Tải bản đầy đủ (.docx) (168 trang)

Bồi dưỡng năng lực sáng tạo của học sinh trong dạy học các lực cơ học vật lí 10 THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.15 MB, 168 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn đến Ban giám hiệu, Phòng sau đại
học, Ban chủ nhiệm, Tổ phương pháp và các thầy cô khoa Vật lí trường Dại
học sư phạm Hà Nội 2 đã tận tình giảng dạy kiến thức và tạo điều kiện thuận
lợi cho tác giả trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu và Tổ vật lí trường THPT
Việt Trì, trường THPT Công ngiệp Việt Trì, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ
đã tạo điều kiện cho tác giả làm thực nghiệm sư phạm.
Đặc biệt, tác giả xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS. Tạ Tri
Phương người đã tận tình hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu
và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè, những
người đã động viên, giúp đỡ tác giả trong thời gian học tập và làm luận văn.
Việt Trì, tháng 11 năm 2015
Tác giả

Bùi Thị Hồng Liên


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong bất kì một công
trình khoa học nào khác.

Việt Trì, tháng 11 năm 2015
Tác giả

Bùi Thị Hồng Liên


DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT


STT
1

VIẾT TẮT
BTVL

VIẾT ĐẦY ĐỦ
Bài tập vật lí

2

DH

Dạy học

3

DHDA

Dạy học dự án

4

DHGQVĐ

Dạy học giải quyết vấn đề

5

DHST


Dạy học sáng tạo

6

DHVL

Dạy học vật lí

7

ĐC

Đối chứng

8

GD – ĐT

Giáo dục – Đào tạo

9

GQVĐ

Giải quyết vấn đề

10

GV


Giáo viên

11

HS

Học sinh

12

NLST

Năng lực sáng tạo

13

PP

Phương pháp

14

PPDH

Phương pháp dạy học

15

PPTN


Phương pháp thực nghiệm

16

SGK

Sách giáo khoa

17

TDST

Tư duy sáng tạo

18

THCS

Trung học cơ sở

19

THPT

Trung học phổ thông

20

TN


Thực nghiệm

21

VL

Vật lí


MỤC LỤC

PHỤ LỤC


DANH MỤC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ


DANH MỤC BẢNG BIỂU


7

MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nhân loại bước sang thế kỉ 21 với rất nhiều những thách thức cần phải
giải quyết, một trong số đó là sự bùng nổ tri thức. Dạy học truyền thống
không đáp ứng được cho việc giải quyết nhiệm vụ đó. Tổ chức UNESKO đã
hoạch định ra những chiến lược quan trọng cho giáo dục ở thế kỉ 21 trong đó
cần thay đổi trật tự mục tiêu giáo dục từ kiến thức – kỹ năng – năng lực và

thái độ chuyển sang thái độ - năng lực – kỹ năng – kiến thức; đặc biệt nhấn
mạnh đến việc hình thành năng lực sáng tạo cho học sinh.
Nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
với cộng đồng quốc tế. Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước, đổi
mới nền giáo dục là trọng tâm của sự phát triển. Nhân tố quyết định thắng lợi
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là con người. Công
cuộc đổi mới này đòi hỏi nhà trường phải tạo ra những con người lao động
năng động, sáng tạo làm chủ đất nước, tạo nguồn nhân lực cho một xã hội
phát triển.
Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 4 (khóa VII) đã xác định: “Phải
khuyến khích tự học, phải áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để
bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn
đề”.
Luật giáo dục số 38/2005/QH11 ngày 14/6/2005, điều 28.2 đã ghi:
“Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học; bồi
dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.


8

Đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tối đa sự sáng tạo và năng
lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thí nghiệm, ngoại khóa,
làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay…Chính vì thế trong
những năm gần đây Bộ giáo dục và Đào tạo khuyến khích giáo viên sử dụng
các phương pháp dạy học tích cực nhằm hoạt động hóa người học.
Trong quá trình dạy học ở trường phổ thông, nhiệm vụ quan trọng của
giáo dục là rèn luyện tư duy cho học sinh ở các bộ môn, trong đó có môn vật
lí. Vật lí là môn khoa học lý thuyết và thực nghiệm, vì thế bên cạnh việc nắm

