ở đây hiểu là quan hệ giữa những người có cùng dòng
máu về trực hệ (cha, mẹ đối với con; ông, bà đối với cháu; cụ đối với chắt) hoặc
bàng hệ (quan hệ giữa anh, chị, em ruột; quan hệ giữa bác, chú, cô, dì, cậu ruột
với cháu và ngược lại)
• Quan hệ huyết thống về trực hệ
Trước hết là quan hệ giữa cha mẹ đối với con, Luật dân sự cũng như luật hôn
nhân luôn bảo vệ quyền lợi của cha mẹ cũng như con trong các quan hệ của
cuộc sống và nhất là quan hệ về quyền thừa kế. Các con đẻ của người để lại di
sản, không phân biệt con trai hay con gái, con trong giá thú hay ngoài giá thú,
có năng lực hành vi dân sự hay không có năng lực hành vi dân sự…theo quy
định của pháp luật, họ đều thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau vì giữa
5


họ với cha, mẹ đẻ có quan hệ huyết thống và ngược lại cha mẹ cũng có quyền
hưởng thừa kế của các con. Do vậy việc xác định cha, mẹ đối cới con hay ngược
lại đều có ý nghĩa rất quan trọng không những là cơ sở để xác định quyền và
nghĩa vụ của cha,mẹ và con đối với nhau trong quan hệ gia đình, mà còn là cơ
sở để xác định diện thừa kế giữa cha,mẹ và các con trong trường hợp một trong

những người này chết. Theo điều 63, 64, 65 Luật hôn nhân và gia đình đã qui
định rất rõ về việc xác định cha, mẹ, con, quyền nhận cha mẹ …
Giữa ông, bà với các cháu của mình cũng là những người thừa kế theo pháp
luật của nhau, tuy nhiên ông bà không thể là người thừa kế ưu tiên hay cùng
hàng với cháu và ngược lại. Trước đây BLDS 1995 đã quy định ông bà của
người chết được hưởng thừa kế theo pháp luật của cháu nhưng cháu lại không
phải người thừa kế theo pháp luật của ông bà. Đến BLDS 2005 luật đã qui định
thêm rằng cháu cũng được phép thừa kế theo pháp luật của ông bà nhằm đảm
bảo quyền lợi của các cháu. Ngoài ra theo qui định tại điều 669 BLDS nếu cha
mẹ của cháu chết trước hoặc chết cùng thời điểm với ông bà thì cháu sẽ được
thừa kế thế vị. Nhưng cần phải chú ý rằng cháu ở đây phải là cháu ruột thì mới
được thừa kế thế vị của ông bà, nếu là cháu nuôi thì không được quyền thừa kế
thế vị của ông bà để lại.
Đối với quạn hệ huyết thống cụ với các chắt cũng giống như ông bà với các
cháu của mình, pháp luật không qui định gì thêm về vấn đề này.
• Quan hệ huyết thống về bàng hệ
Mối quan hệ giữa anh, chị, em theo như điều 676 BLDS quy định anh,chị,
em ruột là những người thuộc hàng thừa kế thứ hai của nhau cùng với ông, bà
của người chết. Con của anh, chị, em được xếp vào hàng thứ ba bên cạnh cụ.
Ngoài ra, việc pháp luật quy định cho con của anh,chị ,em ruột của người chết
gọi người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột là hợp với đạo lý

6


và vị trí của họ không thể lấn lướt cha, mẹ mình trong việc nhận di sản nên
được xếp thứ tự sau cùng là hàng thứ ba
Ngoài anh,chị,em ruột và con của anh, chị, em ruột pháp luật hiện hành chỉ
thừa nhận những người nào mà người chết gọi cô ruột, bác ruột, chú ruột, cậu
ruột hoặc dì ruột là người thừa bàng hệ và được xếp vào hàng thứ ba (khoản 1

điều 676 BLDS năm 2005) . Như vậy ,họ hưởng di sản cùng với cụ nội,cụ ngoại
của người chết cũng như với con cảu anh chị em của người chết
Nhìn chung, diện thừa kế theo quan hệ huyết thống quy định tại BLDS năm
2005 đã được mở rộng đến ông bà nội, ngoại; anh chị em ruột, cháu ruột của
người chết mà người chết là ông bà nội ngoại của người chết; bác ruột,chú
ruột,cậu ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết là bác ruột, chú
ruột, dì ruột, cô ruột, cậu ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội,
cụ ngoại.
Tuy nhiên , pháp luật cũng loại trừ quyền thừa kế của những người trong
diện thừa kế nếu có hành vi trái pháp luật được quy đinh tại điều 643 BLDS,
người từ chối hưởng di sản hoặc người bị truất quyền hưởng di sản nếu người
đó không thuộc diện những người theo điều 669.

