Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

VẤN ĐỀ NỢ CÔNG Ở MỘT SỐ NƯỚC HIỆN NAY.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (976.99 KB, 37 trang )

Đề tài: Vấn đề nợ công ở một số nước hiện nay.

Môn: Tài chính tiền tệ

LỜI MỞ ĐẦU
Để đạt được tham vọng tăng trưởng kinh tế một cách nhanh chóng trong điều kiện
các khoản thu ngân sách Nhà nước không thể đáp ứng yêu cầu thì tất cả các quốc gia trên
thế giới từ các nước kém phát triển cho đến những cường quốc luôn phải thu hút nguồn
vốn bằng nhiều cách khác nhau, trong đó vay nợ là công cụ đòn bẩy tài chính được sử
dụng một cách phổ biến nhất. Việc sử dụng công cụ này đã giúp cho các quốc gia bù đắp
được thâm hụt ngân sách, đầu tư vào hạ tầng cơ sở thiết yếu và xóa đói giảm nghèo góp
phần không nhỏ trong việc kích thích tăng trưởng và phát triển kinh tế, trong đó điển hình
nhất có thể kể đến là Singapore, Hàn Quốc, Trung Quốc,…Tuy nhiên nợ công không phải
lúc nào cũng có tác dụng giúp tăng trưởng kinh tế mà ngược lại, nó có thể tạo ra những bất
ổn cho nền kinh tế. Khi quốc gia vay nợ không thể trả được những khoản nợ đến hạn, đặc
biệt là nợ nước ngoài và bị nhấn chìm trong vòng xoáy nợ nần thì khủng hoảng nợ công
xuất hiện.
Trong thực tế, nền kinh tế thế giới đã chứng kiến nhiều cuộc khủng hoảng nợ công
xảy ra ngay cả với các nước có nền kinh tế tiên tiến nhất, trong đó có khu vực Châu Âu,
Châu Á, Mỹ, … Khủng hoảng nợ công Châu Âu, bắt nguồn từ Hy Lạp, bùng nổ ngay sau
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và kéo dài tới hiện nay đã để lại những hậu quả
không nhỏ cho các quốc gia trong khu vực cũng như ảnh hưởng đến kinh tế toàn cầu. Câu
hỏi đặt ra là, tại sao các nước lại không sử dụng thành công công cụ vay nợ? Nguyên nhân
nào khiến một khối kinh tế được coi là lý tưởng hàng đầu thế giới lại rơi vào tình trạng
khủng hoảng nợ công hiện nay? Và các quốc gia trong khu vực đã sử dụng những đối sách
gì để ứng xử với tình trạng này?

Nhóm: Lớp LT3G

1



Đề tài: Vấn đề nợ công ở một số nước hiện nay.

Môn: Tài chính tiền tệ

A. TỔNG QUAN VỀ NỢ CÔNG.
1. Khái niệm
Nợ công là tất cả các khoản nợ tích tụ từ các khoản vay trong nước và nước ngoài
của khu vực công mà trách nhiệm trả nợ trực tiếp hoặc gián tiếp thuộc về nhà nước.
2. Đặc điểm:
- Là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của nhà nước.
- Nợ công được quản lý chặt chẽ với sự tham gia của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
- Mục tiêu cao nhất trong huy động và sử dụng nợ công là phát triển kinh tế xã hội
vì mục đích cộng đồng
3. Vai trò của nợ công
- Kích thích phát triển kinh tế xã hội: Mục đích đi vay của khu vực công trước hết là
đáp ứng nhu cầu vốn chi đầu tư phát triển thực hiện các chương trình mục tiêu đã được
xác định trong từng giai đoạn.
- Bù đắp bội chi ngân sách nhà nước, giữ vững cân đối giữa thu và chi ngân sách
nhà nước.
- Góp phần điều tiết vĩ mô kinh tế xã hội.
+ Góp phần điều tiết mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dùng.
+ Điều tiết cơ cấu kinh tế thông qua vay nợ tập trung một phần nguồn tài chính từ
quỹ tiết kiệm, quỹ tiêu dùng để phân phối chuyển sang quỹ tích lũy cho đầu tư phát triển
kinh tế xã hội , hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý.
+ Nợ công góp phần điều tiết và định hướng lưu thông tiền tệ cũng như góp phần
thực hiện chính sách xã hội của Nhà nước.
4. Phân loại nợ công:
- Theo thời hạn:

+ Nợ ngắn hạn :là các khoản nợ có thời hạn vay dưới một năm để bù đắp các khoản
bội chi tạm thời của Ngân sách Nhà nước.
+ Nợ trung hạn và dài hạn : là các khoản nợ có thời hạn vay một năm trở lên đẻ huy
động vốn cho đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng.

Nhóm: Lớp LT3G

2


Đề tài: Vấn đề nợ công ở một số nước hiện nay.

Môn: Tài chính tiền tệ

- Theo phạm vi huy động vốn:
+ Nợ vay trong nước: phát hành trái phiếu chính phủ để vay dân cư, các tổ chức
kinh tế và ngân hàng trong nước.
+ Nợ vay ngoài nước : huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu chính phủ ra
nước ngoài, ký hợp đồng vay nợ.
5. Chỉ tiêu dùng để đánh giá nợ công:
- Đối với nước ngoài:
+ Tổng số nợ nước ngoài : là tổng số dư nợ của chính phủ nước ngoài tại 1 thời
điểm nhất định.
+ Nghĩa vụ trả nợ : là tổng số nợ gốc và lãi đến hạn phải trả trong 1 năm.
+ Khả năng hấp thu vốn vay nước ngoài: chỉ tiêu này thường được tính vào thời
điểm cuối năm.
+ Khả năng hoàn trả nợ nước ngoài: chỉ tiêu này phản ánh mức độ bền vững của nợ
nước ngoài.
Ht =
+ Chỉ tiêu nghĩa vụ trả nợ/kim ngạch sản xuất.

+ Chỉ tiêu dữ trữ ngoại hối/ tổng số nợ nước ngoài: thể hiện khả năng của nước đi
vay có thể dùng dữ trữ ngoại hối để trả nợ nước ngoài.
+Tỷ lệ trả nợ:

Tr =

- Đối với nợ trong nước:
+ Tổng số nợ trong nước /GDP
+ Tổng số nợ trong nước / Tổng số nợ khu vực công .
+ Tổng số nợ trong nước / Tổng chi ngân sách nhà nước.
+ Tổng số nợ trong nước / Tổng vốn đầu tư .
6. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả chất lượng quản lý nợ công.
- Hoàn thiện chính sách và công cụ quản lý nợ công.

Nhóm: Lớp LT3G

3


Đề tài: Vấn đề nợ công ở một số nước hiện nay.

Môn: Tài chính tiền tệ

- Nâng cao hiệu quả huy động vốn và sử dụng vốn vay đặc biêt là sử dụng nguồn
vốn ODA, xây dựng chương trình đầu tư công trên cơ sở rà soát lại các chương trình mục
tiêu quốc gia.
- Tăng cường công tác giám sát quản lý rủi ro về nợ công, trước hết là nghiên cứu
xây dựng và phát triển phương án xử lý rủi ro.
- Tăng cường phát triển thị trường trái phiếu trong nước: phát triển trái phiếu sơ cấp
là ưu đãi hàng đầu.

- Xây dựng trái phiếu chính phủ.
- Chú trọng công tác quản lý chính quyền địa phương, đa dạng hóa hình thức đầu tư
phát triển.
- Đẩy mạnh các thủ tục hành chính hiện đại hóa và nâng cao hiệu quả cơ quan quản
lý nợ.
- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế và nghiên cứu để từng bước cải thiện hệ số tín nhiệm
quốc gia.

Nhóm: Lớp LT3G

4


Đề tài: Vấn đề nợ công ở một số nước hiện nay.