vững lý thuyết, người học cần phải biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo mọi vấn
đề thông qua hoạt động thực nghiệm, thực hành, biết vận dụng vào trong thực
tiễn. Hơn thế nữa, quá trình phát triển năng lực sáng tạo kiến thức mới không
chỉ dựa vào những kinh nghiệm cá nhân người học có do tương tác với thế
giới vật chất mà phải có sự tương tác giữa xã hội với người học giữa người
học với người học và giữa người học với giáo viên. Những điều này đảm bảo
cho kiến thức mà học sinh có được, những kiến thức khoa học thực sự có chất
lượng, sâu sắc và vững chắc, và hệ thống. Việc đổi mới phương pháp dạy học,
trong đó có dạy học vật lí nhằm thực hiện tốt mục tiêu dạy học hiện đang là
một trong những vấn đề hết sức được coi trọng. Muốn vậy, chúng ta cần vận
dụng tốt một trong những thành tựu xuất sắc của khoa sư phạm ở nhiều nước
trong thế kỷ 21 về tâm lý học và lý luận dạy học là: cách tốt nhất để hình
thành và phát triển năng lực nhận thức, năng lực sáng tạo của học sinh là đặt
họ vào vị trí chủ thể hoạt động nhận thức, thông qua hoạt động tự lực tự giác
tích cực của bản thân mà chiếm lĩnh kiến thức, phát triển năng lực sáng tạo
và hình thành quan điểm đạo đức.
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang đứng trước những thời cơ và
thách thức to lớn, để tránh được nguy cơ tụt hậu, việc phát triển năng lực sáng
tạo cho thế hệ trẻ lại càng cần thiết và cấp bách hơn bao giờ hết. Trước hết


9

việc phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh được tiến hành ngay khi các em
còn ngồi trên ghế nhà trường được thông qua các quá trình sư phạm, việc dạy
học các môn học khác nhau trong đó có môn vật lí theo nội dung và phương
pháp dạy học được đổi mới và phù hợp với thời đại. Việc hình thành kiến
thức vật lí ở mức độ hiện đại cho học sinh là cơ sở cho học sinh nhận thức
được thế giới vật chất, đồng thời phát triển năng lực trí tuệ và nhân cách của
họ. Việc hình thành kiến thức vật lí không chỉ trang bị cho học sinh những tri

thức cần thiết cho cuộc sống mà còn phát triển tư duy, rèn luyện năng lực tự
giải quyết vấn đề. Dưới góc độ lí luận dạy học, lí luận bộ môn, những năm
gần đây, nghiên cứu rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học được đề cập đến
và vận dụng lí thuyết này vào một số lĩnh vực dạy học cụ thể, đã được công
bố rải rác trên các tạp chí khoa học qua các công trình nghiên cứu.
Từ những lí do trên, với mong muốn góp phần nâng cao chất lượng dạy
học vật lí ở các trường THPT, chúng tôi chọn và nghiên cứu đề tài: Bồi
dưỡng năng lực sáng tạo của học sinh trong dạy học “Các lực cơ học” Vật lí 10 THPT.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu, tổ chức quá trình dạy học một số nội dung kiến thức “Các
lực cơ học” trên cơ sở vân dụng các quan điểm phát triển năng lực nhằm bồi
dưỡng và rèn luyện năng lực sáng tạo cho học sinh.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu
Lí thuyết về dạy học phát triển năng lực cho học sinh trong dạy học vật lí
ở THPT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình dạy học đề tài “Các lực cơ học” - Vật lí 10 THPT.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC


10

Nếu vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học hiện đại trong dạy học
“ Các lực cơ học” sẽ cho phép bồi dưỡng năng lực sáng tạo của học sinh.
5. NHIỆM VỤ NGHÊN CỨU CỤ THỂ
- Nghiên cứu lí thuyết dạy học phát triển năng lực.
- Phân tích một số phương pháp dạy học hiện đại dưới góc độ bồi dưỡng năng
lực sáng tạo.
- Phân tích nội dung, cấu trúc logic, mục tiêu dạy học “các lực cơ học”.

- Đề xuất các tiêu chí để đánh giá được các biểu hiện của “bồi dưỡngnăng lực
sáng tạo”.
- Triển khai dạy thực nghiệm, đánh giá kết quả thực nghiệm và hoàn thiện các
tiến trình dạy học đó.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Được sử dụng để tìm, đọc, phân loại tư liệu trong nước và nước ngoài
nhằm hình thành cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu.
6.2. Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, tổng kết kinh nghiệm
Được sử dụng để tìm hiểu kinh nghiệm trong nước và nước ngoài đặc
biệt là từ các giáo viên trực tiếp giảng dạy được đúc kết lại trên cơ sở lí luận
được nghiên cứu để đề xuất phát triển năng lực sáng tạo vào dạy vật lí.
6.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Sử dụng phương pháp này để kiểm nghiệm tính khoa học, khả thi, hiệu
quả của đề tài luận văn. Kế hoạch thực nghiệm và tổ chức thực nghiệm tại
một số trường THPT của Phú Thọ.
6.4. Phương pháp thống kê toán học trong khoa học giáo dục
Xử lý định lượng các kết quả điều tra và kết quả thực nghiệm sư phạm.
7. NHỮNG DỰ KIẾN ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN


