Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN MỘT VÀI KINH NGHIỆM CUNG CẤP VỐN TIẾNG VIỆT CHO TRẺ DTTS 56 TUỔI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.04 KB, 19 trang )

Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số

ĐỀ TÀI :
MỘT VÀI KINH NGHIỆM
CUNG CẤP VỐN TIẾNG VIỆT CHO TRẺ DTTS 5-6 TUỔI
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Việt Nam là một quốc gia gồm 54 dân tộc cùng chung sống. Mỗi dân tộc
có một tiếng nói riêng. Tiếng Việt không chỉ là phương tiện giao tiếp trong cộng
đồng người Việt mà còn được dùng làm phương tiện giao tiếp giữa người Việt
với người thuộc các dân tộc khác và cả giữa người các dân tộc khác với nhau.
Từ sau năm 1945, tiếng Việt không chỉ là tiếng nói phổ thông của các dân tộc
mà đã trở thành ngôn ngữ quốc gia chính thức và được sử dụng trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Trong giáo dục, tiếng Việt là công cụ dạy học ở tất cả
các cấp học từ Giáo dục Mầm non đến đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ…ở tất cả các vùng
miền và đối với tất cả các dân tộc.
Một trong những thành tựu lớn lao nhất của Giáo dục Mầm non là làm
cho trẻ sử dụng được một cách thành thạo tiếng Việt trong đời sống hằng ngày.
Tiếng Việt là phương tiện quan trọng nhất để lĩnh hội nền văn hóa dân tộc, để
giao lưu với những người xung quanh, để tư duy, để tiếp thu khoa học, để bồi
dưỡng tâm hồn… Trẻ em “Tốt nghiệp” xong trường Mẫu giáo là đứng trước một
nền văn hóa đồ sộ của dân tộc và nhân loại mà nó có nhiệm vụ phải lĩnh hội
những kinh nghiệm của cha ông để lại đồng thời có sứ mạng xây dựng nền văn
hóa đó trong tương lai. Cho nên việc phát triển tiếng Việt cho trẻ em lứa tuổi
Mẫu giáo là một nhiệm vụ cực kì quan trọng, mà ở tuổi Mẫu giáo lớn nhiệm vụ
đó phải được hoàn thành. Đặc biệt đối với trẻ là con em đồng bào dân tộc thiểu
số thì nhiệm vụ này là hết sức cần thiết. Bởi vì các cháu dân tộc thiểu số thường
hay dùng tiếng mẹ đẻ của trẻ, nên khó khăn trong việc tiếp nhận tiếng Việt, dẫn
đến cháu khó tiếp thu lời giảng của cô. Chính vì vậy việc cung cấp vốn tiếng
Việt cho trẻ dân tộc thiểu số là vấn đề cần được quan tâm, nhằm hình thành và
phát triển những kỹ năng cần thiết cho việc học tiếng Việt ở các bậc học cao


hơn.
Bản thân là một giáo viên, được phân công chủ nhiệm lớp Lá 3 - buôn Ea
Kruế đa phần học sinh là người đồng bào dân tộc, tôi thấy rằng kỹ năng giao
tiếp bằng tiếng Việt của trẻ còn rất hạn chế, trẻ thường phát âm không chuẩn và
vốn từ, câu văn khi trẻ nói còn chưa đúng ngữ pháp… Tôi đã rất băn khoăn,
luôn tìm tòi những biện pháp để phát triển vốn tiếng Việt cho trẻ, khuyến khích
trẻ sử dụng tiếng Việt để học và giao tiếp với cô và bạn bè để giúp trẻ hoàn thiện
tiếng Việt trước khi bước vào lớp Một. Chính vì vậy tôi đã lựa chọn đề tài “Một
vài kinh nghiệm cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ dân tộc thiểu số”
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
- Đưa ra một số kinh nghiệm trong việc vận dụng phương pháp và các
hình thức tổ chức cung cấp tiếng Việt cho trẻ độ tuổi mầm non tại trường Mầm
Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.

Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen

Trang 1


Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số

non Hoa Sen nhằm tạo điều kiện giúp trẻ nghe và hiểu được lời hướng dẫn các
hoạt động của giáo viên, thông qua việc cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc
thiểu số.
- Tổ chức các hoạt động trong lớp đạt kết quả như: trò chuyện với trẻ
bằng tiếng Việt và thể hiện các hành động tương ứng với lời nói giúp trẻ dần
thích ứng với ngôn ngữ thứ hai.
- Đưa ra một số kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ mầm non
nói chung và trẻ dân tộc thiểu số ở trường Mầm non Hoa Sen nói riêng.
- Cần nắm được tâm lý và nguyện vọng của trẻ để từ đó xây dựng các

phương pháp, hình thức, biện pháp tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu
số ngay ở độ tuổi mầm non.
3. Đối tượng nghiên cứu
Một số kinh nghiệm cung cấp vốn từ tiếng Việt cho trẻ DTTS 5-6 tuổi
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu trong khuôn khổ: Một số kinh nghiệm cung cấp vốn từ tiếng
Việt cho trẻ dân tộc thiểu số 5-6 tuổi trường Mầm non Hoa Sen.
Đối tượng khảo sát: Trẻ 5-6 tuổi Lớp Lá 3 – Buôn Ea Kruế trường Mầm
non Hoa Sen.
5. Phương pháp nghiên cứu
Sáng kiến này được thực hiện với những phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp phỏng vấn trò chuyện
- Phương pháp điều tra
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận:
Trong cuộc sống xã hội con người luôn luôn phải giao tiếp với nhau, có
nhiều cách để giao tiếp song cách giao tiếp chủ yếu là sử dụng ngôn ngữ. Nhờ
ngôn ngữ con người có thể trò chuyện, trao đổi tin tức, bày tỏ tư tưởng tình cảm,
học tập tri thức khoa học .... Đối với người Việt Nam, tiếng Việt là ngôn ngữ
chính, đặc biệt đối với trẻ dân tộc thiểu số việc giúp các cháu sử dụng thành thạo
tiếng Việt là việc làm cần thiết đối với mỗi giáo viên. Tuy nhiên trong thực tế
hiện nay đa số trẻ vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, trước khi đến
trường trẻ chỉ sống trong gia đình, ở các thôn bản nhỏ, trong môi trường tiếng
mẹ đẻ do vậy trẻ chỉ nắm được tiếng mẹ đẻ ở dạng khẩu ngữ. Trẻ biết rất ít hoặc
thậm chí không biết tiếng Việt. Trong khi đó tiếng Việt là ngôn ngữ được dùng
chính thức trong trường học và các cơ sở giáo dục khác. Trên thực tế tiếng nói
các dân tộc thiểu số, hầu như chưa có vai trò rõ rệt trong việc hỗ trợ tiếng Việt
Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.


Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen

Trang 2


Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số

trong giáo dục vì vậy, cho đến nay việc dạy và học tiếng Việt ở các vùng dân tộc
thiểu số chỉ đạt kết quả thấp. Đặc biệt ở lớp chúng tôi đa số các cháu là người
dân tộc Êđê việc nghe và nói tiếng Việt rất kém, mặc dù cô giáo có kèm cặp
nhiệt tình thì trẻ vẫn nói bằng hai thứ tiếng mà chủ yếu là tiếng mẹ đẻ, nhất là
khi trẻ ra khỏi lớp học. Sở dĩ như vậy là do tiếng Việt không phải là một phương
tiện sử dụng dễ dàng đối với học sinh dân tộc thiểu số. Ở trường, lớp học sinh
chỉ dùng tiếng Việt nói với giáo viên khi cần thiết còn ngoài ra trẻ vẫn thường
xuyên sử dụng ngôn ngữ riêng của dân tộc mình, dẫn đến tình trạng cô và trò
không hiểu nhau, chính vì vậy dẫn đến chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ không
thể đạt được kết quả như mong muốn. Vì vậy việc cung cấp tiếng Việt cho trẻ
dân tộc thiểu số là hoạt động cần thiết nhằm giúp học sinh chưa biết hoặc biết ít
tiếng Việt có thể học tập và sử dụng tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức một cách
đơn giản hơn.
2. Thực trạng
Xuất phát từ thực tế, bản thân tôi nhận thấy đa số trẻ là con em đồng bào
dân tộc thiểu số ít được tiếp xúc, giao tiếp với mọi người để trao dồi vốn tiếng
Việt cho mình
2.1. Thuận lợi và khó khăn
+ Thuận lợi:
Lớp luôn được sự quan tâm của Nhà trường, hội cha mẹ học sinh về tinh
thần cũng như vật chất
Lớp có 2 cô trẻ khỏe, năng động, đoàn kết, thống nhất, vươn lên, vất vả

đến đâu cũng bám lớp, bám trường thực hiện nhiệm vụ của người giáo viên nhân
dân, có trình độ chuyên môn vững vàng, yêu nghề mến trẻ.
Tình hình an ninh chính trị tương đối ổn định.
+ Khó khăn:
Phần đông học sinh là con em đồng bào dân tộc Êđê nên việc giao tiếp,
truyền thụ kiến thức giữa cô và trẻ bằng tiếng Việt còn nhiều khó khăn.
Phụ huynh học sinh chưa thực sự quan tâm và tạo điều kiện cho việc học
tập của chính con em mình học tập.
Trình độ dân trí thấp làm ảnh hưởng không nhỏ đến công tác xã hội hóa
giáo dục và phối kết hợp trong quá trình chăm sóc giáo dục và rèn luyện cho trẻ
Cơ sở vật chất còn thiếu, công trình vệ sinh chưa có, ít thiết bị đồ chơi
ngoài trời
Các trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy và học vẫn còn thiếu
2.2. Thành công và hạn chế
+ Thành công:
Giúp giáo viên nhận thức đúng đắn hoạt động dạy tiếng Việt cho trẻ dân
tộc thiểu số bậc học mầm non.
Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.

Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen

Trang 3


Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số

Trẻ đến trường chuyên cần hơn và hứng thú hơn trong các hoạt động.
100% trẻ dân tộc thiểu số đã nghe hiểu được từ về gọi tên đặc điểm của
các đồ vật, con vật và sự hiện tượng gần gũi quen thuộc, biết sử dụng các từ và
câu đơn giản trong sinh hoạt hàng ngày, biết thể hiện hành vi trong giao tiếp và

mạnh dạn hơn trong giao tiếp với cô và bạn.
Trẻ biết thêm được một ngôn ngữ mới sẽ giúp trẻ tự tin hơn khi giao tiếp
với mọi người xung quanh, từ đó trẻ tham gia vào các hoạt động một cách hứng
thú. Tạo cơ hội mở rộng được tầm nhìn và kiến thức cho trẻ bước vào bậc học
tiếp theo đạt kết quả tốt hơn.
+ Hạn chế:
Đa số giáo viên là người kinh nên việc tiếp xúc với trẻ người đồng bào
còn hạn chế do chưa thành thạo tiếng Ê đê.
Phần lớn trẻ dân tộc thiểu số trước khi tới trường, lớp mầm non đều sống
trong môi trường tiếng mẹ đẻ, vì vậy trẻ dân tộc thiểu số không có vốn tiếng
Việt ban đầu để học tập ở trường phổ thông nếu như không được chuẩn bị tốt
tiếng Việt.
Một số phụ huynh chưa hợp tác chặt chẽ với nhà trường.
2.3. Mặt mạnh - mặt yếu
+ Mặt mạnh:
Hầu hết giáo viên nhận thức rõ về việc cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ
dân tộc thiểu số là vô cùng quan trọng, bởi vì ngôn ngữ có chức năng làm công
cụ tư duy, công cụ biểu đạt tư tưởng, tình cảm và là phương tiện giao tiếp của
các thành viên trong xã hội.
Giáo viên đã tạo cho trẻ môi trường làm quen với tiếng Việt một cách nhẹ
nhàng mà chất lượng.
Trẻ đi học thường xuyên có điều kiện giáo dục trẻ mọi lúc mọi nơi và tích
hợp vào các môn học khác
+ Mặt yếu:
Một số giáo viên lớn tuổi tiếp cận và đổi mới phương pháp, chương trình
dạy cho trẻ làm quen tiếng Việt còn hạn chế, chưa sáng tạo trong việc thực hiện
chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ Mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số, trong quá trình tổ
chức thực hiện chương trình giáo dục Mầm non, tiếp nhận công nghệ thông tin
còn chậm.
Phần lớn phụ huynh còn quá bận rộn với công việc nên ít quan tâm đến

việc chăm sóc và giáo dục trẻ. Nhận thức của một số phụ huynh về vấn đề giáo
dục trẻ còn thấp.
Tiếng dân tộc của giáo viên dân tộc Kinh còn hạn chế.
Giáo viên dân tộc thiểu số ít sử dụng tiếng Việt do có thói quen nói tiếng
mẹ đẻ trong giao tiếp với trẻ
Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.

Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen

Trang 4


Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số

2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
Hầu hết trẻ là con em đồng bào dân tộc thiểu số, phụ huynh chưa hiểu hết
tầm quan trọng của việc đưa con em đến trường, trẻ thường phải tự đến lớp 1
mình, không có sự đưa đón của bố mẹ, dẫn đến việc lớp không đảm bảo sĩ số,
giáo viên không có cơ hội gặp gỡ các phụ huynh để trao đổi tình hình của các
cháu ở lớp cũng như ở nhà.
Các cháu 100% là người đồng bào dân tộc thiểu số, các cháu giao tiếp với
nhau chủ yếu bằng tiếng mẹ đẻ, các cháu ít có cơ hội giao tiếp tiếng việt vì ở
Thôn buôn các cháu ít có người kinh sinh sống… chính vì vậy mà việc các cháu
tiếp thu tiếng việt còn gặp rất nhiều hạn chế.
Cảnh quan nhà trường còn hạn hẹp, chưa được thoáng mát, ít cây xanh,
gây trở ngại khi cho trẻ hoạt động tích hợp vào các môn khác.
Điều kiện sử dụng, cập nhật công nghệ thông tin của giáo viên còn hạn
chế, nên sự cuốn hút sáng tạo của trẻ khi hoạt động còn hạn chế.
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Với thực trạng địa bàn còn nhiều khó khăn và bất cập, trẻ đến trường

không biết nói tiếng phổ thông, e ngại, nhút nhát, sợ hãi trong giao tiếp với bạn
bè cùng trang lứa. Nhân dân trên địa bàn còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ dân trí
thấp, đa số họ chưa quan tâm đến việc học tập của con em.
3. Giải pháp, biện pháp
3.1. Mục tiêu của giải pháp và biện pháp
Trước tình hình thực tế ở lớp tôi, tôi nghĩ việc cung cấp cho trẻ dân tộc
thiểu số vốn tiếng Việt là một việc hết sức quan trọng cần thiết và cấp bách. Khi
mới nghĩ đến điều này thì tưởng chừng như đơn giản nhưng trên thực tế lại
không đơn giản tí nào, tôi đã tự hỏi phải làm thế nào để cho trẻ tiếp thu tiếng
việt một cách hiệu quả và với 1 số kinh nghiệm nhỏ tôi đã mạnh dạn áp dụng
cho trẻ ở lớp tôi với muc đích giúp cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu
số.
3.2.Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Để góp phần đưa các biện pháp dạy tiếng Việt cho trẻ mầm non. Tôi đã
tuyên truyền phụ huynh tích cực hợp tác với nhà trường, cùng thống nhất dạy
tiếng Việt cho trẻ mọi lúc mọi nơi. Đặc biệt khi trẻ ở nhà các thành viên trong
gia đình cần dùng tiếng Việt giao lưu với trẻ thường xuyên. Mỗi giáo viên cần
phải có trách nhiệm gần gũi trò chuyện với trẻ kết hợp với cử chỉ, hành động để
trẻ dần được làm quen với tiếng Việt một cách tự nhiên không gò bó. Ví dụ:
Thông qua biện pháp trực quan hành động giúp cho người học tiếp thu có hiệu
quả và học ngôn ngữ mới một cách tự nhiên hứng thú. Mục đích của phương
pháp này nhằm giúp cho người học đạt được các mục đích như: Hiểu và sử dụng
ngôn ngữ mới trong giao tiếp, hình thành và rèn luyện kỹ năng nghe, nói một
ngôn ngữ mới. Không cho trẻ nói khi chưa thực hiện thành thạo được các hành
động, để có thể tập trung lắng nghe chuẩn xác. Khi đã nghe rõ, hiểu, thuộc và tự
Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.

Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen

Trang 5



Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số

tin làm đúng, trẻ sẽ tự muốn nói và có thể tự thực hành với bạn của mình, giáo
viên cần cho trẻ đều được thực hành ở mỗi lần học. Chỉ sử dụng ngôn ngữ đơn
giản, ngắn gon, không dẫn dắt, giảng giải nhiều vì trẻ chưa hiểu tiếng Việt.
Khi dạy trẻ, giáo viên cần xác định trước những loại từ, câu nào sẽ sử
dụng khi hướng dẫn trẻ. Nên sử dụng các điệu bộ cử chỉ để ra hiệu cho trẻ hiểu ý
đồ của mình, thay cho việc nói nhiều của người dạy. Lúc đầu dạy từ 1-2 từ dễ
hiểu kết hợp với hành động như: Đứng lên, ngồi xuống... đến ngày hôm sau cô
giáo cần cho trẻ ôn lại những gì được học ngày hôm trước, để khắc sâu sự ghi
nhớ bằng hình thức chơi mà không cần phải giữ nguyên thứ tự từ các bước ngày
hôm trước dạy nữa ví dụ: Đứng lên - ngồi xuống, ngồi xuống - đứng lên, rửa tay
- rửa chân… Dạy tiếng Việt với biện pháp trực quan hành động với đồ vật, biện
pháp này dạy trẻ các từ mới như: Cái bàn, cái ghế, quyển vở…
Ngoài ra còn sử dụng các biện pháp dạy trẻ học tiếng Việt qua kể chuyện,
đóng vai, đối với mỗi câu chuyện, làm các đồ chơi minh hoạ, đơn giản tượng
trương cho các nhân vật chính, sử dụng các nhân vật có sẵn để làm đồ dùng
minh hoạ. Hoặc trẻ học tiếng Việt thông qua việc dạy trẻ nhận biết và phát âm
đúng 29 chữ cái tiếng Việt.
Biện pháp 1. Tuyên truyền huy động trẻ đi học chuyên cần, cung cấp
vốn tiếng Việt cho trẻ mọi lúc mọi nơi
* Tuyên truyền huy động trẻ đi học chuyên cần
- Tuyên truyền với các bậc phụ huynh về tầm quan trọng của tiếng Việt
đối với trẻ và nhờ họ khuyến khích con cháu mình giao tiếp bằng tiếng phổ
thông…
- Khi đến lớp tôi luôn tạo sự gần gũi với trẻ, tìm hiểu về hoàn cảnh gia
đình của từng trẻ, thường xuyên gặp gỡ nói chuyện và trao đổi với phụ huynh
của trẻ, cho họ biết việc đưa con mình đến lớp mẫu giáo là một vấn đề quan

trọng, nó giúp ích cho trẻ rất nhiều, cháu đến trường sẽ được học chương trình
mầm non, cháu được học múa, học hát, được làm quen với các bài thơ, được
nghe kể chuyện, học vẽ, tập tô… giúp hình thành ở các cháu các kỹ năng cần
thiết, đồng thời qua đó sẽ giúp cho các cháu mạnh dạn hơn, tự tin hơn, giao tiếp
tốt hơn và cháu không còn bỡ ngỡ khi bước vào lớp 1. Bên cạnh việc tuyên
truyền với phụ huynh tôi luôn tạo sự gần gũi thương yêu trẻ, luôn tìm tòi học hỏi
những kinh nghiệm cũng như “nghệ thuật lên lớp” làm cho trẻ hứng thú hơn mỗi
khi đến trường, để trẻ cảm nhận được “Mỗi ngày đến trường là 1 niềm vui”
- Luôn tìm và tổ chức những hoạt động vui chơi hấp dẫn, sưu tầm đồ
dùng, đồ chơi phục vụ cho các hoạt động của trẻ nhằm thu hút trẻ đến lớp.
- Nhờ phụ huynh ở nhà có thể trò chuyện với trẻ bằng tiếng phổ thông,
cho trẻ tiếp cận với thông tin đại chúng như mở tivi cho các cháu xem những
chương trình thiếu nhi, ca nhạc, phim hoạt hình… để giúp các cháu phát triển kĩ
năng nghe và hiểu tiếng Việt tốt hơn
* Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ qua hoạt động đầu giờ
Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.

Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen

Trang 6


Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số

Ví dụ: Khi trẻ đến lớp trẻ chào cô thì cô động viên khen bé ngoan, có thể
hỏi trẻ : “Hôm nay ai đưa con đi học?” “Con đã ăn sáng chưa?” hay “Sáng nay
mẹ cho con ăn gì?”…
- Trong giờ hoạt động ngoài trời tôi thường tổ chức cho các cháu đi dạo
trong sân trường, khi thì tôi cho trẻ tưởng tưởng mình đang được đi du lịch lúc
thi như đang được đi tham quan … trẻ rất vui và rất thích. Mỗi ngày khi đi dạo

trong sân trường tôi thường đặt câu hỏi theo chủ đề đang thực hiện để trẻ trả lời
Ví dụ: Chủ đề Thế giới động vật
- Tôi tổ chức cho trẻ tham quan mô hình “Trang trại nhà bé”, tôi đặt câu
hỏi gợi ý để trẻ trả lời “ Đây là con gì?”, “Nó sống ở đâu?”, “Thức ăn của nó là
gì?”...
- Đa số trẻ đều dùng tiếng mẹ đẻ trả lời, trước tình huống đó tôi đã cho
cháu biết tên của con vật đó đồng thời khuyến khích các cháu gọi tên con vật
bằng tiếng Việt.
- Những lúc tổ chức cho các cháu chơi trò chơi dân gian hay chơi tự do tôi
luôn tìm sẵn những bài thơ, bài vè, ngắn dễ đọc, dễ nhớ có trong chương trình,
phù hợp với chủ đề để dạy cho các cháu, tôi luôn khuyến khích các cháu đọc,
sửa sai cho những cháu đọc chưa đúng, đối với các cháu đọc chưa rõ ràng thì tôi
dạy cho các cháu đọc từng câu.
- Trong những lúc rảnh tôi chải tóc hay sửa sang quần áo cho các cháu tôi
thường đặt những câu hỏi để các cháu trả lời.
Ví dụ: Ai mua kẹp tóc cho con mà đẹp vậy? Nhà con có mấy anh em? Có
em bé không?... qua những lúc trò chuyện với các cháu như vậy đã giúp tôi biết
được cháu nào còn rụt rè nhút nhát, cháu nào còn sử dụng câu cụt hay cháu nào
chưa phát âm rõ… từ đó tôi dành nhiều thời gian gần gũi trò chuyện và tập cho
cháu phát âm nhiều hơn, đồng thời giúp các cháu mạnh dạn hơn
Biện pháp 2: Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ thông qua các giờ học
Trong tất cả các giờ học tôi đều trò chuyện và đặt câu hỏi tôi luôn khuyến
khích trẻ nói và trả lời cô bằng tiếng Việt.
* Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ qua hoạt động khám phá khoa học:
- Đây là một môn học mà đòi hỏi người giáo viên phải tìm ra những
“nghệ thuật lên lớp” hấp dẫn vì môn học này sử dụng phương pháp quan sát và
đàm thoại, mà trẻ người dân tôc thiểu số thì rất hạn chế về ngôn ngữ tiếng việt.
Trẻ chỉ có thể trả lời theo sự gợi ý của cô hoặc trả lời bằng câu cụt…
- Môn khám phá khoa học là một trong những môn học giúp trẻ phát triển
nhận thức và ngôn ngữ tích cực nhất, vì vậy tôi nghĩ cần phát huy hết tác dụng

của môn học này để dạy trẻ.
Ví dụ: Chủ đề Thế giới động vật
Đề tài: Những con vật đáng yêu.
Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.

Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen

Trang 7


Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số

- Khi cho trẻ quan sát tranh con chó và tôi đố cả lớp đây là con gì? Thì trẻ
trả lời “Asâo” (tiếng Việt có nghĩa là con chó) Trước tình huống đó tôi nói với
các cháu: “cô và các con cùng thi xem ai nói giỏi nhé cô sẽ nói tiếng của các con
và các con nói tiếng của cô các con có đồng ý không?” và tiết học của chúng tôi
đã trở thành một “cuộc thi tài” trẻ nào cũng muốn mình là người chiến thắng, và
tình huống trên đã được thay đổi các cháu đã cố gắng nói bằng tiếng Việt mỗi
khi cô đưa tranh ra.
Ví dụ:
Trẻ



Con Mèo

Miêu

Con Vịt


Bip

Con Heo

Ũn

- Một hạn chế mà trẻ người đồng bào thường mắc phải, đó là nói thiếu
dấu
Ví dụ: “ Con vịt ” thì trẻ đọc là “ Con vit”
- Tôi hướng dẫn các cháu cách phát âm đồng thời sửa sai kịp thời cho các
cháu, khuyến khích, tuyên dương những trẻ phát âm đúng, sửa sai và hướng dẫn
cho các cháu phát âm chưa đúng, giúp các cháu khắc phục cũng như hạn chế
được lỗi mất dấu khi phát âm.
- Với hình thức “Thi tài” hay “Đố vui có thưởng”… giữa cô và trẻ thì trẻ
đã có thể nghe và hiểu được câu hỏi của cô
- Ví dụ : Chương trình “Đố vui có thưởng” cô bốc thăm và đọc câu hỏi:
Con chó là động vật sống ở đâu? Trẻ nào biết thì lắc xắc xô và được quyền trả
lời: Thưa cô con chó là động vật sống trong nhà…
* Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ qua hoạt động làm quen với toán
- Tôi luôn chuẩn bị đầy đủ đồ dùng dạy học phù hợp với chủ đề với đề tài.
Điều này theo tôi nghĩ là rất cần thiết vì nó tạo cho trẻ sự hứng thú hơn khi được
nhìn ngắm những đồ dùng đẹp, mới lạ đối với các cháu
Ví dụ: Chủ đề Gia đình
Đề tài: Đếm đến 6 - nhận biêt nhóm đồ dùng có 6 đối tượng - chữ số 6
Với đề tài này tôi chuẩn bị rất nhiều đồ dùng gia đình như ly, chén, đũa… tôi
cho các cháu gọi tên và nói công dụng của từng đồ dùng, trẻ rất thích thú và rất
vui khi mình nói đúng tên và công dụng của những đồ dùng đó. Mặc dù bên
cạnh đó vẫn còn một số cháu dùng tiếng mẹ đẻ để gọi tên đồ dùng đó và với tình
huống đó tôi đã khuyến khích các cháu bằng cách: Ai gọi đúng tên đồ dùng thì
được tham gia trò chơi cùng với cô và trẻ nào cũng muốn mình được tham gia

cuộc chơi, trẻ đã cố gắng gọi tên đồ dùng bằng tiếng Việt, và khi các cháu phát
âm được các cháu rất vui.
Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.

Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen

Trang 8


Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số

* Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ qua hoạt động làm quen văn học:
- Để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ và biết sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt
trong mọi hoạt động ở trường cũng như trong cuộc sống hàng ngày và qua môn
làm quen văn học tôi đã tích cực đưa ngôn ngữ tiếng Việt vào cung cấp cho các
cháu.
- Thông qua tổ khối, chuyên môn chúng tôi đã thống nhất lựa chọn bài
thơ, câu chuyện phù hợp với từng độ tuổi của trẻ, có nội dung dể hiểu và hấp
dẫn đối với trẻ. Vì sự tập trung chú ý của trẻ chưa cao, chưa có ý thức trong hoạt
động học tập. Nắm được nhược điểm này tôi đã luôn tìm tòi và sưu tầm những
“nghệ thuật lên lớp” tạo ra mọi tình huống bất ngờ, hồi hộp, hay vui nhộn…để
lôi cuốn sự tập trung chú ý của trẻ vào tiết học, khơi gợi tính tò mò, thích tìm
hiểu và khám phá ở trẻ.
Ví dụ: Cốc ! cốc! cốc ! Dê con ngoan ngoãn mau mở cửa ra mẹ đã về rồi
cho các con bú (cô giả giọng chó sói hung ác…) và muốn biết đó có phải
là Dê mẹ không thì chúng mình hãy thật im lặng và lắng nghe xem Dê con có
mở cửa không qua câu chuyện “Dê con nhanh trí” nhé.
- Với giọng điệu lúc trầm lúc bổng, lúc hồi hộp, lúc gây cấn của cô đã lôi
cuốn được trẻ vào giờ học và từ đó trẻ chăm chú lắng nghe cô kể và tiếp thu
được lời kể của cô giáo. Cô giảng nội dung câu chuyện ngắn gọn dể hiểu nhằm

giúp trẻ nắm được nội dung câu chuyện.
- Để cháu nhớ và hiểu câu chuyện sâu hơn, cô có thể kể nhiều lần bằng
nhiều hình thức, khi kể cô thể hiện cử chỉ, điệu bộ, giọng nói, hành động của
từng nhân vật một cách rỏ ràng, phù hợp với tính cách của từng nhân vật để trẻ
có thể hiểu và cảm nhận được đâu là nhân vật hiền lành, đâu là nhân vật hung
dữ…
Ví dụ: Nhân vật Dê mẹ thì ta thể hiện giọng nhẹ nhàng, hiền lành…
Nhân vật Dê con khi nói chuyện với mẹ thì giọng ngây thơ trong sáng,
còn khi nói chuyện với Chó sói thì giọng cứng rắn, gan dạ…
Nhân vật Chó sói thì ta thể hiện giọng gian dối, xảo quyệt…
- Tiếp theo cô tiến hành đàm thoại với trẻ, để tạo cho không khí sôi nổi
hơn cô có thể dẫn dắt cuộc đàm thoại trở thành cuộc thi tài “các con thấy Dê con
có thông minh không? Vậy bây giờ chúng mình hãy thi xem ai thông minh
giống như bạn Dê con nhé”. Và cô đặt câu hỏi khuyến khích trẻ trả lời…cô có
thể mời các cháu lên kể chuyện theo tranh hay kể chuyện sáng tạo, đóng kịch…
(Cô có thể trang bị những chiếc mũ hoặc những đồ dùng của nhân vật để tạo sự
lôi cuốn và thích thú cho trẻ hơn…) và cô tuyên dương , khen trẻ kịp thời để
khuyến khích trẻ, cô có thể thay lời nhân vật như “Dê mẹ thấy bạn A kể chuyện
hay nên Dê mẹ đã thưởng cho bạn một món quà…” và những trẻ khác chắc chắn
sẽ cố gắng giống như bạn đó để được nhận quà.
- Đối với đọc thơ tôi luôn tạo cho trẻ sự chú ý tập trung bằng giọng đọc
diễn cảm và không quên thể hiện cử chỉ điệu bộ…tiến hành cho trẻ đọc thơ
Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.

Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen

Trang 9


Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số


bằng nhiều hình thức như (cả lớp đọc, thi tài giữa các tổ, các nhóm, các nhân,
đọc nối đuôi…)
- Với những hình thức như vậy vốn từ tiếng Việt của trẻ lớp tôi đã tăng
len một cách rỏ rệt và đó cũng là một động lực to lớn thúc đẩy tôi tiếp tục tìm tòi
các biện pháp khác để áp dụng vào dạy trẻ nhằm giúp trẻ tiếp thu và tăng vốn từ
tiếng Việt.
- Mỗi khi vào đầu giờ học tôi thường trò chuyện với các cháu, tạo cho các
cháu sự thoải mái, không áp lực, gây cho cháu sự hứng thú, sự tập trung khi
nghe cô trò chuyện hoặc đọc thơ. Tôi luôn luôn tập cho mình có một giọng kể
cũng như lời dẫn dắt phù hợp với các tính cách của các nhân vật trong truyện tạo
sự tập trung, lôi cuốn trẻ vào lời kể của cô, hay trong giờ đọc thơ tôi thường
xuyên tập cho mình giọng đọc truyền cảm, lời đọc phù hợp với nội dung bài thơ
lúc trầm, lúc bổng … nhằm tạo sự hứng thú cuốn hút các cháu tập trung hơn vì
trẻ mẫu giáo một khi đã thích thì chú ý một cách say mê. Bên cạnh đó tôi luôn
khuyến khích cho các cháu đọc lại bài thơ hay kể lại câu chuyện đã được nghe
cô kể, không dừng lại ở đó trong những giờ kể chuyện tôi tập cho các cháu đóng
kịch và điều này đã làm cho các cháu thích thú vô cùng, và đây cũng là một hình
thức giúp các cháu phát triển ngôn ngữ tốt hơn.
* Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ qua hoạt động âm nhạc
- Các cháu dân tộc thiểu số rất thích hát, múa, tận dụng được ưu điểm đó
mà trong giờ hoạt động âm nhạc tôi đã đưa môn tiếng việt vào cung cấp cho các
cháu một cách triệt để, các cháu tham gia một cách rất say mê, tôi dạy cho các
cháu hát những bài hát theo chủ điểm cũng như những bài hát trong chương
trình mầm non …Tổ chức cho các cháu cuộc thi “ Đồ Rê Mí”, tập cho các cháu
đóng vai làm ca sĩ lên giới thiệu tên mình và biểu diễn cho các bạn xem cứ lần
lượt như vậy và tất cả các cháu đều được lên hát, bước đầu các cháu chỉ thuộc
lời của bài hát và càng sôi động hơn khi được nghe nhạc không lời và các cháu
là những ca sĩ thể hiện bài hát, thông qua đó các cháu đã dần dần cảm nhận được
giai điệu của bài hát và hiểu được nội dung của bài hát điều này cho tôi thấy các