c. Diện thừa kế dựa trên quan hệ nuôi dưỡng
Quan hệ nuôi dưỡng chỉ được xác định là quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con
nuôi và ngược lại. Việc xác định quan hệ nuôi dưỡng giữa cha mẹ nuôi với con
nuôi thông qua sự kiện nhận nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật. Theo đó
việc nhận con nuôi phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện thì mối quan hệ nuôi
dưỡng mới được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Điều 67 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Nuôi con nuôi và việc xác lập
quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm
con nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi
7


dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội ….”. Cụ thể người nhận
con nuôi và người được nhận làm con nuôi phải đáp ứng đầy đủ các quy định
trong điều 68, 69 Luật hôn nhân và gia đình. Việc nhận con nuôi có thể chỉ là
vợ hoặc chồng cũng có thể là cả vợ chồng cùng nhận (điều 70), việc nhận con
nuôi phải được sự cho phép của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người được

nhận làm con nuôi (điều 71). Khi đáp ứng đủ các điều kiện trên, việc nhận con
nuôi phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký và ghi vào Sổ hộ tịch,
khi đó việc nhận con nuôi được công nhận là hợp pháp và giữa cha mẹ nuôi với
con nuôi có những quyền và nghĩa vụ với nhau. Đặc biệt cha mẹ nuôi là người
thừa kế theo pháp luật của con nuôi và ngược lại. Tuy nhiên cần lưu ý con nuôi
hoàn toàn là người thừa kế theo pháp luật của cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi, việc
nhận con nuôi không làm mất đi quyền lợi cũng như nghĩa vụ giữa con với cha
mẹ đẻ. Điều 678 BLDS năm 2005 quy định ngoài việc được hưởng di sản thừa
kế của cha mẹ nuôi, người con nuôi vẫn được thừa kế di sản của cha mẹ đẻ và
những người trong gia đình cha mẹ đẻ.
Bên cạnh đó pháp luật còn quy định một trường hợp ngoại lệ đặc biệt là
trường hợp con riêng với bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi
dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì cũng được thừa kế di sản của nhau. Điều
38 Luật hôn nhân và gia đình đã quy định rõ nghĩa vụ cũng như quyền trông
nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng của vợ hoặc của chồng … Theo
như điều 679 con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi
dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và được thừa
kế di sản theo quy định tại điều 676 và điều 677 BLDS. Tuy nhiên con riêng có
thể hưởng di sản của bố dượng mẹ kế nhưng không có quyền hưởng thừa kế
theo pháp luật của những người thân, họ hàng của bố dượng mẹ kế vì giữa con
riêng với những người thân thuộc họ hàng của bố dượng mẹ kế không hề có
quan hệ huyết thống trực hệ hay bàng hệ nào.
2. Về hàng thừa kế theo pháp luật hiện hành
8


Theo như pháp luật qui định không phải cá nhân nào trong diện thừa kế cũng
được hưởng di sản thừa kế mà họ chỉ có thể được hưởng nếu thỏa mãn các điều
kiện của pháp luật. Điều kiện do pháp luật qui định hoàn toàn không phụ thuộc
vào ý chí chủ quan của người thừa kế. Trên cơ sở xác định diện thừa kế, pháp

luật qui định những người được quyền hưởng di sản thừa kế được xếp theo thứ
tự các hàng thừa kế theo nguyên tắc ưu tiên và những người thừa kế cùng hàng
được hưởng phần di sản bằng nhau.