Môn: Tài chính tiền tệ

B. THỰC TRẠNG NỢ CÔNG Ở MỘT SỐ QUỐC GIA HIỆN NAY.
I. THỰC TRẠNG VỀ NỢ CÔNG CỦA CHÂU ÂU.
 Nguyên nhân dẫn tới cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu:
Khủng hoảng nợ công ở Châu Âu là gì? Đó là sự thất bại của đồng euro, đồng tiền
ràng buộc 17 quốc gia của Châu Âu vào một mối quan hệ mật thiết nhưng đầy khuyết
điểm. Trong ba năm vừa qua Hy Lạp, Bồ Đầu Nha, Ai- Len, Ý và Tây Ban Nha đều chao
đảo trước nguy cơ xảy ra một cuộc sụp đổ tài chính đe dọa sự kéo xuống cả Châu lục thậm
chí là cả thế giới. Vậy nó xảy ra như thế nào?
+ Sự hợp nhất của Châu Âu: Phần lớn lịch sử của Châu Âu đều nhắc đến các cuộc
nội chiến, những nước giao tranh thường hạn chế làm ăn với nhau khắp Châu Âu đầy rẫy
các rào cản thương mại về thuế quan và các đồng tiền. Giao thương xuyên biên giới rất
khó khăn bạn cần phải trả một khoản phí để đổi tiền và phải trả thuế nhập khẩu để mua
hàng từ nước ngoài sự gò bó đó đã bóp nghẹt sự phát triển kinh tế. Thế chiến thứ hai đã

làm cho châu Âu trở lên kiệt quệ vì tình thế vô cùng khắc nghiệt. Vì vậy cách duy nhất để
phục hồi Châu Âu là xóa bỏ những rào cản này: thuế sắt và than được bãi bỏ cho phép một
nhà máy Sắt ở nước này có thể bán sản phẩm xây dựng cho công ty của nước khác. Những
người sống sót sau cuộc chiến này đã nảy ra một ý tưởng hợp nhất Châu Âu, một liên hợp
xuyên suốt lục địa sẽ chấm dứt mọi cuộc chiến tranh sau này. Các nước bắt tay nhau để đạt
được ý tưởng này hủy bỏ mọi rào cản, giảm chi phí giao thương giữa các nước. Hàng rào
cuối cùng bị dỡ bỏ là “ Bức tường Bec-lin” với một nước Đức không còn chia cắt, 27 nước
cùng bắt tay nhau ký hiệp định Maastricht thành lập lên liên minh Châu Âu, điều này làm
cho giao thương giữa các nước trở lên dễ dàng. Tuy nhiên chướng ngại vật lớn nhất vẫn
còn tồn tại, các loại tiền tệ khác nhau, một thập kỷ sau tất cả chỉ còn lại một sử dụng đồng
tiền Euro. Các nước sử dụng đồng Euro sẽ nằm trong “khu vực Euro” và ngưng tiêu tiền
cũ, họ cũng xóa bỏ chính sách tiền tệ của đất nước mình và dành quyền đó cho Ngân hàng
trung ương Châu Âu. Khu vực Euro giờ có một chính sách tiền tệ duy nhất, nhưng vẫn có
rất nhiều chính sách tài khóa khác nhau, đây chính là nguyên nhân chính gây ra cuộc
khủng hoảng nợ công ở Châu Âu.
+ Tiền tệ và tài khóa: Việc hiểu sự khác nhau giữa chính sách tiền tệ và chính sách
tài khóa rất quan trọng.
Chính sách tiền tệ điều khiển lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế và điều chỉnh
lãi suất cho vay.
Nhóm: Lớp LT3G

5


Đề tài: Vấn đề nợ công ở một số nước hiện nay.

Môn: Tài chính tiền tệ

Chính sách tài khóa kiểm soát việc thu thuế và chi tiêu của chỉnh phủ. Chỉnh phủ
chỉ có thể tiêu bằng số tiền họ kiếm được từ thuế, khi tiêu nhiêu hơn họ phải đi vay, điều

này gọi là chi tiêu thâm hụt.
Trước khi Euro xuất hiện, những nước như Hy Lạp không những vay phải trả lãi
cao, họ cũng không được vay nhiều vì chủ nợ không thích. Nhưng khi họ trở thành một
phần của Euro, số tiền họ được vay tăng vọt, những nước nhỏ tự nhiên được tiếp xúc với
số tiền vô cùng lớn. Hy Lạp và các nước khác trước kia chỉ có thể vay khoản nhỏ với lãi
suất 18% giờ đây chỉ phải chị lãi suất bằng với Đức.
+ Thẻ tín dụng Đức: Tham gia Euro dùng chung thẻ tín dụng của Đức, làm chủ nợ
tin rằng nếu Hy Lạp không trả được nợ Đức và các nền kinh tế khác sẽ đứng ra trả hộ vì tất
cả đều sử dụng một đồng tiền chung. Với nguồn tín dụng rẻ Hy Lạp và các nước khác đã
có thể điều chỉnh chính sách tài khóa của họ và tăng chi tiêu tới mức không tưởng. Một vài
nước lập nên những dự án chi tiêu thâm hụt lớn được đề xuất bởi những chính trị gia muốn
được tín nhiệm, họ hứa hẹn rằng sẽ tạo thêm việc làm và lương hưu hậu hĩnh . Tất cả
những thứ đó được chi trả bởi số tiền mới vay được.
Chính phủ Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Ý tích lũy một lượng nợ khủng lồ nhưng họ vẫn
có thể trả nợ bằng cách vay thêm tiền. Khi điều này tiếp diễn nó tiếp tục mở đường cho
việc chi tiêu, các chính sách tài khóa thiếu cân đối của chính phủ. Ở Ai- len, Tây Ban Nha
tín dụng giá rẻ đã tạo nên vô số bong bóng nhà đất y hệt như trường hợp của Mỹ. Nợ
chồng chất nền kinh tế Châu Âu bị xen lẫn phụ thuộc vào nhau, các công ty bắt đầu mở ra,
hàng loạt nhà máy và trụ sở khắp Châu Âu. Ngân hàng Đức cho công ty Pháp vay, ngân
hàng Pháp cho công ty Tân Ban Nha vay,…Điều này làm cho việc giao thương cực kỳ
hiệu quả, được tiếp diễn cho đến khi nguồn tín dụng vẫn còn dồi dào và nó chỉ dồi dào đến
năm 2008. Bị sự ảnh hưởng của thị trường nhà đất Mỹ, cuộc khủng hoảng tín dụng lan ra
khắp thế giới, đặt đấu chấm hết cho việc vay nợ ở tất cả mọi nơi. Nền kinh tế Hy Lạp lập
tức dừng hoạt động, nó không thể vay tiền hộ trợ những công việc và lợi ích nó tạo ra, nó
không thể vay tiền để trả nợ cũ. Đây là vấn đề riêng của Hy Lạp nhưng vì tất cả cùng có
chung một chính sách tiền tệ hợp nhất nên nó trở thành vẫn nạn cho cả Châu Âu. Hầu hết
cả Châu Âu đều tận hưởng sự vung tiền quá chán và vay tiền mà không có khả năng trả.
Khủng hoảng nợ công ở Châu âu là cuộc khủng hoảng với điểm bùng nổ
đầu tiên là ở Hy Lạp vào đầu năm 2010 khi chi phí cho các khoản nợ chính phủ liên tục
gia tăng, cụ thể là lợi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp liên tục tăng cao

từ 3,47% vào tháng 01 năm 2010, lên 9,37% vào thảng 07 năm 2010 và nhảy vọt lên
Nhóm: Lớp LT3G

6


Đề tài: Vấn đề nợ công ở một số nước hiện nay.

Môn: Tài chính tiền tệ

26,65%/năm vào thảng 07 năm 2011. Cuộc khủng hoảng sau đó đã lan ra các nước Bồ
Đầu Nha, Tây Ban Nha và tiếp theo là Ý trong khu vực euro. Yêu cầu cấp thiết là phải có
một người đứng ra chịu trách nhiệm nếu không cả khu vực Euro sẽ bị ảnh hưởng vì tất cả
con nợ đều mất khả năng chi trả mọi ảnh mắt hướng về Đức.
 Thực trạng và diền biến cuộc khủng hoảng nợ công ở các nước Châu Âu
Khủng hoảng nợ công ở Châu Âu là cuộc khủng hoảng với điểm bùng nổ đâu tiên là
Hy Lạp vào đầu năm 2010 khi chi phí cho các khoản nợ chính phủ liên tục tăng nên, cụ thể
là lợi suất trá phiếu chính phủ kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp liên tục tăng cao từ 3,47% vào
tháng 01 năm 2010, lên 9,73% vào tháng 07 năm 2010 và nhảy vọt nên 26,65% vào tháng
07 năm 2011 cuộc khủng hoảng đã lan sang các nước Tây Ban Nha, Bồ Đầu Nha, Ý trong
khu vực Euro.
Cho đến thời điểm này, cuộc khủng hoảng nợ công đã tiếp diễn được 5 năm, các nỗ
lực cứu trợ cũng như các chương trình thắt lưng buộc bụng của các chính phủ vẫn không
đưa ra nhưng tình hình thậm chí là ngày càng xấu đi. Trong cuộc khủng hoảng này Hy Lạp
là cái tên được nhắc đến nhiều nhất.
 Cuộc khủng hoảng nợ công ở Hy lạp diễn ra như thế nào?
Do sự yếu kém trong quản lý công khiến nợ công quá cao là nguyên nhân chính gây
ra cuộc khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp.
Hy Lạp được đặt vào tình trạng nợ công từ cuối năm 2009, khi chính phủ mới của
nước này thừa nhận rằng chính phủ tiềm nhiệm đã công bố những số liệu kinh tế không

trung thực, đặc biệt là về thâm hụt ngân sách. Thực tế thâm hụt ngân sách của nước này
năm 2009 là 13,6% chứ không phải 6,7% GDP như đã công bố, cao hơn nhiều hạn mức
3% GDP cho phép đối với các nước thành viên EU.
Tuy nhiên cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009 đã ảnh hưởng mạnh mẽ
lên các ngành công nghiệp chủ chốt của Hy Lạp. Doanh thu ngành du lịch và vận tải biển
– 2 ngành chủ chốt của nền kinh tế này sụt giảm 15% vào năm 2009. Kinh tế Hy Lạp lâm
vào khó khăn, các nguồn thu thuế, phí …để tài trợ cho ngân sách bị thu hẹp, trong khi
chính phủ vẫn phải tăng cường choi tiêu công để hộ trợ nền kinh tế vượt qua khủng hoảng,
đã đẩy nợ công lên con số khủng lồ. Đến năm 2010 công bố của OECD cho thấy nợ công
của Hy Lạp đã lên đến con số 330 tỷ Euro, tương đương với 147.8% GDP. Các chuyên gia
dự đoán dù Hy Lạp thực hiện chính sách thắt lưng buộc bụng kéo dài 3 năm nợ của Hy
Lạp đến năm 2012 vẫn lên tới mức 172% GDP.
Nhóm: Lớp LT3G

7


Đề tài: Vấn đề nợ công ở một số nước hiện nay.