cháu có khả năng nghe và hiểu tiếng việt và tôi đã khuyến khích đồng thời tích
hợp môn âm nhạc vào mọi hoạt động nhằm giúp các cháu phát triển vốn tiếng
việt tốt hơn nữa
* Cung cấp vốn tiếng Việt qua hoạt động làm quen chữ cái
- Nội dung của hoạt động này là giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng 29
chữ cái, bên cạnh đó còn giúp trẻ đọc đúng các từ, hiểu được nội dung các từ, từ
đó giúp trẻ sử dụng từ đã biết để diễn đạt ý mình muốn nói…
- Để việc rèn kỹ năng phát âm cho trẻ dân tộc thiểu số đạt hiệu quả, trước
hết giáo viên phải chuẩn về phát âm tiếng Việt, nếu giáo viên phát âm không
chuẩn thì sẽ làm các em phát âm sai.
- Trong lớp tôi cũng có một số cháu nói được tiếng phổ thông nhưng
không nhớ mặt chữ cái hay từ ngữ của tiếng Việt, các cháu thể hiện theo bản
năng bắt chước…chính vì vậy mà việc dạy trẻ làm quen với chữ cái sẽ giúp trẻ
Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.

Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen

Trang 10


Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số

nhận biết được chính xác cấu tạo của các chữ cái cũng như cách phát âm, để từ
đó trẻ có thể nghe, cảm nhận, phát âm và tìm được chữ cái tương ứng trong từ…
Ví dụ: Chủ đề Gia đình
Đề tài: Làm quen chữ cái e,ê.
- Cô tạo tình huống cho trẻ đến thăm nhà 1 bạn, bạn đó ở nhà rất ngoan và
lớp mình có muốn ngoan giống bạn đó không, vậy bây giờ chúng mình hãy ngồi
thật ngoan để xem mẹ bạn ấy tặng cho chúng mình món quà gì nhé (và tất nhiên
trẻ nào cũng muốn mình ngoan giống như bạn…)

- Cô có tranh “mẹ bế bé” dưới tranh cô có từ “Mẹ bế bé” cô cho trẻ đọc từ
dưới tranh (Cả lớp cùng đọc)
- Cô đặt những câu hỏi cho trẻ trả lời: Trong từ “Mẹ bế bé có bao nhiêu
tiếng?”
- Để chỉ từ “Mẹ bế bé” cô cũng có thẻ chữ cái rời ghép lại, bạn nào giỏi
lên rút chữ đã học (trẻ lên rút chữ đã học và phát âm)
- Cô dẫn dắt tạo tình huống và giới thiệu hôm nay cô sẽ cùng với lớp
mình làm quen với “Những chữ cái dễ thương” hay “Những chữ cái đáng
yêu”…nhằm lôi cuốn trẻ hứng thú hơn vào hoạt động. Cô phân tích cấu tạo của
chữ cái e,ê, cô giới thiệu cách viết và cho trẻ phát âm chữ cái e, ê. Cô cho trẻ
quan sát và so sánh đặt điểm của hai chữ cái, cô gợi ý cho trẻ nêu được điểm
giống và khác nhau để từ đó giúp trẻ nhớ lâu hơn…và để khắc sâu hơn về đặc
điểm, cấu tạo và nhận biết chính xác các chữ cái, ta phải luôn tìm tòi, học hỏi và
sưu tầm các trò chơi phù hợp với nội dung để tổ chức cho trẻ nhằm giúp trẻ nắm
được các chữ cái không những thế mà còn giúp cho trẻ phát âm các chữ cái một
cách chính xác hơn.
- Ví dụ: như trò chơi “Chiếc nón kỳ diệu” hay trò chơi “Bánh xe chữ
cái”… trẻ quay vào trúng chữ cái nào cho trẻ phát âm chữ cái đó…
* Cung cấp vốn tiếng việt qua giờ hoạt động góc
- Tất cả các góc chơi trong lớp tôi đều cho những ký hiệu riêng, khi trẻ
chơi trẻ nhận biết đó là góc gì…
- Giờ hoạt động góc tôi chuẩn bị sẵn các thẻ đeo cho trẻ (Vd: Trẻ chơi ở
góc xây dựng thì đeo thẻ có hình chiếc bay của thợ xây, góc nghệ thuật thì thẻ
có hình chiếc đàn…) nhằm lôi cuốn trẻ vào hoạt động hứng thú hơn, trẻ tham
gia chơi một cách tự nhiên và sáng tạo, các cháu chơi với nhau, trò chuyện với
nhau bằng tiếng mẹ đẻ, những lúc đó tôi đến bên các cháu trò chuyện trao đổi,
nhập vai và đặt câu hỏi để các cháu trả lời.
Ví dụ: Chủ đề Ngành nghề
- Góc phân vai: Bán một số sản phẩm của nghề nông.
- Tôi hỏi trẻ “ Cà phê bao nhiêu tiền 1kg” “Chị ơi bán cho tôi 1kg đậu

xanh”… và tất nhiên trẻ thấy cô giáo cùng chơi với mình nên trẻ rất vui và đã
bắt chước làm giống cô. Đến góc nghệ thuật, tôi đã gợi ý cho cháu chơi trò chơi
Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.

Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen

Trang 11


Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số

“Đồ Rê Mí” và khuyến khích các cháu tự giới thiệu tên của mình, bao nhiêu tuổi
và sở thích … Điều đó đã làm cho các cháu thực sự rất thích thú. Tôi nhận thấy
qua giờ hoạt động góc trẻ rất hiếu động, mạnh dạn, tự tin và đăc biệt các cháu
rất thích được trò chuyện với cô. Từ đó tôi luôn khuyến khích cũng như tạo cho
trẻ những cuộc trò chuyện, đối thọai với nhau bằng tiếng Việt giữa cô với trẻ và
giữa trẻ với trẻ để giúp các cháu phát triển ngôn ngữ đồng thời có thêm nhiều
vốn từ tiếng Việt hơn nữa. và để hoạt động góc luôn hấp dẫn trẻ tôi đã sưu tầm
và chuẩn bị nhiều đồ chơi, nguyên vật liệu mới lạ …để lôi cuốn trẻ vào hoạt
động, và trẻ hứng thú hơn khi chơi, cô bao quát trẻ trong lúc trẻ chơi, để ý và
động viên hướng dẫn kịp thời những trẻ nhút nhát, chưa tự tin trong hoạt động,
hoặc chưa thành thạo trong giao tiếp bằng tiếng Việt từ đó giúp trẻ tăng vốn từ
tiếng Việt hơn.
Biên pháp 3. Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ mọi lúc mọi nơi
Để làm tăng hiệu quả trong việc cung cấp vốn từ tiếng Việt cho trẻ tôi
nghĩ việc cung cấp vốn từ cho trẻ mọi lúc, mọi nơi là điều hết sức cần thiết.
Như chúng ta đã biết trẻ dân tộc thiểu số vốn từ tiếng Việt rất hạn chế.
Khả năng nhận thức và tiếp thu chậm, vì vậy trong quá trình cho trẻ làm quen
với tiếng Việt ta cần phải có sự kiên nhẫn, nhẹ nhàng, tạo cho trẻ tâm thế thoải
mái trong mọi hoạt động.

