Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

chuyên đề 1 một số lý luận về phát triển bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.93 KB, 40 trang )

CHUYÊN ĐỀ 1. MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN
VỮNG
Chuyên đề 1 “Một số lý luận về phát triển bền vững” sẽ gồm 4 phần
chính: (1) Khái niệm phát triển và phát triển bền vững; (2) Sự cần thiết
phải thực hiện phát triển bền vững; (3) Nội dung của phát triển bền vững; (4)
Hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững.
I. Khái niệm phát triển và phát triển bền vững
1.1. Khái niệm phát triển
Phát triển là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong các văn bản,
tài liệu và trong sinh hoạt hàng ngày. Theo các giai đoạn phát triển khác
nhau của lịch sử, các nhà nghiên cứu kinh tế trên thế giới đưa ra nhiều khái
niệm khác nhau về phát triển.
Trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, các nhà nghiên cứu cho rằng phát
triển là việc sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của
con người. Khái niệm này chủ yếu bó hẹp trong hoạt động tự cung tự cấp,
coi phát triển chỉ là hoạt động đáp ứng cho cuộc sống hàng ngày của người
dân: ăn, mặc, ở...
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nền kinh tế nhiều nước trên thế
giới ngày càng phát triển nên vào những năm 70 và 80 của thế kỷ XX, khái
niệm phát triển không chỉ bó hẹp trong phạm vi sản xuất của cải vật chất phục
vụ nhu cầu thiết yếu, mà còn được mở rộng là sự tăng trưởng kinh tế của
các ngành trong toàn bộ nền kinh tế, trong đó có chú ý về cơ cấu kinh tế.
Các quốc gia bắt đầu chú trọng vào ngành kinh tế mũi nhọn, sản xuất sản
phẩm, tăng năng suất lao động, áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ nhằm
tăng nguồn thu cho quốc gia và cho chính người dân của mình.
Tới đầu những năm 90 của thế kỷ XX, nhiều quốc gia có sự tăng
truởng kinh tế nhanh chóng nhưng số nguời đói nghèo không giảm và đời
sống của khoảng 40 dến 50% dân số - những nguời ở duới đáy xã hội hầu như
không có gì thay đổi. Ðiều này đã làm thay đổi quan niệm về phát triển từ cực
đại hoá sản luợng sang cực tiểu hoá đói nghèo, tức là tiếp cận phát triển theo
hướng quan tâm hơn tới nhân tố con người. Từ đó, phát triển được hiểu “là




quá trình một xã hội đạt đến mức thoả mãn các nhu cầu mà xã hội ấy coi là
thiết yếu” [21,tr.12]. Amartya Kumar Sen, nhà kinh tế học người Ấn Độ, đã
được giải Nobel về kinh tế cũng chỉ ra: "...Không thể xem sự tăng trưởng
kinh tế như một mục đích cuối cùng. Cần phải quan tâm nhiều hơn đến sự
phát triển cùng với việc cải thiện cuộc sống và nền tự do mà chúng ta
đang hưởng" [2]. Quan niệm này cho thấy ngoài ý nghĩa tăng trưởng kinh
tế như những thập kỷ trước, phát triển đã chú trọng và bao hàm thêm các
nhân tố xã hội, nhân tố con người.
Mở rộng các nhu cầu thiết yếu và chú ý nhiều đến yếu tố xã hội, một
quan niệm khác cho rằng: “Nếu coi phát triển là dđối lập với nghèo khổ thì
phát triển là quá trình giảm dần, đi đến loại bỏ nạn đói ăn, bệnh tật, mù
chữ, tình trạng mất vệ sinh, thất nghiệp và bất bình đẳng” [21, tr.13].
Cùng với quá trình phát triển của xã hội loài người, khái niệm phát
triển đã dần được hoàn thiện. Hiện nay, về cơ bản, khái niệm phát triển vẫn
giữ nguyên nội dung của thập niên trước nhưng trong đó nhấn mạnh hơn
quyền của con người. Phát triển bao hàm các yếu tố tăng trưởng về kinh tế,
tiến bộ về cơ cấu kinh tế và sự tiến bộ về xã hội, được tổng kết qua sơ đồ
dưới đây:
Tăng trưởng kinh tế
Thay đổi về lượng
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Tiến bộ xã hội
Thay đổi về chất
Phát triển

Sơ đồ 1.1. Các yếu tố của phát triển
(Nguồn: Giáo trình kinh tế phát triển, trường Đại học Kinh tế quốc
dân)

Như vậy, phát triển có phạm vi rộng hơn nhiều so với tăng trưởng.
Bản thân tác giả cho rằng phát triển không chỉ là sự gia tăng về quy mô
của nền kinh tế quốc dân mà nó còn là sự thay đổi về bản chất: thực hiện
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, mang lại cho con người một môi trường sống


tốt hơn với các phúc lợi xã hội đi kèm.
1.2. Khái niệm phát triển bền vững
Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980
trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn
Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn
giản: “Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển
kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác
động đến môi trường sinh thái học” [41, tr.18-19]. Tuy nhiên, chiến lược này
chỉ nhấn mạnh phát triển bền vững ở góc độ bền vững về sinh thái với ba
mục tiêu: duy trì hệ sinh thái cơ bản và những hệ hỗ trợ sự sống; bảo tồn
tính đa dạng di truyền; bảo đảm sử dụng bền vững các loài và các hệ sinh
thái.
Khái niệm “phát triển bền vững” được công bố chính thức và phổ biến
rộng rãi vào năm 1987 qua Báo cáo Brundtland (còn gọi là báo cáo Tương lai
chung của chúng ta) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới (WCED)
thuộc Liên hiệp quốc. Báo cáo này ghi rõ "phát triển bền vững là sự phát triển
có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến
những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai" [42, tr.37]. Mục
tiêu của phát triển bền vững mà WCED đưa ra là làm thế nào để đạt được
phát triển ở hiện tại mà không ảnh hưởng đến cuộc sống và sự phát triển sau
này.
Nội hàm về phát triển bền vững được tái khẳng định tại Hội nghị
Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển ở Rio de Janero (Brazil)
năm 1992 và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về phát triển bền vững ở

Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002. Phát triển bền vững được
khái quát hóa theo ba mặt, gồm phát triển kinh tế, phát triển xã hội và
bảo vệ môi trường. Ba mặt này kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hoà với
nhau trong quá trình phát triển. Các đại biểu cũng thống nhất những
nguyên tắc cơ bản, phát động một chương trình hành động vì sự phát
triển bền vững có tên Chương trình nghị sự 21 (AGENDA-21). Từ đó,
Chương trình Nghị sự 21 về Phát triển bền vững và Mục tiêu phát triển
thiên niên kỷ đã trở thành chiến luợc phát triển của toàn cầu và được tập


trung thực hiện.
Phát triển bền vững được biết đến ở Việt Nam vào khoảng cuối thập
niên 80 đầu thập niên 90. Trên cơ sở những khái niệm đã có và từ sự phát
triển thực tế của đất nước, các nhà nghiên cứu kinh tế của Việt Nam đã đưa
ra quan điểm về phát triển bền vững là cơ sở để thực hiện những mục tiêu
phát triển của đất nước. Đó là sự phát triển lành mạnh, trong đó sự phát
triển của cá nhân này không làm thiệt hại đến lợi ích của các cá nhân
khác, sự phát triển của cá nhân không làm thiệt hại đến lợi ích của cộng
đồng, sự phát triển của cộng đồng người này không làm thiệt hại đến lợi ích
của cộng đồng người khác, sự phát triển của thế hệ hôm nay không xâm
phạm đến lợi ích của các thế hệ mai sau và sự phát triển của loài người
không đe doạ sự sống còn hay làm suy giảm nơi sinh sống của các sinh vật
khác trên hành tinh.
Theo nghiên cứu của Viện chiến lược phát triển, phát triển bền vững
được hiểu một cách toàn diện: “Phát triển bền vững bao trùm các mặt của
đời sống xã hội, nghĩa là phải gắn kết sự phát triển kinh tế với thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, gìn giữ và cải thiện môi trường, giữ vững ổn định
chính trị - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh” [24, tr.122]
Như vậy, so với khái niệm về phát triển, phát triển bền vững những yêu
cầu cao hơn và đòi hỏi sự quan tâm từ nhiều phía. GS.TSKH Trương