Môn: Tài chính tiền tệ

Tháng 5 năm 2010 , bộ ba quỹ tiền tệ (IMF), ngân hàng trung ương Châu Âu
(ECB), và ủy ban Châu Âu (EC) đã cấp gói cứu trợ đầu tiên cho Hy Lạp trị giá 110 Euro,
do lo ngại nên kinh tế mong manh của nước này có thể đẩy cả khu vực vào vòng xoáy
nguy hiểm. Để nhận được gói cứu trợ chính phủ Hy Lạp đã phải đưa ra một loạt các biện
pháp hà khắc “Thắt lưng buộc bụng” : khu vực công cắt giảm tối thiểu 1000 euro các
khoản thưởng cuối năm, cắt hoàn toàn cho những người có lương từ 3000 euro mỗi tháng,
giảm 8% trợ cấp, 3% chi tiêu công… cũng như phải tăng thuế VAT, thuế đánh vào các
mặt hàng xa xỉ, các mặt hàng không khuyến khích tiêu dùng để tăng nguồn thu cho ngân
sách.

Chính việc áp dụng những chính sách này đã làm dấy lên làn sóng phản đối mạnh
mẽ từ phía người dân. Ngày 5/5/2010, mọi hoạt động đã hoàn toàn tê liệt vì đình công.
Tình hình xã hội trở nên hỗn loạn. Mặt khác, điều này còn ảnh hưởng tới sức mua của các
hộ gia đình vì gánh nặng lại càng đè nặng hơn lên vai người dân, điều này khiến cho Hy
Lạp càng lâm vào tình thế hiểm nghèo: sức mua giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng… Cuộc
khủng hoảng nợ này còn làm mất niềm tin của các nhà đầu tư. Bằng chứng là
Standart&Poor đã giảm điểm tín nhiệm của Hy Lạp xuống 3 nấc, xuống còn BB-. Các nhà
đầu tư cũng lo sợ rằng sự cứu trợ của Liên minh không đủ mạnh sẽ làm triệt tiêu tăng
trưởng của Hy Lạp. Chưa hết, nhiều nhà kinh tế dự đoán rằng có thể chính phủ Hy Lạp sẽ
Nhóm: Lớp LT3G

8


Đề tài: Vấn đề nợ công ở một số nước hiện nay.

Môn: Tài chính tiền tệ

rút ra khỏi Liên minh và phá giá đồng nội tệ. Như vậy làm tác động tâm lý tới các nhà đầu
tư, nguy cơ rút vốn hàng loạt tại các ngân hàng. Chưa hết, kế hoạch giải cứu Hy Lạp mờ
mịt khiến các nhà đầu tư lo sợ, bán ồ ạt trái phiểu chính phủ. Điều này sẽ khiến lãi suất
cho những đợt phát hành nợ sắp tới leo thang không ngừng. Và nếu Hy Lạp lại có thể tiếp
tục vay được vốn thì lãi phải trả là rất lớn. Gánh nặng nợ nần sẽ càng căng thẳng. Thực tế
này càng tác động tiêu cực vào niềm tin của thị trường cũng như sẽ khiến Hy Lạp sa chân
vào vòng xoáy nợ nần.
Trước những chính sách hộ trợ Hy Lạp của EU và quỹ tiền tệ IMF bằng các gói cứu
trợ, con số nợ công của Hy Lạp không những không được cải thiện mà đã lên tới 489 tỷ
USD, tương đương với 168,2% GDP vào năm 2011.
Đầu tháng 3/2012, các chủ nợ tư nhân đồng ý hoán đổi 85% nợ cho Hy Lạp, giúp
cắt giảm khoảng 100 tỷ euro khỏi nghĩa vụ nợ của quốc gia này. Ngay lập tức, ngày 9/3,

Fitch và Moody‟s đồng loạt hạ xếp hạng tín nhiệm của Hy Lạp xuống vỡ nợ. Thời điểm
cuối năm liên minh Châu Âu đã cho thấy những dấu hiệu của sự kiệt sức vì khủng hoảng
tài chính khi tỷ lệ tăng trưởng kinh tế tiếp tục giảm 0,1% và khu vực Euro, ngân hàng
trung ương hạ dự báo tăng trước kinh tế năm 2013 xuống mức 0,1% so với mức 0,5%
trước đó.
Trong năm 2013 tỷ lệ nợ công/GDP của Hy Lạp đã tăng lên đến 175,1% cao hơn
nhiều so với cùng kỳ năm trước đó là 157,2%. Tỷ lệ nợ công/GDP của toàn bộ khu vực
đồng Euro đã lên mức cao kỷ lục 92,6%. Sau Hy Lạp Ý là nước có tỷ trọng nợ công/GDP
đứng thứ 2 trong khu vực với tỷ lệ là 132,6% GDP, Bồ Đầu Nha xếp vị trí thứ 3 với tỷ lệ
nợ công/ GDP là 129%, tiếp đến là Ireland với tỷ lệ nợ công / GDP là 123,7%.
Tháng 4/2014, nhà đầu tư chào mừng Hy Lạp quay lại thị trường trái phiếu sau 4
năm vắng bóng. Nhu cầu trái phiếu kỳ hạn 5 năm của nước này đã khiến nhiều người gọi
đây là "điểm bắt đầu của sự kết thúc" cho hoạt động cứu trợ Hy Lạp, dù nhận định đó có
vẻ còn quá sớm.
Tuy nhiên kết thúc năm 2014 con số nợ công ở Hy Lạp tiếp tục đẩy lên cao hơn
năm 2013 khi số nợ công của Hy Lạp là 160% GDP đã tăng 2,5% so với 2013, mức tăng
này tương đối thấp những cũng đưa nợ công lên con số đáng báo động.
Tháng 2/2015, nhóm Bộ trưởng Tài chính các nước eurozone (Eurogroup) đã chấp
thuận gia hạn nợ thêm 4 tháng cho Hy Lạp, sau khi Chỉnh phủ mới của nước này nộp đề
xuất cải tổ ngay trước hạn chót. Các biện pháp này gồm kiểm soát chi tiêu công, giảm
Nhóm: Lớp LT3G

9


Đề tài: Vấn đề nợ công ở một số nước hiện nay.

Môn: Tài chính tiền tệ

tham nhũng và trốn thuế. Hy Lạp sau đó được yêu cầu thanh toán cho các chủ nợ khác

