Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại xã đức giang, huyện hoài đức, tp hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (559.43 KB, 48 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian hoc tập và rèn luyện tại Trường Đại học Tài nguyên
và Môi trường Hà Nội em đã được sự dạy dỗ, chỉ bảo tận tình của các thầy
giáo, cô giáo trong Khoa Quản lý đất đai, cũng như các thầy cô giáo trong
Ban Giám hiệu Nhà trường, các Phòng ban và Phòng đào tạo điều đó giúp em
tiếp thu và tích lũy kiến thức và phục vụ cho cuộc sống.
Đây là một khoảng thời gian rất quý báu, bổ ích và có ý nghĩa vô cùng
lớn đối với bản thân em. Tại nơi đây em đã được trang bị một lượng kiến thức
về chuyên môn, nghiệp vụ và một lượng kiến thức về phường hội để sau này
khi ra trường em không còn phải bỡ ngỡ và có thể đóng góp một phần sức lực
nhỏ bé của mình để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và trở thành người có ích cho phường hội.
Để hoàn thành tốt báo cáo tốt nghiệp này, ngoài sự phấn đấu và lỗ lực
của bản thân, em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình và rất tâm huyết của các
thầy giáo, thầy giáo trong Quản lý đất đai, đặc biệt là sự hướng dẫn chỉ đạo
tận tình của cô giáo Th.S Trần Thị Oanh. Đồng thời về thực tập tại Xã Đức
Giang - Huyện Hoài Đức - Thành Phố Hà Nội.
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn vô hạn, em xin được bày tỏ lòng
cảm ơn sâu sắc tới các thầy, cô giáo trong khoa, trong Ban giám hiệu nhà
trường, em xin cảm ơn .
Cuối cùng em xin gửi lời kính chúc sức khỏe đến tất cả mọi người.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Sinh viên

Phạm Thị Dung


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. />2.
3. TT28- Bộ TNMT về thống kê kiểm kê đất đai


4. UBND xã Đức Giang - Báo cáo thuyết minh quy hoạch sử dụng đất
giai đoạn 2010 - 2020
5. Trần An Phong – Đánh giá hiện trạng sử dụng đất ở nước ta theo quan điểm
sinh thái và phát triển lâu bền – Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội – 1995.
6. Nguyễn Duy Tính - Nghiên cứu hệ thống cây trồng vùng đồng bằng
Sông Hồng và Bắc trung bộ - NXB Nông nghiệp. Hà Nội 1995.
7. Bùi Huy Hiền và Nguyễn Văn Bộ - Quy trình công nghệ và bảo vệ đất
dốc nông lâm nghiệp, tuyển tập hội nghị đào tạo nghiện cứu và chuyển
giao khoa học công nghệ cho phát triển bền vững trên đất dốc Việt
Nam – NXBNN, Hà Nội – 2001
8. Vũ Thị Phương Thuỵ - Thực trạng và giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu
quả kinh tế sử dụng đất canh tác ở ngoại thành Hà Nội, Luận án Tiến sĩ
kinh tế nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội – 2000
9. Đỗ Thị Tám - Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo hướng
sản xuất hàng hoá huyện Văn Giang - tỉnh Hưng Yên, Luận văn thạc sĩ
khoa học Nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội – 2001
10. Nguyễn Văn Bộ, Bón phân cân đối và hợp lý cho cây trồng ở Việt
Nam, từ lý luận đến thực tiễn, NXBNN, Hà Nội – 2003.
11.Hội khoa học đất Việt Nam – Đất Việt Nam – Nhà xuất bản Nông
nghiệp Hà Nội - 2000.


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
Hiệu quả kinh tế của các loại hình sử dụng đất trong xã: Trong quá
trình khai thác tiềm năng của đất đai, khi đời sống xã hội đã có sự thay
đổi chuyển biến theo nền kinh tế thị trường, hiệu quả kinh tế sử dụng
đất nông nghiệp là một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá hiệu quả sử
dụng của đất. Sản phẩm sản xuất có đựơc thị trường chấp nhận hay
không, sản phẩm nông nghiệp không những phải có chất lượng đảm

bảo, số lượng cung cấp đầy đủ cho thị trường theo mùa vụ mà cũng
phải đảm bảo vệ sinh an toàn khi sử dụng...............................................28
4.3.2. Hiệu quả xã hội của các loại hình sử dụng đất............................31
4.3.3. Hiệu quả môi trường của các loại hình sử dụng đất....................34
4.4. Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên địa
bàn xã Đức Giang.........................................................................................37


CHƯƠNG 1
PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Xã hội phát triển, dân số tăng nhanh kéo theo những đòi hỏi ngày càng
tăng về lương thực, thực phẩm, chỗ ở cũng như các nhu cầu về văn hóa, xã
hội. Con người đã tìm mọi cách để khai thác đất đai nhằm thỏa mãn những
nhu cầu ngày càng tăng đó. Như vậy đất đai, đặc biệt là đất nông nghiệp mặc
dầu hạn về diện tích nhưng lại có nguy cơ suy thoái ngày càng cao dưới tác
động của thiên nhiên và sự thiếu ý thức của con người trong quá trình sử
dụng. Đó còn chưa kể đến sự suy giảm về diện tích đất nông nghiệp do quá
trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ, trong khi khả năng khai hoang đất mới
lại rất hạn chế. Do vậy, việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp từ đó
lựa chọn các loại hình sử dụng đất có hiệu quả để sử dụng hợp lý theo quan
điểm sinh thái và phát triển bền vững đang trở thành vấn đề mang tính toàn
cầu đang được các nhà khoa học trên thế giới quan tâm. Đối với một nước có
nền nông nghiệp chủ yếu như Việt Nam, nghiên cứu, đánh giá hiệu quả sử
dụng đất nông nghiệp càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Đức Giang là một xã của huyện Hoài Đức, tp Hà Nội có diện tích đất sử
dụng trong nông nghiệp tương đối lớn, tuy nhiên trong những năm gần đây
diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp do nhu cầu chuyển đổi sang
các loại đất khác. Vì vậy làm thế nào để có thể sử dụng hiệu quả diện tích đất
nông nghiệp hiện có trên địa bàn là vấn đề đang được các cấp chính quyền

quan tâm nghiên cứu để xây dựng cơ sở cho việc đề ra các phương án chuyển
dịch cơ cấu cây trồng một cách hợp lý nhất, nhằm đem lại hiệu quả sử dụng
đất cao nhất có thể.
Xuất phát từ thực tế trên, đươc sự đồng ý của khoa Quản Lý Đất Đai
trường Đại Học Tài Nguyên Và Môi Trường Hà Nội dưới sự hướng dẫn của

