Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

BIẾN ĐỘNG tỷ GIÁ ở VIỆT NAM và NHỮNG tác ĐỘNG ẢNH HƯỞNG đến nền KINH tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.06 KB, 8 trang )

TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ HỌC

BIẾN ĐỘNG TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM VÀ
NHỮNG TÁC ĐỘNG ẢNH HƯỞNG ĐẾN
NỀN KINH TẾ


Tỷ giá hối đoái (TGHĐ) là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô
quan trọng của mỗi quốc gia. Biến động TGHĐ luôn là vấn đề nhạy cảm,
mang tính thời sự đối với nền kinh tế ở mỗi quốc gia đặc biệt là đối với những
quốc gia có nền kinh tế nhỏ như Việt Nam. Ở Việt Nam, TGHĐ không chỉ tác
động đến xuất nhập khẩu, cán cân thương mại, nợ quốc gia, thu hút đầu tư
trực tiếp, gián tiếp, mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của dân chúng.
Tỷ giá hối đoái ( thường gọi tắt là tỷ giá) là sự so sánh về mặt giá cả giữa
hai đồng tiền của hai nước khác nhau. Cũng có thể gọi tỷ giá hối đoái là giá
của một đồng tiền này tính bằng giá của một đồng tiền khác.
Chế độ tỷ giá hồi đoái là cách thức một đất nước quản lý đồng tiền của
mình liên quan đến các đồng tiền nước ngoài và quản lý thị trường ngoại hối.
Chế độ tỷ giá hối đoái ở mỗi nước ở mỗi thời kỳ có thể khác nhau, song về cơ
bản gồm chế độ tỷ giá “thả nổi” theo đó thị trường quy định những biến động
của tỷ giá hối đoái, hoặc ngược lại hoàn toàn là chế độ tỷ giá hối đoái “cố
định” theo đó nhà nước sẽ can thiệp để tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền của
nước mình với đồng tiền nước khác không đổi, hoặc là một chế độ nằm giữa
hai giải pháp góc đó (thả nổi có điều tiết).
Chính sách tỷ giá bao gồm 2 nội dung chính là chế độ tỷ giá và điều hành
chính sách tỷ giá.
Thứ nhất, về chế độ tỷ giá: Với chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của
Nhà nước, tỷ giá được điều chỉnh linh hoạt theo quan hệ cung cầu ngoại tệ
trên thị trường dưới sự quản lý, điều tiết của Nhà nước. Chế độ tỷ giá này
được đa số quốc gia lựa chọn trong đó có Việt Nam. Theo cơ chế này, hàng
ngày Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên


thị trường liên ngân hàng ngày hôm trước làm cơ sở để các ngân hàng thương
mại (NHTM) xác định tỷ giá giao dịch trong ngày xoay quanh biên độ do
NHNN công bố trong từng thời kỳ.
Theo số liệu từ NHNN thì giai đoạn từ năm 2008 đến nay, NHNN đã
điều hành chính sách tỷ giá theo hướng giảm giá đồng Việt Nam ở mức vừa


phải đã có tác động làm giá bán hàng xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường
thế giới cạnh tranh hơn. Cụ thể:
Ngày 11/6/2008 điều chỉnh lên 16.461VNĐ/USD (+1,99%)
Ngày 25/12/2008, điều chỉnh lên 16.989 VNĐ/USD (+3%)
Ngày 26/12/2009, điều chỉnh lên 17.961 VNĐ/USD (+5,44%)
Ngày 11/2/2010, điều chỉnh lên 18.544 VNĐ/USD (+3,36%)
Ngày 18/8/2010, điều chỉnh lên 18.932 VNĐ/USD (+2.09%)
Ngày 11/1/2011, điều chỉnh lên 20.693 VNĐ/USD (+9.3%)
Sau khi tỷ giá USD/VNĐ được điều chỉnh tăng tới 9,3% đầu năm 2011,
đến nay NHNN đã duy trì tỷ giá hối đoái khá ổn định và thậm chí là không
thay đổi tỷ giá trong suốt cả năm 2012. Và cho đến giữa năm 2013 mới có sự
điều chỉnh tỷ giá hối đoái chính thức ở mức 1% đồng thời duy trì biên độ dao
động của tỷ giá giao dịch tại các NHTM là +/-1%. Điều này đã góp phần tích
cực ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì được sức mua đối ngoại của đồng Việt
Nam, trong bối cảnh sức mua đối nội cũng đã được khôi phục.
Như vậy, chế độ tỷ giá này sẽ có sự can thiệp của NHNN nhằm hạn chế
những biến động mạnh của tỷ giá hối đoái như quy định biên độ giao dịch
giữa đồng Việt Nam và USD, duy trì tỷ giá USD ở mức mục tiêu nhằm tránh
những rủi ro có thể xảy ra đối với các hoạt động kinh doanh quốc tế. Chế độ
tỷ giá này vừa đảm bảo ổn định tỷ giá, tạo điều kiện thuận lợi cho các DN
hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, đảm bảo được tính linh hoạt và dự
đoán được.
Thứ hai, về điều hành chính sách tỷ giá: Chính sách tỷ giá là một trong