nhau trong giai đoạn tháng 4 - tháng 6/2015. Tuy nhiên, không một hạn chót nào được đáp
ứng
Theo công bố của chính phủ Hy Lạp nợ công tiếp tục được đẩy lên cao vào năm
2015 khi con số nợ công đã lên tới 175% GDP.
Cuộc khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp đã kéo theo mối lo ngại về một hiệu ứng
khủng hoảng domino lan rộng khắp Châu Âu.
 Tác đông từ khủng hoảng nợ công
 Đến Hy Lạp:
Hy Lạp là một trong những mắt xích tương đối yếu của khu vực đồng tiền chung
châu Âu. Tưởng chừng gia nhập EU sẽ là điều kiện giúp Hy Lạp có thể vay với lãi suất
thấp cùng với những khoản vay khổng lồ. Nhưng việc này lại đem tới lạm phát, dẫn tới
tình trạng leo thang của giá cả. Đi cùng với đó, cuộc khủng hoảng năm 2008 càng khiến
nền kinh tế của nước này thêm nguy khốn. Để chấp nhận gói cứu trợ 110 tỷ euro của EU
và IMF, chính phủ Hy Lạp đã phải đưa ra một loạt các biện pháp hà khắc “Thắt lưng buộc
bụng” : khu vực công cắt giảm tối thiểu 1000 euro các khoản thưởng cuối năm, cắt hoàn
toàn cho những người có lương từ 3000 euro mỗi tháng, giảm 8% trợ cấp, 3% chi tiêu
công… cũng như phải tăng thuế VAT, thuế đánh vào các mặt hàng xa xỉ, các mặt hàng
không khuyến khích tiêu dùng để tăng nguồn thu cho ngân sách. Chính việc áp dụng
những chính sách này đã làm dấy lên làn sóng phản đối mạnh mẽ từ phía người dân. Ngày
5/5/2010, mọi hoạt động đã hoàn toàn tê liệt vì đình công. Tình hình xã hội trở nên hỗn
loạn. Mặt khác, điều này còn ảnh hưởng tới sức mua của các hộ gia đình vì gánh nặng lại
càng đè nặng hơn lên vai người dân, điều này khiến cho Hy Lạp càng lâm vào tình thế
hiểm nghèo: sức mua giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng… Cuộc khủng hoảng nợ này còn làm
mất niềm tin của các nhà đầu tư. Bằng chứng là Standart & Poor đã giảm điểm tín nhiệm
của Hy Lạp xuống 3 nấc, xuống còn BB-. Các nhà đầu tư cũng lo sợ rằng sự cứu trợ của
Liên minh không đủ mạnh sẽ làm triệt tiêu tăng trưởng của Hy Lạp. Chưa hết, nhiều nhà
đầu tư dự đoán rằng Chính phủ Hy Lạp sẽ rút ra khỏi Liên minh và phá giá đồng nội tệ.
Như vậy làm tác động tâm lý tới các nhà đầu tư, nguy cơ rút vốn hàng loạt tại các ngân
hàng. Chưa hết, kế hoạch giải cứu Hy Lạp mờ mịt khiến các nhà đầu tư lo sợ, bán ồ ạt trái
phiểu chính phủ. Điều này sẽ khiến lãi suất cho những đợt phát hành nợ sắp tới leo thang

không ngừng. Và nếu Hy Lạp lại có thể tiếp tục vay được vốn thì lãi phải trả là rất lớn.
Nhóm: Lớp LT3G

10


Đề tài: Vấn đề nợ công ở một số nước hiện nay.

Môn: Tài chính tiền tệ

Gánh nặng nợ nần sẽ càng căng thẳng. Thực tế này càng tác động tiêu cực vào niềm tin
của thị trường cũng như sẽ khiến Hy Lạp sa chân vào vòng xoáy nợ nần.
 Đến vùng Euro:
Cuộc khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp đã kéo theo mối lo ngại về một hiệu ứng
khủng hoảng domino lan rộng khắp Châu Âu. Sau Hy Lạp, các nước như Tây Ban Nha,
Bồ Đào Nha, Ai-len và Ý là những nước phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng nợ công.
Tây Ban Nha có tỷ lệ thất nghiệp lên tới 20%, thâm hụt ngân sách trên 10% GDP; Bồ Đào
Nha có thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại ở mức cao, tỷ lệ tiết kiệm nội địa thấp,
nợ công của Ý chiếm 106,1% GDP (năm 2008). Thực tế đã cho thấy, sau Hy Lạp, Ai-len
đã phải cầu cứu sự giúp đỡ của Liên minh Châu Âu EU và Quỹ tiền tệ quốc tế IMF để giải
quyết khủng hoảng nợ của nước này.
Cuộc khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp đã kéo theo mối lo ngại về một hiệu ứng
khủng hoảng domino lan rộng khắp Châu Âu. Sau Hy Lạp, các nước như Tây Ban Nha,
Bồ Đào Nha, Ai-len và Ý là những nước phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng nợ công.
Tây Ban Nha có tỷ lệ thất nghiệp lên tới 20%, thâm hụt ngân sách trên 10% GDP; Bồ Đào
Nha có thâm hụt ngân sách và thâm hụt thương mại ở mức cao, tỷ lệ tiết kiệm nội địa thấp,
nợ công của Ý chiếm 106,1% GDP (năm 2008). Thực tế đã cho thấy, sau Hy Lạp, Ai-len
đã phải cầu cứu sự giúp đỡ của Liên minh Châu Âu EU và Quỹ tiền tệ quốc tế IMF để giải
quyết khủng hoảng nợ của nước này. Tình trạng bất ổn kinh tế - chính trị - xã hội, từ đó
làm mất lòng tin của giới đầu tư, khiến cho tình trạng khủng hoảng thêm trầm trọng.

II. THỰC TRẠNG VỀ NỢ CÔNG CỦA CHÂU Á.
18 năm sau khi cuộc khủng hoảng tài chính bao trùm khắp khu vực châu Á khiến
chính phủ nhiều nước loay hoay tìm đường khắc phục, hàng loạt công ty lớn nhỏ phá sản
và gây nên sự tàn phá khủng khiếp đối với nền kinh tế. Bóng ma của cuộc khủng hoảng đã
trở lại khi các đồng tiền trong khu vực chịu nhiều sức ép.
 2 quốc gia "có vấn đề" nhất
Malaysia và Indonesia dường như là hai quốc gia đang có nhiều vấn đề kinh tế nhất
hiện nay. Chỉ trong vòng hơn 1 năm qua, đồng Ringgit của Malaysia đã mất gần ¼ giá trị
so với đồng USD. Còn đồng Rupiah của Indonesia thì giảm 15% so với đồng USD, so với
cùng kỳ năm ngoái. Cả hai đồng tiền này giờ đang chạm đến mức giá trị thấp nhất kể từ
sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, trong khi đà giảm của chúng còn chưa
có dấu hiệu chững lại.
Nhóm: Lớp LT3G

11


Đề tài: Vấn đề nợ công ở một số nước hiện nay.

Môn: Tài chính tiền tệ

Đa phần các nước châu Á hiện tại đều có nguồn dự trữ ngoại tệ khá lớn, có thể được
đem ra sử dụng để bảo vệ đồng nội tệ của mình. Kể từ sau cuộc khủng hoảng năm 1997,
chính phủ các nước đã bắt đầu đưa ra nhiều quy định và nhờ đó mà mức nợ công đã giảm
dần.
Rất nhiều nền kinh tế đang trỗi dậy trong khu vực châu Á hiện nay dựa chủ yếu vào
hàng hóa để tăng trưởng. Nhưng giá dầu mỏ, đồng và một số mặt hàng khác đã bắt đầu
giảm kể từ hồi năm ngoái.
Đơn cử như Malaysia, vốn là một nước xuất khẩu dầu mỏ lớn, chịu ảnh hưởng nặng
nề từ giá dầu giảm. Dự trữ dầu thô tăng đột biến trong tuần trước khiến giá dầu thô WTI

giao tháng 9/2015 giảm 4,7% xuống còn 40,6 USD/thùng - mức thấp nhất trong 6 năm
qua. So với mức đỉnh đạt được vào tháng 6/2015, giá dầu thô WTI đã giảm 30%. Hay ở
Việt Nam thay vì sản xuất xăng dầu bằng nguồn dầu thô hiện có, chúng ta lại xuất khẩu
dầu thô với lượng lớn và nhập xăng dầu về với chi phí đắt đỏ. Cho thấy sự hạn chế của
nền công nghiệp ở Việt Nam.
Châu Á cũng đang bị tác động từ bất ổn của các nước phương Tây, ví như tình trạng
rút vốn trên tại các thị trường mới nổi, hay xuất khẩu của châu Á có thể bị ảnh hưởng do
kinh tế các nước phát triển đi xuống. Tuy nhiên, châu Á lại có những công cụ và lợi thế
nhất định để vượt qua những ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng. Như việc châu Á là một thị
trường khá tiềm năng nên có thể củng cố thị trường này bằng cách thúc đẩy mạnh nhu cầu
tiêu dùng nội địa, tránh phụ thuộc vào việc xuất khẩu sang các thị trường phát triển.
Với các nước ASEAN, hầu hết các nhà phân tích hy vọng, không bị các tác động lớn
từ Liên minh châu Âu (EU). Nhưng Việt Nam cũng giống như Indonesia, Singapore, đều
là nền kinh tế nhỏ, song khá mở, xuất khẩu lại chiếm tỷ trọng lớn cũng sẽ bị tổn thương từ
những cú sốc của kinh tế toàn cầu. Indonesia đã nhanh chóng chuyển hướng tăng mạnh
nhu cầu trong nước, dự báo tăng 6,4% GDP trong năm 2011, phần lớn là từ kết quả kích
thích tiêu dùng trong nước. Lãi suất thấp và ổn định đã tạo ra cả đầu tư và tiêu dùng bất
động sản, tiêu dùng cá nhân ở Indonesia tăng đều. Đồng Rupiah luôn ổn định, tỷ lệ thất
nghiệp và nghèo đói có xu hướng giảm, tầng lớp trung lưu tăng nhanh.
Còn các nền kinh tế quá hướng ngoại như Thái Lan và Malaysia sẽ chịu các tác động
từ EU khi sự sụt giảm trong nhu cầu của khu vực này làm giảm hàng xuất khẩu của Thái
Lan và Malaysia về đồ điện và điện tử, và hàng hóa khác. Malaysia đã cố giắng giảm sự
phụ thuộc vào các nền kinh tế tiên tiến khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra,
nhưng phần lớn hàng xuất khẩu của nước này vẫn nhắm tới thị trường Mỹ, EU và Nhật
Nhóm: Lớp LT3G

12


Đề tài: Vấn đề nợ công ở một số nước hiện nay.