a. Hàng thừa kế thứ nhất
Điểm a khoản 1 điều 676 chỉ rõ những người thuộc hàng thứa kế thứ nhất
gồm: “vợ, chồng,cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi , mẹ nuôi ,con đẻ, con nuôi của người
chết”
Vợ, chồng luôn ở hàng thừa kế thứ nhất của nhau nhưng trong điều kiện
nhưng chỉ coi là vợ chồng khi mối quan hệ đó dựa trên quan hệ hôn nhân hợp
pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Đặc biệt điều 680 BLDS còn quy
định những trường hợp đặc biệt mà vơ chồng có thể hưởng thừa kế của nhau:
“1. Trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại
mà sau đó một người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản.
2. Trong trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa án
cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một
người chết thì người còn sống vẫn được thừa kế di sản.
3. Người đang là vợ hoặc chồng của một người tại thời điểm người đó chết thì
dù sau đó đã kết hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản”.
Theo như điều 680 thì vợ, chồng vẫn thuộc hàng thừa kế thứ nhất của nhau
khi mà vợ, chồng đã chia tài sản chung nhưng cả hai vẫn có quyền hưởng di sản
của nhau, vợ chồng đã xin ly hôn nhưng bản án chua có hiệu lực và trường hợp
9


vợ chồng vẫn đnag là vợ chồng của một người tại thời điểm họ chết thì vẫn
được hưởng di sản cho dù sau đó đã kết hôn với người khác.
Đối với trường hợp một người có nhiều vợ, nhiều chồng được pháp luật
thừa nhận: Đó là các trường hợp có nhiều vợ nhiều chồng trước ngày 13/1/1960
ở miền Bắc, trước ngày 25/3/1977 ở miền Nam, cán bộ miền Nam tập kết ra

Bắc (trong khoảng thời gian từ năm 1954 đến năm 1975) lấy vợ, lấy chồng khác
và cuộc hôn nhân sau không bị tòa án hủy bằng bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật . Trong trường hợp này, người chồng (vợ) được hưởng thừa kế thứ
nhất của tất cả những người vợ (chồng) và ngược lại.
Đối với cha mẹ đẻ và con đẻ thì con đẻ luôn thuộc hàng thứ nhất của cha mẹ
và ngược lại. Con đẻ được hưởng thừa kế của cha mẹ đẻ không kể là con trong
giá thú hay con ngoài giá thú. Giữa cha mẹ nuôi với con nuôi cũng thuộc hàng
thừa kế thứ nhất của nhau và con nuôi được hưởng cả thừa kế của cha mẹ nuôi
và cha mẹ đẻ theo như BLDS 2005 quy định. Ngoài ra, giữa con đẻ và con nuôi
không có sự phân biệt, quyền thừa kế theo pháp luật của con đẻ và con nuôi là
ngang nhau khi hưởng di sản thừa kế của cha mẹ. Điều này còn phù hợp với
mục đích nhận và nuôi con nuôi nhằm thể hiện lòng nhân đạo, yêu thương của
cha mẹ nuôi sao cho trẻ em được nuôi dưỡng trong điều kiện tốt nhất.

b. Hàng thừa kế thứ hai
Điểm b khoản 1 điều 676 quy định:
“Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị
ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông
nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại”
Ông bà nội là người sinh ra cha của cháu, ông bà ngoại là người đã sinh ra
mẹ của cháu. Nếu cháu chết thì ông bà nội, ông bà ngoại sẽ ở hàng thừa kế thứ
hai của cháu và ngược lại. Việc BLDS 2005 quy định cháu là hàng thừa kế thứ
10


hai của ông bà và ngược lại là phù hợp với thực tế cuộc sống. BLDS 1995 cho
rằng ông bà ở hàng thừa kê sthuws hai của cháu ruột chứ không quy định cháu
nằm trong hàng thừa kế thứ hai của ông bà vì nếu cha mẹ của cháu chết trước
hoặc cùng thời điểm với ông bà thì cháu sẽ được hưởng thừa kế thế vị, còn cha
mẹ cháu còn sống vào thời điểm mở thừa kế của ông bà để lại thì cha mẹ cháu

sẽ hưởng thừa kế. Nhưng nếu trong điều kiện cha mẹ cháu là người không được
hưởng di sản theo điều 643, từ chối nhận di sản hay bị truất quyền hưởng di sản
thì cháu sẽ không được hưởng thừa kế của ông bà để lại. Xuất phát từ lý do này,
để đảm bảo quyền lợi cho những người cháu ruột pháp luật đã quy định cháu
ruột là người thuộc hàng thừa kế thứ hai của ông bà nếu ông bà chết.
Anh, chị, em ruột cũng thuộc hàng thừa kế thứ hai của nhau. Mặc dù pháp
luật không quy định cụ thể nhưng có thể hiểu anh chị em ruột là anh chị em,
cùng cha hoặc cùng mẹ sinh ra nên giữa họ có mối quan hệ thuyết thống. Trong
gia đình, nếu không còn bố mẹ thì các anh, chị, em phải yêu thương chăm sóc
nuôi dưỡng nhau. Nếu anh chị ruột chết trước em ruột thì em ruột được hưởng
thừa kế của anh, chị ruột và ngược lại.