11

- Làm sáng tỏ cơ sở lí luận của việc vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy
học hiện đại với việc bồi dưỡng năng lực sáng tạo trong quá trình dạy học vật
lí ở trường THPT.
- Tiến trình dạy học các kiến thức “ Các lực cơ học”, nhằm mục tiêu bồi
dưỡng năng lực sáng tạo.
8. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn chia làm

3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc bồi dưỡng năng lực
sáng tạo trong dạy học Vật lí THPT
Chương 2: Tổ chức quá trình dạy học về kiến thức “Các lực cơ học”
nhằm bồi dưỡng năng lực sáng tạo
Chương 3:Thực nghiệm sư phạm


12

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC BỒI DƯỠNG NĂNG LỰC SÁNG TẠO TRONG DẠY
HỌC VẬT LÝ

Chúng ta đang ở những năm đầu của thế kỷ 21, thế giới đang xảy ra sự
bùng nổ về tri thức khoa học công nghệ. Sáng tạo là một trong những phẩm
chất tư duy được nhấn mạnh trong mục tiêu giáo dục nhằm chuẩn bị nguồn
lực con người phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Báo cáo của Ban chấp hành trung ương Đảng tại Đại Hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng về phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội
5 năm 2006 - 2010 đã nêu rõ: Tạo được chuyển biến cơ bản về phát triển giáo
dục và đào tạo... Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học.
Đổi mới chương trình, nội dung, PP dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ
GV và tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo
và độc lập suy nghĩ của HS [3].
Vì vậy nhiệm vụ của mỗi nhà giáo dục là tìm ra và đổi mới PPDH phù
hợp, hiện đại để bồi dưỡng năng lực sáng tạo của học sinh nhằm phát hiện và
bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Vậy năng lực sáng tạo là gì? Tính sáng tạo được biểu hiện như thế nào
trong quá trình dạy học?

1.1. Năng lực sáng tạo, những biểu hiện của năng lực sáng tạo trong dạy học
1.1.1. Năng lực

Năng lực ( Competentia – tiếng la tinh): Còn gọi là khả năng thực hiện
như khả năng giải nhanh các bài tập... là một sự kết hợp linh hoạt và độc đáo
của nhiều đặc điểm tâm lý của một người, tạo thành những điều kiện chủ
quan thuận lợi giúp cho người đó tiếp thu dễ dàng, tập dược nhanh chóng và
hoạt động đạt hiệu quả cao trong một lĩnh vực nào đó [25].


13

Theo từ điển Tiếng Việt thông dụng: “ Năng lực là khả năng làm tốt
công việc”.
Trong tâm lý học người ta coi “ năng lực là tổng hợp những thuộc tính
độc đáo của cá nhân phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định,
nhằm đảm bảo việc hoàn thành có kết quả tốt trong lĩnh vực hoạt động ấy”
[24, tr.87].
Năng lực ( tiếng la tinh là “ competentia”, có nghĩa là gặp gỡ, khái
niệm năng lực được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau) [6]:
+) Năng lực: là một thuộc tính tâm lý phức hợp, là điểm hội tụ của nhiều yếu
tố như tri thức, kỹ năng, kinh nghiệm, sự sẵn sàng hành động và trách nhiệm
đạo đức.
+) Năng lực: là những khả năng và kỹ xảo học được hoặc sẵn có của cá thể
nhằm giải quyết các tình huống xác định, cũng như sự sẵn sàng về động cơ,
xã hội... và khả năng vận dụng các cách giải quyết vấn đề một cách có trách
nhiệm và hiệu quả trong những tình huống linh hoạt [26].
Năng lực chứa đựng yếu tố mới mẻ linh hoạt, có thể giải quyết nhiệm vụ
thành công trong những tình huống khác nhau, trong một lĩnh vực hoạt động
rộng hơn. Do vậy, năng lực của học sinh sẽ là mục đích của việc dạy học,

giáo dục, những yêu cầu về bồi dưỡng phát triển năng lực cho học sinh cần
đặt đúng chỗ trong mục đích dạy học. Năng lực của mỗi người một phần dựa
trên cơ sở tư chất. Nhưng năng lực hình thành và phát triển chủ yếu là dưới
tác dụng của sự rèn luyện thông qua dạy học và giáo dục.
Khái niệm năng lực gắn liền với khả năng hành động. Năng lực hành
động là một loại năng lực, nhưng khi nói phát triển năng lực người ta cũng
hiểu đồng thời là phát triển năng lực hành động. Chính vì vậy trong lĩnh vực
sư phạm nghề, năng lực còn được hiểu là: khả năng thực hiện có trách nhiệm
và hiệu quả các hành động, giải quyết các nhiệm vụ, vấn đề trong những tình