Môn: Tài chính tiền tệ

Bản.
Trong khi đó, theo đại diện IMF Dennis Botman khẳng định, cam kết giảm thâm hụt
ngân sách, giảm nợ công, thắt chặt hoạt động của ngân hàng, tích lũy, tận dụng các dòng
tiền cho phép Việt Nam tránh né được cuộc suy thoái năm 2008 và 2009.
Các dự báo ngắn hạn của IMF về GDP tăng trưởng trong năm nước ASEAN
(Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Philippines và Thái Lan) trung bình khoảng 5,5% cho
phần còn lại của năm 2011 và 2012, kéo theo dòng vốn đầu tư mạnh mẽ, sẽ bù đắp sự suy
giảm của xuất khẩu (giữ vai trò động lực tăng trưởng kinh tế). Các dự báo của IMF tương
tự các dự báo khác về triển vọng tăng trưởng GDP 5,4% cho khu vực Đông-Nam Á trong
năm nay và 5,6% trong 2012. Và còn có một lợi thế, đó là khi các nền kinh tế toàn cầu hồi
phục, thì các nền kinh tế mở như Việt Nam sẽ hồi phục trước tiên và nhanh chóng, hơn
hẳn các nền kinh tế lớn.
 Châu Á “đối mặt” khủng hoảng nợ công ở châu Âu
Khủng hoảng tài chính ở Hy Lạp là vấn đề quan tâm của châu Á. Rất tiếc là vấn đề
hội nhập tài chính của châu Âu đang diễn ra không suôn sẻ. Đây là vấn đề mà châu Á rất
quan tâm vì nó liên quan đến thương mại và đầu tư. Châu Á hiện có trao đổi thương mại
lớn với châu Âu. Liên minh châu Âu với 27 thành viên là nền kinh tế lớn nhất chiếm 27%
GDP của thế giới, so với tỷ lệ 23% GDP của Mỹ. Châu Âu hấp thụ 16% kim ngạch xuất
khẩu trực tiếp của châu Á. Châu Á (trừ Nhật Bản và Australia) chiếm 18% nền kinh tế thế
giới. Châu Á xuất khẩu một lượng hàng hóa trị giá 541 tỷ USD sang Liên minh châu Âu
trong năm 2010. Những con số này cho thấy châu Âu là một thị trường quan trọng đối với
hàng xuất khẩu của châu Á. Như vậy, nếu khu vực đồng euro sụp đổ thì châu Á sẽ phải
tìm thị trường xuất khẩu ngay tại chính châu lục này để thay thế cho thị trường khu vực
đồngeuro.
Khu vực đồng euro rõ ràng là một nhà đầu tư quan trọng của châu Á trong những
năm gần đây. Cuộc khủng hoảng thị trường tài chính trong khu vực đồng euro nếu ngày
càng trầm trọng sẽ buộc các chính phủ tại đây phải tăng cường điều chỉnh lĩnh vực tài

chính, và rất có thể một số chính sách tự do hóa dòng vốn thực hiện trong hai thập kỷ qua
sẽbịxóabỏ.
Những gì xảy ra với đồng euro sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế và các thị trường châu
Á. Châu Á phải thay đổi để đáp ứng những thách thức của cuộc khủng hoảng khu vực
đồng euro hiện nay. Châu Á phải dựa nhiều hơn vào nhu cầu nội địa và dòng vốn trong

Nhóm: Lớp LT3G

13


Đề tài: Vấn đề nợ công ở một số nước hiện nay.

Môn: Tài chính tiền tệ

nước. Các nền kinh tế mới nổi chịu tổn thương nhất sẽ bị phụ thuộc rất nhiều vào nền tài
chính bên ngoài để tài trợ cho chi tiêu và trả nợ. Ở châu Á, Malaysia là một trong số đó.
Các nước châu Á đang dõi theo cuộc khủng hoảng Hy Lạp với sự ghen tị pha lẫn
cảm giác thỏa mãn. Khi trải qua cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, các nước châu Á
nhận được sự trợ giúp ít hơn rất nhiều, với những điều kiện hà khắc hơn nhiều. Nhưng họ
cũng phục hồi mạnh mẽ hơn hẳn, và điều đó cho thấy những khoản cứu trợ cứ lớn dần có
thể không phải là toa thuốc tốt nhất để hồi phục.
Kể từ khi bắt đầu cuộc khủng hoảng, Hy Lạp đã nhận được khoản tài chính khổng
lồ từ Hội đồng ba bên (“troika”): Ủy ban châu Âu (EC), Ngân hàng Trung ương châu Âu
(ECB), và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Hy Lạp đã nhận được các gói cứu trợ vào năm
2010 và 2012, tổng cộng lên đến 240 tỉ euro (tương đương 266 tỉ USD), trong đó có 30 tỉ
euro từ IMF, gấp hơn 3 lần hạn mức cộng dồn mà IMF có thể cho Hy Lạp vay. Các thỏa
thuận mới nhất hứa hẹn một khoản cứu trợ khác trị giá lên đến 86 tỉ Euro.
Ngược lại, gói cứu trợ năm 1997 của Hàn Quốc – lớn hơn những gói cứu trợ của
Indonesia, Thái Lan, hay Philippines – chỉ có tổng cộng 57 tỉ USD, trong đó có 21 tỉ USD

từ IMF. Vào thời điểm đó, GDP hàng năm của Hàn Quốc là 560 tỉ USD; năm 2014, GDP
của Hy Lạp chưa đến 240 tỉ USD.
Chắc chắn, cơn hỗn loạn kinh tế xảy ra tại Hy Lạp – kết quả của sự hoang phí của
chính phủ, tham nhũng của các quan chức, và nạn trốn thuế tràn lan – xứng đáng nhận
được một số sự trợ giúp quốc tế nào đó. Và IMF đã áp đặt các điều kiện lên những khoản
vay cho Hy Lạp – bao gồm chính sách tài khóa thắt lưng buộc bụng, tư nhân hóa, và cải
cách cơ cấu các hệ thống thuế và lương hưu của đất nước này – phần lớn những điều kiện
này là cần thiết để giải quyết vấn đề vỡ nợ của quốc gia. Những điều kiện trong thỏa thuận
giải cứu mới nhất là hà khắc nhất cho đến thời điểm hiện tại – thậm chí còn hà khắc hơn cả
những điều khoản mà cử tri Hy Lạp đã bỏ phiếu từ chối một cách áp đảo trong cuộc trưng
cầu dân ý hồi đầu tháng này.
Nhưng quy mô của sự trợ giúp này vẫn khổng lồ, đặc biệt là khi xét đến tiến độ
chậm chạp trong việc thực hiện những cải cách mà Hy Lạp từng hứa hẹn trước đây. Điều
này trái ngược hoàn toàn so với những gì châu Á trải qua vào năm 1997.
Không giống như Hy Lạp, vấn đề của châu Á không phải là một cuộc khủng hoảng
vỡ nợ, mà là một cuộc khủng hoảng về thanh khoản, gây ra bởi sự đổi chiều đột ngột của
các dòng vốn. Ở Hàn Quốc, khoản vốn ròng của tư nhân chảy vào nước này chiếm 4,8%
Nhóm: Lớp LT3G

14


Đề tài: Vấn đề nợ công ở một số nước hiện nay.