1


cô giáo TH.S Trần Thị Oanh tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiệu
quả sử dụng đất nông nghiệp tại xã Đức Giang, huyện Hoài Đức, tp Hà
Nội”.
1.2 Mục đích
- Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp của xã Đức Giang, huyện
Hoài Đức, tp Hà Nội.
- Đề xuất những giải pháp kinh tế kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng đất trên địa bàn nghiên cứu.
1.3 Yêu cầu
- Đánh giá đúng, khách quan, khoa học và phù hợp với tình hình thực
tiễn ở địa phương.
- Phải thu thập số liệu một cách chính xác và tin cậy
- Các giải pháp đề xuất phải khoa học và có tính khả thi.
- Định hướng phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.

2


CHƯƠNG II
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 Đất nông nghiệp và sử dụng đất nông nghiệp

2.1.1. Khái niệm đất nông nghiệp
Đất nông nghiệp là tất cả những diện tích được sử dụng vào mục đích
sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, diện tích
nghiên cứu thí nghiệm phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Kể cả diện tích đất
lâm nghiệp và các công trình xây dựng cơ bản phục vụ cho sản xuất nông lâm
nghiệp.[1]
2.1.2. Phân loại đất nông nghiệp
- Theo Luật Đất Đai 2013, nhóm đất nông nghiệp được phân thành các
loại sau:
+ Đất trồng cây hàng năm là đất sử dụng vào mục đích trồng các loại
cây có thời gian sinh trưởng từ khi gieo trồng tới khi thu hoạch không quá một
(01) năm; kể cả đất sử dụng theo chế độ canh tác không thường xuyên theo
chu kỳ. Đất trồng cây hàng năm bao gồm đất trồng lúa và đất trồng cây hàng
năm khác.[3]
+ Đất trồng cây lâu năm là đất trồng các loại cây có thời gian sinh trưởng
từ khi gieo trồng tới khi thu hoạch là trên một năm; kể cả loại cây có thời gian sinh
trưởng như cây hàng năm nhưng cho thu hoạch trong nhiều năm như thanh long,
chuối, dứa, nho, v.v.
Các loại cây lâu năm bao gồm:
- Cây công nghiệp lâu năm: Gồm các cây lâu năm có sản phẩm thu hoạch
không phải là gỗ, được dùng để làm nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp
hoặc phải qua chế biến mới sử dụng được như chè, cà phê, cao su, hồ tiêu,
điều, ca cao, dừa, v.v;
- Cây ăn quả lâu năm: Gồm các cây lâu năm có sản phẩm thu hoạch là

3


quả để ăn tươi hoặc kết hợp chế biến;
- Vườn tạp là vườn trồng xen lẫn nhiều loại cây lâu năm hoặc cây lâu

năm xen lẫn cây hàng năm mà không được công nhận là đất ở;
- Các loại cây lâu năm khác không phải đất trồng cây công nghiệp lâu
năm và cây ăn quả lâu năm, chủ yếu là cây lấy gỗ, lấy bóng mát, tạo cảnh
quan trong các đô thị, khu dân cư nông thôn.
Trường hợp đất trồng cây lâu năm có kết hợp nuôi trồng thủy sản, kinh doanh
dịch vụ thì ngoài việc thống kê theo mục đích trồng cây lâu năm còn phải
thống kê thêm theo các mục đích khác là nuôi trồng thủy sản, sản xuất, kinh
doanh phi nông Đất làm muối nghiệp (trường hợp sử dụng đồng thời vào cả
hai mục đích khác thì thống kê theo cả hai mục đích đó). [3]
+ Đất nuôi trồng thuỷ sản là đất được sử dụng chuyên vào mục đích
nuôi, trồng thủy sản nước lợ, nước mặn và nước ngọt.[3]
+ Đất làm muối là ruộng muối để sử dụng vào mục đích sản xuất muối.
[3]
+ Đất lâm nghiệp là đất đang có rừng (gồm rừng tự nhiên và rừng
trồng) đạt tiêu chuẩn rừng theo quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển
rừng và đất mới được trồng rừng hoặc trồng kết hợp khoanh nuôi tự nhiên.
Riêng đất đã giao, cho thuê để khoanh nuôi, bảo vệ nhằm phục hồi rừng bằng
hình thức tự nhiên mà chưa đạt tiêu chuẩn rừng thì chưa thống kê vào đất lâm
nghiệp mà thống kê theo hiện trạng (thuộc nhóm đất chưa sử dụng).
Đất lâm nghiệp bao gồm đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ, đất rừng
đặc dụng.
Trường hợp đất lâm nghiệp được phép sử dụng kết hợp nuôi trồng thủy sản,
kinh doanh dịch vụ dưới tán rừng thì ngoài việc thống kê theo mục đích lâm
nghiệp còn phải thống kê thêm theo các mục đích khác là nuôi trồng thủy sản,
sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp (trường hợp sử dụng đồng thời vào cả

4


hai mục đích khác thì thống kê cả hai mục đích phụ đó).[3]