- Giờ đón trẻ cô luôn vui vẻ, tạo sự gần gũi, yêu thương trẻ, nhắc nhở trẻ
cất đồ dùng đúng nơi qui định, chải tóc, lau mặt, sửa sang quần áo cho trẻ, trò
chuyện thân mật, tạo sự gần gũi giữa cô và trẻ bằng một số câu hỏi như: “Hôm
nay ai đưa con đi học ?” “Sáng nay mẹ cho con ăn gì?” “Nhà con có mấy anh
em ?” “Ai mua áo cho con mà đẹp vậy ?”
- Qua trò chuyện với trẻ tôi nắm được khả năng nhận thức và phát âm của
mỗi trẻ, trẻ nào còn sử dụng câu cụt, trẻ nào còn nhút nhát để từ đó tôi có những
biện pháp phù hợp cũng như dành nhiều thời gian cho những trẻ đó hơn.
- Giờ trả trẻ cũng như giờ chơi tự do tôi tạo mọi tình huống cho trẻ tiếp
xúc với tiếng Việt, như tổ chức một số trò chơi và cô cùng tham gia với trẻ. Cho
trẻ hát hoặc đọc các bài thơ có trong chương trình…không những vậy tôi luôn
tìm mọi cách để thay đổi hình thức giúp trẻ không thấy nhàm chán khi tham gia
các hoạt động. Cứ như vậy trẻ ở lớp tôi đã có sự chuyển biến tốt, trẻ đã mạnh
dạn hơn trong giao tiếp, không rụt rè mỗi khi cô gọi, không nhút nhát khi chơi
với bạn…
Biện pháp 4. Kết hợp với phụ huynh giúp làm tăng vốn tiếng Việt cho
trẻ
- Có thể nói thời gian của trẻ ở trường với cô giáo không nhiều, nhưng
nếu chúng ta biết phối hợp với gia đình của các cháu trong việc cung cấp vốn
tiếng việt cho trẻ thì tôi nghĩ chắc chắn sẽ đạt kết quả tốt hơn. Chúng ta có thể
gặp phụ huynh, trao đổi và phân tích cho phụ huynh của các cháu hiểu được
những thuận lợi khi con của họ học nói, nghe và hiểu được tiếng Việt
Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.

Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen

Trang 12


Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số


Ví dụ: Cháu nghe và hiểu được tiếng Việt thì khi vào lớp một cháu sẽ tiếp
thu bài một cách tốt hơn mà tiếp thu bài tốt thì cháu sẽ học giỏi hơn…
- Tôi thiết nghĩ là cha mẹ ai cũng momg muốn con cháu của mình ngoan,
học giỏi vì vậy chúng ta có thể phối hợp với phụ huynh nhờ họ khi trẻ về nhà
phụ huynh có thể trò chuyện, trao đổi với các cháu bằng tiếng việt và mong phụ
huynh của các cháu tạo điều kiện cho các cháu được xem những chương trình
dành cho thiếu nhi trên tivi cũng như để ý quan tâm đến các cháu nhiều hơn và
tập cho các cháu có những thói quen tốt trong học tập.
3.3. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp
Cung cấp vốn tiếng Việt tốt nhất khi và chỉ khi trẻ được nói bằng tiếng
Việt nhiều nhất. Do đó trong các hoạt động giáo dục, giáo viên tăng cường hỏi
trẻ, khuyến khích trẻ nói càng nhiều càng tốt.
- Đồ dùng học tập tốt nhất là: bộ phận cơ thể, đồ vật, vật thật, động tác,
tranh ảnh. Hạn chế sử dụng máy tính, bởi công nghệ thông tin chỉ giúp trẻ nhìn,
khó có thể cảm nhận được chính xác thế giới xung quanh (nghe, ngửi, nếm hoặc
sờ trực tiếp) cũng như trẻ ít có cơ hội được nói tiếng Việt.
- Giáo viên phải thật sự yêu nghề, mến trẻ, luôn gần gũi yêu thương trẻ,
không có sự phân biệt đối xử và không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ
chuyên môn
3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp và biện pháp
- Các giải pháp và biện pháp luôn tương trợ cho nhau, có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau cùng hướng về một mục đích là gây hứng thú cho trẻ và đạt
hiệu quả cao như mong muốn. Giúp trẻ phát triển mọi mặt chuẩn bị tâm thế cho
trẻ trước khi vào lớp Một
- Ở lứa tuổi mẫu giáo trẻ “Học mà chơi, chơi mà học” ghi nhớ của trẻ
không có chủ định chóng quên do đó việc cung cấp tiếng Việt không dừng lại
trên tiết học mà phải thường xuyên mọi lúc mọi nơi, mọi hoạt động trong cuộc
sống hằng ngày để củng cố thêm kiến thức kĩ năng đã học
3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu

- Kết quả khảo nghiệm
Qua một vài kinh nghiệm tôi tự nghiên cứu và áp dụng cho các cháu ở lớp
tôi tuy chỉ trong một thời gian ngắn nhưng tôi thấy có sự chuyển biến một cách
rõ rệt và đạt kết quả như sau :
Huy động trẻ

Khả năng nghe, hiểu và nói

và duy trì sĩ số tiếng Việt của trẻ tại lớp
TTổng số trẻ đi Tốt
SHS học
chuyên
cần
Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.