Môn: Tài chính tiền tệ

GDP trong năm 1996 đã nhanh chóng chuyển thành dòng vốn ròng chảy ra nước ngoài lên
tới 3,4% GDP trong năm 1997. Mặc dù sự tích tụ của những khoản nợ ngắn hạn khá lớn
trong hệ thống tài chính và khu vực doanh nghiệp đã làm khuếch đại thêm cú sốc này,
nhưng những yếu tố chính làm bùng lên cuộc khủng hoảng này là sự thiếu thanh khoản

quốc tế, các động thái hoảng loạn của các nhà đầu tư, và sự sụp đổ tài chính dây chuyền.
Vậy mà IMF lại áp đặt những điều kiện lên châu Á thậm chí còn khắc nghiệt hơn
lên Hy Lạp, bao gồm thắt lưng buộc bụng về tài khóa, thắt chặt chính sách tiền tệ, và tái
cấu trúc tài chính. Một số điều kiện rõ ràng là không cần thiết, ví dụ như đối với trường
hợp của Malaysia, nước đã phục hồi nhanh chóng từ khủng hoảng mà không cần sự trợ
giúp của IMF.
Dù là trong trường hợp nào thì những biện pháp này cũng chỉ mang tính tạm thời.
Khi sự tự tin bắt đầu hồi phục và các điều kiện thị trường bình ổn, các nền kinh tế Đông Á
đã chuyển các chính sách tiền tệ và tài khóa sang hướng nới lỏng và theo đuổi việc phá giá
tỉ giá hối đoái trên diện rộng – những nỗ lực nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong
xuất khẩu của họ. Các cải cách cơ cấu, bao gồm việc đóng cửa ngay lập tức các tổ chức tài
chính và loại bỏ các khoản nợ xấu, cũng giúp đẩy mạnh sự phục hồi.
Ví dụ như ở Hàn Quốc, tăng trưởng GDP thực nhanh chóng phục hồi từ âm 6,7%
trong năm 1998 lên 9,5% năm 1999. Cho đến giữa năm 2003, khoảng 776 tổ chức tài
chính của nước này đã bị đóng cửa. Và cam kết mạnh mẽ của chính quyền về cải cách đã
phục hồi niềm tin của các nhà đầu tư, làm hồi sinh nguồn vốn tư nhân chảy vào trong nước
và kích hoạt lại hoạt động ngoại thương.
Ngược lại, Hy Lạp đã thất bại hoàn toàn trong việc thiết kế một sự hồi phục. Thay
vì giảm tỉ lệ nợ công trên tổng GDP xuống 110% như kế hoạch, tỉ lệ này lại tăng lên đến
170%. Thu nhập thực tế bình quân đầu người/năm thu hẹp trung bình 4,8% mỗi năm trong
sáu năm vừa qua. Tỉ lệ thất nghiệp đứng ở mức 26%, và dao động quanh mức 50% đối với
giới trẻ.
Trong bối cảnh này, không quá ngạc nhiên khi Hy Lạp trở thành quốc gia phát triển
đầu tiên không thể trả nợ cho IMF khi đất nước này không thể có được 1,5 tỉ euro vào cuối
tháng 6. IMF đã muộn màng thừa nhận rằng các khoản vay và khuyến nghị chính sách của
Quỹ đã thất bại ở Hy Lạp.
Người châu Á dõi theo Hy Lạp với lòng cảm thông về sự sụp đổ của nơi sinh ra nền
văn minh phương Tây. Nhưng có lẽ Hy Lạp nên nhìn vào châu Á để nhận ra rằng, bằng
Nhóm: Lớp LT3G


15


Đề tài: Vấn đề nợ công ở một số nước hiện nay.

Môn: Tài chính tiền tệ

cách chịu trách nhiệm về vận mình của mình, một đất nước có thể vực dậy mạnh mẽ, ngay
cả từ những thử thách khó khăn nhất.
TTO - Các tổ chức tài chính quốc tế vừa lên tiếng cảnh báo nhiều quốc gia
châu Á đã vay quá nhiều để đảm bảo tăng trưởng trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế
và giờ rơi vào cảnh nợ ngập đầu.
Theo báo Wall Street Journal ngày 21-4, báo cáo của Viện Toàn cầu Mckinsey
(MGI) cho biết 50% số nợ toàn cầu trong vòng bảy năm qua tập trung tại các nền kinh tế
mới nổi, đặc biệt là ở châu Á. Chỉ riêng Trung Quốc chiếm 1/3 trong tỉ lệ tăng nợ công
toàn cầu kể từ năm 2007.
Tỉ lệ nợ của Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan và Hàn Quốc hiện cao hơn mức trước
cuộc khủng hoảng tài chính châu Á cuối thập niên 1990. Một số nước như Hàn Quốc,
Malaysia và Úc có tỉ lệ nợ hộ gia đình tính trên thu nhập cao hơn cả Mỹ trước khủng
hoảng tài chính năm 2008.
Wall Street Journal dẫn lời chuyên gia Frederic Neumann thuộc Hãng HSBC
Holdings PLC mô tả các nước châu Á “nghiện nặng vay vợ”. Mô hình vay nợ có sự khác
biệt ở các quốc gia khác nhau tại châu Á. Ở Trung Quốc, các công ty nhà nước, tập đoàn
địa ốc và chính quyền các địa phương vay nợ ồ ạt để đổ tiền vào các dự án quy mô lớn.
Ngược lại tại Malaysia và Thái Lan, người tiêu dùng vay bộn tiền để duy trì cuộc
sống trung lưu, ví dụ như mua nhà, mua xe và các thiết bị gia dụng. Ở Nhật, chính phủ tiếp
tục vay nợ, đưa tổng nợ của nước này lên 400% GDP, cao nhất trên thế giới.
Theo thống kê của Ngân hàng Morgan Stanley, kể cả không tính đến Nhật thì tổng
nợ ở châu Á vẫn tăng lên tới 205% GDP vào năm 2014, vượt xa mức 144% của năm 2007
và 139% của năm 1996

Tổng nợ của Trung Quốc tăng vọt lên 28.200 tỉ USD giữa năm 2014, tương đương
282% GDP, cao gấp gần bốn lần so với mức 7.400 tỉ USD của năm 2007.
Tại các quốc gia nghèo hơn như Ấn Độ và Indonesia, tổng nợ là khá thấp so với quy
mô nền kinh tế.
Tuy nhiên nợ của các công ty đầu tư hạ tầng Ấn Độ đang trở thành gánh nặng đối
với nền kinh tế.
Các nước như Hàn Quốc và Thái Lan phải đối phó với tình trạng nợ công cao và
dân số già kết hợp, đồng nghĩa việc nền kinh tế đã chậm lại của các nước này khó có khả
năng tăng trưởng cao như trong quá khứ.
Nhóm: Lớp LT3G

16


Đề tài: Vấn đề nợ công ở một số nước hiện nay.

Môn: Tài chính tiền tệ

Các chuyên gia cho rằng nợ lớn sẽ không đẩy cả châu Á vào khủng hoảng tài
chính nhưng có nhiều xu thế đáng lo ngại. Ở Trung Quốc, 50% tổng nợ dính dáng đến địa
ốc và 1/3 xuất phát từ hệ thống ngân hàng ngầm của nước này. Tình trạng đó có thể ảnh
hưởng nghiêm trọng đến hệ thống tài chính quốc gia.
Mối lo ngại lớn nhất là lãi suất Mỹ tăng, có thể đẩy dòng vốn nước ngoài ra khỏi
Châu Á khiến tăng trưởng sụt giảm, ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán khu vực,
gây bất ổn đối với các thị trường ngoại hối.
Theo báo Financial Times, mới đây Phòng Thương mại Thái Lan cảnh báo nợ hộ
gia đình ở nước này sẽ tăng lên 100% GDP vào năm 2020.
Giám đốc Phòng Thương mại Thái Lan Piyabutr Cholvijarn cảnh báo nếu Thái Lan
không giải quyết được vấn đề nợ hộ gia đình, nước này có thể đối mặt với khủng hoảng tồi
tệ hơn cả cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997.

Nỗi lo ngại càng lớn hơn vì tính chất phức tạp của vấn đề: giảm phát châu Á diễn ra
trong bối cảnh Nhật và châu Âu đang trên đà quay trở lại thời kỳ giảm phát, trong khi Mỹ
đang u sầu vì các báo cáo lợi nhuận yếu của doanh nghiệp.
Viễn cảnh tồi tệ nhất của giảm phát là giá cả giảm ở châu Á tiếp tục làm suy yếu lợi
nhuận doanh nghiệp, khiến cho hàng loạt công nhân bị sa thải và từ đó làm cho nhu cầu
lao dốc. Điều này sẽ khiến cho nhu cầu thế giới càng ảm đạm, kinh tế châu Âu và Nhật
càng loạng choạng và Mỹ khó đạt được đà phục hồi vững chắc.
Giảm phát của châu Á không nằm ở giá tiêu dùng mà nằm ở giá sản xuất. Chỉ số giá
sản xuất (PPI) đang ở mức trung bình thấp nhất trong 6 năm tại 10 nền kinh tế lớn nhất ở
châu Á (ngoại trừ Nhật), theo Morgan Stanley. Trong số này, ngoại trừ Indonesia, các nền
kinh tế như Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore đã rơi vào vòng xoáy giảm phát trong
khoảng 3 năm.
Trung Quốc đã có 42 tháng liên tiếp chứng kiến giá sản xuất giảm, khiến nó trở
thành nền kinh tế lớn duy nhất ngoài Nhật vào thập niên 1990 cho thấy một xu hướng
giảm phát kéo dài,

Nhóm: Lớp LT3G

17


Đề tài: Vấn đề nợ công ở một số nước hiện nay.