+ Đất nông nghiệp khác gồm đất sử dụng để xây dựng nhà kính và các
loại nhà khác phục vụ mục đích trồng trọt, kể cả các hình thức trồng trọt
không trực tiếp trên đất; xây dựng chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm
và các loại động vật khác được pháp luật cho phép; đất trồng trọt, chăn
nuôi, nuôi trồng thủy sản cho mục đích học tập, nghiên cứu thí nghiệm; đất
ươm tạo cây giống, con giống và đất trồng hoa, cây cảnh.[3]
2.1.3. Vai trò của sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
+ Cung cấp lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội
Lương thực, thực phẩm là yếu tố đầu tiên có tính chất quyết định sự tồn
tại phát triển của con người và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Những
hàng hoá có chứa chất dinh dưỡng nuôi sống con người này chỉ có thể có
được thông qua hoạt động sống của cây trồng và vật nuôi, hay nói cách khác
là thông qua quá trình sản xuất nông nghiệp.[5]
+ Nông nghiệp là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy sản
xuất công nghiệp và khu vực thành thị phát triển
- Nông nghiệp cung cấp nguồn nguyên liệu cho công nghiệp, đặc biệt là
công nghiệp chế biến.
- Nông nghiệp đặc biệt là nông nghiệp của các nước đang phát triển là
khu vực dự trữ và cung cấp lao động cho phát triển công nghiệp, các ngành
kinh tế quốc dân khác và đô thị.
- Nông thôn là thị trường tiêu thụ rộng lớn cho hàng hoá công nghiệp và
các ngành kinh tế khác.[5]
+ Nông nghiệp là nguồn thu ngân sách quan trọng của Nhà nước
Nông nghiệp là ngành kinh tế sản xuất có quy mô lớn nhất của nước ta.
Tỷ trọng giá trị tổng sản lượng và thu nhập quốc dân trong khoảng 25% tông
thu ngân sách trong nước. Việc huy động một phần thu nhập từ nông nghiệp

5



được thực hiện dưới nhiều hình thức: thuế nông nghiệp, các loại thuế kinh
doanh khác…Hiện nay xu hướng chung tỷ trọng GDP của nông nghiệp sẽ giảm
dần trong quá trình tăng trưởng kinh tế.[5]
+ Nông nghiệp là hoạt động sinh kế chủ yếu của đại bộ phận dân nghèo nông
thôn
-Nước ta với hơn 80% dân cư tập trung ở nông thôn họ sống chủ yếu
dựa vào sản xuất nông nghiệp, với hình thức sản xuất tự cấp tự túc đã đáp ứng
được nhu cầu cấp thiết hàng ngày của người dân.
- Nông ngiệp là một trong những nhân tố góp phần thúc đẩy sản xuất
công nghiệp và khu vực thành thị phát triển. [5]
2.2 Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
2.2.1 Quan điểm về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
+ Khái quát về sử dụng đất bền vững
Sử dụng đất đai bền vững là nhu cầu cấp bách của nhà nước ta cũng
như nhiều nước trên thế giới. Những hiện tượng sa mạc hoá, lũ lụt, diện tích
đất trống đồi núi trọc ngày càng gia tăng là nguyên nhân của việc sử dụng đất
kém bền vững làm cho môi trường tự nhiên ngày càng bị suy thoái.[7]
Khái niệm bền vững được nhiều nhà khoa học trên thế giới và trong
nước nêu ra hướng vào 3 yêu cầu sau:
- Bền vững về mặt kinh tế : cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao, được thị
trường chấp nhận.
- Bền vững về môi trường: loại sử dụng đất phải bảo vệ được đất đai,
ngăn chặn sự thoái hoá đất, bảo vệ được môi trường tự nhiên.
- Bền vững về xã hội: thu hút được lao động, đảm bảo đời sống xã hội.[8]
+ Những quan điểm sử dụng đất nông nghiệp bền vững
Theo FAO, nông nghiệp bền vững bao gồm quản lý hiệu quả tài nguyên
cho nông nghiệp ( đất đai, lao động...) để đáp ứng nhu cầu cuộc sống của con

6



người đồng thời giữ gìn và cải thiện tài nguyên thiên nhiên môi trường và bảo
vệ tài nguyên thiên nhiên. Hệ thống nông nghiệp bền vững là hệ thống có
hiệu quả kinh tế, đáp ứng cho nhu cầu xã hội về an ninh lương thực, đồng
thời giữ gìn và cải thiện tài nguyên thiên nhiên và chất lượng của môi trường
sống cho đời sau.[2]
Một hệ thống nông nghiệp bền vững phải đáp ứng cho nhu cầu ngày
càng cao về ăn mặc thích hợp cho hiệu quả kinh tế, môi trường và xã hội gắn
với việc tăng phúc lợi trên đầu người. Đáp ứng nhu cầu là một phần quan
trọng , vì sản lượng nông nghiệp cần thiết phải được tăng trưởng trong những
thập kỷ tới. Phúc lợi cho mọi người vì phúc lợi của đa số dân trên thế giới đều
còn rất thấp.
Các quan điểm trên có nhiều cách biểu thị khác nhau, song về nội dung
thường bao gồm 3 thành phần cơ bản :
- Bền vững về an ninh lương thực trong thời gian dài trên cơ sở hệ
thống nông nghiệp phù hợp điều kiện sinh thái và không tổn hại môi trường.
- Bền vững về tổ chức quản lý, hệ thống nông nghiệp phù hợp trong
mối quan hệ con người hiện tại và cho cả đời sau .
- Bền vững thể hiện ở tính cộng đồng trong hệ thống nông nghiệp hợp lý.
Phát triển nông nghiệp bền vững chiếm vị trí quan trọng, nhiều khi có
tính quyết định trong sự phát triển chung của xã hội. Điều cơ bản nhất của
phát triển nông nghiệp bền vững là cải thiện chất lượng cuộc sống trong sự
tiếp cận đúng đắn về môi trường để giữ gìn tài nguyên đất đai cho thế hệ sau
và điều quan trọng nhất là phải biết sử dụng hợp lý tài nguyên đất đai, giữ
vững, cải thiện chất lượng môi trường, có hiệu quả kinh tế, năng suất cao và
ổn định, tăng trưởng chất lượng cuộc sống, bình đẳng các thế hệ và hạn chế
rủi ro.[11]
2.2.3 Về hiệu quả sử dụng đất