Quang Học đã tổng hợp một số điểm khác biệt có tính nguyên tắc giữa phát
triển truyền thống và phát triển bền vững ở bảng 1.1.
Những quan điểm, khái niệm đã nêu đều chỉ rõ mong muốn chung về
cuộc sống tốt đẹp với sự bền vững lâu dài của con người. Trên cơ sở đó, tác
giả cho rằng phát triển bền vững là sự kết hợp chặt chẽ, là mối quan hệ qua
lại giữa phát triển kinh tế với các vấn đề xã hội và các yếu tố của môi
trường một cách hài hoà, ổn định, linh hoạt. Tạo một môi trường thực sự tốt
đẹp cho quá trình phát triển trong tương lai là điều cần thiết ở bất kỳ quốc gia
nào, trong bất kỳ giai đoạn nào.
Bảng 1.1.Từ phát triển đến phát triển bền vững
Tiêu chí

Phát triển

Phát triển bền vững


Trụ cột

Kinh tế (xã hội)

Hài hoà

Trung tâm

kinh tế - xã hội – môi
Của cải vật chất/hàng hoá Contrường
người

Điều kiện cơ bản


Tài nguyên thiên nhiên

Tài nguyên con người

Chủ thể quản lý

Một chủ thể (Nhà nước)

Nhiều chủ thể

Quan hệ với tự Khai thác, cải tạo tự nhiên Bảo tồn, sử dụng hợp lý tự
nhiên
nhiên
Tính chất
Kinh tế truyền thống
Kinh tế tri thức
Cách tiếp cận

Đơn ngành, liên ngành Liên ngành cao
thấp
(Nguồn: “Phát triển bền vững – Chiến lược phát triển toàn cầu thế kỷ

XXI”, GS.TSKH Trương Quang Học, trang 6)
II.

Sự cần thiết phải thực hiện phát triển bền vững
Mọi người trên trái đất này luôn mong muốn hoàn thiện hơn cuộc

sống của mình để tạo nên những phát triển thần kỳ chưa từng có. Nhưng trái

đất của chúng ta với các điều kiện tự nhiên lại không thể đáp ứng được
những mong muốn vô hạn ấy của con người. Các nguồn tài nguyên chỉ là
hữu hạn nên có thể cạn kiện dần, điều kiện thiên nhiên có thể khắc nghiệt
hơn... Điều này tạo nên mâu thuẫn gay gắt, đòi hỏi vừa phải phát triển, vừa
phải duy trì sự hài hoà giữa con người với môi trường sống của mình. Do
vậy, thực hiện phát triển bền vững được coi như là nhiệm vụ cấp bách
hàng đầu của mỗi quốc gia. Các tổ chức và các quốc gia tuỳ theo những
mục tiêu khác nhau mà đưa ra sự cần thiết phải phát triển bền vững và
các nội dung khác nhau về phát triển bền vững.
Hội nghị Thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển (Rio de Janeiro
6/1992) đã gắn môi trường vào với phát triển. Hội nghị đưa ra khẩu hiệu
phát triển bền vững: "Con đường duy nhất để đảm bảo chắc chắn cho chúng
ta có một tương lai an toàn hơn, thịnh vượng hơn là phải cùng nhau giải
quyết các vấn đề môi trường và phát triển một cách bền vững" [43, tr.2].
Ngoài sự lo ngại về vấn đề môi trường, Hội nghị Phụ nữ thế giới lần
thứ tư tại Bắc Kinh năm 1995 còn quan tâm đến vai trò của phụ nữ trong xã
hội. Theo đó, sự phát triển và những hậu quả do môi trường bị huỷ hoại đã
làm tổn hại đến con người, đặc biệt là đối với phụ nữ. Chính vì vậy, hội nghị


đã đưa ra yêu cầu bức thiết phải thực hiện phát triển bền vững một cách
toàn diện. Trong đó, đề cao vai trò quan trọng của phụ nữ trong phát triển
các phương thức sản xuất và tiêu dùng bền vững cũng như trong các phương
thức quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Cũng hướng về môi trường, diễn đàn Thanh niên ASEM về phát triển
bền vững (28/6 đến 02/7/2004) đưa ra yêu cầu bức thiết cần phải thực hiện
phát triển bền vững. Theo đó, trong đà phát triển ngày càng đi lên của các
châu lục, các hoạt động thực tiễn, các chính sách và cách thức tiêu dùng
không mang tính bền vững vẫn tồn tại, đe doạ các nguồn tài nguyên và làm
giảm chất lượng cuộc sống trên trái đất. Từ thực tế đầy khó khăn ấy, diễn đàn

đề xuất lập ra một hệ thống khuyến khích và ngăn chặn khả thi, hiệu quả
nhằm thúc đẩy các hoạt động mang tính bền vững hơn của các cá nhân, tập
thể và tổ chức.
Gần đây, trong hội nghị quốc tế về phát triển bền vững của Liên hợp
quốc Rio 20+ diễn ra ở Rio de Janeiro từ 20/6 đến 22/6/2012, tổng thư ký
của Hội nghị đã phát biểu: Phát triển bền vững không phải là một lựa chọn!
Đó là con đường duy nhất cho phép tất cả nhân loại chia sẻ một cuộc sống
tươm tất trên hành tinh duy nhất của chúng ta. Phát biểu đó cho thấy phát
triển bền vững trở thành nhu cầu thiết yếu của mỗi quốc gia trên trái đất này.
Ở Việt Nam, vấn đề phát triển bền vững mới xuất hiện. Trong thời gian
đầu của quá trình phát triển, Việt Nam vẫn theo con đường phát triển thuần
tuý, thiên về tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội, mà chưa quan tâm đúng
mức đến vấn đề khai thác, sử dụng và quản lý nguồn tài nguyên. Các chính
sách về kinh tế không kết hợp chặt chẽ với bảo vệ môi trường. Các chính sách
về môi trường được đưa ra lại chỉ chú trọng việc giải quyết các sự cố môi
trường, phục hồi suy thoái mà chưa có những biện pháp cụ thể về bảo vệ, đa
dạng hoá môi trường hay những định hướng trong tương lai để đáp ứng nhu
cầu của các thế hệ sau. Trong hoàn cảnh như vậy, tổn thương môi trường sẽ
còn gia tăng cùng quá trình phát triển. Nhận thấy những thiếu sót này và để
khắc phục cũng như thực hiện Công ước quốc tế về phát triển bền vững (Rio