14

huống khác nhau thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp, xã hội hay cá nhân trên cơ
sở hiểu biết, kỹ năng, kỹ xảo và kinh nghiệm cũng như sự sẵn sàng hành
động.
Để hình thành và phát triển năng lực cần xác định các thành phần và
cấu trúc của chúng. Có nhiều loại năng lực khác nhau. Việc mô tả cấu trúc và
các thành phần năng lực cũng khác nhau.
Cấu trúc năng lực hành động gồm:
+) Năng lực chuyên môn: Là khả năng thực hiện các nhiệm vụ về chuyên môn
cũng như đánh giá kết quả một cách độc lập có PP và đảm bảo chính xác về
mặt chuyên môn ( khả năng tư duy logic, phân tích, tổng hợp và trừu tượng;
khả năng nhận biết các mối quan hệ thống nhất trong quá trình).
+) Năng lực phương pháp: Là khả năng đối với những hành động có kế hoạch
định hướng mục đích trong công việc giải quyết các nhiệm vụ và vấn đề đặt
ra.Trung tâm của năng lực PP là những PP nhận thức, xử lý, đánh giá, truyền
thụ và giới thiệu.
+) Năng lực xã hội: Là khả năng đạt được mục đích trong những tình huống
xã hội cũng như trong những nhiệm vụ khác nhau với sự phối hợp chặt chẽ

với những thành viên khác.
Trọng tâm của năng xã hội là ý thức được trách nhiệm của bản thân
cũng như của những người khác, tự chịu trách nhiệm, tự tổ chức, có khả năng
thực hiện các hành động xã hội, khả năng cộng tác và giải quyết xung đột.
+) Năng lực cá thể: Là khả năng suy nghĩ và đánh giá được những cơ hội phát
triển cũng như những giới hạn của mình; phát triển được những năng khiếu cá
nhân cũng như xây dựng và thực hiện kế hoạch cho cuộc sống riêng; những
quan điểm, chuẩn giá trị đạo đức và động cơ chi phối các hành vi ứng xử. Các
thành phần năng lực “gặp nha" tạo thành năng lực hành động.


15

Theo quan điểm của các nhà sư phạm Đức, cấu trúc chung
của năng lực hành động được mô tả là sự kết hợp của 4 năng
lực thành phần sau:

Sơ đồ 1.1: Thành phần cấu trúc của năng lực

Mô hình bốn thành phần năng lực trên phù hợp với bốn trụ cột giáo dục theo
UNESCO:


16

Sơ đồ 2.2: Mô hình giáo dục theo UNESCO
1.1.2. Sáng tạo và năng lực sáng tạo

*Khái niệm về sáng tạo:
“Sáng tạo ( reation) là tìm ra cái mới, cách giải quyết mới, không bị gò bó,

phụ thuộc vào cái đã có” [17, tr.847]
Sáng tạo là nhìn một vấn đề, một câu hỏi...theo những cách khác với
thông thường. Tức là nhìn mọi thứ từ các góc độ, tầm nhìn khác, “nhìn” theo
những cách không bị hạn chế bởi thói quen, bởi phong tục, bởi tiêu chuẩn...
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Liên Xô [ Tập 42, tr.54] thì “ Sáng tạo
là một loại hoạt động mà kết quả của nó là một sản phẩm tinh thần hay vật
chất có tính cách tân, có ý nghĩa xã hội, có giá trị giúp giải quyết một khó
khăn, bế tắc nhất định”.
Theo nhà tâm lý học, “ sáng tạo là năng lực đáp ứng một cách thích đáng
nhu cầu tồn tại theo lối mới, năng lực gây ra cái gì đấy mới mẻ. Sự thích ứng
như vậy, nếu có xu hướng nội tâm lý thì chủ yếu liên quan tới cảm giác phát


17

hiện sự nảy sinh những ý nghĩa trong quá trình hình thành mục đích, nếu có
xu hướng ngoại tâm lý thì mang hình thức của các cấu trúc mới, những quy
trình hoặc sáng chế mới hoặc tiếp tục tồn tại” [41].
Theo từ điển Triết học, “sáng tạo là quá trình hoạt động của con người
tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần mới về chất”. Các loại hình sáng tạo
được xác định bởi đặc trưng nghề nghiệp như khoa học kỹ thuật, tổ chức quân
sự. Có thể nói sáng tạo có mặt trong mọi lĩnh vực của thế giới vật chất và tinh
thần.
Theo Phan Dũng [6], “sáng tạo là hoạt động tạo ra bất kỳ cái gì có đồng thời
tính mới và tính lợi ích”.
+ “Tính mới” là sự khác biệt của đối tượng cho trước so với đối tượng tiền
thân của nó (đối tượng cùng loại ra đời trước đó về mặt thời gian).
+ “Tính lợi ích” được tạo ra nhờ tính mới và rất đa dạng. Tính ích lợi chỉ thể
hiện ra khi đối tượng cho trước “làm việc” theo đúng chức năng và trong
phạm vi áp dụng của nó.