7



+ Khái niệm về hiệu quả
- Quan điểm hiệu quả
Có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả. Khi nhận thức của con
người còn hạn chế, người ta thường quan niệm kết quả chính là hiệu quả. Sau
này, khi nhận thức của con người phát triển cao hơn, người ta thấy rõ sự khác
nhau giữa hiệu quả và kết quả.
-Khái niệm về hiệu quả được sử dụng trong đời sống xã hội, nói đến
hiệu quả người ta sẽ hiểu là công việc đạt kết quả tốt. Như vậy hiệu quả là kết
quả mong muốn, cái sinh ra kết quả mà con người mong đợi và hướng tới. Nó
có nội dung khác nhau ở những lĩnh vực khác nhau. Trong sản xuất hiệu quả
có nghĩa là hiệu suất, năng suất. Trong kinh doanh hiệu quả là lãi suất, lợi
nhuận, trong lao động hiệu quả là năng suất lao động được đánh giá bằng số
lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm hoặc là bằng số
lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian. Trong xã hội,
hiệu quả xã hội là có tác dụng tích cực đối với một lĩnh vực xã hội nào đó.[9]
+ Hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh chất lượng của các hoạt
động kinh tế. Theo ngành thống kê định nghĩa thì hiệu quả kinh tế là một
phạm trù kinh tế, biểu hiện của sự tập trung phát triển theo chiều sâu, phản
ánh trình độ khai thác các nguồn lực và sự chi phí các nguồn lực trong quá
trình sản xuất. Nâng cao hiệu quả kinh tế là một tất yếu của mọi nền sản xuất
xã hội, yêu cầu của công tác quản lý kinh tế buộc phải nâng cao chất lượng
các hoạt động kinh tế làm xuất hiện phạm trù hiệu quả kinh tế. [9]
Nền kinh tế của mỗi quốc gia đều phát triển theo hai chiều: chiều rộng
và chiều sâu, phát triển theo chiều rộng là huy động mọi nguồn lực vào sản
xuất, tăng đầu tư chi phí vật chất, lao động, kỹ thuật, mở mang thêm nhiều
ngành nghề, xây dựng thêm nhiều nhà máy, xí nghiệp… Phát triển theo chiều


8


sâu là đẩy mạnh việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sản
xuất, tiến hành hiện đại hóa, tăng cường chuyên môn hóa và hợp tác hóa, nâng
cao trình độ sử dụng các nguồn lực, chú trọng chất lượng sản phẩm và dịch
vụ. Phát triển theo chiều sâu là nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh
tế là tiêu chuẩn cao nhất của mọi sự lựa chọn kinh tế của các tổ chức kinh tế
trong nền kinh tế thị trường có sự lựa chọn kinh tế kinh tế của các tổ chức
kinh tế trong kinh tế trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Theo C.Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể là
quy luật tiết kiệm thời gian và phân phối một cách có kế hoạch thời gian lao
động theo các ngành sản xuất khác nhau.
Như vậy, hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa
lượng kết quả đạt được với lượng chi phí bỏ trong các hoạt động sản xuất. Kết
quả đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra
là phần giá trị của các nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó cần xét cả về
phần so sánh tuyệt đối với tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ
giữa hai đại lượng đó.[9]
Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế mà trong đó sản xuất đạt hiệu quả
kinh tế và hiệu quả phân bổ. Điều đó có nghĩa là cả hai yếu tố hiện vật và giá
trị đều tính đến khi xem xét sử dụng các nguồn lực trong nông nghiệp. Nếu
đạt được một trong 2 yếu tố hiệu quả kỹ thuật và phân bổ thì khi đó hiệu quả
sản xuất mới đạt được hiệu quả kinh tế.[9]
Từ những vấn đề trên có thể kết luận rằng bản chất của hiệu quả kinh tế
sử dụng đất là: Trên một diện tích đất nhất định sản xuất ra một khối lượng
của cải vật chất nhiều nhất, với một lượng đầu tư chi phí về vật chất và lao
động thấp nhất nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội.
Xuất phát từ vấn đề này mà trong quá trình đánh giá đất nông nghiệp cần phải
chỉ ra được loại hình sử dụng đất hiệu quả kinh tế cao.


9


+ Hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội là mối tương quan so sánh giữa kết quả xét về mặt xã
hội và tổng chi phí bỏ ra. Hiệu quả về mặt xã hội trong sử dụng đất nông
nghiệp chủ yếu được xác định bằng khả năng tạo việc làm trên một dơn vị
diện tích đất nông nghiệp.[9]
Từ những quan niệm trên cho thấy giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã
hội có mối quan hệ mật thiết với nhau, chúng là tiền đề của nhau và là một
phạm trù thống nhất, phản ánh mối quan hệ giữa kết quả sản xuất với các lợi
ích xã hội mà nó mang lại. Trong giai đoạn hiên nay, việc đánh giá hiệu quả
xã hội của các loại hình sử dụng đất nông nghiệp là nội dung được nhiều nhà
khoa học quan tâm.
+ Hiệu quả môi trường
Hiệu quả môi trường là xem xét sự phản ứng của môi trường đối với
hoạt động sản xuất. Từ các hoạt động sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông
nghiệp đều ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường. Đó có thể là ảnh hưởng tích
cực đồng thời có thể là ảnh hưởng tiêu cực. Thông thường, hiệu quả kinh tế
thường mâu thuẫn với hiệu quả môi trường. Chính vì vậy khi xem xét cần
phải đảm bảo tính cân bằng với phát triển kinh tế, nếu không thường sẽ bị
thiên lệch và có những kết luận không tích cực.[9]
Xét về khía cạnh hiệu quả môi trường, đó là việc đảm bảo chất lượng
đất không bị thoái hóa, bạc màu và nhiễm các chất hóa học trong canh tác.
Bên cạnh đó còn có các yếu tố như độ che phủ, hệ số sử dụng đất, mối quan
hệ giửa các hệ thống phụ trợ trong sản xuất nông nghiệp như chế độ thủy văn,
bảo quản chế biến, tiêu thụ hàng hóa.
1.3. Cơ sở thực tiễn
+ Thực trạng đất nông nghiệp Việt Nam