de Janero 6/1992), Việt Nam đã tổ chức và tham gia thực hiện nhiều hoạt
động nhằm phát triển bền vững. Vấn đề phát triển bền vững đã được thể
hiện rõ ràng, chi tiết trong các Văn kiện chính trị, đặc biệt, Nghị quyết Đại
hội đại biểu Đảng Cộng sản toàn quốc lần thứ IX đã nêu rõ Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010: “Phát triển nhanh, hiệu quả và
bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội và bảo vệ môi trường”; “Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ
và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với

môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học” [37]. Với giai đoạn 10
năm tiếp theo, từ 2011 - 2020, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt
trong Chiến lược kinh tế - xã hội mà Đại hội đại biểu lần thứ XI của Đảng
cộng sản Việt Nam đề ra: "Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển
nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát
triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế
hoạch và chính sách phát triển kinh tế-xã hội" [38].
Tóm lại, với mục tiêu phát triển kinh tế vững mạnh, các quốc gia
trên thế giới dù vô tình hay hữu ý đã tác động tới môi trường, làm suy giảm
dần các nguồn tài nguyên thiên nhiên vô giá, đồng thời làm ảnh hưởng xấu
tới chất lượng cuộc sống của con người, tạo hố ngăn cách giàu nghèo trong
xã hội cũng như không đảm bảo về các điều kiện giáo dục, y tế cơ bản. Thực
tế xảy ra là yêu cầu cấp bách đòi hỏi người dân toàn cầu thực hiện phát triển
bền vững và coi đây là mục tiêu lớn nhất trong chiến lược phát triển của mỗi
quốc gia.
III. Nội dung của phát triển bền vững

3.1. Nội dung phát triển bền vững theo một số tổ chức quốc tế
III.1.1. Hội nghị thượng đỉnh Trái đất về môi trường và phát triển (Rio de
Janero 6/1992)
Hội nghị đề cập đến mối quan hệ giữa môi trường và phát triển,
trong đó coi môi trường là yếu tố ưu tiên hàng đầu. Theo đó, nội dung của
phát triển bền vững được biểu hiện qua ba lĩnh vực: kinh tế và xã hội, bảo


tồn và quản lý môi trường cùng các nguồn tài nguyên và vai trò của các
nhóm xã hội chính.
* Lĩnh vực kinh tế và xã hội:
Kinh tế và xã hội là hai vấn đề lớn có mối quan hệ tương đối chặt
chẽ với nhau. Hội nghị đã kết hợp hai vấn đề này thành một nội dung của

phát triển bền vững gồm một số vấn đề chủ yếu sau:
Thứ nhất là sự hợp tác quốc tế. Mối quan hệ hợp tác giữa các quốc
gia, các khu vực là điều cực kỳ quan trọng cho sự phát triển và tạo điều kiện
cho việc phân bổ tối ưu nguồn lực của mỗi nước, góp phần thực hiện phát
triển bền vững trên toàn cầu.
Thứ hai là cuộc đấu tranh với nghèo đói. Phát triển bền vững đòi hỏi
tăng trưởng kinh tế phải bảo đảm cho xã hội thực sự tiến bộ, các cư dân trong
xã hội đều được hưởng lợi một cách bình đẳng từ tăng trưởng kinh tế và
cuộc đấu tranh với nghèo đói phải phát huy được tối đa hiệu quả của nó.
Thứ ba là nội dung về dân số và tính bền vững. Trên cơ sở môi trường,
hội nghị xem xét ảnh hưởng của gia tăng dân số sẽ làm nảy sinh các nhu
cầu về tài nguyên, về tư liệu sản xuất trong xã hội. Chính vì vậy, cần phải
đảm bảo sự gia tăng phù hợp về dân số trong phát triển bền vững.
Thứ tư, nội dung về bảo vệ và nâng cao sức khoẻ con người. Nhận
rõ sự phụ thuộc chặt chẽ giữa sức khoẻ con người với môi trường (nguồn
nước sạch, thực phẩm sạch...), hội nghị đề cao việc quan tâm đến tình
trạng môi trường để đảm bảo nâng cao sức khoẻ của con người, xây dựng
phát triển bền vững.
Thứ năm là ra quyết định về sự phát triển bền vững. Đưa ra các chính
sách kinh tế xã hội với cơ sở bảo vệ môi trường và quản lý việc thực hiện các
chính sách - Đó chính là trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước.
* Lĩnh vực bảo tồn và quản lý môi trường cùng các nguồn tài nguyên:
Theo tiêu thức bảo tồn và quản lý môi trường cùng các nguồn tài
nguyên, phát triển bền vững biểu hiện một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, bảo vệ khí quyển. Khí quyển của chúng ta hiện nay đang
chịu sức ép ngày càng tăng do khí nhà kính, do khí thải ô nhiễm từ các nhà
máy... Vấn đề bảo vệ môi trường trước hết là phải bảo vệ bầu khí quyển trong


lành nhằm đảm bảo cho con người có được môi trường sống bền vững.

Thứ hai, quản lý lâu bền đất. Đất là nguồn tài nguyên hữu hạn, muốn
sử dụng nó một cách lâu bền, buộc con người phải tìm cách sử dụng đất một
cách hiệu quả hơn. Cách đảm bảo tốt nhất là phải thực hiện tốt mối quan
hệ giữa phát triển kinh tế, xã hội và củng cố, bảo vệ môi trường.
Thứ ba, đấu tranh với việc phá rừng. Rừng bảo vệ cho cuộc sống con
người, kiểm soát khí hậu và môi trường trong lành hơn. Song, rừng hiện
nay đang bị đe doạ vì việc phá rừng và sử dụng quá bừa bãi, không kiểm soát
được. Vì vậy, bảo vệ rừng cần phải được đề cập đến trong các vấn đề phát
triển bền vững.
Thứ tư, nội dung về quản lý các chất nguy hại. Cùng với phát triển
kinh tế, các ngành công nghiệp cũng ngày càng gia tăng và phát triển. Vì
thế, lượng chất thải nguy hại mà các nhà máy, xí nghiệp, thải ra môi trường
ngày một nhiều. Điều đó đang gây ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ con người và
gián tiếp không thể xây dựng được xã hội phát triển bền vững.
* Lĩnh vực vai trò của các nhóm xã hội chính:

Trong Hội nghị, các quốc gia đã thống nhất đưa ra quan điểm cần tập
trung quan tâm tới vai trò của một số nhóm xã hội chính sau:
Thứ nhất, vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp phát triển bền vững. Phụ
nữ là một lực lượng có kiến thức và kinh nghiệm đáng kể trong các hoạt
động của đời sống xã hội. Vì vậy, cần xây dựng những chiến lược, chính
sách và tạo điều kiện cho phụ nữ phát huy vai trò của mình trong mọi hoạt
động của xã hội.
Thứ hai, vai trò của thanh thiếu niên trong sự nghiệp phát triển bền
vững. ảnh hưởng của các hoạt động kinh tế, xã hội, môi trường sẽ tác động
trực tiếp tới thế hệ này trong tương lai. Vì vậy, đề cao vai trò của thanh
thiếu niên đối với các hoạt động phát triển bền vững của toàn xã hội là điều
tất yếu và hết sức quan trọng.
Thứ ba, vai trò của công nhân và các nghiệp đoàn. Đây là bộ phận trực
tiếp bị ảnh hưởng và trực tiếp có thể thay đổi cách hoạt động để góp phần

phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường. Chính vì vậy, cần tạo việc làm đầy đủ,
và tạo điều kiện cho bộ phận này phát huy được vai trò của mình trong các