Khá

Trung bình

Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen

Kém

Trang 13


Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số

26


Tổng Tỷ
số
lệ %

Tổng Tỷ lệ Tổng Tỷ lệ Tổng Tỷ lệ Tổng
số
%
%
số
%
số
số

26

13

100%

50%

09

35%

4

Tỷ lệ
%


15%

- Giá trị khoa học: Đề tài nhằm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc
thiểu số trong trường mầm non, phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ và thực
tế tại trường.
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề
nghiên cứu
Việc cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số đã góp phần làm cho
chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ có những chuyển biến tích cực. Trẻ thích đi
học hơn và hứng thú hơn trong các hoạt động ở trường
Vốn từ của trẻ ngày càng được mở rộng và phong phú, trẻ đã biết đặt câu
hỏi theo nội dung mà trẻ muốn hỏi bằng tiếng Việt.
Trẻ mạnh dạn, tự tin hơn khi giao tiếp với cô và các bạn, sử dụng ngôn
ngữ tiếng Việt mạch lạc hơn. Sự giao tiếp của cô và trẻ ngày càng thân thiện
hơn, quá trình truyền thụ kiến thức của cô đến trẻ nhẹ nhàng và hấp dẫn hơn.
Phụ huynh dần nhận thức được việc giao tiếp bằng tiếng Việt khi ở nhà sẽ
giúp cho trẻ dễ dàng trong việc tiếp nhận kiến thức của giáo viên. Phụ huynh
thích thú khi thấy con mình giao tiếp với cô, bạn bè và bố mẹ bằng tiếng Việt.
Qua một vài kinh nghiệm tôi tự tìm tòi, nghiên cứu và áp dụng cho các
cháu ở lớp tôi tuy chỉ trong một thời gian ngắn nhưng tôi thấy có sự chuyển biến
một cách rõ rệt, có hiệu quả, và đạt được kết quả cao.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Quá trình dạy tiếng Việt cho trẻ em dân tộc thiểu số phụ thuộc rất nhiều
vào giáo viên, giáo viên là người quyết định dạy cái gì? Dạy như thế nào? Do đó
giáo viên phải nắm được trình độ nhận thức, điều kiện sống và khả năng ngôn
ngữ của trẻ để điều chỉnh số lượng từ, các loại từ, câu cho vừa phải và gần gủi
với trẻ, tạo điều kiện để trẻ thực hành nhiều và củng cố thường xuyên để trẻ có
thể hiểu và ghi nhớ, nhằm giúp trẻ diển đạt rõ ràng, mạch lạc bằng tiếng Việt
trong giao tiếp hàng ngày và chuẩn bị một số kỹ năng, kiến thức cho trẻ vào lớp

Một.
Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số là một vấn đề rất khó đòi
hỏi ở cô giáo phải thật sự yêu thương gần gũi trẻ. Bản thân giáo viên phải là tấm
gương về cách ứng xử và tôn trọng tất cả những quy định. Cô giáo luôn tạo cho
lớp học có không khí vui vẻ thỏa mái bằng cách tạo ra một không khí đoàn kết,
tránh so sánh trẻ với những trẻ khác, cư xử thật công bằng và cho trẻ cơ hội sửa
sai trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ.
Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.

Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen

Trang 14


Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số

2. Kiến nghị
Nhằm tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non dân tộc thiểu số ở Buôn Ea
Kruế trong thời gian tới, xin kiến nghị một số vấn đề sau:
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, có chính sách hỗ trợ chế độ cho giáo
viên và học sinh để tổ chức “bán trú” hoặc “bán trú dân nuôi” nhằm tăng thời
gian cho trẻ được học tập, sinh hoạt cả ngày tại trường, tạo điều kiện, cơ hội cho
trẻ được tăng cường tiếng Việt, hình thành nề nếp, thói quen tốt trong học tập,
sinh hoạt, giao tiếp...; Chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết cho trẻ vào lớp 1 phổ
thông. Đồng thời, cung cấp đầy đủ đồ dùng, thiết bị tối thiểu dùng cho GDMN,
đặc biệt là trẻ mẫu giáo 5 tuổi dân tộc thiểu số. Đây là một điều kiện rất quan
trọng trong việc dạy và học tiếng Việt, đồng thời là một tiêu chuẩn để công nhận
phổ cập GDMN cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi.
Tổ chức bồi dưỡng tiếng dân tộc cho giáo viên dạy trẻ người dân tộc thiểu
số; Có chính sách cho giáo viên học thêm ngôn ngữ thứ 2 là tiếng dân tộc; Tổ

chức thi giao tiếp tiếng dân tộc cho giáo viên các huyện vùng cao.
Tăng cường tổ chức các lễ hội của bé trong trường mầm non hoặc phối
hợp với các cấp học tổ chức tại các thôn bản để tăng cường giao tiếp, phát triển
ngôn ngữ cho trẻ.
Tăng cường công tác tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh và các đoàn
thể ở địa phương hỗ trợ các điều kiện để tổ chức tốt các hoạt động tăng cường
tiếng Việt cho trẻ.
Trên đây là một vài kinh nghiệm áp dụng trong lớp tôi là dân tộc thiểu số
được thực hiện và đạt hiệu quả cao, những biện pháp trên tuy không có gì mới lạ
đối với các bạn nhưng đối với trẻ dân tộc thiểu số thì vô cùng mới mẽ và có tác
dụng. Tuy nhiên sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong được sự đóng
góp ý kiến của đồng nghiệp, các cấp Lãnh đạo để tôi hoàn thành tốt hơn những
sáng kiến sau.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
EaBông, ngày 15 tháng 02 năm 2016
Người viết

Võ Thị Xuân Nga

Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.

Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen

Trang 15


Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SÁNG KIẾN
................................................................................................................................

................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
................................................................................................................................
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG CHẤM SÁNG KIẾN
(Ký tên, đóng dấu)

Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.

Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen

Trang 16


Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu thử nghiệm dạy trẻ làm quen với Tiếng việt
2. Giáo trình phát triển ngôn ngữ tuổi mầm non
3. Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục mầm non trong lớp mẫu giáo
4. Tạp chí giáo dục Mầm non
5. Hướng dẫn chuẩn bị Tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo vùng dân tộc thiểu số trong
thực hiện chương trình giáo dục mầm non
6. Tâm lí học trẻ em lứa tuổi Mầm non

Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.

Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen


Trang 17


Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số

MỤC LỤC
PHẦN I : MỞ ĐẦU………………………………………………………..1
1. Lý do chọn đề tài:………………………………………………………..1
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài :………………………………………….1
3. Đối tượng nghiên cứu:…………………………………………………...2
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:…………………………………………...2
5. Phương pháp nghiên cứu:……………………………………………….2
PHẦN II: NỘI DUNG…………………………………………………….3
1. Cơ sở lý luận:…………………………………………………………….3
2. Thực trạng:………………………………………………………………3
2.1 Thuận lợi – Khó khăn……………………………………………….…3
2.2 Thành công – Hạn chế…………………………………………………4
2.3 Mặt mạnh – Mặt yếu…………………………………………………..4
2.4 Các nguyên nhân, các yếu tố tác động………………………………...5
2.5 Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra……...5
3. Giải pháp, biện pháp: ………………………………………………….5
3.1 Mục tiêu của giải pháp, biện pháp………………………………….…5
3.2 Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp………….…5-13
3.3 Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp…………………………….13
3.4 Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp…………………………..13
3.5 Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu…........14
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên
cứu………………………………………………………………….…………..14
PHẦN IV: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ…………………………..….14
1. Kết luận:…………………………………………………………….. ...14

2. Kiến nghị:………………………………………………………….…..15

Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.

Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen

Trang 18


Đề tài: Một vài kinh nghiệm cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số

Giáo viên: Võ Thị Xuân Nga.

Đơn vị: Trường Mầm non Hoa Sen

Trang 19



×