Hiện nay Việt Nam có khoảng 9.345,3 nghìn ha đất nông nghiệp chiếm

10


28,4 % diện tích tự nhiên. Bình quân đất nông nghiệp tính theo đầu người là
1.224m2/ người. Trong đó:
+ Đất trồng cây hàng năm: 6.129,5 nghìn ha chiếm 65,6 % diện tích đất
nông nghiệp.
+ Đất trồng cây lâu năm: 2.181,9 nghìn ha chiếm 23,3 % diện tích đất
nông nghiệp.
+ Đất vườn tạp: 628,5 nghìn ha chiếm 6,7 % diện tích đất nông nghiệp.
+ Đất mặt nước nuôi trồng thuỷ sản: 367,8 % diện tích đất nông
nghiệp.
Diện tích đất nông nghiệp của nước ta có xu hướng ngày càng tăng ( so
với năm 1990 tăng 2.351,9 nghìn ha ). Trong đó, tỷ trọng diện tích trồng cây
hàng năm giảm ( bằng 76,3% diện tích đất nông nghiệp năm 1990; 69,1 %
diện tích đất nông nghiệp năm 1997; 65,5 % diện tích đất nông nghiệp năm
2000) và tỷ trọng diện tích đất trồng cây lâu năm tăng ( bằng 14,9% diện tích
đất nông nghiệp năm 1990; 19,2% diện tích đất nông nghiệp năm 1997; 23,3
% diện tích đất nông nghiệp năm 2000).[2]
+ Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã
hội. Khác với công nghiệp, sản xuất nông nghiệp có những đặc điểm riêng bởi
sự chi phối của điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội. Những đặc điểm đó là:
- Đất đai đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong sản xuất nông
nghiệp
- Trong nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt và
không thể thay thế.
- Đất đai là sản phẩm của tự nhiên và có giới hạn nhất định.

- Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là các sinh vật
Trong nông nghiệp, đối tượng sản xuất là các sinh vật, bao gồm: các

11


loại cây trồng, vật nuôi và các loại sinh vật khác. Chúng sinh trưởng và phát
triển theo một quy luật sinh lý nội tại và đồng thời chịu tác động rất nhều từ
ngoại cảnh như thời tiết, khí hậu, môi trường. Giữa sinh vật và môi trường
sống của chúng là một khối thống nhất, mỗi một biến đổi của môi trường lập
tức sinh vật biến đổi để thích nghi nếu quá giới hạn chịu đựng chúng sẽ bị
chết. Các quy luật sinh học và điều kiện ngoại cảnh tồn tại độc lập với ý muốn
chủ quan của con người.
- Sản xuất nông nghiệp tiến hành trên phạm vi không gian rộng lớn và mang
tính chất khu vực rõ rệt
Các nhà máy, khu công nghiệp dù có lớn thế nào đi chăng nữa thì cũng
đều bị giới hạn về mặt không gian nhưng đối với nông nghiệp thì khác hẳn: ở
đâu có đất ở đó có sản xuất nông nghiệp. Phạm vi của sản xuất nông nghiệp
rộng khắp có thể ở đồng bằng rộng lớn, có thể ở khe suối, triền núi, vì đất
nông nghiệp phân tán kéo theo việc sản xuất nông nghiệp mang tính phân tán,
manh mún.
Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên phạm vi không gian rộng lớn,
do đó ở mỗi vùng địa lý nhất định của lãnh thổ các yếu tố sản xuất ( đất đai, khí
hậu, nguồn nước, các yếu tố về xã hội) là hoàn toàn khác nhau. Mỗi vùng đất
có một hệ thống kinh tế sinh thái riêng vì vậy mỗi vùng có lợi thế so sánh riêng.
Việc lựa chọn vấn đề kinh tế trong nông nghiệp trước hết phải phù hợp với đặc
điểm của tự nhiên kinh tế - xã hội của khu vực. Như việc lựa chọn giống cây
trồng vật nuôi, bố trí cây trồng, quy trình kỹ thuật…là nhằm khai thác triệt để
các lợi thế của vùng.
- Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ

Đó là nét đặc thù điển hình nhất của sản xuất nông nghiệp. Tính thời vụ
này không những thể hiện ở nhu cầu về đầu vào như: lao động, vật tư, phân bón
rất khác nhau giữa các thời kỳ của quá trình sản xuất mà còn thể hiện ở khâu

12


thu hoạch, chế biến, dự trữ và tiêu thụ trên thị trường.[11]