những chính sách kinh tế có tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua
tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước, hỗ trợ xuất khẩu
- một cấu thành quan trọng của tăng trưởng kinh tế.
Trong thời gian qua, tăng trưởng xuất khẩu ở các doanh nghiệp Việt
Nam liên tục tăng trưởng tốt, đạt 114,6 tỷ USD năm 2012, tăng 18,3% so với
năm 2011, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng GDP, giúp tạo công ăn việc


làm, mở rộng sản xuất, tăng thu ngoại tệ, giúp cải thiện cán cân thanh toán,
đồng thời khai thác được lợi thế so sánh, sử dụng nguồn lực có hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, cơ chế truyền dẫn của chính sách tỷ giá tác động ngược chiều
giữa các doanh nghiệp xuất khẩu và doanh nghiệp nhập khẩu. Trường hợp tỷ
giá tăng sẽ có tích cực đối với tăng năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp
xuất khẩu do lợi thế cạnh tranh về giá và bảo hộ mặt hàng tiêu dùng sản xuất
trong nước thì ngược lại làm tăng chi phí đối với các doanh nghiệp phải nhập
khẩu các yếu tố đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Thậm chí, gây
bất lợi cho ngay cả các doanh nghiệp xuất khẩu nếu các doanh nghiệp này
phải nhập khẩu các nguyên vật liệu sản xuất cho hàng xuất khẩu của mình.
Ngoài ra, tỷ giá cao còn làm gia tăng giá trị các khoản nợ đối với các
doanh nghiệp có khoản vay nợ nước ngoài, kể cả các khoản nợ công của
Chính phủ hiện đang có xu hướng gia tăng trong thời gian gần đây (chiếm
42,2% trong tổng nợ công năm 2012). Như vậy, với nền kinh tế Việt Nam
phát triển theo mô hình định hướng xuất khẩu trong khi nhập siêu các yếu tố
đầu vào có xu hướng tăng như năm năm 2011 là 105,8 tỷ USD tăng 24,7% so
với năm 2010, năm 2012 là 114,3 tỷ USD tăng 7,1% so với năm 2011 thì việc
lựa chọn chính sách tỷ giá đảm bảo tính đa mục tiêu là khó có thể thực hiện
được. Do vậy, yêu cầu trong chính sách tỷ giá buộc phải có lựa chọn.
Trên thực tế, mức tăng trưởng xuất khẩu bình quân khoảng 18%/năm đã
đóng góp quan trọng cho tăng trưởng cũng như đảm bảo các cân đối lớn trong
nền kinh tế đối với quốc gia đang phát triển như Việt Nam hiện nay. Do đó,

chính sách tỷ giá hiện tại vẫn cần hướng tới mục tiêu khuyến khích xuất khẩu,
hạn chế nhập khẩu các mặt hàng trong nước có thể sản xuất được nhằm cải
thiện cán cân thương mại và cán cân thanh toán góp phần tăng trưởng kinh tế.
Ở Việt Nam, chính sách tỷ giá hối đoái gắn rất chặt với chính sách tiền
tệ, thậm chí gần như trở thành một bộ phận không thể tách rời của chính sách
tiền tệ. Xét trường hợp VNĐ và USD (các yếu tố khác không đổi):
Khi lựa chọn nắm giữ đồng tiền nội tệ và ngoại tệ, người ta sẽ xem xét
mức lãi suất thực tế của 2 đồng tiền này:


Khi lãi suất của VNĐ cao hơn lãi suất USD người ta sẽ có xu hướng
chuyển từ nắm giữ USD sang nắm giữ VNĐ. Điều này làm cho nhu cầu VNĐ
tăng lên, cầu về USD giảm đi, từ đó đồng USD sẽ giảm đi so với VNĐ, hay tỷ
giá giảm tới một mức mà cung cầu USD-VNĐ trở nên cân bằng. Khi đó lãi
suất thực tế của VNĐ và USD tương đương nhau (điều kiện ngang bằng lãi
suất và không tính tới lạm phát)
Khi có ảnh hưởng của lạm phát, mặc dù lãi suất danh nghĩa tăng, nhưng
lãi suất thực tế giảm, lúc này ngược lại, VNĐ sẽ giảm giá so với USD, dẫn tới
tỷ giá tăng. Ngược lại khi đồng USD tăng giá, để tạo cân bằng trên thị trường
ngoại hối, NHTW sẽ chủ động tăng lãi suất VNĐ thông qua đẩy mạnh lượng
cung ngoại tệ ra nền kinh tế đồng thời rút bớt đồng nội tệ về. Điều này làm
cho cung cầu ngoại hối trở nên cân bằng.
Ở Việt Nam, do một số đặc trưng: tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của
Việt Nam lớn (tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2013 lên đến hơn 260 tỷ
USD, tương đương 150% GDP), dòng vốn nước ngoài vào Việt Nam rất
nhiều kể cả dòng vốn đầu tư trực tiếp lẫn đầu tư gián tiếp nên Việt Nam có
tình trạng đô la hóa khá mạnh do Việt Nam là một trong số ít nước trên thế
giới chấp nhận huy động bằng đô la Mỹ và các ngoại tệ khác cũng như được
phép cho vay bằng ngoại tệ.
Ngoài ra, NHNN cũng cho phép các NHTM được tự do hóa điểm hoán