Theo định nghĩa này thì kết quả sáng tạo phải có đồng thời tính mới và
tính lợi ích, nếu chỉ có tính mới hoặc chỉ có tính lợi ích thì không được coi là
sáng tạo.
Mặc dù có nhiều ý kiến khác về bản chất nguồn gốc của trí sáng tạo
nhưng vì nó rất cần cho cuộc sống nên nhà tâm lý học đã tìm cách đo lường,
đánh giá năng lực sáng tạo của mỗi cá nhân. Người ta đưa ra một tình huống
với một số điều kiện, xuất phát từ yêu cầu đề xuất càng nhiều giải pháp càng
tốt, trong một thời gian càng ngắn càng hay. Việc đánh giá được căn cứ vào
số lượng tính mới mẻ, tính độc đáo, tính hữu ích của các đề xuất. Những trắc
nghiệm theo hướng như vậy, cùng với nhiều nghiên cứu thực nghiệm khác đã
cho biết:
+ Sáng tạo là một tiềm năng vốn có trong mỗi người, khi gặp dịp thì bộc lộ.


18

+ Mỗi người thường chỉ quen sáng tạo trong trong một vài lĩnh vực nào đó
(toán, vật lý, văn, mỹ thuật...) và có thể luyện tập để phát triển đầu óc sáng tạo
trong lĩnh vực đó.
Như vậy, sáng tạo cần cho bất cứ lĩnh vực nào của hoạt động xã hội loài
người và cho mọi người. Sáng tạo và luôn mong muốn sáng tạo là nhu cầu
của con người. Sáng tạo là hoạt động có ý nghĩa quan trọng đối với đời sống
của con người, tạo ra sự phát triển toàn diện của xã hội, tạo ra sự thay đổi từ
lĩnh vực này sang lĩnh vực khác. Cũng chính vì lẽ đó, tài liệu khoa học quốc
tế cho biết “Tương lai của cả thế giới góp phần lớn tùy thuộc vào chất lượng
tư tưởng, và cả ý tưởng sáng tạo do nhân loại khám phá và đề nghị trong tất
cả với mọi lĩnh vực trong cuộc sống”. Do đó, vấn đề “ Bồi dưỡng năng lực
sáng tạo cho học sinh thông qua dạy học vật lý” giúp cho học sinh hướng tới
mục tiêu cao hơn là đào tạo những người có khả năng sáng tạo ra những công
trình có tính mới và tính ích lợi ở mức nhân loại.

*Khái niệm NLST:
NLST là khả năng tạo ra những giá trị mới về vật chất và tinh thần, tìm
ra cái mới, giải pháp mới, công cụ mới, vận dụng thành công những hiểu biết
đã có vào hoàn cảnh mới.
Đối với HS, NLST trong học tập chính là năng lực biết giải quyết vấn đề
học tập để tìm ra cái mới ở một mức độ nào đó thể hiện được khuynh hướng,
năng lực, kinh nghiệm của cá nhân học sinh. HS sáng tạo cái mới đối với
chúng nhưng thường không có giá trị xã hội. Để có sáng tạo, chủ thể phải ở
trong tình huống có vấn đề, tìm cách giải quyết mâu thuẫn nhận thức hoặc
hành động và kết quả là đề ra được phương hướng giải quyết không giống
bình thường mà có tính mới mẻ đối với HS ( nếu chủ thể là HS) hoặc có tính
mới mẻ đối với loài người (như thể là nhà nghiên cứu).


19

Như vậy, NLST chính là khả năng thực hiện được những điều sáng tạo.
Đó là biết làm thành thạo và luôn đổi mới, có những nét độc đáo riêng luôn
phù hợp với thực tế. Luôn biết và đề ra những cái mới khi chưa được học,
nghe giảng hay đọc tài liệu hay tham quan về việc đó nhưng vẫn đạt được kết
quả cao.
1.1.2.1. Một số năng lực sáng tạo chủ yếu

1.1.2.1.1 Năng lực tư duy - sáng tạo
Tư duy là một hiện tượng tâm lý, là hoạt động nhận thức bậc cao ở con
người. Có nhiều loại tư duy, nhưng tựu chung có 3 loại tư duy cơ bản: tư duy
logic hình thức (gọi tắt là tư duy logic), tư duy biện chứng và tư duy
hình tượng. Trong các năng lực của con người, năng lực tư duy đóng vai trò
số một. Bởi vì tư duy tốt (tư duy có phê phán) hay tư duy không tốt sẽ có
ảnh hưởng quyết định đến đời sống của con người về thể chất, về tinh thần,