13


CHƯƠNG III
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Toàn bộ quỹ đất nông nghiệp của xã Đức Giang, huyện Hoài Đức, tp
Hà Nội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Về không gian:
- Nghiên cứu điểm về tình hình quản lý sử dụng đất, hiệu quả sử dụng
đất qua đó phát hiện những thuận lợi và khó khăn trong quá trình sử dụng đất.
Phân tích và phát hiện những mặt được và chưa được trong việc sử dụng đất
nông nghiệp tại xã Đức Giang, huyện Hoài Đức, tp Hà Nội.
-Đánh giá hiệu quả sử dụng đất chỉ đi sâu đánh giá hiệu quả kinh tế.
Còn hiệu quả về mặt xã hội và môi trường chủ yếu dựa vào các tiêu chí định
tính để đánh giá. Hiệu quả kinh tế chỉ tính cho một số loại cây trồng
chính/1ha.
+ Về thời gian: từ 02/03/2015 đến 17/4/2015.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết

+ Nghiên cứu các tài liệu lý luận liên quan đến vấn đề
+ Nghiên cứu các khái niệm công cụ phục vụ cho đề tài
3.3.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp điều tra khảo sát, thu thập số liệu thứ cấp
Đây là phương pháp dùng để thu thập số liệu, thông tin qua các báo cáo,
thống kê của các phòng, ban ngành để phục vụ cho quá trình thực hiện đề tài.
+ Phương pháp phân tích và xử lý số liệu sơ cấp
Đây là phương pháp phân tích và xử lý các số liệu thô đã thu thập được để
thiết lập các bảng biểu để so sánh được sự biến động và tìm nguyên nhân của

14


nó. Trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp cần thực hiện.
+ Phương pháp tính hiệu quả của các loại hình sử dụng đất
- Các chỉ tiêu dùng để đánh giá hiệu quả kinh tế:
Chi phí trung gian (CPTG): là khoản chi phí vật chất thường xuyên
bằng tiền mà chủ thể bỏ ra để thuê và mua các yếu tố đầu vào và dịch vụ sử
dụng trong quá trình sản xuất.
Giá trị sản xuất (GTSX): là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ
được tạo ra trong một thời kỳ nhất định ( thường là một năm).
GTSX = SL*GB
Trong đó:
GTSX: Giá trị sản xuất
SL: Sản lượng thu được
GB: Giá bán sản phẩm
Giá trị gia tăng (GTGT): là hiệu số giữa giá trị sản xuất (GTSX) và chi
phí trung gian (CPTG), là giá trị sản phẩm xã hội được tạo ra thêm trong thời
kỳ sản xuất đó: GTGT=GTSX – CPTG
- Các chỉ tiêu dùng để đánh giá hiệu quả xã hội:

+ Khả năng đảm bảo an toàn lương thực và cung cấp các sản phẩm có
cho nhu cầu tại chỗ;
+ Khả năng thu hút lao động giải quyết việc làm tại chỗ cho nông dân
của các loại hình sử dụng đất
+ Vấn đề chuyển giao khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp.
+ Vấn đề thực hiện các LUT theo quy hoạch sử dụng đất
- Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả môi trường:
+ Mức sử dụng phân bón;
+ Mức sử dụng thuốc bảo vệ thực vật;
+ Đánh giá các nguồn khác có thể gây ô nhiễm trên địa bàn xã

15


+ Phương pháp điều tra, phỏng vấn
Đây là phương pháp tiến hành bằng cách sử dụng bảng câu hỏi để điều
tra ngẫu nhiên một số hộ nông dân nhằm đảm bảo tính thực tế, khách quan
cũng như chính xác của số liệu thu được.
+ Phương pháp kế thừa
Đây là phương pháp mà trong quá trình thực hiện nghiên cứu đã kế
thừa các phương pháp, các số liệu có sẵn để làm tài liệu tham khảo và nghiên
cứu.
+ Phương pháp chuyên gia, chuyên khảo
Tham khảo các ý kiến của cán bộ địa chính, cán bộ phòng tài nguyên,
các chủ hộ sản xuất,...

16


CHƯƠNG IV

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội
4.1.1 Điều kiện tự nhiên
+ Vị trí địa lý
Đức Giang có tổng diện tích đất tự nhiên là 329.91 ha, nằm ở phía Bắc
huyện Hoài Đức, tp Hà Nội. Ranh giới hành chính được xác định như sau :
+ Phía Bắc tiếp giáp thị trấn Trạm Trôi và huyện Đan Phượng;
+ Phía Nam giáp xã Sơn Đồng;
+ Phía Đông giáp xã Kim Chung;
+ Phía Tây giáp xã Cát Quế, xã Dương Liễu và xã Đức Thượng.
Với đặc điểm về vị trí địa lý như trên thì xã Đức Giang rất thuận lợi để
phát triển kinh tế xã hội do dễ dàng có thể giao lưu buôn bán với các xã lân
cận, thuận lợi cho việc trao đổi hàng hóa.
+ Địa hình, địa mạo
Là một xã đồng bằng có địa hình bằng phẳng, hàng năm thường có
lượng nước phù sa màu mỡ được dẫn từ sông Hồng về phục vụ việc sản xuất
nông nghiệp cho người dân nên việc sản xuất nông nghiệp tương đối thuận
lợi.
+ Điều kiện khí hậu, thời tiết
Đức Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa hè thì nóng
bức, nhiệt độ từ 33 -370 C, có khi lên đến 390 C. Về mùa đông nhiệt độ lại khá
thấp, trung bình từ 14 - 200 C, có lúc xuống tới 100 C. Nói chung khí hậu khá
phức tạp. Vì nằm về phía Bắc tp Hà Nội nên chịu ảnh hưởng của 2 mùa rõ
rệt. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 chủ yếu gió Đông Bắc, mùa mưa tháng
4 đến tháng 10 nóng ẩm, gió thịnh hành là gió Tây Nam. Mùa khô không khí
khô hanh, độ ẩm bình quân là 30 – 60%, mùa mưa khí hậu ẩm ướt, độ ẩm từ