Môn: Tài chính tiền tệ

Mức giảm lợi nhuận trên khắp châu Á đặc biệt nghiêm trọng khi nợ doanh nghiệp
quá lớn đang làm gia tăng rủi ro về một “cuộc suy thoái bảng cân đối kế toán”. Theo đó,
mức lãi trả nợ quá cao buộc các doanh nghiệp phải lo tiết kiệm thay vì chi tiêu hay đầu tư,
từ đó khiến cho tăng trưởng chậm lại.
Một nửa tổng số nợ trên toàn cầu trong khoảng 7 năm qua đến từ những nền kinh tế

mới nổi và đa phần là ở châu Á.
Các quốc gia châu Á đã vay rất nhiều tiền để duy trì tốc độ phát triển trong suốt giai
đoạn khủng hoảng tài chính. Tuy nhiên, họ vẫn không thể xóa bỏ “thói quen xấu” này
ngay cả khi kinh tế toàn cầu đã phục hồi trở lại. Hậu quả là hiện tại, châu Á đang cảm
nhận thấy rõ những hệ lụy.
Tốc độ phát triển đang chậm đi một cách nhanh chóng trên toàn châu lục khi người
tiêu dùng và cả các doanh nghiệp đều tập trung vào việc trả nợ. Các ngân hàng trung ương
liên tục giảm lãi suất, đẩy giá trị đồng tiền xuống thấp nhưng nền kinh tế vẫn không thể
tăng trưởng cao hơn được. Nhu cầu vẫn ở mức yếu, lương trì trệ và tốc độ phát triển chậm
chạp khiến việc đi vay bây giờ thậm chí còn khó hơn trả nợ.
Điều này có thể gây tác động đáng kể đến triển vọng kinh tế của khu vực, từ đó kéo
tụt tốc độ phát triển toàn cầu.
“Vấn đề ở đây là người châu Á đang phải gánh quá nhiều nợ. Thậm chí ngay cả khi
ngân hàng trung ương cắt giảm tỷ lệ lãi suất xuống còn 0 thì mọi người cũng sẽ không đi
vay thêm tiền”,

Nhóm: Lớp LT3G

18


Đề tài: Vấn đề nợ công ở một số nước hiện nay.

Môn: Tài chính tiền tệ

Một nửa tổng số nợ trên toàn cầu trong khoảng 7 năm qua đến từ những nền kinh tế
mới nổi và đa phần là ở châu Á. Riêng Trung Quốc chiếm khoảng 1/3 sự gia tăng nợ trên
toàn cầu kể từ năm 2007 theo nghiên cứu của McKinsey.
Mức nợ tại hàng loạt quốc gia châu Á như Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan và Hàn
Quốc đang cao hơn so với trước khủng hoảng tài chính châu Á vào những năm 1990. Một

vài quốc gia như Hàn Quốc, Malaysia và Úc còn có tỷ lệ nợ/thu nhập cao hơn cả Mỹ trong
thời kỳ trước khủng hoảng tài chính.

Nhóm: Lớp LT3G

19


Đề tài: Vấn đề nợ công ở một số nước hiện nay.

Môn: Tài chính tiền tệ

Vấn đề nằm ở chỗ, dù đã thận trọng hơn với các khoản nợ sau tổn thất từ khủng
hoảng tài chính nhưng nhiều quốc gia châu Á vẫn muốn vay thêm tiền sau khi khủng
hoảng đã qua đi. “Châu Á đã trở nên „nghiện‟ việc đi vay. Nó khiến các nhà tạo lập chính
sách cảm thấy hài lòng”, Frederic Neumann – đồng chủ tịch công ty nghiên cứu HSBC
Holdings nói.
Có 1 yếu tố chủ chốt khiến châu Á rơi vào tình trạng này. Khi Mỹ hạ lãi suất, hàng
loạt các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc đã “hào hứng” trở thành con nợ
của kho bạc Mỹ. Ngày nay, chính sách tiền tệ siêu nới lỏng tại Mỹ, châu Âu và Nhật Bản
đã gây ra cuộc đổ bộ của dòng tiền vào châu Á. Lãi suất giảm cho phép chính phủ, các
công ty và cá nhân vay nhiều hơn trước tại mức lãi suất thấp nhất trong lịch sử.
 Việc vay tiền này diễn ra khác nhau tại nhiều quốc gia trong khu vực.
Tại Trung Quốc, những doanh nghiệp khổng lồ thuộc sở hữu nhà nước, các công ty
bất động sản và chính quyền địa phương nằm trên đống nợ. Tại Malaysia và Thái Lan,
người tiêu dùng vay tiền để chi tiêu và chạy theo thói quen của tầng lớp trung lưu như mua
ô tô và vật dụng gia đình.
Các nhà sản xuất hàng hóa tại châu Á thì đi vay tiền với niềm tin rằng nhu cầu tăng
cao và giá cao sẽ tạo ra lợi nhuận khổng lồ để đáp ứng các khoản đầu tư. Tại Nhật Bản,
chính phủ cũng suy nghĩ theo hướng này, đẩy nợ hiện tại lên 400% so với sản lượng đầu ra

hàng năm của nền kinh tế, mức cao nhất thế giới.

Nhóm: Lớp LT3G

20


Đề tài: Vấn đề nợ công ở một số nước hiện nay.

Môn: Tài chính tiền tệ

Trong khi đó, nợ của toàn khu vực châu Á tăng lên 205%/GDP vào năm 2014, so
với mức 144% năm 2007 và 139% năm 1996 – thời điểm ngay trước khủng hoảng tài
chính châu Á. Tại Trung Quốc, tổng nợ tăng 28,2 nghìn tỷ USD giữa năm 2014, chiếm
282% GDP, tăng lên 7,4 nghìn tỷ USD trong năm 2007. Tỷ lệ tương tự là 269% tại Mỹ.
Tại một số quốc gia nghèo hơn như Ấn Độ và Indonesia, nợ vẫn tương đối thấp so
với kích thước nền kinh tế. Tuy nhiên, túi nợ của những công ty xây dựng cơ sở hạ tầng tại
Ấn Độ đang trở thành gánh nặng của nền kinh tế. Những khu vực khác bao gồm Hàn Quốc
và Thái Lan đang đối mặt với 2 khó khăn bao gồm tỷ lệ nợ cao và dân số già hóa. Điều
này có nghĩa là các nền kinh tế đang tăng trưởng chậm như này không còn khả năng góp
sức vào sự tăng trưởng của thế giới như trong quá khứ nữa.
Dù nợ đang ngày càng gia tăng, nhưng một cuộc khủng hoảng tài chính xuất hiện tại
châu Á là điều khó xảy ra.
Hầu hết các khoản vay đều được thực hiện ở trong nước thay vì bằng ngoại tệ vì vậy
sự sụt giá tiền tệ không thể đẩy nền kinh tế đến nguy cơ vỡ nợ. Bản thân cuộc khủng
hoảng tài chính tại châu Á những năm 1990 cũng là do có quá nhiều nợ bằng ngoại tệ.
Trong khi đó, những nền kinh tế có mức nợ khiêm tốn tại châu Á cho phép họ bảo
lãnh cho người vay và kích thích nền kinh tế phát triển. Ngoài ra, các khoản vay chủ yếu là
qua ngân hàng hoặc trái phiếu.
Nhóm: Lớp LT3G


21


Đề tài: Vấn đề nợ công ở một số nước hiện nay.

Môn: Tài chính tiền tệ

Tuy nhiên, có một vài xu hướng đáng lo ngại. Tại Trung Quốc, một nửa số nợ gắn
với bất động sản và 1/3 số đó tới từ hệ thống ngân hàng “ngầm” của nước này.
Rủi ro lớn và gần nhất là Mỹ tăng lãi suất có thể kéo một nguồn vốn lớn ra khỏi khu
vực, gây tổn hại cho giá cổ phiếu và trái phiếu, tăng chi phí vay và gây ra biến động bất
thường trong thị trường ngoại hối.
Hàn Quốc là một vấn đề vĩ mô lớn của châu Á. Các tập đoàn hàng đầu tại đây đã
phải đi vay rất nhiều tiền bởi họ gặp khó khăn trong khủng hoảng tài chính nhưng kể từ
sau đó, các hộ gia đình vẫn tiếp tục đi vay thêm nhiều hơn.
Với tỷ lệ nợ/GDP là 286% theo nghiên cứu của McKinsey, Hàn Quốc trong số 20
quốc gia nặng nợ nhất thế giới và tỷ lệ nợ/GDP cao hơn 81% so với Mỹ.
Mặc dù nợ đang tăng cao nhưng kinh tế Hàn Quốc vẫn hy vọng phát triển 3% trong
năm nay, một trong những tỷ lệ phát triển nhanh nhất tại những quốc gia phát triển và
ngân hàng trung ương nước này vẫn sẽ cắt giảm lãi suất.
Indonesia đang đau đầu với nhu cầu cho vay tăng cao, trong khi Hàn Quốc phải
chứng kiến mức nợ kỷ lục của các hộ gia đình. Philippines thì đang vật lộn với nạn quan
liêu và tham những khiến các dự án cơ sở hạ tầng bị chậm lại.
Theo số liệu của Bloomberg, tới 9 trong số 12 nền kinh tế lớn châu Á không đạt
được mức tăng trưởng như dự báo do xuất khẩu giảm sút. Sự trì trệ này trải dài từ Ấn Độ
cho tới Malaysia và Hàn Quốc, được cho là bị ảnh hưởng bởi sự giảm tốc của Trung Quốc.
Tăng trưởng kinh tế tại nền kinh tế lớn nhất châu Á, lớn thứ 2 thế giới được dự báo
chỉ ở mức 6,8% trong quý II, thấp hơn mục tiêu của chính phủ vào khoảng 7% cho cả
năm.