c. Hàng thừa kế thứ ba
Điểm c khoản 1 điều 676 quy định:
“Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột,
cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người
chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết
mà người chết là cụ nội, cụ ngoại”
Việc quy định chắt ruột thuộc hàng thừa kế thứ ba của cụ và ngược lại là sự
bổ sung kịp thời cho những điểm bất hợp lý về quyền lợi của chắt khi không
thuộc diện thừa kế của cụ nội, ngoại tại điều 679 BLDS năm 1995. Hầu hết

11


quan hệ thừa kế giữa chắt với các cụ ở hàng thừa kế thứ ba cũng giống với cháu
với ông bà ở hàng thừa kế thứ hai.
Bác ruột, chú ruột, cô ruột là anh, chị, em của bố đẻ của cháu; bác ruột, cậu
ruột, dì ruột và anh, chị, em (ruột) của cháu. Bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu
ruột, dì ruột thuộc hành thừa kế thứ hai của cháu ruột chết và ngược lại.

Trình tự ưu tiên hưởng di sản phải theo quy luật săp xếp thứ tự các hàng.
Hàng thừa kế thứ nhất được xác định trên cả ba mối quan hệ: quan hệ huyêt
thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng. Tuy nhiên, những người này
sẽ không được hưởng di sản nếu vi phạm khoản 1 điều 643 BLDS năm 2005
hoặc bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ trối nhận di sản. Lúc này ngoài những
người trên, không còn ai ở hàng thừa kế thứ nhất thì những người ở hàng thừa
kế thứ hai sẽ ưu tiên hưởng di sản. Hàng thừa kế thứ ba cũng vậy, sẽ nhận di sản
nếu không còn ai ở hàng thừa kế thứ hai. Quy định như trên của pháp luật nhằm
giải quyết việc hưởng di sản theo trình tự hàng, nhằm đảm bảo quyền lợi hợp
pháp cho những người thân thích, ruột thịt với người để lại di sản. Quyền của
người thừa kế ở cùng một hàng được bảo đảm trong việc hưởng di sản. Không
có người thừa kế ở hàng hai hàng khác nhau cùng được hưởng di sản theo pháp
luật. Chỉ khi nào hàng trước không còn ai thừa kế, người ở hàng thừa kế sau
mới được hưởng

III. Một số bất cập và phương hướng hoàn thiện quy định về diện
và hàng thừa kế theo pháp luật hiện hành
Hiện nay các tranh chấp về thừa kế chiếm một tỷ lệ đáng kể và chủ yếu xoay
quanh việc chia di sản thừa kế. Đây là những tranh chấp chủ yếu đòi hỏi công
bằng về quyền lợi nên cần phải xác định một cách thấu tình đạt lý, vì thế, đòi
hỏi các cấp Tòa án có thẩm quyền phải xác định đúng những người được quyền
12


hưởng thừa kế và theo thứ tự ưu tiên nhất định, tránh trường hợp nhầm lẫn để
đảm bảo quyền lợi của đương sự
Một vấn đề luôn được đặt lên hàng đầu khi giải quyết tranh chấp thừa kế là
việc xác định diện và hàng thừa kế. Những qui định về thừa kế hiện nay vẫn
chưa được giải thích, hướng dẫn một cách rõ ràng khiến cho nhiều vụ việc xử lý
thiếu công bằng cho những người có quyền và lợi ích liên quan.