17



80 – 90 % không khí thấp ảnh hưởng trực tiếp đến độ bền của công trình.
Yếu tố khí hậu của xã Đức Giang nói chung thuận lợi để phát triển cây
trồng vật nuôi. Tuy nhiên những đợt dông, bão của mùa hè và gió mùa đông
bắc của mùa đông cũng gây những trở ngại nhất định cho hoạt động sản xuất
và đời sống của nhân dân địa phương.
+ Thủy văn
Sông Hồng: Đây là sông chảy qua trên địa bàn xã. Chiều dài của sông
là 0,8 km, chảy theo hướng từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Diện tích lưu vực
sông là 17.730 km2, mật độ lưới sông là 0,60 km/km 2. Lưu lượng trung bình
hàng năm của sông đạt 688 m 3/s. Mực nước bình quân lớn nhất là 5,03 m, lưu
lượng lớn nhất bình quân là 2.260 m3/s .
+ Tài nguyên đất
Trên địa bàn xã có lượng đất phù sa màu mỡ phân bố ở khắp khu vực
sản xuất nông nghiệp của xã.
Đất phù sa ( 201.47 ha) là tầng đất phù sa được bồi đắp hàng năm, loại
đất có thành phần cơ giới chủ yếu là thịt nhẹ đến trung bình, thích hợp cho
việc trồng lúa và một số cây trồng hàng năm khác, phân bố dọc sông Hồng và
vùng đồng bằng của xã.
Trên địa bàn xã đã xuất hiện nhiều mô hình sử dụng đất nông nghiệp có
hiệu quả kinh tế cao như trồng rau an toàn, mô hình trang trại tổng hợp, trang
trại nuôi trồng thủy sản. Ở một số vùng đã chuyển đổi đất nông nghiệp kém
hiệu quả sang mục đính phi nông nghiệp, chuyển đổi trong nội bộ đất nông
nghiệp cho phù hợp với điều kiện địa hình, tạo ra nhiều nông sản có giá trị
kinh tế cao đã nâng cao hiệu quả kinh tế/1ĐV diện tích đất canh tác. Công tác
quản lý đất đai theo luật đất đai được tăng cường đã nâng cao vai trò quản lý
Nhà nước, làm hạn chế tình trạng vi phạm luật đất đai trên địa bàn xã
+ Tài nguyên nhân văn

18



Là xã đồng bằng nằm ngay cửa ngõ thủ đô nên Đức Giang có khá nhiều
tài nguyên nhân văn như những ngôi Đình, Đền Chùa thờ các vị Thánh có
công với đất nước được xếp hạng di tích lịch sử cấp Nhà nước như: Đền thờ
Đức Thánh Trần hay Chùa Linh Tiên...
+ Đánh giá chung
- Thuận lợi: nhìn chung với điều kiện tự nhiên, địa hình địa mạo cùng
với các tài nguyên trong địa bàn xã tương đối thuận lơi cho việc sản xuất nuôi
trồng của nhân dân trong địa phương.
- Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi trên vẫn tồn tại sự khó khăn là
diện tích đất nông nghiệp trên địa bàn xã đang có xu hướng bị thu hẹp do
người dân chuyển sang các hình thức sử dụng đất khác.
4.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội
+ Tình hình dân số và lao động
- Tổng dân số toàn xã có 10711 người
- Tổng số hộ nông nghiệp 2206 hộ
- tổng số hộ phi nông nghiệp 535 hộ
- nguồn thu nhập chính của người dân là từ nghề chế biến nông sản
- Số người trong độ tuổi lao động là 5193 người
Nhìn chung người dân trong xã cần cù, chịu khó trong học tập sản xuất
và lao động, lực lượng lao động tương được đánh giá có chất lượng khá, tham
gia nhiều lĩnh vực, có khả năng tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới
trong sản xuất và thích ứng nhanh với nền kinh tế thị trường. Số lượng học
sinh đang trong độ tuổi học tập được trang bị kiến thức khá tốt nên hàng năm
có từ 65% học sinh tiểu học và học sinh trung học đỗ vào các trườn chuyên,
35% học sinh trung học phổ thông đỗ vào các trường Đại hoc, Cao đẳng và có
40-45% học sinh đi học trung cấp chuyên nghiệp và học tại các trường nghề.
Đây là nguồn lực lao động quan trọng của xã để có thể trở thành các nhà

19



Doanh nhân thành đạt, các cán bộ có trình độ, có bằng cấp cao được xã hội
công nhận và là lực lượng cán bộ lãnh đạo kế cận của xã, đáp ứng yêu cầu
thời kỹ phát triển kinh tế trong giai đoạn tới.
Hạn chế hiện nay là có sự chênh lệch khá cao giữa thu nhập của lao động
nông nghiệp và lao động phi nông nghiệp. Tình trạng thiếu việc làm cho
người lao động ở mức cao, năm 2013 tỷ lệ người lao động thiếu việc làm là
gần 20%. Lao động nông nghiệp chủ yếu là lao động nữ, hoặc lao động ở tuổi
cao, số lao động trẻ có xu hướng tìm việc làm trong lĩnh vực phi nông nghiệp
có thu nhập cao hơn, chiếm tới 2/3 số lao động.
+ Văn hóa, phong tục, tập quán
Xã Đức Giang là xã đông thôn (4 thôn) nhưng trên cả bốn thôn của xã
đều có các đình chùa, quán miếu. Thôn Lưu Xá có: chùa Lão Quân Quán với
diện tích khuôn viên 2.700 m2, mới được người dân địa phương chung tay
trùng tu rất khang trang lộng lẫy, hàng năm thu hút 1 lượng khách tương đối
lớn từ thập phương về cúng lễ; có Đình Lưu Xá rộng gần 1000m2 thờ vua Lý
Nam Đế - người đã có công đánh đuổi giặc ngoại xâm và khai sinh ra nước
Vạn Xuân, Đình đã được xếp hạng cấp Nhà nước. Bên cạnh đó trên địa bàn
thôn Lưu Xá còn có miếu Lũng Đồng là di tích lịch sử cấp thành phố.
Thôn Lũng Kinh có chùa Linh Quang Đại, diện tích khuôn viên là gần
2000m2 với 3 dãy nhà, diện tích xây dựng khoảng 550m 2, chùa mới được
trùng tu tôn tạo.
Thôn Cao Hạ có chùa Minh Đại An, diện tích khuôn viên là hơn
2.600m2, diện tích xây dựng là 900m2. Hiện chùa đã xuống cấp và đang có kế
hoạch tu bổ lại vào cuối năm 2011.
Thôn Cao Trung có Chùa Linh Tiên mới được đầu tư xây dựng với số
tiền gần 10 tỷ đồng, với diện tích gần 3000 m2 chùa có hồ rộng hơn 500m2
với cây cầu đá bắc qua khiến non nước rất tuyệt đẹp nên hàng năm có rất