mục tiêu chung của xã hội.
Thứ tư, vai trò của các nhà khoa học và công nghệ. Để phát triển bền
vững, một yêu cầu cấp thiết là phải nghiên cứu và xây dựng những hệ
thống máy móc hiện đại nhằm làm giảm ô nhiễm và đạt hiệu quả cao. Đây là
nhiệm vụ trực tiếp của các nhà khoa học công nghệ.
Cuối cùng, cần tăng cường vai trò của nông dân trong sự nghiệp phát
triển bền vững. Nông lâm ngư nghiệp, gồm có trồng trọt, nuôi trồng cá, khai
thác rừng... rất dễ bị tổn thương và xuống cấp trước sự khai thác quá mức
và quản lý không đúng đắn. Vì vậy, nông dân cũng là những người sẽ có
đóng góp nhiều vào sự nghiệp phát triển bền vững chung nếu có có đường lối
hướng dẫn cụ thể.
3.1.2. Diễn đàn thanh niên ASEM
Diễn đàn thanh niên ASEM đã chỉ rõ nội dung phát triển bền vững
được biểu hiện qua bốn lĩnh vực: xã hội, kinh tế, môi trường và thể chế.
* Lĩnh vực xã hội:

Diễn đàn cho rằng xoá nghèo đói là chìa khoá của phát triển bền
vững. Đây cũng là luận điểm mà Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về môi
trường đưa ra. Một khi cuộc sống người dân được ổn định và nâng cao, cơ sở
của phát triển bền vững mới được xây dựng và phát triển.
Bên cạnh đó, mặt giáo dục cũng cần được ưu tiên trong các hoạch
định xã hội. Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực tạo nên yếu tố không
thể thiếu trong phát triển. Giáo dục làm tăng chất lượng nguồn nhân lực, sẽ có
những đóng góp lớn vào định hướng phát triển của các quốc gia.
Sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi người. Không có một sức khoẻ
tốt, con người không thể học tập và lao động, không thể tạo ra của cải vật

chất ngày càng tăng cho xã hội. Vì vậy, vấn đề sức khoẻ, y tế cần phải chăm
lo chú ý, là một yêu cầu của các vấn đề xã hội.
Cuối cùng, về mặt dân số, sự gia tăng dân số cao là dấu hiệu của phát
triển không bền vững. Gia tăng dân số quá nhanh làm tăng trưởng kinh tế dù
có đạt được những thành tựu đáng kể nhưng vẫn không thể đáp ứng được
nhu cầu ngày càng tăng trong xã hội. Vì vậy, cần tập trung giảm tỷ lệ tăng
dân số, hạn chế những ảnh hưởng bất lợi nó gây ra để thực hiện phát triển


bền vững lâu dài.
* Lĩnh vực kinh tế:
Diễn đàn thanh niên ASEM chú ý tới một số nội dung chủ chốt và
đang là vấn đề hiện nay.
Yếu tố đầu tiên là mô hình tiêu dùng. Những mô hình này chủ yếu là
sự kết hợp và cân bằng tương đối giữa cung và cầu, do bàn tay vô hình dẫn
dắt. Khi đó, hiệu quả sinh thái và công bằng trên thị trường khó có thể đạt
được. Phát triển bền vững đòi hỏi cần phát huy những tiềm năng sẵn có để đạt
được công bằng xã hội và hiệu quả sinh thái, bảo vệ môi trường.
Việc làm cũng là vấn đề rất nóng bỏng hiện nay, đặc biệt là với thanh
niên. Chất lượng nguồn nhân lực không được đảm bảo, nạn thất nghiệp diễn
ra tràn lan... Nếu những tình trạng này tiếp diễn, các hiện tượng tệ nạn xã
hội sẽ gia tăng, ảnh hưởng lớn tới mục tiêu phát triển bền vững của mỗi quốc
gia. Chính vì thế, cần tạo điều kiện cho người dân tiếp thu những kiến thức
mới, nâng cao tay nghề, chất lượng nguồn nhân lực.
Để đảm bảo phát triển kinh tế giữa các nước, cần quan tâm tới những
mối quan hệ thương mại hợp tác thúc đẩy nhau cùng tiến bộ. Các nước phát
triển giúp đỡ các nước kém phát triển hơn về kinh nghiệm, cơ sở vật chất...
Không chỉ là các dự án phát triển, xây dựng kinh tế ổn định, vấn đề trợ
cấp, cho vay vốn và xoá nợ cũng được quan tâm. Ở một khía cạnh nào đó,
việc xoá có thể giảm được gánh nặng về tài chính của các nước kém phát

triển hơn. Diễn đàn cho rằng các biện pháp quản lý Nhà nước hữu hiệu sẽ có
tác động tích cực đối với nỗ lực của các nước được hưởng lợi từ xoá nợ để
phát triển bền vững.
* Lĩnh vực môi trường:
Cũng giống như Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát
triển, diễn đàn thanh niên ASEM đề cập tới một số nội dung chính sau:
Thứ nhất là vấn đề nước. Nguồn nước ô nhiễm, khan hiếm nước sạch là
mối lo ngại của nhiều quốc gia. Phát triển bền vững cần sự ổn định và phát
triển nguồn nước này, đảm bảo cuộc sống lành mạnh cho người dân.
Thứ hai, về không khí. Không khí, đó là nguồn tài nguyên thiên
nhiên vô tận đảm bảo duy trì cuộc sống con người. Nhưng không khí đang


ngày càng bị ô nhiễm bởi các khí thải nhà máy, khí thải công nghiệp.
Tình trạng hiệu ứng nhà kính phá huỷ tầng ôzôn đang là vấn đề được
quan tâm chú ý trên toàn thế giới, không khí từ đó cũng được quan tâm chú
ý trong phát triển bền vững.
Thứ ba, đó là vấn đề bảo vệ rừng. Rừng cũng là bộ phận quan trọng đảm
bảo cho cuộc sống và môi trường làm việc của con người. Nhưng còn tồn tại
rất nhiều tình trạng chặt phá rừng bừa bãi, đốt nương làm rẫy... làm mất đi
sự đa dạng sinh học. Cần có những biện pháp ngăn chặn kịp thời, ban hành
pháp luật hạn chế khai thác, sử dụng quá tải rừng.
Thứ tư, nội dung về quản lý chất thải. Hiện nay, lượng chất thải nguy
hại ngày một tăng đang đe doạ sức khoẻ con người và môi trường. Vì vậy,
diễn đàn cho rằng cần chú ý tới vấn đề này trong các chính sách, phương thức
quản lý ở tất cả các quốc gia, buộc các công ty, doanh nghiệp sản xuất phải
chịu trách nhiệm với những chất thải của doanh nghiệp mình.
* Lĩnh vực thể chế:
Thể chế của mỗi quốc gia là cơ sở lập các kế hoạch, chính sách, đề
ra các mục tiêu hướng tới cũng như phổ biến hành động cho mọi người.