đổi ngoại tệ, cho chuyển đổi tự do các ngoại tệ mạnh và thả nổi phí trên các
hợp đồng quyền chọn giữa USD và VND, đặc biệt cho phép thực hiện cơ chế
tỷ giá thỏa thuận, chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) tập trung ngoại tệ cho
vay nhập khẩu những mặt hàng thiết yếu, điều tiết cung - cầu ngoại tệ, tăng
tính thanh khoản cho thị trường. Tuy nhiên, tác động từ những nỗ lực trong
điều hành chính sách tỷ giá đối với mục tiêu xuất khẩu là không lớn do cơ cấu
mặt hàng xuất khẩu ở dạng thô và có độ co giãn theo giá thấp trên thị trường
thế giới hoặc lại phụ thuộc quá nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu.
Chính vì vậy, việc giữ ổn định tỷ giá hối đoái không chỉ hỗ trợ tích cực
kiềm chế lạm phát thông qua hạn chế tăng giá hàng hóa nhập khẩu, từ các loại


máy móc thiết bị, nguyên, nhiên, vật liệu đến hàng hóa tiêu dùng mà còn góp
phần cải thiện cán cân thương mại, thu hút đầu tư nước ngoài và tăng dự trữ
ngoại hối. Năm 2012 và 2013, mặc dù CPI lần lượt tăng 6,81% và 6,04% so
với cuối kỳ và tăng bình quân tới 9,21% và 6,6% song giá USD chỉ tăng
tương ứng có 0,18% và 1,09% chứng tỏ tỷ giá hối đoái không chỉ ổn định
trong chính sách và thể hiện ở tỷ giá hối đoái chính thức giao dịch liên ngân
hàng mà còn ở thực tế trên thị trường tiền tệ.
Cán cân thương mại và tài khoản vốn đều thặng dư lại thêm trên dưới 10
tỷ USD kiều hối hàng năm nên cán cân thanh toán của Việt Nam năm 2012 2013 đã được cải thiện mạnh từ mức thâm hụt lớn giai đoạn 2007 - 2009 sang
trạng thái thặng dư, thậm chí là thặng dư lớn nên đã tạo ra cơ hội tăng mạnh
dự trữ ngoại hối (quy mô dự trữ ngoại hối năm 2013 đã lên tới trên 30 tỷ USD
sau khi xuống dưới 10 tỷ USD năm 2009), qua đó tạo cơ sở vững chắc để duy
trì ổn định tỷ giá hối đoái, tạo nguồn lực tài chính để sẵn sàng đối phó với khả
năng rủi ro từ việc rút vốn, đầu cơ tiền tệ hay những áp lực về phá giá đồng
Việt Nam.
Ngoài ra, việc tăng tỷ giá cũng có những tác động không tốt như: Tạo ra
sự đắt đỏ hơn cho những hàng hóa nhập khẩu và những mặt hàng nhập khẩu
này sản xuất và bán trong nước, nếu sản xuất và bán trong nước nhiều. Về

nguyên tắc, các doanh nghiệp hay cộng tăng tỷ giá vào giá bán như vậy sẽ tạo
ra một cái giá mới của mặt hàng nhập khẩu. Nếu mặt hàng nhập khẩu mà tỷ
trọng lớn trong mặt bằng giá xã hội thì sẽ tạo ra mặt bằng giá mới. Điều này
thì chưa ai dám chắc chắn nhưng nó tác động là điều đương nhiên. Nhưng nó
cũng có những tác động tích cực nếu như mặt hàng đó có giá trị cao, người
tiêu dùng sẽ từ chối mua. Lúc đó các doanh nghiệp sẽ phải chuyển sang sản
xuất các mặt hàng khác, các mặt hàng tiêu dùng trong nước, ví dụ như ô tô
nhập khẩu, các doanh nghiệp nhập khẩu cộng dồn đẩy giá lên cao, khách hàng
sẽ từ chối và sử dụng ô tô sản xuất trong nước. Điều này tác động đến việc
giảm nhập siêu, thực tế đã chứng minh khi giá xăng dầu tăng cao và thiếu