Một thực tế đáng lo lắng hơn là, không giống như cuộc suy thoái toàn cầu năm
2008-2009 khi các nước châu Á phải tung ra một loạt gói kích thích kinh tế, thời điểm này
cả châu lục đang phải vật lộn với các khoản nợ.
Giá dầu thấp giúp cải thiện tình trạng ngân sách nhưng tác động lên vấn đề chi tiêu,
tiêu dùng thì chưa thấy đâu.
“Châu Á đang cưỡi trên làn sóng lan rộng của các gói kích thích tiền tệ toàn cầu
trong những năm gần đây. Bây giờ thì các khoản nợ chuẩn bị đến hạn”, Frederic
Neumann, đồng trưởng nhóm phân tích kinh tế châu Á tại Ngân hàng HSBC tại Hồng
Kông cho biết.
Nhóm: Lớp LT3G

22


Đề tài: Vấn đề nợ công ở một số nước hiện nay.

Môn: Tài chính tiền tệ

Xuất khẩu của Hàn Quốc, chiếm khoảng một nửa GDP của nước này đã giảm suốt
từ đầu năm do nhu cầu giảm sút tại thị trường nhập khẩu lớn nhất là Trung Quốc. Xuất
khẩu của Philippines trong tháng 5 cũng giảm tới 17,4% so với cùng kỳ năm 2014. Quỹ
Tiền tệ quốc tế (IMF) đã hạ dự báo tăng trưởng nước này từ 6,7% xuống còn 6,2% năm
2015
JPMorgan Chase & Co dự đoán tăng trưởng ở các nền kinh tế mới nổi của châu Á,
trừ Trung Quốc và Ấn Độ, đang trên đà thấp nhất kể từ năm 2011. Mức tăng GDP điều
chỉnh theo mùa vụ hàng năm có thể tăng 1,3% trong quý II so với ba tháng trước đó.
 Nguy hiểm lan rộng
Sự suy thoái này đang khiến châu Á trở nên mong manh hơn khi đối mặt với các
mối đe dọa khủng khoảng tài chính, bao gồm cả nguy cơ Hy Lạp rời khỏi khu vực
eurozone, khả năng tăng lãi suất của Mỹ và sự biến động của thị trường chứng khoán

Trung Quốc trong những tuần gần đây.
“Sự kết hợp của việc suy giảm lợi nhuận đầu tư tại châu Á và mức nợ quốc gia tăng
cao đang buộc các nước phải cắt giảm nợ mà điều này có thể dẫn đến việc xuất khẩu vốn”,
Nhóm nghiên cứu tiền tệ toàn cầu tại Morgan Stanley tại London nhận định.
Indonesia và Malaysia là những nước dễ bị tổn thương nhất nếu Cục Dự trữ liên
bang Mỹ (Fed) tăng lãi suất và hậu quả là dòng vốn sẽ bị rút khỏi nước này. Đây là hai
nước có vay nợ ngoại tệ tăng cao trong khi giá đồng nội tệ lại suy yếu.
Đồng rupiah của Indonesia đã mất 7% trị giá so với đồng USD kể từ đầu năm trong
khi đồng ringgit của Malaysia giảm 8%. Nguồn tin từ một quan chức tiết lộ, để ngăn chặn
sự suy yếu của đồng nội tệ, Indonesia đã tìm cách có được thỏa thuận hoán đổi USD với
Fed nhưng đã bị từ chối.
Vẫn còn một số điểm sáng, ví dụ như dấu hiệu tăng trưởng ở Việt Nam và Ấn Độ.
Tuy nhiên với chính sách tiền tệ thắt chặt để làm giảm nợ công, những năm tăng trưởng tốt
nhất của châu Á có vẻ đã ở phía sau./.
Theo khảo sát, 68% người dân Malaysia đang trong tình trạng thiếu nợ, nhiều gấp đôi
mức bình thường của toàn châu lục. Trung bình mỗi người dân nước này nợ khoảng
50.000 ringgit, tương đương khoảng 300 triệu đồng; vay tiêu dùng chiếm hơn 60% các
khoản nợ, còn lại là các khoản vay để thuê nhà hoặc đầu tư học hành cho con cái. Các
chuyên gia nhận định, đây là những khoản nợ có rủi ro cao, khó có khả năng thanh toán.
Nhóm: Lớp LT3G

23


Đề tài: Vấn đề nợ công ở một số nước hiện nay.

Môn: Tài chính tiền tệ

III. THỰC TRẠNG VỀ NỢ CÔNG CỦA MỸ.
Báo “Bưu điện Washington” (Washington Post) dẫn báo cáo của Bộ Tài chính

Mỹ cho hay nợ quốc gia Mỹ tính tới ngày 29/1/2016 đã vượt mốc 19.012 tỷ USD.
Với dân số hơn 300 triệu hiện nay, trung bình mỗi người dân Mỹ sẽ phải “gánh trên
vai” khoản nợ khoảng 60.000 USD. Tổng nợ quốc gia hiện nay của Mỹ tương đương xấp
xỉ 103% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của nước này, trong đó 13.700 tỷ USD là nợ
công, số còn lại khoảng 5.300 tỷ USD là nợ của chính phủ.
Business Insider vừa dẫn lại một Infographics của Visual Capitalist chỉ ra quốc gia
nào mới thực sự gánh món nợ công khủng nhất thế giới.
– Quốc gia đang gánh nợ công khủng nhất không phải Venezuela hay Hy Lạp, mà là
Mỹ với tỷ lệ nợ lên tới 29,05% tổng nợ.
Tỷ lệ nợ công/GDP của Mỹ hiện ở mức 103,04%, theo tính toán của Quỹ Tiền tệ
Thế giới (IMF)

Nhóm: Lớp LT3G

24


Đề tài: Vấn đề nợ công ở một số nước hiện nay.

Môn: Tài chính tiền tệ

Trong những năm gần đây, nợ quốc gia của Mỹ đã tăng đáng kể, từ mức khoảng
10.800 tỷ USD vào thời điểm Tổng thống Barack Obama nhậm chức hồi năm 2009 lên
mức kỷ lục như hiện nay.

Theo Văn phòng Ngân sách Quốc hội Mỹ, nợ liên bang của nước này có thể sẽ tiếp
tục tăng và hồi cuối năm ngoái, Quốc hội Mỹ đã phải bỏ phiếu nâng trần nợ công của
chính phủ, có hiệu lực tới tháng 3/2017.
Luật ngân sách trong 2 năm tới quy định trần nợ mới cho đến tháng 3/2017, giúp
nước Mỹ không phải đối mặt với những mối đe dọa về việc chính phủ phải đóng cửa vào

phút chót. Cụ thể, luật này bổ sung 50 tỷ USD cho tài khóa 2016 và 30 tỷ USD cho tài
khóa 2017. Các khoản ngân sách này sẽ được chia đều cho các chương trình chi tiêu quân
sự và thúc đẩy tăng trưởng trong nước.
Số tiền 80 tỷ USD bổ sung cho chính phủ có được là nhờ các biện pháp cắt giảm chi
tiêu và tăng thu từ thuế của chính quyền Tổng thống Obama trong suốt những năm qua.
Những nỗ lực này đã giúp thâm hụt ngân sách của Mỹ trong năm tài khóa 2015 giảm còn
439 tỷ USD, thấp nhất kể từ năm 2008, cũng là khi ông Obama đắc cử Tổng thống.
Bộ Tài chính Mỹ tháng trước công bố số liệu cho biết, thâm hụt ngân sách của
Chính phủ nước này trong tài khóa 2015 đã giảm xuống còn tương đương 2,5% tổng sản
phẩm quốc nội (GDP), mức thấp nhất kể từ năm 2007 và thấp hơn mức trung bình của 40
năm qua.
Nhóm: Lớp LT3G

25


×