Phát triển bền vững là công việc của toàn dân, đòi hỏi toàn dân phải tham
gia đóng góp và xây dựng. Diễn đàn thanh niên ASEM đưa ra một số nội
dung cơ bản sau:
Thứ nhất, đó là chiến lược phát triển bền vững quốc gia. Việc xây dựng
và tổ chức thực thi các chiến lược và chính sách cần được đồng bộ và quản lý
để đạt hiệu quả cao.
Thứ hai, vấn đề chuyển giao công nghệ. Để phát triển một cách bền
vững, tất cả các nước cần phải ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, sử dụng
các công nghệ tiên tiến hơn để giảm ô nhiễm môi trường và nâng cao năng
suất lao động. Để đạt được mục tiêu này, diễn đàn đề nghị cần có những
chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao công
nghệ được dễ dàng hơn.
Thứ ba, về thông tin đại chúng. Các phương tiện thông tin đại chúng
có mặt khắp mọi nơi. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận
thức của người dân về mọi mặt. Đây cũng là hình thức kêu gọi, tìm kiếm các


giải pháp cho các vấn đề về phát triển và bảo vệ môi trường, thu hút được
đông đảo người dân tham gia. Vì vậy, cần phát triển hệ thống phương tiện
thông tin đại chúng và tạo mọi điều kiện cho người dân được tiếp cận với
những thông tin mới nhất.
Hai tổ chức trên đây đều thống nhất các nội dung phát triển bền vững
gồm kinh tế, xã hội, môi trường và thể chế. Thể chế của mỗi quốc gia là cơ sở
lập các kế hoạch, chính sách, đề ra các mục tiêu hướng tới cũng như phổ biến
hành động cho toàn dân. Chính vì vậy, hai tổ chức này đã đưa thể chế là một
nội dung ngang hàng với ba yếu tố chính tạo nên phát triển bền vững. Tuy
nhiên, nếu như diễn đàn thanh niên ASEM tách rời hai lĩnh vực kinh tế và xã
hội thành hai nội dung của phát triển bền vững thì Hội nghị thượng đỉnh về
môi trường và phát triển gộp hai lĩnh vực này thành một nội dung. Từ đó, thấy
được sự thay đổi trong cách nhìn nhận của thế giới đối với phát triển bền

vững, xác định mỗi một lĩnh vực là một trụ cột lớn cần phải quan tâm và
phát triển đúng mức.
3.1.3. Hai nhà môi trường học Canada: Jacobs và Sadler
Khác với hai diễn đàn trên, hai nhà môi trường học Jacobs và Sadler tiếp
cận phát triển bền vững theo bản chất của nó là sự phát triển có tính tổng hợp
và tính hệ thống. Theo những khái niệm đã trình bày ở trên, phát triển bền
vững là tổng hoà các mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội
và bảo vệ môi trường.
Theo mối quan hệ không tách rời nhau đó, Jacobs và Sadler đưa ra nội
dung của phát triển bền vững gồm ba nhân tố, ba cực của một tam giác: môi
trường, kinh tế và xã hội, trong đó, môi trường được đặt lên hàng đầu và nhân
tố thể chế được gộp trong xã hội.
Thứ nhất, cực môi trường. Như đã biết, quá trình phát triển của loài
người đã tác động và gây nhiều ảnh hưởng, hậu quả xấu tới sự trong lành, ổn
định, phong phú của môi trường. Nó buộc thế hệ hiện tại và cả thế hệ tương
lai phải coi trọng và bảo vệ có hiệu quả môi trường chung thế giới. Phát triển
bền vững được đưa ra cũng để thực hiện nhiệm vụ đó.
Thứ hai là cực kinh tế. Khả năng phát triển kinh tế của một xã hội
dựa trên nguồn nhân lực, vật lực và tài lực. Hội đủ ba yếu tố trên và kết hợp


một cách hiệu quả là vấn đề rất khó khăn. Trong cực này cần phải bảo đảm
tăng trưởng hiệu quả và ổn định.
Thứ ba là cực xã hội. Sự phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển
xã hội, nghĩa là nâng cao và cải thiện chất lượng cuộc sống cho tất cả mọi
người. Con người vẫn luôn là trung tâm của vũ trụ, là trọng tâm của tất cả
các chính sách, thể chế của quốc gia. Vì vậy, phát triển xã hội, nâng cao
chất lượng cuộc sống cho con người là nhiệm vụ và mục tiêu của bất kỳ một
quốc gia, một tổ chức nào.
Cách phân chia của hai nhà nghiên cứu theo đúng khái niệm và xu

hướng phát triển bền vững của thế giới. Yếu tố thể chế được coi như vấn đề
xã hội đảm bảo quá trình phát triển. Như vậy, nội dung phát triển bền vững
chính là sự phát triển cân đối, hài hoà giữa ba nhân tố tăng trưởng kinh tế,
công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, không xem nhẹ nhân tố nào. Mô hình
ba cực của hai nhà nghiên cứu đã được Mohan Munasingle, chuyên gia của
Ngân hàng thế giới (WB) phát triển thành sơ đồ 1.2.
Quan điểm này hiện nay được áp dụng phổ biến trên toàn thế giới.
Sự kết hợp của ba nhân tố với sức mạnh tổng hợp sẽ tạo nên sự ổn định, bền
vững của mỗi quốc gia.


- Tăng trƣởng
- Hiệu quả
- Ổn định
KINH TẾ
- Công bằng giữa các thế hệ
- Mục tiêu trợ giúp việc làm
- Đánh giá tác động môi trƣờng
- Tiền tệ hoá hoạt động môi trƣờng
- Giảm đói nghèo
- Xây dựng thể chế

- Bảo tồn di sản văn HỘI hoá dân tộc

MÔI
TRƯỜNG

- Công bằng giữa các thế hệ
- Sự tham gia của quần chúng
- Đa dạng sinh học và

thích nghi
- Bảo tồn tài nguyên thiên nhiên
- Ngăn chặn ô nhiễm

Sơ đồ 1.2. Sơ đồ phát triển bền vững của Mohan
Munasingle
(Nguồn: Giáo trình Kinh tế và quản lý môi trường, trường Đại
học Kinh tế quốc dân – 2003, tr.53)
Hiện nay, quan điểm về nội dung phát triển bền vững của các quốc
gia và tổ chức trên thế giới đều tập trung trên ba khía cạnh chính của
phát triển: kinh tế, xã hội và môi trường. Đây là quan điểm đúng đắn,
đòi hỏi nỗ lực tập trung của các quốc gia nhằm đưa đến một cuộc sống


tốt đẹp hơn. Đó cũng chính là cơ sở để Việt Nam xác định nội dung phát
triển bền vững cho mình.
3.2. Nội dung phát triển bền vững ở Việt Nam
Khi đã thoát ra khỏi tình trạng lạc hậu, đói kém của chiến tranh,
Việt Nam đang ngày càng đạt được những thành tựu mới và đã tích
cực tham gia phát triển, hội nhập với thế giới về nhiều mặt, nhiều lĩnh
vực. Từ đó, phát triển bền vững cũng được đặt ra như một vấn đề cấp
thiết. Năm 2004, Việt Nam đã xây dựng được cho mình chương trình
phát triển bền vững riêng, mang tên AGENDA-21. Trong đó, Việt
Nam nêu rõ mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững là “đạt được sự
đầy đủ về vật chất, sự giàu có về văn hoá và tinh thần, sự bình đẳng của
các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hoà giữa con người
và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà được ba
mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường” [7,
tr.21]. Như vậy, nội dung phát triển bền vững gồm ba nhân tố cụ thể:
về kinh tế, xã hội và môi trường.