Theo như BLDS qui định rằng những người bị truất quyền thừa kế nếu như
không thuộc các trường hợp cá nhân thuộc điều 669 thì sẽ không được hưởng di
sản của người chết dưới bất kì hình thức nào (thừa kế theo di chúc hay thừa kê
stheo pháp luật). Tuy nhiên nếu người bị truất thuộc hàng thứ nhất mà đương
nhiên được hưởng thừa kế theo pháp luật vì những lý do như không vâng lời,
không đáp ứng những điều kiện mà người để lại di sản đề ra hay …. mà lại truất
quyền của họ thì như vậy liệu có “công bằng” cho họ ?
Hay như những trường hợp cha mẹ bỏ bê không quan tâm đến con cái, mà
người con đó chỉ được anh chị hay em quan tâm chăm sóc chú đáo. Rồi khi
người con chết bất ngờ (do tai nạn, đột tử …) mà chưa có vợ con và cũng không
để lại di chúc thì tài sản đó sẽ được chia theo pháp luật và sẽ thuộc về cha mẹ
của người con đấy. Vậy những người chị người anh người em sẽ không được
hưởng bất kì phần di sản nào vì anh chị em ruột chỉ thuộc hàng thừa kế thứ hai !
Luật qui định rằng không được phân biệt đối xử giữa con đẻ, con nuôi, con
trong giá thú, con ngoài giá thú … Vậy thì tại sao lại phân biệt giữa cháu nuôi
với cháu ruột trong thừa kế thế vị ? Theo qui định thì chỉ có cháu ruột được thừa
kế thế vị của ông bà để lại trong trường hợp cha mẹ cháu chết cùng hoặc chết
trước ông bà, còn cháu nuôi thì cho dù cha mẹ nuôi chết trước hoặc chết cùng
ông bà thì cũng không được hưởng thừa kế. Theo qui định về diện và hàng thừa
kế thì giữa người được thừa kế và người để lại di sản thừa kế phải có một trong
ba mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng. Nhưng việc qui định cháu
13


nuôi không được hưởng thừa kế thế vị phải chăng là “cô lập” cháu nuôi và cháu
nuôi chỉ phải có quyền và nghĩa vụ với cha mẹ nuôi còn những người khác như
ông bà, cô dì chú bác, anh em … của cha mẹ nuôi thì không cần quan tâm tới ?
Bên cạnh đó do sự phát triển của khoa học công nghệ, nhiều trẻ em sinh ra
dưa trên những phương pháp sinh học, gien …. Thì pháp luật chưa qui định rõ
những người con này có thuộc diện và hàng thừa kế theo pháp luật hay không ?

Khi mà những người con này không có quan hệ huyết thống máu mủ gì với ông
bà hay các cụ của của chúng thì liệu những đứa trẻ này có được hưởng di sản
theo pháp luật mà ông bà hay các cụ để lại theo thừa kế thế vị hoặc theo hàng
thứ hai và thứ ba của thừa kế theo pháp luật ?
Có rất nhiều những vấn đề mà pháp luật hay những qui định về thừa kế chưa
thể giải thcihs một cách rõ ràng khiến cho nhiều cá nhân lầm tưởng dẫn đến
nhiều sự cố hay những vụ việc không đáng có giữa cha mẹ với con, ông bà với
cháu, hay giữa anh chị với em và ngược lại …
Do vậy ngoài việc xác định đúng người thừa kế theo pháp luật, Tòa án nhân
dân còn phải kết hợp hài hòa giữa thực tiễn và lý luận để có sự linh hoạt mềm
dẻo nhằm ổn định đời sống, trật tự xã hội và quan trọng hơn là cơ quan có thẩm
quyền làm luật hay sửa đổi luật cần nhanh chóng tìm ra những phương hướng
giải quyết để đáp ứng sự kì vọng của nhân dân.

KẾT LUẬN
Qua bài viết trên em đã trình bày một cách đầy đủ về vấn đề diện và hàng
thừa kế theo qui định của pháp luật hiện hành. Ngoài ra em còn nêu thêm một
số ý kiến chủ quan về diện và hàng thừa kế cũng như những bất cập mà pháp
luật qui định về diện và hàng thừa kế. Do kiến thức còn có hạn, khả năng tìm tòi
nghiên cứu phân tích vấn đề chưa tốt nên vẫn còn nhiều điểm chưa nắm rõ,
14


những ý kiến còn chưa sâu nên em mong thầy cô giúp đỡ để những bài viết lần
sau tốt hơn nữa. Em xin chân thành cảm ơn !

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
15



1. Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, TS. Lê Đình Nghị, Nxb. Giáo dục
Việt Nam, 2010
2. Luật thừa kế Việt Nam (sách chuyên khảo), TS Phùng Trung Tập,
Nxb. Hà Nội, 2010
3. Diện và hàng thừa kế theo quy định của Bộ luật dân sự 2005, Phan Thị
Kim Chi (Luận văn thạc sĩ Luật học), 2006
4. Bộ Luật dân sự năm 2005 của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
5. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 của nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam

16



×