về quan hệ với cộng đồng, đến sự giàu có, hạnh phúc của một gia đình đến
hưng thịnh, hùng cường của một quốc gia. Năng lực tư duy là tiêu chuẩn đánh
giá đối với người lao động ở thế kỉ trí tuệ này.
Tư duy có phê phán không những chỉ giúp học tập tốt ở trường học
mà còn giúp trở thành người công dân tốt trong việc ra những quyết định
thông minh, có ý thức, suy nghĩ sâu sắc, để tìm ra những giải pháp sáng tạo,
thích hợp tối ưu cho mọi vấn đề xã hội yêu cầu, trở thành con người tích cực,
tiến bộ, văn minh, tỉnh táo tìm ra được những giải pháp sáng tạo trong đấu
tranh, lao động, vì sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Chính vì tầm quan trọng của tư duy như vậy mà hiện nay đã có nhiều đề
tài nghiên cứu, nhiều quyển sách viết về “cách dạy các kỹ năng tư duy”, “tư
duy sáng tạo ”…. phục vụ cho việc dạy và học cách tư duy trong nhiều
trường học, ngoài xã hội trên thế giới.


20

Quy luật hình thành và phát triển của tư duy sáng tạo (TDST):
- Khi hoàn cảnh có vấn đề (có tình huống vấn đề) thì TDST mới phát triển.
- TDST hình thành và phát triển trên cơ sở thực tiễn rồi trở lại làm phong phú
thực tiễn.
- TDST phát triển từ tư duy độc lập, tư duy phê phán.
- Chủ thể của TDST cần được cung cấp đầy đủ tư liệu, đó là tri thức, thông
tin, kinh nghiệm, các phương pháp, các sự kiện trong tự nhiên, xã hội.
- Bộ não cần được cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng, và được hoạt động
trong môi trường thuận lợi.
- TDST hình thành và phát triển dần dần theo quy luật từ tiệm tiến đến nhảy
vọt.
1.1.2.1.2. Năng lực quan sát và sáng tạo
Quan sát là hình thức phát triển cao độ tri giác có chủ định, có ý

nghĩa cực kỳ quan trọng trong hoạt động thực tiễn, sáng tạo của loài
người. D.Mendeleep nhà bác học người Nga cũng đã đánh giá rất cao về
năng lực quan sát: “ Quan sát và thực nghiệm là cửa ra của khoa học ”.
Quan sát chiếm một vị trí quan trọng trong phát minh sáng tạo. Rất
nhiều phát minh, sáng tạo vĩ đại bắt đầu từ sự quan sát chu đáo. Do đó đối với
các nhà khoa học, năng lực quan sát, tinh vi, sắc sảo và có hệ thống vẫn là
điều kiện cơ bản của phát minh sáng tạo.
Để nâng cao năng lực quan sát cần phải:
- Xác định chính xác mục đích và nhiệm vụ của quan sát.
- Chuẩn bị tốt tri thức về đối tượng quan sát: dụng cụ, máy móc, thời gian lập
đề cương kế hoạch tỉ mỉ trong quan sát.
- Khi quan sát, tập trung sức chú ý trong phạm vi đã quy định, và đối với từng
khâu cần thực hiện quan sát chu đáo, chính xác, và ghi chép tỉ mỉ, cụ thể,
chuẩn xác.


21

- Tăng cường sử dụng yếu tố tư duy trong quan sát. Nghĩa là tăng cường so
sánh, phân tích, tổng hợp, suy xét… để có kết quả cuối cùng đáp ứng nhiệm
vụ quan sát đã đề ra.
1.1.2.1.3. Năng lực tưởng tượng – liên tưởng
Tưởng tượng và liên tưởng là hai phẩm chất quan trọng của tư duy sáng tạo
* Tưởng tượng là xây dựng trong đầu những hình ảnh mới trên cơ sở các
biểu tượng đã có.
Biểu tượng: là hình ảnh sự vật nảy sinh trên vỏ não khi sự vật không
còn trực tiếp tác động vào giác quan của chúng ta nữa.
Trong tưởng tượng những biểu tượng đã có được sắp xếp lại, được
kết hợp với nhau theo một phương thức nào đó để tạo ra một biểu tượng mới.
Biểu tượng trong tưởng tượng thường xuất hiện không rõ rệt như hình ảnh của

vật khi ta tri giác mà nó thường xuất hiện với những nét cơ bản.
Dù là tưởng tượng mang tính viễn tưởng nhất (như tưởng tượng ra trời phật,
ma quỷ, con người của hành tinh khác…) nhưng chính tưởng tượng là sự kết
hợp độc đáo của các yếu tố nằm trong các sự vật, hiện tượng có thật. Vì vậy,
để cho năng lực tưởng tượng phong phú và phát triển hợp lý cần gắn với hoạt
động thực tiễn. Phác thảo là tưởng tượng nguyên thuỷ của nhà sáng tạo, cần
được bổ sung sửa chữa nhiều lần để sản phẩm của tưởng tượng được
hoàn chỉnh, chất lượng cao.
Con người tưởng tượng không chỉ trên cơ sở các hình tượng đã tri
giác trực tiếp, mà còn dựa trên các hình tượng do ngôn ngữ cung cấp vì ngôn
ngữ là phương tiện để tưởng tượng, cũng là phương tiện để tư duy.
* Ý nghĩa của tưởng tượng trong cuộc sống sáng tạo của con
người. Tưởng tượng cần thiết cho hoạt động của con người giúp ta nhìn
thấy trước sản phẩm hoạt động trong nhiều trường hợp là một hoạt động
mang tính sáng tạo. Người kiến trúc sư, nhà hội hoạ, nhà khoa học, nhà thơ,