Sơ đồ 1.3. Sơ đồ phát triển bền vững ở Việt Nam theo
AGENDA-21
Theo quan điểm chung của thế giới, Việt Nam đã xác định nội dung
phát triển bền vững gồm ba trụ cột chính, được quản lý theo phân cấp dọc từ
trung ương tới địa phương. Cụ thể:
- Phát triển bền vững kinh tế bao gồm 5 nội dung:
+ Duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định trên cơ sở nâng
cao không ngừng tính hiệu quả, hàm lượng khoa học-công nghệ và sử dụng
tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên và cải thiện môi trường.
+ Thay đổi mô hình và công nghệ sản xuất, mô hình tiêu dùng
theo hướng sạch hơn và thân thiện với môi trường.


+ Thực hiện quá trình "công nghiệp hoá sạch".
+ Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững.
+ Phát triển bền vững vùng và xây dựng các cộng đồng địa
phương phát triển bền vững.
- Phát triển bền vững xã hội bao gồm 5 nội dung:
+ Tập trung nỗ lực để xoá đói, giảm nghèo, tạo thêm việc làm.
+ Tiếp tục hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số, giảm bớt sức ép của
sự gia tăng dân số và tình trạng thiếu việc làm.
+ Định hướng quá trình đô thị hoá và di dân nhằm phân bố hợp
lý dân cư và lực lượng lao động theo vùng, bảo vệ môi trường bền vững ở các
địa phương, trước hết là các đô thị.
+ Nâng cao chất lượng giáo dục để nâng cao dân trí, trình độ
nghề nghiệp thích hợp với yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất
nước.
+ Phát triển về số lượng và nâng cao chất lượng các dịch vụ y
tế và chăm sóc sức khoẻ nhân dân, cải thiện các điều kiện lao động và vệ sinh

môi trường sống.
- Phát triển bền vững môi trường bao gồm 9 nội dung:
+ Sử dụng hợp lý, bền vững và chống thoái hoá tài nguyên đất.
+ Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên khoáng sản.
+ Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước.
+ Bảo vệ môi trường và tài nguyên biển, ven biển, hải đảo.
+ Bảo vệ và phát triển rừng.
+ Giảm ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp.
+ Quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại.
+ Bảo tồn đa dạng sinh học.
+ Giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại
của biến đổi khí hậu, góp phần phòng, chống thiên tai.
Nhân tố thể chế lúc đầu cũng được đưa vào nội dung của phát triển bền
vững nhưng sau này đã được loại bỏ. Theo tác giả, đây là sự lựa chọn đúng
đắn. Lý do, thể chế là yếu tố bên ngoài, là các chính sách, hoạt động của
Nhà nước, là những quy định, luật lệ trong xã hội có tác động tới cả ba
mặt của quá trình phát triển. Không cần thiết phải có các chỉ tiêu liên quan


đến vấn đề thể chế vì ảnh hưởng của nhân tố này sẽ được biểu hiện trực
tiếp trên các kết quả kinh tế, xã hội hay môi trường thông qua hệ thống chỉ
tiêu thống kê phát triển bền vững.
IV. Hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững
4.1. Một số vấn đề chung về hệ thống chỉ tiêu thống kê
Khái niệm hệ thống chỉ tiêu thống kê
Hệ thống chỉ tiêu thống kê là một tập hợp các chỉ tiêu phản ánh các
mặt, các tính chất quan trọng nhất, các mối liên hệ cơ bản giữa các mặt,
giữa hiện tượng nghiên cứu với các hiện tượng có liên quan.
Tác dụng chung của hệ thống chỉ tiêu thống kê là lượng hoá các mặt, các
tính



chất, cơ cấu và các mối liên hệ cơ bản của đối tượng nghiên cứu giúp nhận
thức được bản chất cụ thể và tính quy luật phát triển của hiện tượng.
Như vậy, hệ thống chỉ tiêu là một tập hợp nhiều chỉ tiêu nhưng không
phải là các chỉ tiêu bất kỳ nào đó mà là một tập hợp có tính hệ thống nhằm
phản ánh hai nội dung lớn: về các mặt, các tính chất quan trọng nhất của
tổng thể và về mối liên hệ cơ bản giữa các mặt trong tổng thể cũng như
giữa tổng thể nghiên cứu và hiện tượng có liên quan (trong phạm vi mục
đích nghiên cứu).
Những yêu cầu trong xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê
Để có được hệ thống chỉ tiêu thống kê phù hợp, có thể sử dụng để
đánh giá tình hình phát triển thực tế, hệ thống chỉ tiêu cần đáp ứng bốn yêu
cầu sau đây:
Thứ nhất, phải xuất phát từ mục đích nghiên cứu cụ thể và đặc điểm
của hiện tượng nghiên cứu để lựa chọn những chỉ tiêu phù hợp đưa vào hệ
thống.
Thứ hai, hệ thống chỉ tiêu phải phản ánh được những đặc điểm, tính
chất chủ yếu, những mối liên hệ cơ bản giữa các mặt của hiện tượng, giữa
hiện tượng nghiên cứu và hiện tượng có liên quan.
Thứ ba, hệ thống chỉ tiêu phải có tính khả thi, tức là có thể thu thập
được tài liệu để tổng hợp các chỉ tiêu trong điều kiện nhân, tài vật lực sẵn có
với sự tiết kiệm hợp lý.
Thứ tư, số lượng các chỉ tiêu không nên quá nhiều và phức tạp, tạo điều
kiện dễ dàng trong tính toán và phân tích.
Dựa vào các yêu cầu này, luận án sẽ đánh giá tính hợp lý, khả thi của
hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững áp dụng vào Việt Nam sau này.
4.2.

Các nghiên cứu về hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững

trên thế giới
Bắt đầu vào năm 1995, đáp ứng yêu cầu của Hội đồng phát triển bền


vững của Liên hợp quốc (UN CSD), Ủy ban kinh tế và các vấn đề xã hội
Liên hợp quốc hợp tác với các chuyên gia từ các tổ chức quốc tế và các
thành viên khác đã xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê gồm 134 chỉ tiêu
quốc gia về phát triển bền vững.
Trong suốt 2 năm 1995 - 1996, các tổ chức tham gia tư vấn đã phác thảo
phương pháp tính cho từng chỉ tiêu. Những chỉ tiên này được tổng hợp
trong “sách xanh” được ban hành phổ biến, rộng rãi.
Từ năm 1996 đến 1999, 22 quốc gia trên thế giới đã tự nguyện kiểm
định hệ thống chỉ tiêu này theo hàng loạt các tóm tắt hướng dẫn và hội thảo
đào tạo. Sau khi thực hiện, phần lớn các quốc gia đều cho rằng hệ thống chỉ
tiêu này bao gồm quá nhiều chỉ tiêu và khó có thể quản lý được. Kết quả là,
năm 2001, UN CSD đã đưa ra hệ thống chỉ tiêu khuyến nghị gồm 15 chủ đề
chính, 38 chủ đề nhánh và 58 chỉ tiêu (Phụ lục 1). Hệ thống chỉ tiêu này
được sửa đổi một lần nữa vào năm 2006, được Ủy ban kinh tế và các vấn
đề xã hội giới thiệu trong ấn phẩm “Chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững:
Hướng dẫn và phương pháp luận” được xuất bản năm 2007. Đây là hệ
thống chỉ tiêu tổng quát, phản ánh đa dạng các khía cạnh của phát triển bền
vững và là cơ sở để các quốc gia xây dựng hệ thống chỉ tiêu phát triển bền
vững cho riêng mình.
Các tổ chức khác của Liên hợp quốc cũng giới thiệu hệ thống chỉ tiêu
đánh giá phát triển bền vững. Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP)
lại chia hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững thành 2 nhóm chính: nhóm chỉ
tiêu phản ánh chất lượng cuộc sống và nhóm chỉ tiêu bền vững về sinh thái.
Trong đó, cơ quan này tập trung nhiều ở 2 chỉ tiêu chỉ số phát triển con
người (HDI – human development index) và các chỉ tiêu về quyền tự do của
con người (HFI – human freedom index), bao gồm: việc làm, tôn trọng