20


nhiều khách thập phương về vãn cảnh lễ chùa
Các công trình đình chùa mang đậm nét văn hóa của làng quê Việt Nam.
Hàng năm, vào tháng riêng ở các thôn đều tổ chức các lễ hội văn hóa sinh
động.
+ Cơ sở hạ tầng
Giao thông: Hệ thống giao thông của xã ngày càng được mở rộng và
không ngừng được hoàn thiện về chất lượng. Đến năm 2013 trên địa bàn xã
có 50.6 km đường giao thông. Trong đó tỉnh quản lý 6 km ( đường 422), xã
quản lý 50,6 km.
- Thủy lợi: Xã có đập lớn với dung tích 1,64 triệu m 3 và 6 đập nhỏ. Hiện
nay trên địa bàn xã có 2 trạm bơm điện có công suất 410 m 3/h, 13 km kênh
mương trong đó có 6,9 km được kiên cố hóa, đạt tỷ lệ 53,08 %.
- Điện: Lưới điện đã đưa đến tận các thôn tạo điều kiện thuận lợi cho
việc phục vụ các nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của người dân địa phương. Cả
xã có 5 trạm điện, cung cấp đủ cho 100 % hộ trong xã sử dụng.
+ Tình hình sản xuất một số ngành
- Ngành nông nghiệp: Năm 2013 giá trị sản xuất nông nghiệp ước đạt
13,2 tỷ đồng, chiếm 55,23 % tỷ trọng các ngành kinh tế.
Xã Đức Giang có tổng diện tích tự nhiên 329.91ha, chiếm 5,66 % diện
tích của toàn huyện. Trong đó đất nông nghiệp là 207.57 ha chiếm 62.92 %
diện tích đất tự nhiên của toàn xã. Nông nghiệp của xã tập trung vào hai
ngành chính là trồng trọt và chăn nuôi.
Năm 2013 toàn xã có 201.47 ha đất sản xuất nông nghiệp, chiếm 61.07
% diện tích đất nông nghiệp.
- Trồng trọt: Lúa là cây trồng chủ lực của xã, tổng diện tích gieo trồng
năm 2013 là 200.21 ha, sản lượng 1668 tấn, năng suất đạt 40,8 tạ/ha.
Trong thời gian gần đây xã đã tổ chức sản xuất theo hướng công nghiệp


21


hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ
thuật, công nghệ vào thâm canh và chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi. Nhờ
áp dụng các biện pháp thâm canh đồng bộ, nâng cao chất lượng giống lúa nên
năng suất lúa bình quân trên địa bàn đạt 40,8 tạ/ha ( năm 2013). Xã đã chuyển
một số diện tích đất sản xuất các loại cây trồng kém hiệu quả sang trồng các
loại cây khác phù hợp hơn.
- Chăn nuôi: Trong những năm gần đây địa phương đã đẩy mạnh đầu tư
cho lĩnh vực chăn nuôi. Kết quả tổng đàn lợn trong năm 2013 là 2.781 con đạt
100 % so với kế hoạch năm, hiện nay đàn bò có 1.052 con ( trong đó bò lai
sihn 121 con đạt 11,50 %), đàn trâu có 884 con, tổng đàn trâu, bò đạt 74 % so
với kế hoạch. Được sự hỗ trợ của các cấp, các ngành, địa phương đã duy trì
tốt việc chăn nuôi gia cầm trên địa bàn và không để xảy ra dịch bệnh. Tổng
đàn gia cầm là 23.901 con. Nhiều hộ đã mạnh dạn đầu tư, vay vốn các dự án
để chăn nuôi tăng thu nhập. Tuy nhiên, trong năm qua, sau đợt rét đậm, rét hại
đã xảy ra các loại bệnh như: lở mồm lông móng ở trâu bò; dịch tai xanh ở lợn;
dịch cúm gia cầm ở gà, vịt đã làm cho số lượng gia súc, gia cầm giảm đáng
kể.
- Thuỷ sản: Xã đã tổ chức mở rộng vùng nuôi cá, chuyển đổi các vùng
đất khó sản xuất sang nuôi cá. Đến nay trên địa bàn xã có tổng diện tích mặt
nước nuôi trồng thuỷ sản là 6.1 ha, sản lượng ước đạt 80 tấn đạt tỷ lệ 94 %
tăng 33 % so với cùng kỳ.
+ Tiểu thủ công nghiệp và xây dựng: Tiểu thủ công nghiệp và xây dựng
cơ bản trong thời gian qua đã có bước phát triển mạnh, phát huy được tác
dụng tích cực trong việc phục vụ sản xuất và đời sống. Đến năm 2013 trên địa
bàn của xã hiện có 42 cơ sở tiểu thủ công nghiệp, 71 hộ kinh doanh thương
mại, hàng năm thu hút hàng trăm lao động trong và ngoài xã, đã huy động

được hàng tỷ đồng nhàn rỗi trong dân vào đầu tư phát triển sản xuất, tăng thu

22


×