22

nhà văn, nhà soạn nhạc … nhờ trí tưởng tượng phong phú mà có được những
sản phẩm sáng tạo lừng danh.
Trí tưởng là món quà vĩ đại của thiên nhiên, nó đã có sẵn trong
con người. Nó làm cho thế giới tinh thần của con người càng thêm phong phú,
nó đem lại cho con người niềm vui và kiến thức. Trí tưởng tượng giúp con
người “nhìn thấy” được những cái tưởng như không thể thấy, tiếp cận được
những cái tưởng như không thể tiếp cận. Trí tưởng tượng cung cấp cho con
người những gì mà thực tại chưa kịp hoặc không thể cho con người.
Ước mơ: là loại tưởng tượng tích cực. Nó có thể thúc đẩy con
người vươn lên.
Lý tưởng: là sự tưởng tượng về mục tiêu cao đẹp, định hướng cho

hành động và thúc đẩy con người vươn lên. Có lí tưởng vì xã hội là mức độ
cao của sự phát triển nhân cách.
* Cần làm gì để năng lực tưởng tượng phát triển phong phú, đúng hướng ?
- Làm giàu đầu óc mình bằng tri thức và khái niệm thực tiễn. Người có tri
thức và khái niệm thực tiễn phong phú, đa dạng thường có năng lực
tưởng tượng mạnh hơn người chỉ biết một mặt của tri thức.
- Nỗ lực rèn luyện năng lực liên tưởng của mình, tức là khả năng sử dụng khái
niệm để chuyển sang giải quyết những vấn đề khác tương tự. Không có năng
lực liên tưởng rất mạnh thì không thể có năng lực tưởng tượng phong phú.
- Vận dụng tư duy, can thiệp làm cho tưởng tượng hợp logic hơn và hợp với
quy luật.
- Tư duy giúp cho tưởng tượng ném bớt sự bay bổng, viễn vông và gắn thực
tế hơn.
- Luôn luôn chịu khó suy nghĩ, tưởng tượng ra cái mới tốt hơn cái cũ là một
yêu cầu không thể thiếu được với nhà sáng tạo.


23

- Trí tưởng tượng và óc liên tưởng ở nhiều nhà sáng tạo rất mạnh, giúp họ
thành công lớn
1.1.2.1.4. Năng lực phát hiện vấn đề
Năng lực phát hiện vấn đề chính xác để giải quyết đúng theo quy
luật khách quan đem lại kết quả cho họat động sáng tạo.
Quy luật khách quan không dễ gì tìm ra, đòi hỏi phải quan sát mọi
hiện tượng cần thiết, tìm tòi hiểu biết những sự thật khách quan. Để xác định
được quy luật khách quan (về tự nhiên, về xã hội, vế con người). Phải chọn
đúng đề tài (vấn đề) nghiên cứu. Cũng có nhiều nhà sáng tạo dù thông tin
chưa đầy đủ đã giỏi suy đoán chọn đúng vấn đề giải quyết đem lại kết quả
tốt.

1.1.2.2.Tìm hiểu những đặc điểm về năng lực sáng tạo của học sinh trong học tập

Đối với học sinh phổ thông tất cả những gì mà họ “ tự nghĩ ra ” khi GV
chưa dạy, HS chưa đọc sách, chưa biết được, nhờ trao đổi với bạn bè đều coi
như có mang tính sáng tạo. Sáng tạo là bước nhảy vọt trong sự phát triển năng
lực nhận thức của HS. Không có con đường logic để dẫn đến sáng tạo, bản
thân HS phải tự tìm thấy kinh nghiệm hoạt động thực tiễn của mình. Cách tốt
nhất để hình thành và bồi dưỡng năng lực nhận thức, năng lực sáng tạo
của HS là đặt họ vào vị trí chủ thể của hoạt động tự lực, tự giác, tích cực của
bản thân mà chiếm lĩnh kiến thức, phát triển NLST, hình thành quan điểm đạo
đức. Để bồi dưỡng NLST của HS trong học tập nói chung, trong học tập VL
nói riêng, ta cần phải xét tới một vài đặc điểm tâm lí của quá trình sáng tạo.
Một trong những đặc điểm quan trọng của hoạt động sáng tạo là vấn đề
tính mới mẻ. Trong thực tế, nếu chỉ coi là có tính sáng tạo những hoạt động
nào mà kết quả của nó là những sản phẩm mới một cách khách quan thì coi
như không tổ chức được loại hoạt động đó trong quá trình dạy học. Tuy