quyền con người, an ninh, không có bạo lực.... Bên cạnh đó, chương trình
môi trường Liên hợp quốc (UNEP) chuẩn bị hệ thống thước đo nền kinh tế
xanh. Gần đây, tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) giới thiệu chỉ
số cuộc sống tốt đẹp hơn (BLI - Your Better Life Index) và hệ thống chỉ
tiêu cho chiến lược phát triển xanh (Green Growth Strategy),…
Ngoài ra, các tổ chức xã hội và phi chính phủ cũng nghiên cứu và giới


thiệu các chỉ số quốc gia như chỉ số Dấu chân sinh thái (EF - Ecological
Footprint), chỉ số xã hội bền vững... Giới học viện cũng đưa ra các chỉ số như
Chỉ số hạnh phúc toàn cầu (HPI - Happy Planet Index), Chỉ số bền vững về
môi trường và chỉ số phúc lợi kinh tế bền vững (the Index of Sustainable
Economic Welfare)...
Dựa vào khuyến nghị của UN CSD và thực tế phát triển, nhiều quốc
gia đã đưa ra các chiến lược phát triển bền vững AGENDA-21 cùng hệ
thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững với số lượng và nội dung khác
nhau: Indonesia (21 chỉ tiêu), Trung Quốc (80 chỉ tiêu), Thái Lan (16 chỉ
tiêu), Thụy Điển (30 chỉ tiêu), Anh (15 chỉ tiêu), Mỹ (32 chỉ tiêu)...
So sánh các hệ thống chỉ trên, nhận thấy có một số chỉ tiêu đặc thù các
quốc gia đều sử dụng như: hệ số GINI, tỷ lệ thất nghiệp, GDP bình quân đầu
người, phát thải khí CO .... Đây là những chỉ tiêu chung, phản ánh tổng
2
quát tình trạng phát triển bền vững trên cơ sở hệ thống chỉ tiêu khuyến nghị
của UN CSD. Ngoài ra, một điểm chung dễ nhận thấy ở các hệ thống chỉ tiêu
này là số lượng chỉ tiêu trong lĩnh vực môi trường chiếm tỷ trọng không lớn
(2/21 chỉ tiêu của Indonesia, 2/16 chỉ tiêu của Thái Lan, 6/30 chỉ tiêu của
Thụy Điển,...). Chỉ có ở Trung Quốc và Anh, số lượng các chỉ tiêu lĩnh
vực môi trường có cân đối hơn. Điều đó cho thấy sự lựa chọn chỉ tiêu của
các quốc gia còn phụ thuộc vào quan điểm, thực trạng và trình độ phát triển
của từng nước. Cũng như có một số chỉ tiêu đặc thù mà mỗi quốc gia sẽ đưa

ra riêng. Ví dụ như ở Thụy Điển, tuy chỉ có 6 chỉ tiêu thuộc lĩnh vực môi
trường nhưng do mối quan tâm về khai thác hải sản mà quốc gia này thêm chỉ
tiêu “Khai thác cá trích ở biển Ban Tíc” trong hệ thống chỉ tiêu phát triển bền
vững của mình.
Như vậy, theo kinh nghiệm thế giới, hệ thống chỉ tiêu thống kê phát
triển bền vững cần dựa vào khuyến nghị của UN CSD để lựa chọn những chỉ
tiêu then chốt, tổng quát nhất. Tiếp đó, cần dựa vào những đặc điểm riêng có
của từng quốc gia để thêm vào hệ thống chỉ tiêu những chỉ tiêu phù hợp.
4.3.

Các nghiên cứu về hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững ở
Việt Nam


Theo xu hướng thế giới, Việt Nam đã nghiên cứu để xây dựng hệ
thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững cho riêng mình. Quá trình này
được các Bộ, ban, ngành và các tổ chức rất quan tâm. Kết quả là có nhiều hệ
thống chỉ tiêu được đưa ra.
Được ban hành đầu tiên vào năm 1998 là hệ thống chỉ tiêu phát
triển bền vững do Cục môi trường thử nghiệm theo hướng dẫn của UN
CSD. Hệ thống chỉ tiêu này bao gồm 80 chỉ tiêu ở 4 lĩnh vực: lĩnh vực kinh
tế (3 chỉ tiêu); lĩnh vực xã hội (17 chỉ tiêu), lĩnh vực môi trường (44 chỉ tiêu)
và lĩnh vực quản lý môi trường (16 chỉ tiêu). Đây là hệ thống chỉ tiêu phát
triển bền vững đầu tiên của Việt Nam - một bộ chỉ tiêu quá đồ sộ. Điều đó
gây nhiều khó khăn trong tổng hợp và xử lý số liệu. Thêm vào đó, hệ thống
chỉ tiêu này chỉ có 3 chỉ tiêu đánh giá về kinh tế, trong khi lĩnh vực môi
trường lại có tới 60 chỉ tiêu. Phát triển bền vững là sự phát triển không chỉ
thiên về kinh tế mà còn phải quan tâm tới xã hội và môi trường. Nhưng
không phải vì quan tâm thêm 2 lĩnh vực kia mà số lượng chỉ tiêu về kinh
tế lại chiếm thiểu số vậy. Ba chỉ tiêu kinh tế trong hệ thống chưa phản ánh

được cụ thể tình hình tăng trưởng kinh tế của đất nước. Sự không hợp lý
này khiến cho việc đánh giá phát triển bền vững mất cân đối khi chỉ quan tâm
tới lĩnh vực môi trường.
Theo thời gian, chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001- 2010 cũng
đưa ra hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững với mục đích theo dõi, đánh giá
tình hình phát triển của đất nước. Hệ thống chỉ tiêu này gồm 21 chỉ tiêu
trên 3 lĩnh vực trụ cột (Phụ lục 2). Tuy nhiên, hệ thống chỉ tiêu này mới
chỉ quan tâm tới các vấn đề về tăng trưởng kinh tế cũng như bảo đảm công
bằng xã hội, chưa chú trọng về bảo vệ tài nguyên và môi trường. Trong 21 chỉ
tiêu đưa ra chỉ có 2 chỉ tiêu trong lĩnh vực môi trường là “Độ che phủ của
rừng” và “Diện tích rừng tự nhiên được bảo vệ”. Hai chỉ tiêu này đều đánh giá
về rừng, trong khi môi trường là lĩnh vực rộng lớn, nó bao gồm các yếu tố tự
nhiên (rừng, đất, nước, không khí, đa dạng sinh học...) cũng như các ảnh
hưởng của hoạt động con người tới môi trường (chất thải, nước thải,...). Hệ
thống chỉ tiêu đưa ra còn thiên lệch, chưa bao phủ và đánh giá đầy đủ về môi
trường trong phát triển bền vững.