ngoại tệ nhập khẩu, nhà máy lọc đầu Dung Quất là lựa chọn của khách hàng
trong nước và đến giờ không có hàng để bán.
Như vậy theo những phân tích trên, những tác động của chính sách tỷ giá
đối với nền kinh tế Việt Nam, đó là:
- Giảm giá đồng Việt Nam sẽ đẩy lạm phát trong nước lên cao. Theo các
tính toán, nếu đồng VND bị mất giá 1% so với USD sẽ làm giảm giá xuất
khẩu khoảng 0,21% nhưng lại tăng giá nhập khẩu 0,49%.
- Tỷ giá biến động tác động đến tình trạng đô la hóa của Việt Nam, dẫn
tới chức năng phương tiện thanh toán và bảo toàn giá trị của VND bị xói mòn.
- Gây áp lực trả nợ đối với các khoản nợ nước ngoài của cả khu vực DN
và khu vực công vì hiện nay vay nợ với 3 đồng tiền chủ chốt là USD, EUR và
JPY trong đó nợ nước ngoài Chính phủ là 42,2% năm 2010 so với GDP; 41,5
% năm 2011; 41,1% năm 2012.
Như vậy, điều hành chính sách tỷ giá hiện tại với mục tiêu tăng trưởng
kinh tế trong bối cảnh hiện tại cần chú ý một số giải pháp sau:
Về mục tiêu dài hạn: Cần kiên trì các giải pháp thực hiện ổn định kinh tế
vĩ mô, mà trước hết là duy trì mức lạm phát thấp. Việc kiểm soát chỉ số tăng
giá tiêu dùng sẽ góp phần đưa tỷ lệ lạm phát xuống thấp, nâng cao năng lực

cạnh tranh của hàng xuất khẩu, đồng thời hỗ trợ cho doanh nghiệp cắt giảm
chi phí đầu vào. Bên cạnh đó, cần hoàn chỉnh thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng nhằm giúp Nhà nước có biện pháp can thiệp khi cần thiết.
Về cơ chế điều hành tỷ giá: NHNN cần tiếp tục điều hành tỷ giá theo
hướng linh hoạt, trong đó tỷ giá VND cần được xác định theo một rổ tiền tệ
chủ chốt, không nên neo VND theo USD. Cơ chế tỷ giá neo chặt vào USD có
thể phát huy tác dụng trong giai đoạn chịu sự tác động của khủng hoảng tài
chính thế giới.
Tuy nhiên, hiện nay, có thể tạm thời khẳng định Việt Nam đã thoát khỏi
“bóng đen” của cuộc khủng hoảng nên cơ chế neo tỷ giá USD có thể gây tác
động tiêu cực. Để điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt, trong những năm tiếp


theo, NHNN cần nghiên cứu kỹ về việc lựa chọn những đồng tiền trong rổ
tiền tệ và tỷ trọng của chúng trong rổ tiền tệ là bao nhiêu.
Bên cạnh đó, công tác dự báo có vai trò quan trọng trong việc phòng
ngừa rủi ro hoặc đầu cơ, vì vậy tăng cường chất lượng công tác dự báo tỷ giá
cũng là điều cần thiết.
Rõ ràng, chính sách tỷ giá hối đoái đã và đang bám sát theo nguyên tắc
ổn định và linh hoạt, quan trọng hơn là sự ổn định và linh hoạt đó dựa trên
những tiền đề và cơ sở tài chính vững chắc. Diễn biến tỷ giá hối đoái những
năm 2012 - 2013 đã tạo được niềm tin khá chắc chắn vào sự ổn định của tỷ
giá hối đoái nói chung cũng như khả năng điều hành chính sách tỷ giá hối
đoái của NHNN nói riêng. Thành công của việc điều hành chính sách tỷ giá
hối đoái vừa qua còn thể hiện ở sự gắn bó chặt chẽ với chính sách quản lý
ngoại hối, quản lý thị trường vàng, với lộ trình chống đô la hóa, chống vàng
hóa trong nền kinh tế.
Năm 2014 nên tiếp tục duy trì chính sách tỷ giá hối đoái đã định hình
trong các năm 2012 - 2013 nhằm tăng tính hấp dẫn của VNĐ và tăng dự trữ
ngoại hối, tuân thủ cam kết không điều chỉnh tỷ giá quá 2%. Bên cạnh đó,

chính sách tỷ giá hối đoái phối hợp chặt chẽ với chính sách quản lý thị trường
vàng, bảo đảm ổn định thị trường, lập lại và củng cố trật tự trên thị trường
vàng và thị trường ngoại hối.



×