24

nhiên, theo quan điểm tâm lí học, sản phẩm mới mẻ có tính chất chủ quan
đống vai trò quan trọng đối với hoạt động dạy học sáng tạo.
Tính chủ quan của cái mới được xem như dấu hiệu đặc trưng của quá
trình sáng tạo, cho ta khả năng định hướng hoạt động sáng tạo của HS. Cái
mới và cái chưa biết của HS có thể và cần phải là cái đã biết đối với GV, cũng
có thể là cái mà GV chưa biết. Tuy nhiên đó là điều kiện cần thiết nhưng chưa
đầy đủ. Đặc trưng tâm lí quan trọng của sáng tạo có bản chất hai mặt: chủ
quan và khách quan.Tính chủ quan xét theo quan điểm của người nhận thức
mà trong đầu đang diễn ra quá trình sáng tạo, thể hiện là: các sản phẩm sáng
tạo còn mang tính chủ quan. Tính khách quan xét theo quan điểm của người

nghiên cứu quá trình sáng tạo đó với tư cách là tác động qua lại của 3 thành
tố: tự nhiên, ý thức con người và các hình thức phản ánh của tự nhiên vào ý
thức con người.
Có thể nói quá trình sáng tạo bao gồm những đặc trưng cơ bản sau:
Tính mới mẻ của sản phẩm, tính bất ngờ của phỏng đoán, tính ngẫu
nhiên của phát triển, những cái làm cho quá trình sáng tạo có tính chất không
nhận biết được, không điều khiển được đều có tính chất tương đối. Bởi vậy
đặc điểm quan trọng của quá trình sáng tạo trong học tập nói chung và học
tập VL nói riêng là tính mới mẻ chủ quan của sản phẩm, tính bất ngờ chủ
quan phỏng đoán, tính ngẫu nhiên chủ quan của phát kiến.
NLST chỉ được phát triển qua hành động thực tế: trong chiếm lĩnh kiến
thức VL, vận dụng kiến thức đế giải thích hiện tượng VL, làm thí nghiệm và
giải các BTVL trong các tình huống khác nhau. Tính tích cực sáng tạo và tốc
độ diễn ra của quá trình sáng tạo là những thông số có liên quan với nhau. HS
càng được chuẩn bị cho việc hoàn thành sự khám phá chủ quan tốt bao nhiêu
thì hoạt động sáng tạo của các em đó càng tích cực bấy nhiêu và quá trình
sáng tạo càng nhanh hơn bấy nhiêu.


25

1.1.2.3.Các mô hình dạy học theo quan điểm bồi dưỡng NLST

1.1.2.3.1. Mô hình dạy học theo chủ đề
Theo quan niệm trên thế giớí [15], [26], “Dạy học chủ đề là mô hình dạy
học trong đó có sự tích hợp liên môn làm cho nội dung học có ý nghĩa hơn,
thực tế hơn và HS có thể tự hoạt động nhiều hơn để tìm ra kiến thức và vận
dụng vào thực tiễn”.
Theo Đỗ Hương Trà [181], “Dạy học theo chủ đề là mô hình dạy học mà
nội dung học được xây dựng thành các chủ đề có ý nghĩa thực tiễn và thể

hiện mối liên hệ liên môn, liên lĩnh vực (chủ đề tích hợp) để HS có thể phát
triển các ý tưởng một cách toàn diện”.
DH theo chủ đề hướng tới mục tiêu giáo dục tích cực và quan trọng cho sự
phát triển lâu dài của cá nhân như:
- Sự phát triển hiểu biết khoa học
- Hiểu biết về tiến trình khoa học và rèn luyện các kĩ năng giải quyết vấn đề
theo tiến trình khoa học ( phát hiện vấn đề, đề xuất giải pháp, thực hiện giải
pháp và trình bày kết quả)
- Rèn luyện các kĩ năng tư duy bậc cao như phân tích - tổng hợp, đánh giá,
sáng tạo
- Rèn luyện các kĩ năng sống và làm việc như: ngôn ngữ, giao tiếp, hợp tác...
Dạy học chủ đề có các đặc điểm nổi bật sau:
-Tính tích hợp liên môn, liên lĩnh vực của người học
- Tính thực tiễn của người học
- Tính hợp tác giữa người học và giáo viên
- Phát huy tốt tính tích cực, tự lực, sáng tạo của người học
Trong dạy học chủ đề, HS được thể hiện rõ vai trò tự chủ, sáng tạo của
mình. HS đóng vai trò là những “chuyên gia” thuộc các lĩnh vực khác nhau
trong thực tiễn, hoàn thành vai trò của mình dựa trên kiến thức, kĩ năng nhất


×