Với xu hướng phát triển bền vững chung, chiến lược toàn diện tăng
trưởng và xóa đói giảm nghèo cũng đề xuất một hệ thống chỉ tiêu phát triển
bền vững với 33 chỉ tiêu trên ba lĩnh vực (Phụ lục 3). Tuy nhiên, do mục đích
của chiến lược này là về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo nên phần lớn
các chỉ tiêu đều tập trung nghiên cứu về các vấn đề xã hội (mức sống dân
cư, giáo dục, y tế) mà bỏ qua rất nhiều các chỉ tiêu về kinh tế cũng như về
môi trường. Chỉ có 3/33 chỉ tiêu kinh tế, đánh giá về “tăng trưởng GDP”, “tỷ
lệ tích lũy nội bộ trên GDP” và “cơ cấu kinh tế trong GDP”. Các chỉ tiêu này
chỉ mới đánh giá một mặt của tăng trưởng kinh tế là GDP. Các mặt khác
cũng ảnh hưởng lớn tới tăng trưởng kinh tế chưa được đề cập (tỷ lệ lạm phát,
cán cân vãng lai...). Tương tự vậy với lĩnh vực tài nguyên và môi trường,
khi cũng chỉ có hai chỉ tiêu đánh giá là “tỷ lệ che phủ rừng” và “tỷ lệ khu

công nghiệp, đô thị, làng nghề được xử lý nước thải, chất thải rắn, chất
thải vệ sinh”. Các chỉ tiêu về kinh tế và môi trường chưa đầy đủ để có thể
phản ánh được toàn diện về phát triển bền vững.
Nhận thấy sự thiếu hụt trong các hệ thống chỉ tiêu trước đó, Bộ chỉ tiêu
theo Agenda 21 của Việt Nam gồm 69 chỉ tiêu (Phụ lục 4) đã có sự thay
đổi phù hợp hơn. Các chỉ tiêu phản ánh đầy đủ về ba nội dung cơ bản của
phát triển bền vững. Tuy nhiên, do đi quá cụ thể vào từng lĩnh vực mà hệ
thống chỉ tiêu này cồng kềnh, gây khó khăn trong thu thập, tổng hợp số liệu
đánh giá thực tế. Ngoài ra, tên gọi của nhiều chỉ tiêu chưa rõ ràng (Gánh nặng
nợ nần cho thế hệ mai sau, Mưa axid, Khả năng cạnh tranh, Đấu tranh chống
tội phạm...), tạo sự không thống nhất trong các nghiên cứu phân tích sau
này.
Tiếp đó, trong khuôn khổ Dự án VIE/01/021, triển khai tại Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, đề tài “Xác định bộ chỉ tiêu phát triển bền vững và xây dựng
cơ sở dữ liệu giám sát phát triển bền vững ở Việt Nam” được tiến hành nhằm
xác định một bộ chỉ tiêu phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam và
thông lệ quốc tế. Bộ chỉ tiêu mới bao gồm 43 chỉ tiêu (Phụ lục 5) trong 4
lĩnh vực: Kinh tế (12 chỉ tiêu), Xã hội (18 chỉ tiêu), Tài nguyên – Môi trường
(11 chỉ tiêu), Thể chế (2 chỉ tiêu).
Hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững này đã khắc phục nhược


điểm của những hệ thống chỉ tiêu trước đó. Tuy nhiên, phát triển bền vững
là sự phát triển toàn diện, dựa trên 3 mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Ngoài
3 lĩnh vực chính, hệ thống chỉ tiêu nêu trên lại có thêm 2 chỉ tiêu về mặt thể
chế: “Công cụ phát triển bền vững”, “Số các địa phương có chương trình
nghị sự 21”. Hai chỉ tiêu này là điểm đặc thù riêng, đánh giá cụ thể sự quan
tâm của các ban/ngành tới vấn đề phát triển bền vững. Tuy nhiên, nó không
có nhiều ý nghĩa trong phản ánh thực tế phát triển bền vững. Thêm vào đó,
chỉ tiêu thứ nhất “công cụ phát triển bền vững” không rõ nghĩa cũng như

phương pháp xác định. Ngoài ra, các tác giả của đề tài này cũng chưa nêu
rõ công thức, đơn vị tính cũng như nguồn số liệu của các chỉ tiêu này. Đây là
điều cần quan tâm vì cùng một chỉ tiêu nhưng nguồn số liệu khác nhau cũng
có thể đưa ra những con số khác nhau do sự chồng chéo trong quản lý giữa
các cơ quan ở Việt Nam hiện nay.
Gần đây, vào năm 2011, tại cuộc họp của Hội đồng Phát triển bền vững
quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã kiến nghị cần giám sát phát triển bền
vững thông qua 29 chỉ tiêu gồm 8 chỉ tiêu về kinh tế, 10 chỉ tiêu về xã hội
và 8 chỉ tiêu về tài nguyên - môi trường. Trong đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
đã đề xuất 3 chỉ tiêu tổng hợp là: GDP xanh, chỉ số phát triển con người và
chỉ số bền vững môi trường. Đây là bước tiến lớn trong thực hiện đánh giá
phát triển bền vững tại Việt Nam. Chỉ tiêu GDP xanh lần đầu tiên được đưa
vào hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững, thể hiện sự quan tâm tới vấn đề môi
trường của các cơ quan quản lý Nhà nước.
Theo thời gian, hệ thống chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững dần được
hoàn thiện và đi vào thực tế. Với mong muốn có được hệ thống chỉ tiêu
thống kê thống nhất, ngày 12/4/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định 432/QĐ-TTg năm 2012 phê duyệt Chiến lược Phát triển bền
vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. Theo đó, hệ thống chỉ tiêu giám sát
và đánh giá phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 đưa ra gồm
30 chỉ tiêu với nguồn số liệu và lộ trình thực hiện cụ thể ở bảng 1.2.
Về cơ bản, hệ thống chỉ tiêu này giống với kiến nghị của Hội đồng phát
triển bền vững quốc gia. So sánh với hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững
do UN CSD khuyến nghị năm 2001 (phụ lục 1), nhận thấy có những khác biệt
do thời gian cũng như do đặc điểm riêng của Việt Nam.


Bảng 1.2. Hệ thống chỉ tiêu thống kê giám sát và đánh giá phát triển bền vững ở Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020
2


TT Chỉ tiêu

Công thức tính

I

Các chỉ tiêu tổng hợp

1

GDP xanh (VND hoặc USD)

2

Chỉ số phát triển con người
(HDI)

3

(0-1)
Chỉ số bền vững môi trường (0- 1)

II

Các chỉ tiêu kinh tế

GDP

5


Bộ
kê)Kế hoạch và Đầu
tư (Tổng cục Thống
Bộ
kê)Kế hoạch và Đầu
tư (Tổng cục Thống

tư (Tổng cục Thống

tăng thêm 1 đồng GDP)
Năng suất lao động xã hội

2015
2015
2015

2011

kê)
Bộ Kế hoạch và Đầu

(USD/lao động)

tốc độ tăng trưởng chung (%)

tư (Tổng cục Thống

Bộ Kế hoạch và Đầu

(số đồng vốn đầu tư thực hiện


suất các nhân tố tổng hợp vào

Bộ Kế hoạch và Đầu

kê)

tư (Tổng cục Thống

Tỷ trọng đóng góp của năng
6

= GDP thuần - Chi phí tiêu dùng tài

nguyên và mất mát về môi trường do các hoạt

Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
4

xanh

Cơ quan chịu trách Lộ
nhiệm thu thập, tổng trình
hợp

-

kê)
Bộ Kế hoạch và Đầu
tư (Tổng cục Thống

kê)

2011

2015


×